LUẬN VĂN:
Năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu Quân đội nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay
Mở đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Tổ chức cơ sở đảng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân chính trị lãnh đạo mọi mặt ở
cơ sở. TCCSĐ có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc tổ chức thực hiện thắng lợi đường
lối của Đảng ở cơ sở. Vì vậy, coi trọng xây dựng và nâng cao năng lực lãnh đạo (NLLĐ)
và sức chiến đấu (SCĐ) của TCCSĐ là nội dung cơ bản, là vấn đề có tính quy luật trong
xây dựng, đổi mới và chỉnh đốn Đảng của các Đảng Cộng sản cũng như Đảng Nhân dân
cách mạng (ĐNDCM) Lào.
Từ khi ra đời đến nay, ĐNDCM Lào đã đặc biệt quan tâm xây dựng, nâng cao
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ. Qua mỗi bước phát triển của cách mạng, qua mỗi kỳ Đại hội
Đảng, những vấn đề lý luận và thực tiễn về TCCSĐ lại được tổng kết và phát triển. Trong
QĐND Lào nói chung, ở Tổng cục Tham mưu QĐND Lào nói riêng, các cục và đơn vị
cơ sở là một chỉnh thể thống nhất, là tổng hợp của hệ thống các tổ chức; bao gồm những
tổ chức đảng, tổ chức chỉ huy, tổ chức quần chúng; trong đó tổ chức đảng là bộ phận
quan trọng nhất giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo chính trị ở đó. Vì vậy, nâng cao NLLĐ và
SCĐ của TCCSĐ là vấn đề rất cần thiết, vừa là nhiệm vụ then chốt trong xây dựng đảng
bộ, chi bộ và xây dựng các cục, các đơn vị thuộc Tổng cục vững mạnh toàn diện.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước Lào diễn ra hết sức phức tạp,
thời cơ thuận lợi đan xen với nguy cơ thách thức to lớn, cuộc đấu tranh giai cấp, đấu
tranh dân tộc đã trở thành một cuộc chiến hết sức gay gắt và quyết liệt. Công cuộc đổi
mới toàn diện đất nước dưới sự lãnh đạo của ĐNDCM Lào, nhằm đạt mục tiêu "Dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh" theo định hướng xã hội chủ
nghĩa (XHCN) đã đạt được nhiều thành tựu đáng kể; song, mặt trái của cơ chế thị trường
và các tệ nạn xã hội đã gây ảnh hưởng, tác động tiêu cực đến nhận thức, tư tưởng của cán
bộ, chiến sĩ, đảng viên. Đặc biệt là sự khủng hoảng kinh tế của đất nước vừa qua đã gây
khó khăn rất lớn đến đời sống vật chất của nhân dân và sự bảo đảm cơ sở vật chất, kỹ
thuật cho quân đội. Từ những tình hình trên, đòi hỏi phải có lực lượng và tiềm lực mạnh
về mọi mặt để bảo vệ vững chắc Tổ quốc Lào, xây dựng đất nước Lào, giữ vững an ninh
chính trị, toàn vẹn lãnh thổ, để đất nước phát triển bền vững trên mọi lĩnh vực. Do vậy,
xây dựng QĐND Lào mà trọng tâm là các cục và các đơn vị thuộc Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào vững mạnh, chính quy, từng bước hiện đại, là nhiệm vụ cấp bách của
ĐNDCM Lào.
Tổng cục Tham mưu QĐND Lào là một Tổng cục trong QĐND Lào chỉ huy,
lãnh đạo các cục, các đơn vị đảm nhận nhiệm vụ trọng yếu của đất nước. NLLĐ và
SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với
sự vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ của Tổng cục. Tuy nhiên, hiện tại NLLĐ và
SCĐ của các TCCSĐ còn chưa đáp ứng yêu cầu của tình hình nhiệm vụ mới. Thể hiện
ở: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị hiệu quả chưa cao; việc thực hiện
các nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng còn chưa nghiêm; trình độ mọi mặt của đội
ngũ cán bộ còn hạn chế; việc đấu tranh với các biểu hiện tiêu cực còn chưa mạnh mẽ,
kịp thời; nội dung, phương thức lãnh đạo chưa được đổi mới mạnh mẽ...
Vì vậy, việc nghiên cứu đánh giá đúng thực trạng NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ
thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu, tìm nguyên nhân, đề xuất những giải pháp nâng cao
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đơn vị và của Đảng
bộ là vấn đề rất cần thiết và cấp bách.
Là cán bộ của QĐND Lào công tác ở Tổng cục Tham mưu, được học tập một
cách cơ bản, hệ thống lý luận về xây dựng Đảng tại Việt Nam, tôi xác định trách
nhiệm của mình phải góp phần thực hiện nhiệm vụ cấp bách nêu trên. Vì thế, tôi
chọn và thực hiện đề tài luận văn thạc sĩ: " Năng lực lónh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu Quân đội nhân dân
Lào trong giai đoạn hiện nay ".
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Những quan điểm, chủ trương, biện pháp lớn về NLLĐ và SCĐ cũng như chất
lượng của TCCSĐ của ĐNDCM Lào và Đảng Cộng sản Việt Nam đã được nhiều nhà
khoa học và những người làm công tác thực tiễn đã nghiên cứu ở những phạm vi,
loại hình TCCSĐ khác nhau và đã đạt kết quả to lớn:
- Khăm Pheng Nam Tha Vông: Việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của tổ chức cơ sở
ĐNDCM Lào, Luận án phó tiến sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học
viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 1991.
- Đỗ Ngọc Ninh: Nâng cao chất lượng TCCSĐ nông thôn (cấp xã) ở đồng bằng
sông Hồng, Luận án tiến sĩ lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, 1995.
- Nguyễn Trọng Hân: Nâng cao chất lượng TCCSĐ trong các trường sĩ quan quân
đội đáp ứng yêu cầu bậc đào tạo đại học, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên
ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Nguyễn Việt Dũng: Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các đảng bộ xã vùng đồng bào
Khơ-me tập trung ở tỉnh Kiên Giang hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên
ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2000.
- Dương Trung ý: Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các đảng bộ xã ở huyện Yên Thế,
tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên
ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Nguyễn Đức ái: Năng lực lãnh đạo và SCĐ của TCCSĐ nông thôn vùng cao
phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, Luận án tiến sĩ
lịch sử, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, 2002.
- Bùi Hữu Dược: Năng lực lãnh đạo và SCĐ của TCCSĐ nông thôn vùng có đồng
bào công giáo ở tỉnh Nam Định trong giai đoạn hiện nay - Thực trạng và giải pháp, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành Xây dựng Đảng, Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh, 2003.
- "Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ mới", do GS.TS Nguyễn Phú
Trọng, PGS.TS Tô Huy Rứa, PGS.TS Trần Khắc Việt (đồng chủ biên), Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội, 2004.
- "Chất lượng các đảng bộ vùng trung du Bắc Bộ hiện nay", Luận án tiến sĩ của
Dương Trung ý, bảo vệ tại Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh, 2008.
Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình khoa học, luận văn, luận án nào nghiên cứu
một cách cơ bản về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào trong giai đoạn hiện nay.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào; luận văn đề xuất phương
hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ
Tổng cục Tham mưu đến năm 2015.
* Nhiệm vụ
- Làm rõ những quan niệm, khái niệm và những vấn đề cơ bản về lý luận chủ yếu về
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Tổng cục Tham mưu QĐND Lào.
- Khảo sát, đánh giá thực trạng NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Tổng cục Tham
mưu QĐND Lào và thực trạng hoạt động để có NLLĐ và SCĐ, chỉ ra ưu, khuyết điểm
nguyên nhân và những kinh nghiệm.
- Đề xuất phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ và SCĐ
của TCCSĐ thuộc Tổng cục Tham mưu QĐND Lào đến năm 2015.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận văn
* Đối tượng nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc Tổng cục Tham
mưu QĐND Lào trong giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào và các hoạt động tạo nên NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ đó từ năm 2000
đến nay.
