NĂNG LỰC KINH DOANH CỦA NỮ DOANH NHÂN KẾT QUẢ HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA DOANH
NGHIỆP NHỎ VÀ VỪA TRÊN ĐỊA BÀN TỈNH THỪA THIÊN HUẾ
Hoàng La Phương Hiền*1- Trương Tấn Quân - Dương Đắc Quang Hảo
TÓM TT: Nghiên cứu này được thực hiện để phân tích sự ảnh hưởng của năng lực kinh doanh của đội ngũ nữ
doanh nhân đến kết quả hoạt động kinh doanh của các DNNVV trên cơ sở tiếp cận 200 nữ doanh nhân tại địa
bàn tỉnh Thừa Thiên Huế. Thông qua việc sử dụng kết hợp phương pháp nghiên cứu định tính và định lượng,
9 giả thuyết nghiên cứu được ủng hộ. Kết quả nghiên cứu cho thấy 9 nhóm năng lực kinh doanh thành phần
bao gồm: Năng lực nắm bắt cơ hội, năng lực thiết lập quan hệ, năng lực định hướng chiến lược, năng lực cá
nhân, năng lực cam kết, năng lực học tập, năng lực tổ chức - lãnh đạo, năng lực nhận thức và năng lực đạo
đức ảnh hưởng trực tiếp cùng chiều đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Trong đó, năng lực
cá nhân có ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp với hệ số hồi quy chuẩn
hóa 0,209. Kết quả nghiên cứu này có ý nghĩa quan trọng trong việc gợi mở các định hướng chính sách và giải
pháp giúp các nữ doanh nhân, các cơ sở đào tạo và nhà hoạch định chính sách xác định và phát triển những
nhóm năng lực kinh doanh phù hợp để nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của DNNVV.
Từ khóa: Năng lực kinh doanh, nữ doanh nhân, kết quả hoạt động kinh doanh.
1. GIỚI THIỆU
Nữ doanh nhân một trong những yếu tố động lực quan trọng góp phần tạo đà tăng trưởng cho nền
kinh tế quốc gia nói chung Tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng. Do đó, phát triển đội ngũ nữ doanh nhân
bản lĩnh, năng lực kinh doanh tốt, hội nhập quốc tế sâu rộng một trong những yêu cầu bức thiết nhằm thực
hiện chiến lược quốc gia về bình đẳng giới, đưa tỷ lệ nữ làm chủ doanh nghiệp chiếm trên 35% vào năm 2020.
Số lượng các nữ doanh nhân khởi nghiệp từ bàn tay và khối óc tăng lên một cách đáng kể trong những
năm gần đây. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), số doanh nghiệp do nữ sở hữu điều hành chiếm khoảng
25-35% tổng số doanh nghiệp nhân trên toàn thế giới. Tính đến hết năm 2014, ước tính khoảng 126
triệu phụ nữ khởi nghiệp hoặc điều hành doanh nghiệp; 98 triệu phụ nữ tham gia quản lý các doanh nghiệp
đang hoạt động tại 67 nền kinh tế trên toàn cầu. Tuy nhiên, theo thống kê, sự tự tin, chỉ số đổi mới sáng
tạo, định hướng kinh doanh quốc tế tại doanh nghiệp của nữ doanh nhân thấp hơn so với doanh nghiệp do
nam giới làm chủ. Tại Việt Nam, theo báo cáo của Tổng cục Thống năm 2014, trong số những người
đang khởi sự kinh doanh tại Việt Nam, 58% nam giới 42% nữ giới. Đến giai đoạn kinh doanh
đã phát triển tỷ lệ nam giới và nữ giới gần như ngang nhau. Tuy nhiên, theo báo cáo Chỉ số khởi nghiệp
toàn cầu chuyên đề phụ nữ năm 2014 thì chỉ số đổi mới sáng tạo của doanh nghiệp do nữ làm chủ thấp
hơn so với nam giới (chỉ có 35% so với tỷ lệ 45% của nam giới). Mặc dù phụ nữ tự tin hơn nam giới khi bắt
* Trường Đại học Kinh tế, Đại học Huế, 99 Hồ Đắc Di, Thành phố Huế, 491, Việt Nam, tác giả nhận phản hồi: Hoàng La Phương Hiền,
Tel. +84905301357, Email: hlphien@hce.edu.vn
1018 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
đầu khởi nghiệp nhưng lại tâm sợ thất bại hơn. Trong báo cáo thảo luận về các vấn đề doanh nghiệp
do nữ làm chủ đang phải đối mặt, trong đó tập trung vào khó khăn trong tiếp cận tài chính năm 2014 cũng
đề cập doanh nghiệp do nữ làm chủ cũng gặp phải nhiều hạn chế khác nhau, từ việc hoàn toàn không thể
tiếp cận nguồn vốn hay chỉ có thể nhận được với những điều khoản ít có lợi. Trong đó, cùng với thực trạng
chung được phản ánh về năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân cả nước thì số lượng nữ doanh nhân Thừa
Thiên Huế ngày càng phát triển, tuy nhiên những đóng góp của họ vào sự thịnh vượng của nền kinh tế địa
phương vẫn còn nhiều hạn chế và triển vọng phát triển của kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
do họ làm chủ vẫn chưa thực sự bền vững lâu dài. Theo Stoke (2006) thì nữ nghiệp chủ gặp rất nhiều
gian truân trong tiến trình tiếp cận nguồn lực kinh doanh bởi sự hạn chế về trình độ, rào cản của môi trường
kinh tế - văn hóa – xã hội và đặc biệt là năng lực kinh doanh.
