MỸ THUẬT THỜI HÙNG VƯƠNG MỘ NAM VIỆT - VĂN ĐẾ CỦA VĂN
MINH ĐÔNG SƠN
Trong thi gian nước ta bị xâm lược, khoảng giữa thế kỷ thứ
hai, vua Ngô Tôn Quyền đã nghe i lăng mộ Triệu Vũ đế
Nam Việt có nhiu bảo vật quý giá chôn theo, nên quyết truy tìm. Tôn Quyền sai
tướng Lã Du đem quân xuống Quảng Đông tìm kiếm, khai quật những nơi nghi
lăng mộ Võ đế. Sau nhiều thời gian tìm kiếm, chỉ tìm được mộ Minh Vương (Anh
Tề) vua thứ ba và là chắt của Võ đế, lấy được nhiều báu vật, còn các mộ Võ đế,
Văn đế kng tìm được, đấy là một ẩn số trong hơn hai ngàn năm qua.
Phát hin lăng mTriệu Văn đế Nam Việt
Cuối thế kỷ XX thành phố Quảng Châu khi xây dựng đã phi bạt đồi, núi Tương
Cương, xây nhiều cao ốc từ những m 1970. Những toà cao ốc và phố, công viên
đã vây quanh khu vực còn lại của núi Tương Cương cao khoảng 50m. Mười năm
sau, vào tháng 8 m 1980 trong khi thi công một công trình xây dựng ở phía bắc
núi Tương Cương một máy xúc to lớn khoét sâu 20m o núi Tương Cuơng đã va
vào một tảng đá lớn. Máy đào tiếp sang phía bên càng thấy lộ rõ những khối hộp
đá lớn. Các nhà khảo cổ đã phát hin đây là một ngôi mộ cổ được tạc vào trong
lòng núi. Công việc khảo cổ được tiến hành vào cui tháng 8. Thành phố Quảng
Châu đã có quyết định phải duy trì được ngôi mộ, cố giữ được nguyên trng để duy
trì một di tích và dự định sẽ xây một bảo tàng (dựa theo Nguyễn Duy Chính).
Việc tìm kiếm chủ nhân ngôi mộ này không mấy khó khăn sau khi phát hin được
chiếc ấn vàng, núm hình rng cuộn chữ S có khắc chữ “Văn đế hành tỷ”, (Long
kim n). Việc tìm ra Long kim n đã giúp các nhà lịch sử biết được đây là lăng mộ
của vị vua thứ hai nước Nam Việt. Tiếp theo còn tìm được ngọc ấn Triệu Muội”
mà trước đây trong lịch sử gọi là Triệu Hồ. Theo một số nhà nghiên cứu Triệu
Muội là n Việt ngữ. (Từ điển Khang Hy chữ Muội có nhiều nghĩa, có lẽ chữ
Muội chỉ ngôi sao Hiên Viên Hu Tinh trên dòng Ngân Hán là hợp lẽ nhất, còn tên
Hồ là tên Hán ngữ.)
Di vật lịch sử được phát hiện ở lăng mộ con Trọng Thuỷ
- Theo sử ký Nam Việt liệt truyện: “Khi nhà Tần bị diệt, Đà đánh lấy Quế Lâm,
Tượng Quân, tự lập ra Nam Việt Vũ Vương”. Sử Việt Nam gọi là xưng Đế.
- Theo Thuỷ kinh chú sớ: “Nam Việt Vương sai Thái tử tên là Thy An xin hàng
phục An Dương Vương, xứng thần thờ vua… An Dương Vương có người con gái
tên là Mỵ Châu. Châu thấy Thủy đoan chính, Châu cùng Thủy qua lại với nhau.
Thủy hỏi Châu, bảo Châu lấy nỏ của bố cho xem. Thủy thấy nỏ bèn lấy trộm, đem
cưa đứt nỏ rồi trốn về. Khi Nam Việt Vương đem quân đánh, An Dương Vương
bắn nỏ, nỏ gẫy nên thua.” (Quyn XXXVII, trg 427, NXB Thuận Hoá 2005.)