Phương hướng và các giải pháp đề xuất trong luận văn có giá trị đến năm 2015.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
* Cơ sở lý luận
Cơ sở lý luận của luận văn là chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, tư
tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và ĐNDCM
Lào về công tác xây dựng Đảng và TCCSĐ.
* Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu chủ yếu như: phương pháp duy vật
biện chứng, điều tra, thống kê, phân tích, tổng hợp, so sánh, lôgíc - lịch sử, trong đó chú
trọng phương pháp tổng kết thực tiễn.
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
- Quan niệm về NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào.
- Những kinh nghiệm về nâng cao hoạt động tạo nên NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ
thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu.
- Những giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc Đảng
bộ Tổng cục Tham mưu.
7. ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Kết quả của luận văn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo cho các cấp uỷ của
Đảng bộ Tổng cục Tham mưu trong quá trình nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ
thuộc Đảng bộ. Kết quả đó còn có thể được dùng làm tài liệu tham khảo phục vụ học tập,
giảng dạy trong các trường đào tạo cán bộ về công tác đảng, công tác chính trị của
QĐND Lào.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội dung
của luận văn gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1
Năng lực lãnh đạo và Sức chiến đấu của tổ chức
cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu quân đội nhân dân Lào - những vấn đề
lý luận và thực tiễn
ĐNDCM Lào là người tổ chức, lãnh đạo và giáo dục, rèn luyện QĐND Lào. Sự
lãnh đạo đúng đắn của Đảng là nhân tố chủ yếu quyết định mọi bước trưởng thành và
chiến thắng của Quân đội, đó cũng là nguyên tắc cơ bản nhất, quyết định nhất trong xây
dựng quân đội cách mạng của giai cấp công nhân. Có sự lãnh đạo của Đảng, quân đội
mới có mục tiêu chiến đấu đúng đắn; có lập trường cách mạng vững vàng, thực sự mang
bản chất của giai cấp công nhân; thực sự trở thành lực lượng chính trị, đủ sức vượt qua
mọi khó khăn hoàn thành mọi nhiệm vụ trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Cộng hoà Dân chủ Nhân dân (CHDCND) Lào, bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ an ninh quốc gia và bảo vệ vững chắc thành quả cách mạng
trong mọi tình huống. Đặc biệt là trước những âm mưu thủ đoạn hết sức tinh vi, xảo
quyệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch trong và ngoài nước Lào hiện nay.
Để lãnh đạo "triệt để, trực tiếp và toàn diện" đối với quân đội, Đảng đã xác lập và
không ngừng củng cố hệ thống tổ chức đảng trong quân đội, chăm lo xây dựng các tổ
chức đảng trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Trong đó coi trọng
nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ là vấn đề có ý nghĩa rất quan trọng và cấp thiết.
Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng NDCM Lào xác định "Xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
trong sạch, vững mạnh về chính trị tư tưởng và tổ chức là vấn đề chiến lược, là nhiệm vụ
thường xuyên lâu dài của hệ thống chính trị" [37, tr.57].
1.1. Đảng bộ Tổng cục Tham mưu và các tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ
1.1.1. Khái quát về Tổng cục Tham mưu và Đảng bộ Tổng cục
1.1.1.1. Khái quát về Tổng cục Tham mưu
Tổng cục tham mưu là một Tổng cục trực thuộc Bộ Quốc phòng QĐND Lào,
nhiệm vụ chủ yếu của Tổng cục là làm công tác tham mưu cho Bộ Quốc phòng QĐND
Lào, lãnh đạo, chỉ đạo tất cả các lực lượng bộ đội chủ lực và bộ đội địa phương sẵn sàng
chiến đấu và chiến đấu để bảo vệ vững chắc nước CHDCND Lào. Ngoài ra, Tổng cục
còn huấn luyện về môn quân sự, môn chuyên ngành kỹ thuật cho các đơn vị cơ sở và
củng cố xây dựng lực lượng vũ trang trong QĐND Lào vững mạnh về chính trị, tư tưởng,
quân sự và có kỷ luật nghiêm minh.
Tổng cục Tham mưu có quan hệ chặt chẽ với Bộ Quốc phòng, với cơ quan lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, chính quyền địa phương và quan hệ với các nước XHCN về
công tác tham mưu.
Tổng cục Tham mưu có 14 cục, 3 văn phòng và 32 đơn vị cơ sở trực thuộc, có lực
lượng 5.442 đồng chí, nữ 849 đồng chí, trong đó có cán bộ chỉ huy từ Tổng cục xuống
đơn vị cơ sở 1.248 đồng chí, thuộc 3 dân tộc lớn như: Lào Lụm, Lào xụng, Lào thâng
[40, tr.2].
* Các cơ quan, đơn vị trực thuộc Tổng cục Tham mưu:
+ Văn phòng Tổng cục Tham mưu, văn phòng chính trị, văn phòng hành chính.
+ Cục Tác chiến, Cục Huấn luyện, Cục Xe tăng, Cục Công binh, Cục Bộ đội địa
phương, Cục Quân huấn, Cục Pháo binh, Cục Không quân, Cục Hoá học, Cục 49, Cục
Bộ đội Biên phòng.
+ Tiểu đoàn 224, Tiểu đoàn 214, Tiểu đoàn 203, Tiểu đoàn 205, Tiểu đoàn 201,
Tiểu đoàn 579, Tiểu đoàn 588, Tiểu đoàn 587, Tiểu đoàn 511, Tiểu đoàn 661, Tiểu đoàn
615, Tiểu đoàn, Tiểu đoàn 761, Tiểu đoàn 986, Tiểu đoàn 425, Tiểu đoàn 15, Tiểu đoàn
hữu nghị Lào - Trung Quốc, Tiểu đoàn Thể thao Quân đội, Trường 301, Trường 303,
Trường Công binh, Tiểu đoàn Nhà xuất bản bản đồ, Tiểu đoàn 986, Tiểu đoàn Pháo binh.
+ Đại đội 51, Đại đội 202, Đại đội 172, Đại đội 174, Đại đội 584, Đại đội 32, Đại
đội 14, Đại đội 52, Đại đội Dự án thông tin I, Đại đội Dự án thông tin II.
1.1.1.2. Khái quát về Đảng bộ Tổng cục Tham mưu và chức năng, nhiệm vụ
Đảng bộ Tổng cục Tham mưu là một đảng bộ trực thuộc đảng uỷ Bộ Quốc phòng
QĐND Lào, được thành lập ngày 10/10/1986, hiện nay có 20 đảng bộ cơ sở và 107 chi
bộ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu, trong đó có 1880 đảng viên, đảng viên chính thức
1.710 đồng chí, nữ 273 đồng chí, đảng viên dự bị 173 đồng chí, nữ 13 đồng chí.
Đảng bộ Tổng cục Tham mưu là cấp trên của các TCCSĐ và cấp dưới của đảng uỷ
Bộ Quốc phòng, đảng bộ Tổng cục hoạt động dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo trực tiếp, tập
trung thống nhất của đảng uỷ Bộ Quốc phòng. Đảng bộ Tổng cục là trung tâm của khối
đoàn kết, nhất trí và gương mẫu đi đầu trong việc thực hiện đường lối, chính sách, chỉ thị,
nghị quyết của cấp trên.
Đảng bộ Tổng cục là cơ quan lãnh đạo trực tiếp, tập trung thống nhất và toàn diện
đối với các cơ quan, đơn vị thuộc đảng bộ Tổng cục, có nhiệm vụ: đề ra các chủ trương,
chính sách và biện pháp cụ thể, tổ chức thực hiện nhiệm vụ, thực hiện nghị quyết đại hội
đảng cấp mình theo Điều lệ của Đảng và pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo cơ quan, các
đơn vị trực thuộc; tiến hành công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, phát huy vai trò của chế
độ hai thủ trưởng để bảo đảm nguyên tắc lãnh đạo tập thể, phân công nhiệm vụ cho cá
nhân phụ trách, phát huy dân chủ và sáng kiến của cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong lĩnh
vực công tác.