Có thể thấy rằng, do một số hạn chế về năng lực kinh doanh của các nữ doanh nhân cả nước nói chung
và trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế nói riêng đã tước đi cơ hội tiếp cận và mở rộng thị trường trong nước
cũng như là thế giới trước thềm hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng của các nữ chủ doanh nghiệp. Do đó, việc
nâng cao hiểu biết về năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân trong tiến trình kinh doanh sẽ góp phần phát
triển hoàn thiện hơn năng lực kinh doanh của họ đến lượt thì kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp sẽ được nâng cao (Churchill, 1983; Low, 1988).
Về mặt luận, các công trình nghiên cứu trong nước quốc tế về mối quan hệ giữa năng lực kinh
doanh của doanh nhân kết quả hoạt đông kinh doanh của doanh nghiệp đã nhận được sự quan tâm của
một số học giả trên thế giới tuy nhiên, vẫn chưa có sự thống nhất về mô hình nghiên cứu và một số nghiên
cứu chỉ dừng lại ở góc độ đề xuất mô hình thuyết và phần lớn là tập trung vào các doanh nhân (chủ doanh
nghiệp) nói chung nhưng chưa có một định hướng nghiên cứu trong nước nào đi sâu vào việc tìm hiểu một
cách đầy đủ về vấn đề này trên đối tượng nữ nghiệp chủ. Xuất phát từ những do trên, bài viết này
hướng đến phân tích sự ảnh hưởng của năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân đến kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp nhỏ và vừa trên địa bàn tỉnh Thừa Thiên Huế.
2. SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. Cơ sở lý thuyết
2.1.1. Nữ doanh nhân
Quan điểm về doanh nhân và nữ doanh nhân khá đa dạng, tùy thuộc vào góc độ nhìn nhận đánh giá.
Trên cơ sở tiếp cận các quan điểm khác nhau về doanh nhân của các tác giả Cantillon (1755), Schumpeter
(1934), Hoselitz’s (1951), Drucker (1985), Ehrlich (1986), Hébert Link (1989), Zimmerer Scarborough
(2005), Hoàng Văn Hoa (2010), nữ doanh nhân trong nghiên cứu này được hiểu là một bộ phận của đội ngũ
doanh nhân, là người chủ doanh nghiệp, người trực tiếp lãnh đạo, quản lý và điều hành hoạt động sản xuất
kinh doanh của doanh nghiệp nhằm mục tiêu lợi nhuận; phải luôn đương đầu với rủi ro sự không chắc
chắn trong tiến trình khởi nghiệp để đạt được sự tăng trưởng và huy động những nguồn lực cần thiết; đồng
thời họ cũng phải là người gắn liền với quá trình sáng tạo và đổi mới để thành công trên cơ sở của việc nhận
thức những cơ hội kinh doanh có giá trị.
2.1.2. Năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân
Từ việc tổng quan các tài liệu tham khảo về chủ đề năng lực kinh doanh trong các công trình khoa
học của Bird (1995), Man và cộng sự (2002), Muzychenko và Saee (2004), Ahmad (2007), Mitchelmore
Rowley (2010), trong khuôn khổ của nghiên cứu này năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân sự hợp nhất
1019
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
giữa kiến thức, kỹ năng, hành vi, thái độ một số đặc điểm nhân khác của nữ doanh nhân nhằm đáp ứng
những yêu cầu của hoạt động kinh doanh từ đó giúp họ đạt được và duy trì sự thành công trong kinh doanh.