- Sách Đại Việt sử ký toàn thư viết: “Đà sai con là Trng Thủy vào hu làm túc vệ,
cầu hôn con gái vua là Mỵ Châu. Vua bằng lòng” ... Đà đem qn đánh An Dương
Vương thua chạy... Trọng Thủy đuổi theo thấy Mỵ Châu đã chết, thương khóc ôm
xác về chôn ở Loa thành. Trng Thủy nhớ tiếc M Châu cuối cùng nhảy xuống
giếng mà chết” ĐVSKTT/T1 trang 139. Khi Triệu Vũ Đế mt toàn thư viết “n
Vương ở ngôi 12 m tên huý là Hồ con trai Trọng Thủy, cháu Vũ đế.m Bính
Thìn thứ 12 (125 TCN) vua mt (Sđd/149).
- Theo CLối Bách Việt tộc phả truyền thư “Hùng Dực ng vợ là Trần Thị Q
đẻ ra Nguyễn Thân, sau làm con nuôi thái giám Triệu Cao phải đổi sang họ Triệu”,
nên khi làm vua Nam Việt sinh hoạt nghi lễ triều đình kiu Việt. Triệu Đà giết hết
các trưởng lại do nhà Tn đặt, đem người thân phe cánh (người Việt) làm thú lệnh
(1). Triu Đà muốn chống lại nhà n, xây dựng Nam Việt mang đậm văn hoá
Việt, ông lấy vợ Việt. Nghi lễ ngang với Hán. Ông ngồi xe mui vàng, dùng ctả
đạo (loại cờ lớn bằng lông đuôi cừu dựng trên xe) vì vua muốn ngang với Hán đế.
Lục Giả sứ giả nhà n sang Việt khuyên vua ng phục. Vua ngồi xổm tiếp s
(không có lễ tiếp sứ). Khi Lục Giả nói vua n có sức mnh lớn hơn, vua cười nói
với sứ giả rằng: “Tôi lấy làm gin không được nổi dậy ở bên y, biết đâu chẳng
bằng nhà n”. Gingồi im lặng sắc mặt tiu nghỉu. Khi Giả về vua cho nhiều cu
báu và tng thêm nghìn vàng nữa” TT/142-143.
Theo TS Nguyn Việt ở Trung tâm tiền sử Đông Nam á những nghiên cu về đồ
tuỳ táng chôn trong các khu mộ táng Nam Việt cũng như xương cốt và AND c
phản ánh rõ ràng ưu thế Việt tộc trong quốc gia Nam Việt của Triệu Đà. Trong m
vua Nam Việt cũng như mộ các quan thứ sử nhóm văn hoá Đông Sơn, như trống
đồng, thạp đồng, rìu chiến và n...”
Việc phát hiện lăng mộ Văn đế sau hơn hai ngàn năm đã làm sáng tnhiều lĩnh
vực văn hoá, lịch sử. Mỹ thuật Đông Sơn rực rỡ, trang phục phát triển đỉnh cao về
đồ đồng, đồ gốm, đồ sắt, đồ sơn, trang sức ngọc phục vụ cung đình và tng lớp q
tộc. Trong mộ tìm được 23 chiếc ấn. Long kimn là n vàng ln có kích thước
khác Hán. n hình vuông 3,1cm x 3,1cm hình nổi con rồng trên núm ấn cuộn uốn
lượn hình chữ S không sng, đầu nhô ra sát góc nhe nanh, nhìn nghiêng đầu
hình cá sấu, không dữ dội kiểu rồng thú n. Kích thước ấn ln hơn 1/3 so với ấn
thời Hán quy định 1 tấc (khoảng 2,2cm). Rồng vẩy sống lưng gồ cao ở tâm làm
m cm. Mặt ấn khắc lõm chia làm 4 hình vuông trong lòng khắc 4 chữ “n đế
hành tỉ”. Núm trơn bóng chứng tỏ Long kim ấn đã dùng thường xuyên nay được
chôn theo. Đây cũng là điu khác với nhà Hán, triều đình Hán chỉ có một bảo ấn
truyền quốc tỉ. Nếu vua nào chết muốn có ấn chôn theo, thì ấn đó được đúc theo ý