Tích cực xây dựng đảng bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức và tác
phong làm việc, nhất là củng cố xây dựng cơ sở đảng, chi bộ, đảng viên trong sạch vững
mạnh, có NLLĐ hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Củng cố, tăng cường khối đoàn kết thống nhất vững chắc trong đảng bộ, đoàn kết
giữa cấp uỷ với cán bộ, chiến sĩ trong Tổng cục. Lãnh đạo, chỉ đạo các tổ chức quần
chúng ở các đơn vị cơ sở như: tổ chức thanh niên, phụ nữ, công đoàn (nếu có) hoạt động
đúng quy chế, Điều lệ và đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
Kiểm tra và đóng góp ý kiến vào kế hoạch, phương pháp tổ chức thực hiện của các
bí thư, cấp uỷ làm cho kế hoạch phù hợp với tình hình thực tế của cơ quan, đơn vị. Lãnh
đạo công tác xây dựng, quản lý và biên chế cán bộ hợp lý, kiểm tra giám sát hoạt động
của cán bộ trong việc thực hiện chính sách đối với người có công và thi hành kỷ luật với
cán bộ có hành vi sai phạm. Lãnh đạo công tác kiểm tra bảo vệ nội bộ Đảng và cơ quan,
đơn vị thuộc phạm vi quyền hạn, để đảng bộ ổn định, trong sạch về chính trị, tư tưởng,
vững mạnh về tổ chức ngăn chặn và chống lại mọi âm mưu diễn biến hoà bình của địch.
Xem xét và phê duyệt các nghị quyết của cơ sở đảng (chi bộ, đảng bộ cơ sở) thành
lập hoặc giải thể một chi bộ, đảng bộ cơ sở nào đó có vi phạm Điều lệ Đảng nhưng phải
báo cáo xin ý kiến của lãnh đạo Tổng cục Chính trị quân đội và đảng uỷ Bộ Quốc phòng
QĐND Lào. Đảng bộ Tổng cục Tham mưu chỉ có quyền phê bình và cảnh báo chi bộ,
đảng bộ cơ sở đã vi phạm Điều lệ ĐNDCM Lào (Điều 35, chương X). Phê duyệt kết nạp
quần chúng ưu tú vào Đảng và chuyển đảng viên dự bị lên đảng viên chính thức; phê duyệt
thi hành kỷ luật đối với đảng viên cấp hạ sĩ, chiến sĩ. Đối với đảng viên là sĩ quan từ thiếu
uý trở lên Đảng bộ có quyền quyết định thi hành kỷ luật bằng hình thức phê bình và cảnh
cáo, đề nghị Tổng cục Chính trị QĐND và đảng uỷ Bộ Quốc phòng QĐND Lào phê duyệt
khai trừ đảng viên ra khỏi Đảng.
Đảng uỷ của Đảng bộ Tổng cục Tham mưu được thành lập trên cơ sở bỏ phiếu kín
của Đại hội đại biểu hoặc đại hội đảng viên của cơ quan, đơn vị. Trong trường hợp không
có điều kiện tiến hành đại hội thì đảng uỷ Bộ Quốc phòng chỉ định tạm thời đảng uỷ Bộ
Tổng Tham mưu để chuẩn bị điều kiện tiến hành đại hội bầu đảng uỷ chính thức [33,
tr.4].
1.1.2. Các tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu - khái niệm,
vị trí, vai trò, chức năng nhiệm vụ và đặc điểm
1.1.2.1. Khái niệm tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu và vị
trí, vai trò
a. Khái niệm:
Điều lệ ĐNDCM Lào quy định: TCCSĐ là tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở. TCCSĐ
bao gồm: chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở. Đơn vị cơ sở có từ 3 đảng viên chính thức đến 29
đảng viên thì lập chi bộ cơ sở; đơn vị cơ sở có từ 30 đảng viên trở lên thì lập đảng bộ cơ
sở, có các chi bộ trực thuộc đảng uỷ; Trường hợp lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở
chưa đủ 30 đảng viên và lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở thì phải được cấp
uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý [39, tr.34-35]
* Điều lệ Đảng thông qua Đại hội VIII của ĐNDCM Lào năm 2006 tạ Điều 15
chương III còn chỉ rõ thêm:
- TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân trong hệ
thống chính trị ở cơ sở, là nơi sinh hoạt của đảng viên, là nơi kết nạp quần chúng tiên tiến
vào đảng, là nơi tổ chức thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp
luật của nhà nước.
- ở bản hay xóm làng, cơ quan, nhà trường, bệnh viện, doanh nghiệp, đơn vị cơ sở
khác có từ 3 đảng viên chính thức trở lên, lập TCCSĐ, nếu chưa đủ đảng viên chính thức
thì cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở TCCSĐ thích hợp.
- TCCSĐ dưới ba mươi đảng viên chính thức, lập chi bộ cơ sở, có các tổ đảng trực
thuộc.
- TCCSĐ có từ ba mươi đảng viên chính thức trở lên lập đảng bộ cơ sở, có các chi
bộ trực thuộc đảng uỷ.
- Những trường hợp sau đây, cấp uỷ cấp dưới phải báo cáo và được cấp uỷ cấp
trên trực tiếp đồng ý mới được thực hiện:
+ Lập đảng bộ cơ sở trong đơn vị cơ sở chưa đủ 30 đảng viên chính thức.
+ Lập chi bộ trực thuộc đảng uỷ cơ sở hơn 30 đảng viên chính thức.
+ Lập đảng bộ bộ phận trực thuộc đảng uỷ cơ sở.
b. Vị trí, vai trò
Học thuyết về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân đã khẳng định:
TCCSĐ trong mọi giai đoạn phát triển là một trong những khâu quan trọng trong hệ
thống tổ chức và trong thực hiện vai trò lãnh đạo củ Đảng; chính vai trò đó nói lên vị trí
nền tảng của TCCSĐ, trên cơ sở đó Đảng được xây dựng vững mạnh, trưởng thành và
phát triển.
C.Mác và Ph.Ăngghen là những người đầu tiên đưa ra những tư tưởng, quan điểm
về vai trò, vai trò của TCCSĐ, trực tiếp thể hiện nó trong quá trình Xây dựng và lãnh đạo
"Liên đoàn những người Cộng sản". Ngay từ những ngày đầu của phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế, C.Mác và Ph.Ăngghen đã nhấn mạnh phải... "biến mỗi chi bộ của
mình thành trung tâm và hạt nhân của các liên hiệp công nhân" [14, tr.348]. Trong cuộc
đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội trên lĩnh vực tổ chức và tiến hành xây dựng chính đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân, V.I.Lênin đã phát triển tư tưởng đó. Người luôn chăm
lo xây dựng, nhằm xác lập vai trò lãnh đạo của các tiểu tổ chức của Đảng công nhân dân
chủ - xã hội, sau đó phát triển thành những chi bộ cơ sở trong các nhà máy, công xưởng,
khu dân cư... của Đảng Bôn sê vich Nga. Khi cách mạng chuyển sang giai đoạn thực hiện
chuyên chính vô sản, Đảng trở thành trung tâm chính trị của toàn xã hội, các TCCSĐ
tăng lên cả về số lượng và chất lượng, phong phú về nội dung và phương thức hoạt động.
V.I.Lênin viết:
Những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với trung ương Đảng, phải
trao đổi kinh nghiệm lẫn cho nhau, phải làm công tác cổ động, tuyên truyền,
công tác tổ chức, phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với tất
cả mọi loại và mọi tầng lớp quần chúng lãnh đạo, những chi bộ ấy phải thông
qua công tác muôn hình muôn vẻ đó mà rèn luyện bản thân mình, rèn luyện
Đảng, giai cấp, quần chúng một cách có hệ thống [12, tr.232, 233].
Vai trò của các TCCSĐ càng quan trọng hơn ở thời kỳ Đảng tập trung sự lãnh đạo
vào lĩnh vực kinh tế. Khi chuyển sang thực hiện chính sách kinh tế mới, V.I.Lênin cho
rằng: để giành được thắng lợi trong bước chuyển biến chiến lược này, các TCCSĐ có vai
trò hết sức to lớn. Người đã chỉ ra cho các tổ chức đảng, các chi bộ phải là những pháo
đài trên mặt trận này và có trách nhiệm: "đem hết sức lực, đem hết chú ý để tạo ra, để
phát huy một tính chủ động sáng tạo hơn ở cơ sở [11, tr.279].