2.1.3. Kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Theo Carlos cộng sự (2011), các quan niệm chỉ tiêu đo lường kết quả hoạt động kinh doanh
của doanh nghiệp ngày càng được cải tiến ý nghĩa quan trọng với doanh nghiệp. rất nhiều cách
định nghĩa đo lường khác nhau về kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp trong nghiên cứu của
Neely cộng sự (1995), Otley (1999), Maisel (2001), Atkinson cộng sự (2007). Trong số đó, Kaplan
& Norton (1993) cho rằng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp được xác định từ 4 nhóm thành phần cơ
bản, bao gồm: Tài chính, khách hàng, quy trình nội bộ và học tập phát triển. Nó xây dựng cơ sở để chuyển
nội dung chiến lược kinh doanh thành các điều kiện thực hiện. Định nghĩa này được sử dụng trong nghiên
cứu này bởi tính tổng hợp cao đảm bảo được sự cân bằng giữa các phương diện hoạt động, giữa
mục tiêu ngắn hạn chiến lược dài hạn, giữa các đối tác hữu quan bên trong và bên ngoài, giữa phương
diện tài chính và phi tài chính của doanh nghiệp.
2.1.4. Ảnh hưởng của của năng lực kinh doanh của doanh nhân đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
Quan điểm dựa vào nguồn lực (Resource Based View - RBV) cho rằng năng lực doanh nhân được xem
như nguồn lực quý giá, hiếm hoi đối thủ khó thể sao chép hay bắt chước nên sẽ góp phần tạo ra
lợi thế cạnh tranh bền vững và giá trị gia tăng cho doanh nghiệp (Tehseen và Ramayah, 2015). Theo Drago
Clements (1999), doanh nhân người định hướng hành động để dẫn dắt hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp. Những quyết định kinh doanh của họ chịu sự ảnh hưởng của đặc điểm nhân, kiến thức,
kỹ năng và khả năng . Do đó, doanh nhân cần phải có kiến thức, kỹ năng đa dạng và tổng hợp để làm tròn
những vai trò phức tạp của họ trong doanh nghiệp (Sadler Smith & ctg, 2003). Trong nghiên cứu của
Chandler và Jansen (1992), doanh nhân các DNNVV phải đồng thời đảm trách ba vai trò cơ bản đó là vai
trò của nhà kinh doanh, nhà quản lý nhà chuyên môn. Do đó, việc phát triển một các đúng đắn và toàn
diện các các nhóm năng lực kinh doanh thành phần cấu thành năng lực kinh doanh chung của doanh nhân
sẽ góp phần nâng cao kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Dựa trên kết quả nghiên cứu của các
tác giả như Man cộng sự (2002), Baum cộng sự (2001), Sony Iman (2005), Man cộng sự (2008),
Ahmad cộng sự (2010), Sánchez (2011), Ng Kee (2013), Bendary Minyawi (2015), Tehseen
Ramayah (2015), mối quan hệ giữa các biến nghiên cứu được đề xuất như sau:
H1: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực định hướng chiến lược của nữ doanh nhân và kết
quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp.
H2: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực nhận thức của nữ doanh nhân và kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp.
H3: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực nắm bắt cơ hội của nữ doanh nhân và kết quả hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp.
H4: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực tổ chức - lãnh đạo của nữ doanh nhân và kết quả
hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp
H5: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực thiết lập quan hệ của nữ doanh nhân và kết quả hoạt
đông kinh doanh của doanh nghiệp
H6: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực cam kết của nữ doanh nhân và kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
1020 HỘI THẢO KHOA HỌC QUỐC TẾ KHỞI NGHIỆP ĐỔI MỚI SÁNG TẠO QUỐC GIA
H7: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực học tập của nữ doanh nhân kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
H8: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực nhân của nữ doanh nhân kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
H9: Tồn tại mối quan hệ cùng chiều giữa năng lực đạo đức của nữ doanh nhân kết quả hoạt động
kinh doanh của doanh nghiệp
2.2. Phương pháp nghiên cứu
Nghiên cứu định tính được triển khai đầu tiên thông qua việc sử dụng phương pháp phỏng vấn sâu 10
nữ doanh nhân trên địa bàn nghiên cứu bằng bảng hỏi bán cấu trúc nhằm khám phá, điều chỉnh và bổ sung
các thành phần của thang đo năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân và kết quả hoạt động kinh doanh của
doanh nghiệp cho phù hợp với điều kiện kinh tế, văn hóa, hội đặc thù của Việt Nam của đối tượng
nghiên cứu đặc biệt – lực lượng nữ doanh nhân Thừa Thiên Huế.