Thực tiễn ở Nga trong thời kỳ đó đã khẳng định, chỉ bằng con đường thực hiện
nhiều biện pháp nâng cao vai trò của tổ chức đảng, chăm lo xây dựng, phát huy cao độ
tính chủ động sáng tạo của cơ sở thì những nhiệm vụ và mục tiêu chính sách kinh tế mới
của nhà nước Xô Viết mới được thực hiện trong thực tiễn và giành được thắng lợi. V.I.
Lênin đánh giá rất cao tác dụng của những chuyển biến tích cực đó, trong điều kiện đảng
cầm quyền, Đảng lãnh đạo chính quyền cách mạng XHCN.
Điều lệ ĐNDCM Lào do Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII thông qua đã xác
định: "TCCSĐ là nền tảng của Đảng, là hoạt động trong hệ thống chính trị ở cơ sở, là nơi
sinh hoạt của đảng viên, là nơi kết nạp quần chúng tiên tiến vào Đảng, là nơi tổ chức thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước". TCCSĐ có
vị trí, vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển, trưởng thành của toàn Đảng và đối với
sự vững mạnh của đơn vị cơ sở.
ở Tổng cục Tham mưu QĐND Lào, TCCSĐ là một bộ phận cấu thành đảng bộ
Tổng cục, giữ vị trí, vai trò là nền tảng của Đảng bộ; là nơi trực tiếp lãnh đạo toàn diện
mọi mặt công tác và hoạt động của đơn vị cơ sở; thực hiện các nguyên tắc lãnh đạo, tổ
chức và sinh hoạt của Đảng ở cơ sở; nâng cao chất lượng xây dựng chi bộ, đảng bộ; xây
dựng và triển khai thực hiện nghị quyết và sinh hoạt của tổ chức đảng; là nơi trực tiếp
lãnh đạo quản lý, giáo dục, rèn luyện xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên thực sự vững
mạnh; là cầu nối giữa các tổ chức quần chúng với Tổng cục Tham mưu QĐND Lào.
Các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu là nền tảng; hạt nhân lãnh đạo
chính trị ở đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục; nơi trực tiếp tổ chức lãnh đạo thực thi nhiệm vụ
của Tổng cục, quản lý bảo vệ chủ quyền an ninh quốc gia; nơi tiến hành mọi hoạt động
xây dựng nội bộ đảng ở các đơn vị cơ sở; là cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng, là
người nắm bắt kịp thời tâm tư, nguyện vọng của họ phản ánh với Đảng, để Đảng đề ra
đường lối, chủ trương, chính sách phù hợp với quy luật, phù hợp với nguyện vọng chính
đáng của nhân dân.
TCCSĐ các đơn vị cơ sở là nơi tổ chức thực hiện sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp
toàn diện đối với đơn vị cơ sở. Đồng thời còn là nơi kiểm nghiệm kết quả thực hiện
nhiệm vụ công tác quốc phòng toàn dân theo đúng đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách pháp luật của Nhà nước. Có thể nói, kết quả hoàn thành nhiệm vụ của Đảng bộ Tổng
cục Tham mưu nói chung, của chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở nói riêng, không tách rời sự
lãnh đạo của TCCSĐ. Chất lượng của các cục, và các đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục Tham
mưu là nhân tố quyết định việc hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ của các cục, các đơn vị cơ
sở thuộc Tổng cục Tham mưu QĐND Lào.
Thực tế sự nghiệp bảo vệ chủ quyền an ninh, quốc phòng trong nhiều năm qua,
nhất là những năm gần đây cho thấy rằng: các cục và các đơn vị thuộc Tổng cục có
TCCSĐ mạnh đáp ứng được đòi hỏi của công cuộc đổi mới, thực sự là nền tảng của
Đảng, là người lãnh đạo, dẫn đường cho mọi hoạt động ở cơ sở, thì ở đó, đơn vị hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị, nội bộ đoàn kết nhất trí, đơn vị có nền nếp và kỷ luật, niềm
tin của quần chúng đối với Đảng được củng cố và nâng lên.
Các TCCSĐ lập thành nền tảng của Đảng, đó là các tổ chức chính trị được tổ chức
một cách chặt chẽ và khoa học từ ban chấp hành Trung ương đến chi bộ. Các TCCSĐ là
một bộ phận cấu thành Đảng, không có TCCSĐ thì không có Đảng. Sự tồn tại của Đảng
trước hết là sự tồn tại của các tế bào của Đảng là chi bộ, đảng bộ cơ sở. Sự vững chắc của
Đảng là do các TCCSĐ và các cơ quan lãnh đạo của Đảng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "chi bộ là nền móng của Đảng, chi bộ tốt thì
mọi việc sẽ tốt" [19, tr.210].
1.1.2.2. Chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các tổ chức cơ sở Đảng của
Đảng bộ Tổng cục
* Chức năng
- Các TCCSĐ thuộc Tổng cục Tham mưu QĐND Lào có chức năng rất quan
trọng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở các cục, các đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục, thực
hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở theo đúng đường lối chủ trương của Đảng, chính sách
pháp luật của Nhà nước.
Các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào là đội tiên phong
chính trị ở đơn vị cơ sở, có chức năng lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đó là tổ chức gắn bó
mật thiết với quần chúng của đơn vị, là người bảo đảm sự lãnh đạo "tuyệt đối, trực tiếp
toàn diện" củ Đảng ở đơn vị.
Các TCCSĐ của đảng bộ Tổng cục quán triệt và vận dụng sáng tạo đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, Điều lệnh, quy định của
quân đội, nghị quyết, chỉ thị của Đảng uỷ, mệnh lệnh của thủ trưởng cấp trên và cấp
mình để cụ thể hoá, đề ra chủ trương phương hướng công tác của mình; tổ chức thực
hiện, biến những chủ trương, phương hướng đó thành nhiệm vụ, mục tiêu phấn đấu cụ
thể của đơn vị nhằm xây dựng đơn vị vững mạnh về mọi mặt, có SCĐ cao, thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ chính trị. Sự lãnh đạo của TCCSĐ còn nhằm vào xây dựng và
kiện toàn các tổ chức lãnh đạo đơn vị và toàn thể quần chúng trong đơn vị cơ sở,
chăm lo đào tạo, bồi dưỡng, lựa chọn cán bộ đưa ra ứng cử hoặc giới thiệu họ với các
tổ chức đoàn thể để bố trí, sử dụng; tiến hành kiểm tra, giám sát các hoạt động ở đơn
vị; ngăn chặn những tiêu cực, biểu dương những ưu điểm, bảo đảm cho đường lối, chủ
trương của Đảng, chính sách, pháp luật của nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết, mệnh
lệnh của cấp trên và cấp mình được thực hiện có hiệu quả [9].
Hội nghị tổng kết công tác xây dựng TCCSĐ toàn quân ở Lào lần thứ II ngày 29
tháng 12 năm 2005 khẳng định: "TCCSĐ trong QĐND Lào đều chú trọng làm tốt công
tác giáo dục, chính trị tư tưởng cho đơn vị, bằng nhiều nội dung, hình thức, biện pháp
thích hợp, có hiệu quả gắn liền với cuộc sinh hoạt chính trị xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
làm cho cán bộ, đảng viên và quần chúng quán triệt, nắm vững đường lối, quan điểm của
Đảng, kỷ luật, kỷ cương của nhà nước, nhiệm vụ quân đội, có quyết tâm cao vượt qua
mọi khó khăn, hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao [46, tr.9].
Các TCCSĐ còn có chức năng, tiến hành công tác xây dựng nội bộ, thường xuyên
chỉnh đốn, củng cố và kiện toàn tổ chức thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và các
nguyên tắc khác trong tổ chức và hoạt động của các TCCSĐ, nhằm không ngừng nâng
cao NLLĐ và SCĐ của mình.
Xây dựng các TCCSĐ ở các cục và các đơn vị trong sạch, vững mạnh, trên cơ sở
thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động; phát triển đảng viên mới; phân công đảng
viên trong các TCCSĐ phụ trách từng công việc cụ thể, gắn với công tác quản lý đảng
viên chặt chẽ, hiệu quả.
Chức năng lãnh đạo của TCCSĐ còn được thể hiện ở quá trình tuyên truyền giáo
dục, tổ chức thực hiện nghị quyết, cụ thể hoá những chủ trương, phương hướng thành kế
hoạch, mục tiêu phấn đấu, chương trình hành động phân công cá nhân theo cương vị chỉ
huy, chức trách cán bộ tổ chức thực hiện. Phát huy dân chủ, đề cao tính năng động, sáng
tạo của quần chúng trong thực hiện kế hoạch, mục tiêu, đưa nghị quyết vào thực tiễn
bằng các hành động thiết thực.
* Nhiệm vụ
TCCSĐ ở các cục, các đơn vị cơ sở thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND
Lào cũng như tất cả các TCCSĐ khác trong QĐND Lào và trong toàn Đảng đều có trách
nhiệm thực hiện đầy đủ 5 nhiệm vụ đã được quy định trong điều lệ ĐNDCM Lào [39,
tr.38,39].
Một là: quán triệt đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh
của cấp trên, nhiệm vụ chính sách của quân đội và đơn vị; căn cứ vào tình hình thực tiễn
của đơn vị, đề ra chủ trương biện pháp lãnh đạo phù hợp và triển khai tổ chức thực
hiện có hiệu quả, bảo đảm cho mọi nghị quyết của Đảng, pháp luật của nhà nước, chỉ
thị, mệnh lệnh của cấp trên được chấp hành đầy đủ và nghiêm chỉnh ở cơ sở, lãnh đạo
xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở, hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là: thường xuyên củng cố mối quan hệ giữa tổ chức đảng, đảng viên với quần
chúng, tôn trọng nhân cách bảo đảm quyền dân chủ công bằng cho mọi cán bộ, chiến sỹ;
xây dựng ý thức trách nhiệm, tính tự giác cao, phát huy tinh thần tự lực, tự cường của
mọi người, mọi tổ chức trong xây dựng, chiến đấu và công tác; chăm lo xây dựng đời
sống vật chất tinh thần và sự tiến bộ trưởng thành của quần chúng, xây dựng và củng cố
Đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào và các tổ chức quần chúng khác ở cơ sở vững
mạnh; tôn trọng tính độc lập, tạo mọi điều kiện thuận lợi để các tổ chức quần chúng hoạt
động đúng chức năng, nhiệm vụ và phát huy được tính chủ động sáng tạo trong hoạt động
ở đơn vị cơ sở.
Ba là: chăm lo xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư tưởng và
tổ chức, thực sự là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở; thường xuyên kiện toàn và nâng
cao NLLĐ và SCĐ của cấp uỷ đảng, chi bộ; chấp hành nghiêm chỉnh nguyên tắc tập
trung dân chủ, tập thể lãnh đạo đi đôi với cá nhân phụ trách; xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên có chất lượng cao, số lượng phù hợp, thực sự tiên phong gương mẫu, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, phẩm chất đạo đức trong sáng, trình độ kiến thức, năng lực hoạt
động tốt, luôn đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao; đồng thời thực hiện tốt công tác phát
triển đảng viên mới, nâng cao chất lượng, hiệu quả sinh hoạt chi bộ, đảng uỷ, thực hiện
nghiêm chỉnh chế độ tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật, tăng cường sự đoàn kết
thống nhất trong đảng bộ và đơn vị.
Bốn là: lãnh đạo quần chúng tích cực tham gia xây dựng đường lối, chính sách của
Đảng, pháp luật của Nhà nước. Nắm vững và hiểu biết sâu sắc tâm tư tình cảm nguyện
vọng của quần chúng trong đơn vị. Kịp thời giải quyết những yêu cầu bức xúc, chính
đáng và hợp lý của quần chúng trong phạm vi khả năng cho phép; giáo dục ý thức cảnh
giác cách mạng, giữ gìn an ninh chính trị, trật tự an toàn xây dựng, lãnh đạo tốt công tác
dân vận ơ khu vực đóng quân của đơn vị, góp phần xây dựng địa bàn trong sạch, tăng
cường đoàn kết quân dân, thực hiện "Quân với dân một ý chí" hoàn thành mọi nhiệm vụ
được giao.
Năm là: lãnh đạo công tác kiểm tra và thực hiện kiểm tra tổ chức đảng và đảng
viên trong đảng bộ về chấp hành và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ của cấp trên giao; kiểm tra việc chấp hành Điều lệ Đảng của
đội ngũ đảng viên, coi trọng việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tinh thần trách
nhiệm, ý thức tổ chức kỷ luật, tự phê bình và phê bình, giữ gìn đoàn kết nội bộ, giữ gìn
phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên, trung thành vô hạn với Đảng, với quân đội,
với Tổ quốc và với nhân dân các bộ tộc Lào.
Những nhiệm vụ trên đã khẳng định trách nhiệm chính trị rất nặng nề của TCCSĐ
ở các đơn vị QĐND Lào. Các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào,
trước Đảng, trước nhân dân, trước đảng bộ phải thường xuyên lãnh đạo đơn vị hoàn
thành tốt mọi nhiệm vụ chính trị đúng với đường lối quan điểm của Đảng, pháp luật của
nhà nước, nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Muốn vậy, TCCSĐ ở các cục, các
đơn vị cơ sở thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu phải thường xuyên nâng cao NLLĐ và
SCĐ tương xứng với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của mình trong giai đoạn hiện nay.
* Đặc điểm
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ VIII của ĐNDCM Lào khẳng định:
TCCSĐ (đảng bộ cơ sở, chi bộ cơ sở) là tổ chức lãnh đạo của Đảng được thành lập ở cơ
sở, bao gồm các bản, thị trấn và tương đường; các doanh nghiệp, nhà trường, cơ quan,
đơn vị sự nghiệp, đơn vị cơ sở trong các lực lượng vũ trang (tiểu đoàn, đại đội và tương
đương) và các đơn vị cơ sở khác… có từ 3 đảng viên chính thức thì có thể lập tổ đảng hoặc
là do cấp uỷ cấp trên trực tiếp giới thiệu đảng viên sinh hoạt ở TCCSĐ thích hợp. TCCSĐ
nào, số lượng đảng viên chính thức không đến 30 đảng viên thì thành lập chi bộ cơ sở và lập
nhiều tổ đảng trực thuộc. Nếu TCCSĐ nào mà có số lượng đảng viên chính thức từ 30 đảng
viên trở lên, thấy cần thiết có thể thành lập đảng bộ cơ sở và lập nhiều chi bộ trực thuộc, do
cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định [39, tr.34-36].
Trong QĐND Lào, căn cứ vào Điều lệ ĐNDCM Lào đã được Đại hội đại biểu
Đảng toàn quốc lần thứ VIII, sửa đổi, bổ sung và đã khẳng định: "ĐNDCM Lào lãnh đạo
QĐND Lào tuyệt đối, trực tiếp và toàn diện". Sự lãnh đạo của Đảng được thể hiện thông
qua các hệ thống tổ chức ở các cấp trong quân đội, từ toàn quân cho đến đơn vị cơ sở.
Trong hệ thống tổ chức của quân đội thì hệ thống tổ chức lãnh đạo của Đảng là một bộ
phận, nhưng là bộ phận quan trọng nhất, giữ vị trí hạt nhân chính trị, định hướng cho sự
tồn tại và phát triển của các bộ phận khác.
Thực hiện Quy định số 06/QĐ-BCT của Bộ Chính trị ĐNDCM Lào, ngày 5-3-
1996 đã xác định: Đảng thực hiện sự lãnh đạo đối với quân đội thông qua hệ thống tổ
chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy, hệ thống cơ quan chính trị, đội ngũ cán bộ chính trị
các cấp và ban chấp hành các tổ chức quần chúng ở đơn vị cơ sở.