Tiếp theo, phương pháp nghiên cứu định lượng với kỹ thuật phân tích nhân tố khám phá (EFA), phân
tích nhân tố khẳng định (CFA), kiểm định độ tin cậy thang đo Chronbach alpha được sử dụng trên qui mô
mẫu đủ lớn để chứng minh về mặt thống kê về mức độ phù hợp của thang đo các biến nghiên cứu được đề
xuất. Tiếp đến, mô hình cấu trúc tuyến tính SEM được sử dụng để nghiên cứu sự ảnh hưởng của năng lực
kinh doanh của nữ doanh nhân đến kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mẫu điều tra là 200 nữ
doanh nhân trên địa bàn nghiên cứu được chọn ra theo kỹ thuật chọn mẫu phát triển mầm (một trong những
kỹ thuật chọn mẫu cụ thể thuộc nhóm kỹ thuật chọn mẫu phi xác suất). Việc tiếp cận và có được sự hợp tác
từ phía đối tượng khảo sát là các nữ doanh nhân (vừa làm chủ và vừa trực tiếp điều hành doanh nghiệp) là
rất khó khăn do đó thông qua mối quan hệ sự giới thiệu của người thân, bạn cũng như sự phối hợp của
hội doanh nhân trẻ, hội doanh nghiệp tỉnh Thừa Thiên Huế để phát triển và mở rộng kích thước mẫu là cần
thiết. Số liệu sơ cấp được xử lý bằng phần mềm SPSS phiên bản 20.
Về thang đo các biến nghiên cứu thì trên sở kế thừa kết quả của Man (2001), Ahmad (2007),
một số tác giả khác để xây dựng thang đo năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân trên địa bàn Tỉnh Thừa
Thiên Huế với 9 nhóm năng lực kinh doanh thành phần. Thang đo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh
nghiệp được phát triển trên cơ sở tiếp cận nghiên cứu của Kaplan và Norton (2001) và Lê Thị Phương Thảo
(2016) với kết quả hoạt động của 4 phương diện được phản ánh: Phương diện tài chính, khách hàng, quy
trình nội bộ, học tập – phát triển.
3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1 Kết quả của giai đoạn nghiên cứu định tính
Trên cơ sở phỏng vấn sâu 10 nữ doanh nhân trên địa bàn nghiên cứu thì một số từ ngữ trong thang đo
nháp cho 2 nhóm biến nghiên cứu “năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân” “kết quả hoạt động kinh
doanh của doanh nghiệp” đề xuất từ quá trình tổng hợp lý thuyết được điều chỉnh để đảm bảo giá trị về mặt
nội dung, phù hợp hơn với cách hiểu của đối tượng được khảo sát. Trong đó, với nhóm năng lực cá nhân thì
có thêm 2 yếu tố được bổ sung vào thang đo này đó là: Bền bỉ cả về thể chất lẫn tinh thần và cân bằng giữa
gia đình công việc kinh doanh. Nhóm năng lực thực hiện chuẩn mực đạo đức cũng được bổ sung thêm
2 yếu tố để phản ánh toàn diện hơn khái niệm nghiên cứu này đó là: Quan tâm đến phúc lợi của nhân viên,
tạo ra cơ hội việc làm cho cộng đồng.
1021
INTERNATIONAL CONFERENCE STARTUP AND INNOVATION NATION
3.2. Kết quả của giai đoạn nghiên cứu định lượng
3.2.1. Đặc điểm mẫu nghiên cứu
Trong 200 nữ doanh nhân trên địa bàn nghiên cứu tham gia khảo sát thì đến 130 người, chiếm
65.0% trong tổng số độ tuổi vào khoảng từ 36 đến 50 tuổi. Các nữ doanh nhân này trình độ học vấn
không cao với 5,5% trong tổng mẫu điều tra trình độ đại học trở lên, số năm hoạt động kinh doanh chủ
yếu trên 10 năm (63,5%). Phần lớn họ đều có người thân sở hữu doanh nghiệp (90%), đã tham gia một số
chương trình đào tạo (51,5%) liên quan đến lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, quản trị tài chính, quản trị nhân
sự, phổ cập kiến thức luật lao động, luật doanh nghiệp; đã từng làm công việc kinh doanh trước khi làm chủ
và quản lý doanh nghiệp hiện tại (97,5); có thời gian trung bình mỗi ngày dành cho hoạt động kinh doanh
từ 8 đến 12 tiếng (90,0%); ngoài làm chủ DN hiện tại thì có tham gia hoạt động kinh doanh khác (75,0%).