Hệ thống tổ chức đảng trong QĐND Lào, căn cứ vào quy định của Điều lệ
ĐNDCM Lào được xác định có 3 cấp gồm: Đảng bộ Bộ Quốc phòng; Đảng bộ các Tổng
cục, Quân khu, Học viện, Sư đoàn, Trung đoàn và tương đương; Đảng bộ cơ sở, chi bộ
cơ sở.
Căn cứ vào Điều lệ Đảng, quy định của Ban Bí thư Trung ương Đảng, Quyết định
số 025/ĐU-BQP, ngày 15-3-2001 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng, xác định: TCCSĐ trong
QĐND Lào được thành lập theo Điều lệ Đảng, Quy định của Bộ Chính trị và theo tổ chức
của đơn vị cơ sở trong toàn quân, do cấp uỷ cấp trên trực tiếp quyết định. Căn cứ vào số
lượng đảng viên, cơ cấu tổ chức và tính chất, đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị mà thành
lập TCCSĐ một cấp hoặc hai cấp (không có TCCSĐ 3 cấp) [42, tr.26].
TCCSĐ trong Đảng bộ Bộ tổng Tham mưu QĐND Lào có những đặc điểm chủ
yếu sau đây:
Một là, trong Tổng cục Tham mưu, TCCSĐ được thành lập theo một hệ thống dọc
và được xác lập theo đầu mối đơn vị cơ sở của các đại đội độc lập và tiểu đoàn độc lập
đúng theo quy định của Điều lệ Đảng NDCM Lào, do đảng uỷ Tổng cục Tham mưu trực
tiếp quyết định.
Căn cứ vào số lượng đảng viên, cơ cấu tổ chức, tính chất hoạt động và đặc điểm
nhiệm vụ của đơn vị mà thành lập đảng bộ cơ sở ở các tiểu đoàn độc lập, đơn vị tương
đương trực thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu (là TCCSĐ 2 cấp); chi bộ cơ sở ở các văn
phòng, các Cục và đại đội độc lập, đơn vị tương đương trực thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu (là TCCSĐ một cấp).
Hai là, TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục đều đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp, thống
nhất về mọi mặt của Đảng uỷ Tổng cục Tham mưu theo phân cấp và chỉ đạo, hướng dẫn
của cơ quan chính trị Tổng cục Tham mưu trong xác định về những chủ trương, phương
hướng công tác của đơn vị; nhất là công tác quốc phòng - an ninh, công tác xây dựng
Đảng, công tác cán bộ, công tác quần chúng và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện,
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ được giao.
Ba là, đặc điểm về hoạt động của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục là hoạt động
theo nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo với phân công cá nhân phụ trách; lấy
tự phê bình và phê bình làm quy luật phát triển đảng.
Bốn là, hiện nay các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào, do
xuất phát từ sự khác nhau về số lượng đảng viên, cơ cấu tổ chức, tính chất, đặc điểm
nhiệm vụ và điều kiện thực tế của từng đơn vị, nên TCCSĐ thuộc đảng bộ được tổ chức
theo hai hình thức cơ bản là: đảng bộ cơ sở (hai cấp), chi bộ cơ sở (một cấp).
- Tổng cục Tham mưu QĐND Lào có các đơn vị trực thuộc như sau:
+ 3 văn phòng, mỗi văn phòng được thành lập TCCSĐ một cấp (chi bộ).
+ 14 cục, mỗi cục được thành lập TCCSĐ một cấp (chi bộ).
+ Đại đội độc lập một đại đội được lập TCCSĐ một cấp (chi bộ).
+ Tiểu đoàn độc lập và nhà trường hạ sĩ quan có đơn vị trực thuộc tiểu đoàn và
biên chế tổ chức tiểu đoàn gồm các đại đội. TCCSĐ cấp tiểu đoàn về hệ thống tổ chức là
TCCSĐ hai cấp; Đảng uỷ tiểu đoàn, chi bộ ở các đại đội.
Năm là, trong QĐND Lào từ cấp đại đội đến cấp sư đoàn và các trường sĩ quan, học
viện, bệnh viện đều là tổ chức hai thủ trưởng (thủ trưởng quân sự và thủ trưởng chính trị). Thủ
trưởng quân sự là người chỉ huy đơn vị về công tác quân sự. Thủ trưởng chính trị là người chủ
trì công tác Đảng, công tác chính trị của đơn vị. Đa số cán bộ làm công tác Đảng, công tác
chính trị chưa qua trường đào tạo huấn luyện về chính trị, song có kinh nghiệm và có nhiều
tuổi quân, tuổi Đảng.
Sáu là, đội ngũ đảng viên ở TCCSĐ các Cục, các đơn vị cơ sở đã trưởng thành về
nhân cách, có sức khoẻ, có khả năng vượt qua mọi khó khăn thử thách để hoàn thành
nhiệm vụ được giao, có ý chí quyết tâm cao trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc,
vận động quần chúng tổ chức thực hiện thắng lợi nghị quyết có hiệu quả; có ý thức tổ chức
kỷ luật, ý chí vươn lên khắc phục mọi khó khăn; có tinh thần đấu tranh ngăn chặn, chống lại
những ảnh hưởng tiêu cực trong đời sống xã hội và sự phá hoại của kẻ thù, củng cố và giữ
vững trận địa tư tưởng của Đảng ở TCCSĐ, xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn
với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, nâng cao sức mạnh chiến đấu, hoàn thành thắng
lợi nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống.
1.2. Năng lực lãnh đạo và Sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng
bộ Tổng cục Tham mưu quân đội nhân dân Lào - quan niệm và tiêu chí đánh giá
1.2.1. Quan niệm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở
đảng thuộc Tổng cục Tham mưu
Theo Đại từ điển tiếng Việt: "Năng lực" là khả năng để thực hiện tốt một công
việc: có năng lực chuyên môn, năng lực tổ chức [26, tr.1172].
"Lãnh đạo đgt; I. Dẫn dắt tổ chức phong trào theo đường lối cụ thể: lãnh đạo cuộc
đấu tranh; II. Cơ quan lãnh đạo, bao gồm những người có khả năng tổ chức dẫn dắt
phong trào: chờ lãnh đạo có ý kiến [26, tr.979].
Theo ý kiến của Vũ Hữu Ngoạn thì NLLĐ của Đảng là "khả năng đề ra được mục
tiêu cách mạng đúng đắn, cơ bản, lâu dài, cũng như từng thời kỳ và bằng những phương
thức, phương pháp đúng đắn tổ chức nhân dân, dân tộc thực hiện có hiệu quả" [21, tr.38].
Như vậy, có thể hiểu: NLLĐ là khả năng của một tập thể hay cá nhân thực hiện
những mục tiêu, đường lối, nhiệm vụ cụ thể và những chủ trương, phương hướng, giải
pháp để thực hiện những mục tiêu, nhiệm vụ đó; đồng thời là khả năng tổ chức, dẫn dắt
tập thể thực hiện thắng lợi những mục tiêu, nhiệm vụ đã đề ra.
Trong tác phẩm "Sửa đổi lối làm việc", Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: lãnh đạo
đúng nghĩa là: phải quyết định mọi vấn đề một cách đúng đắn; phải tổ chức sự thi hành
cho đúng; phải tổ chức sự kiểm soát [17, tr.285]. Như vậy, sự lãnh đạo của Đảng gồm
những khâu chủ yếu: ra quyết định (nghị quyết), tổ chức thực hiện quyết định (nghị
quyết) và kiểm soát việc thực hiện. Việc ra quyết định (nghị quyết) bao gồm cả việc
chuẩn bị ra quyết định; việc tổ chức thực hiện quyết định (nghị quyết) bao gồm cả việc cụ
thể hoá quyết định (nghị quyết). Việc kiểm soát xuyên suốt trong toàn bộ quá trình lãnh
đạo từ chuẩn bị ra quyết định, tổ chức thực hiện quyết định, sơ kết, tổng kết và đã bao
hàm cả việc kiểm tra và giám sát.
Từ đây có thể quan niệm: NLLĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham
mưu là khả năng quán triệt, nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự
Trung ương và của cấp trên để cụ thể hoá đúng đắn nhiệm vụ chính trị của đơn vị và tổ
chức thực hiện, tiến hành tốt công tác kiểm tra, giám sát đảm bảo cho nhiệm vụ chính trị
được thực hiện.
Có thể xác định các nội dung chủ yếu của NLLĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ
Tổng cục Tham mưu gồm:
- Năng lực nhận thức, quán triệt đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của đảng bộ Quân sự Trung ương và của cấp
trên và cụ thể hoá phù hợp với điều kiện và khả năng thực tế của đơn vị; trình độ công tác
tư tưởng, tổ chức học tập quán triệt nội dung của các đường lối, chủ trương, chính sách
và các chỉ thị, nghị quyết đó cho toàn thể cán bộ, đảng viên và chiến sĩ trong đơn vị, làm
cho đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước thấm nhuần
trong mỗi cán bộ, đảng viên và chiến sĩ.
- NLLĐ tổ chức thực hiện thắng lợi những đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và nhiệm vụ chính trị của các
TCCSĐ. Năng lực đó được thể hiện ở việc tổ chức thực hiện các nhiệm vụ cơ bản như: tổ
chức triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà
nước; đảm bảo cho đường lối, chủ trương, chính sách, pháp luật được thực hiện một cách
kịp thời và đúng quy trình, mục đích, yêu cầu; làm cho đường lối, chủ trương, chính sách
đó đến với mọi cán bộ, đảng viên và tổ chức, vận động quần chúng tham gia thực hiện
một cách chủ động, tích cực.
- NLLĐ của các TCCSĐ được thể hiện tập trung ở năng lực của Ban chấp hành
đảng bộ cơ sở, chi bộ (đảng uỷ cơ sở). Để lãnh đạo mọi mặt hoạt động ở đơn vị cũng như
lãnh đạo thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng và của cấp trên đạt kết quả, đảng uỷ,
chi bộ phải xây dựng được các chương trình hành động, kế hoạch công tác cụ thể, rõ ràng
và chính xác.
Đảng uỷ, chi bộ xây dựng và thực hiện các chương trình, kế hoạch công tác; phải
phân công một cách hợp lý cấp uỷ viên và cán bộ phụ trách từng công việc; kiện toàn,
củng cố và phát huy vai trò của các tổ chức ở đơn vị trong việc thực hiện nhiệm vụ chính
trị.
- NLLĐ xây dựng đảng bộ cơ sở và chi bộ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu
trong sạch, vững mạnh. Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: "Đối với Đảng ta, xây dựng
chi bộ tốt, cho vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng" [19, tr.77]. Để xây dựng được
chi bộ tốt, các cấp uỷ phải lãnh đạo thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi
bộ; đồng thời phải nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trong đó ngoài việc
nâng cao trình độ văn hoá, chuyên môn nghiệp vụ cần đặc biệt chú ý nâng cao trình độ
nhận thức về đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và khả
năng, cụ thể hoá nhiệm vụ chính trị của các TCCSĐ để thực hiện; thực hiện tốt các
nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất. Các cấp uỷ cần
thường xuyên kiểm tra đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, chỉ thị, nghị quyết của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và những quy định của Quân đội.
- Năng lực kiểm tra, giám sát của cấp uỷ. Kiểm tra, giám sát là một trong những
chức năng lãnh đạo của cấp uỷ Đảng. V.I.Lênin nhấn mạnh: khi đã có đường lối, chủ
trương, chính sách đúng thì trọng tâm lãnh đạo của Đảng là: "Tìm người, kiểm tra công
việc, tất cả là ở đó, vẫn ở đó và chỉ có ở đó" [13, tr.451]. Điều đó lại càng đúng và rất cần
thiết đối với các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào.
Công tác kiểm tra giám sát của cấp uỷ, tổ chức bao gồm nhiều nội dung, trên
nhiều lĩnh vực. Do đó, đòi hỏi các cấp uỷ, tổ chức đảng phải có năng lực kiểm tra, giám
sát. Không có được năng lực này thì mọi cố gắng, nỗ lực của đảng uỷ, chi bộ sẽ không
đem lại hiệu quả.
- Năng lực góp phần xây dựng tổ chức đảng cấp trên, bổ sung, hoàn thiện đường
lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Các TCCSĐ là những tổ
chức, những đơn vị cơ sở của đảng bộ Tổng cục Tham mưu và của toàn Đảng. Đó là nơi
kiểm nghiệm, khẳng định trên thực tế sự đúng đắn của đường lối, chủ trương của Đảng,
chính sách, pháp luật của Nhà nước và nghị quyết của tổ chức đảng cấp trên. Hoạt động
không có hiệu quả, không nắm chắc đặc điểm tình hình của đơn vị cơ sở, không chủ
động, sáng tạo trong việc tìm tòi các biện pháp tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị của
TCCSĐ và đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, các
nghị quyết của cấp trên thì các TCCSĐ vừa không hoàn thành nhiệm vụ, vừa không thể
thực hiện được NLLĐ của mình.
* Quan niệm về SCĐ của TCCSĐ:
Có thể hiểu SCĐ của một tổ chức hay một cá nhân là sức mạnh, khả năng làm
việc, hoạt động, hoặc khả năng tác động của một tổ chức, một tập thể hay cá nhân đối với
công việc, hoặc đối với những tổ chức, tập thể hay cá nhân khác trong quá trình vận
động, phát triển, kể cả cá nhân hay tổ chức thuộc tổ chức của mình, đảm bảo cho tổ chức
của mình tồn tại phát triển, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ đã được xác định.
Trong quá trình vận động, phát triển của Đảng Cộng sản suốt hơn 160 năm qua, kể
từ khi tổ chức cộng sản đầu tiên trên thế giới - Liên đoàn những người cộng sản (1847) ra
đời đến nay, để tồn tại, phát triển, thực hiện lý tưởng cộng sản mà trước mắt là thực hiện
nhiệm vụ, mục tiêu của từng giai đoạn cách mạng, Đảng Cộng sản phải chống lại một
cách quyết liệt, có kết quả sự phá hoại của các thế lực thù địch, đồng thời phải đấu tranh
mạnh mẽ với những yếu tố tiêu cực nảy sinh trong nội bộ Đảng. Nhờ đó, Đảng Cộng sản
ngày càng lớn mạnh và phát triển, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách mạng. Thực tế xây
dựng ĐNDCM Lào cũng chứng tỏ điều đó.
Từ đây, có thể quan niệm, SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu là
sự thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, được thể hiện ra ở việc thực hiện đúng đắn,
nghiêm túc các nguyên tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân
chủ, đảm bảo sự thống nhất về ý chí và hành động trong TCCSĐ, tạo nên sức mạnh nội
tại của TCCSĐ để vượt qua mọi khó khăn, thử thách, loại trừ những tiêu cực nảy sinh
trong quá trình hoạt động của TCCSĐ và sự phá hoại của các thế lực thù địch, lãnh đạo
cán bộ, đảng viên, chiến sĩ thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ.
Theo đó SCĐ của TCCSĐ thể hiện ở: chất lượng cấp uỷ, đội ngũ cán bộ, đảng viên
của TCCSĐ bao gồm: ý thức giác ngộ, trình độ trí tuệ, chuyên môn nghiệp vụ, phẩm chất
đạo đức, tính tiên phong gương mẫu trong hoạt động của đơn vị; bản lĩnh chính trị vững
vàng trước những biến động phức tạp của tình hình chính trị- xã hội; ở sự kiên định chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, mục tiêu, lý tưởng độc lập dân tộc và
CNXH; ở khả năng khắc phục những hạn chế, những biểu hiện tiêu cực, hành động sai trái
trong bộ máy Đảng, chính quyền, đoàn thể và cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ở đơn vị; ở tinh
thần đấu tranh ủng hộ cái đúng, cái mới, tiến bộ, phê phán, loại bỏ cái cũ, lạc hậu; ở sự nhạy
bén của TCCSĐ trong nắm bắt tình hình, kịp thời phát hiện và kiên quyết đấu tranh đập tan
mọi âm mưu phá hoại của kẻ địch, mọi quan điểm, tư tưởng phản động, hành động sai trái từ
bên ngoài để bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ.