Khi được điều tra về động khởi nghiệp kinh doanh thì 42,5% nữ doanh nhân tham gia kinh doanh để làm
giàu tận hưởng cuộc sống độc lập về mặt tài chính, 30,0% để tận hưởng cuộc sống tự do khi làm chủ,
27,5% để thoát khỏi sự nhàm chán khi đi làm thuê. Xét về đặc điểm doanh nghiệp do nữ doanh nhân làm
chủ thì hình thức sở hữu doanh nghiệp tư nhân và công ty TNHH là chiếm đa số với tỷ lệ lần lượt là 48,5%
47,0% một cách tương ứng trong mẫu khảo sát các doanh nghiệp này chủ yếu hoạt động trong lĩnh
vực thương mại, dịch vụ (97%) với quy mô lao động phổ biến là từ 10 đến 200 lao động (85%).
3.2.2. Kiểm định thang đo
Kết quả phân tích EFA cho thấy, giá trị kiểm định KMO lần lượt là 0,833; 0,756 lớn hơn 0,5 và p
value (Sig.=0,000) của kiểm định Barlett đều hơn 0,05 dó đó thang đo năng lực kinh doanh của nữ doanh
nhân và kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp đều đảm bảo các điều kiện để tiến hành phân tích
nhân tố khám phá EFA.
Về thang đo năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân với số lượng 9 nhân tố được rút trích tương ứng
với 9 nhóm năng lực kinh doanh thành phần được đề xuất trong mô hình lý thuyết từ 64 biến quan sát ban
đầu, tổng phương sai trích của phân tích EFA thu được là 81,766% (>50%), tất cả các nhân tố mới được rút
trích đều đảm bảo các điều kiện về giá trị Eigenvalue lớn hơn 1, phương sai trích, cũng như điều kiện về hệ
số tải nhân tố đều lớn hơn 0.5 (Bảng 1). Về thang đo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, 13
biến quan sát được đưa vào phân tích đã rút trích ra được 4 nhân tố tương ứng với 4 phương diện của kết
quả hoạt động kinh doanh, với tổng phương sai trích 82,012% (>50%), tất cả các nhân tố mới được rút
trích đều đảm bảo các điều kiện về giá trị Eigenvalue lớn hơn 1, các hệ số tải nhân tố của các biến quan sát
trong từng yếu tố được rút trích đều lớn hơn 0,5 (Bảng 1). Do đó, thang đo các biến nghiên cứu đều thỏa
mãn cả 2 tiêu chí về tính hội tụ (convergent validity) và tính biệt hóa (discriminant validity).
Kết quả kiểm định độ tin cậy thang đo (bảng 1) cho thấy, thang đo các nhân tố thuộc 2 nhóm biến
nghiên cứu đều đảm bảo độ tin cậy với hệ số Cronbach Alpha lớn hơn 0,8.
Kết quả phân tích nhân tố khẳg định (CFA) cho thang đo năng lực kinh doanh của nữ doanh nhân
cho thấy các chỉ số đánh giá: CMIN/DF= 2,025 (<3), GFI= 0,708 (< 0,9), TLI= 0,890 (≈ 0,9), CFI= 0,898
(≈ 0,9) RMSEA= 0,056 (< 0,08). Đối với thang đo kết quả hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp thì
CMIN/DF= 1,974 (<3), GFI= 0,921 (> 0,9), TLI= 0,969 (> 0,9), CFI= 0,976 (> 0,9) và RMSEA= 0,057 (<
0,08) đều thỏa mãn điều kiện. Do vậy, có thể kết luận thang đo các biến nghiên cứu là phù hợp với dữ liệu
thị trường.
Ngoài ra, thang đo của các biến nghiên cứu đều đáng tin cậy, đạt giá trị hội tụ trong từng nhóm thang
đo, đạt tính đơn nguyên và thỏa mãn yêu cầu về giá trị phân biệt.