Các TCCSĐ có SCĐ cao thì Đảng bộ ấy phải có: đội ngũ cán bộ, đảng viên có
chất lượng tốt, nghĩa là có đủ số lượng cần thiết, từng cán bộ, đảng viên có chất lượng
tốt; cơ cấu đội ngũ đảng viên hợp lý, thực hiện nghiêm các nguyên tắc tổ chức, kỷ luật
Đảng, toàn Đảng bộ là một khối thống nhất về ý chí và hành động…
NLLĐ và SCĐ là những vấn đề cơ bản, quan trọng và mang tính quyết định đối
với khả năng lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ chính trị của các TCCSĐ. Đó là hai mặt
thống nhất, tác động qua lại và hỗ trợ lẫn nhau trong hoạt động lãnh đạo của đảng bộ
Tổng cục Tham mưu, đảm bảo cho đảng bộ lãnh đạo thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính
trị của mình.
Trên thực tế rất khó phân biệt rạch ròi NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Nhiều nội
dung thuộc NLLĐ của TCCSĐ cũng chính là SCĐ của TCCSĐ và ngược lại. Tuy nhiên,
chúng cũng không hoàn toàn đồng nhất và có những biểu hiện riêng trong những điều
kiện hoàn cảnh cụ thể.
1.2.2. Tiêu chí đánh giá năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu Quân đội nhân dân Lào
Từ quan niệm về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ như đã trình bày ở trên; đồng
thời dựa vào tinh thần các văn kiện của Đảng, nhất là thực hiện đầy đủ chỉ thị số 11
BCHTW ngày 23/3/1999 về nội dung tiêu chuẩn xây dựng TCCSĐ trong sạch vững
mạnh, Hướng dẫn số 07 Đảng uỷ Bộ Quốc phòng ngày 20/4/2000 về tiêu chuẩn phương
pháp xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện trong quân đội. Có thể dựa vào các tiêu chí sau đây để đánh giá NLLĐ và SCĐ của
các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu.
Một là, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị
Kết quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị là một tiêu chí cơ bản nhất để đánh
giá NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ; nó phản ánh rõ nét nhất về năng lực, trình độ, kinh
nghiệm thực tiễn của cấp uỷ đảng bộ, chi bộ, đội ngũ đảng viên và quần chúng ở đơn vị,
mà hạt nhân lãnh đạo là tổ chức đảng.
TCCSĐ khi đã có nghị quyết lãnh đạo sát đúng đối với nhiệm vụ chính trị của
đơn vị, để biến nó thành hiện thực, trong quá trình tổ chức thực hiện đòi hỏi các
TCCSĐ phải bám sát thực tiễn tình hình của đơn vị, sử dụng các hình thức và phương
pháp thích hợp để phổ biến quán triệt nghị quyết, xác định các chương trình, biện
pháp tổ chức cụ thể nhằm tập hợp, vận động và phát huy tốt vai trò của đội ngũ cán
bộ, đảng viên và quần chúng ở đơn vị; nhạy bén, sáng tạo trong nắm bắt và giải quyết
các tình huống, những yêu cầu mới đặt ra trong quá trình thực hiện. Mặt khác, trong
quá trình lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị cần tăng cường công tác
kiểm tra của cấp uỷ và Uỷ ban kiểm tra của đảng bộ Tổng cục Tham mưu, nhằm phát
huy ưu điểm và kịp thời uốn nắn, khắc phục những hạn chế thiếu sót trong quá trình
triển khai thực hiện của mỗi tổ chức, bộ phận và cá nhân. Hiệu quả công tác kiểm tra
cũng là một yếu tố tạo nên chất lượng lãnh đạo của TCCSĐ, nâng cao hiệu quả thực
hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: "khi đã có chính
sách đúng, thì sự thành công hoặc thất bại của chính sách đó là do nơi cách tổ chức
công việc, nơi lựa chọn cán bộ, và do nơi kiểm tra. Nếu ba điều ấy sơ sài, thì chính sách
đúng mấy cũng vô ích" [17, tr.520].
Muốn nâng cao hiệu quả lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục Tham mưu còn phải thường xuyên lãnh đạo làm tốt công tác sơ kết,
tổng kết, rút kinh nghiệm, đổi mới phong cách lãnh đạo nhằm không ngừng hoàn thiện,
nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ.
Hai là, lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng của TCCSĐ.
Công tác chính trị, tư tưởng là một trong những nhiệm vụ quan trọng hàng
đầu của công tác xây dựng Đảng. NLLĐ của TCCSĐ có liên quan trực tiếp đến hiệu
quả công tác tư tưởng trong đảng bộ cơ sở, chi bộ và đơn vị. Xây dựng TCCSĐ
thuộc đảng bộ Tổng cục Tham Mưu vững mạnh về chính trị, tư tưởng chính là phải
tập trung làm tốt việc giáo dục đường lối, quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng; nâng cao trình độ lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin; nâng cao trình độ học vấn,
khoa học, kỹ thuật và quản lý, nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ, pháp luật
cho cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong đơn vị; đồng thời chăm lo giáo dục cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ lòng trung thành với Đảng, với Tổ quốc và nhân dân, tinh thần
chịu đựng gian khổ, khắc phục khó khăn, vững vàng bám trụ địa bàn đơn vị; xây
dựng ý chí tinh thần trách nhiệm với công việc; nắm vững nguyên tắc, kiên quyết,
dũng cảm trong thực hiện nhiệm vụ cơ động chiến đấu và chiến đấu của đơn vị; giữ
vững phẩm chất đạo đức cách mạng của người cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong quân
đội; luôn thấm nhuần, học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Chủ tịch
Cay Xỏn Phôm Vi Hản; đấu tranh phê phán mạnh mẽ chủ nghĩa cá nhân, đề cao ý
thức cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; kiên quyết chống tư tưởng ngại khó,
ngại khổ, cơ hội thực dụng, cục bộ, bảo thủ trong đơn vị, nêu gương người tốt việc
tốt, đề cao tính gương mẫu của đội ngũ cấp uỷ viên và cán bộ chủ trì trong đơn vị.
Đây là vấn đề đòi hỏi phải được tiến hành thường xuyên, chủ động và tích cực,
thông qua việc kết hợp một cách phong phú, đa dạng các nội dung, biện pháp, hình
thức tiến hành công tác chính trị, tư tưởng trong TCCSĐ và đơn vị.
Ba là, lãnh đạo và thực hiện công tác xây dựng tổ chức đảng.
Xem xét việc thực hiện các nguyên tắc về tổ chức và sinh hoạt đảng, nhất là
nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự phê bình và phê bình, chế độ học tập.
Thực hiện việc quản lý và phân công công tác cho đảng viên: xây dựng và thực
hiện quy hoạch cán bộ, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ các mặt cho cán
bộ, đảng viên.
Thực hiện việc kiểm tra, giám sát đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, nghị quyết,
quy định của cấp uỷ cấp trên và nhiệm vụ được đảng bộ cơ sở, chi bộ phân công, thực
hiện công tác bảo vệ chính trị nội bộ; phát hiện, xử lý những đảng viên vi phạm [31,
tr.31].
Thực hiện công tác tạo nguồn và kết nạp đảng viên mới, nhất là ở những đơn vị
trọng yếu và những đơn vị đang làm nhiệm vụ chiến đấu.
Bốn là, lãnh đạo xây dựng đơn vị và các tổ chức quần chúng.
Đơn vị cơ sở trong Tổng cục Tham mưu Quân đội nhân dân Lào có được xây
dựng vững mạnh, hoàn thành tốt nhiệm vụ, được công nhân là đơn vị vững mạnh toàn
diện hay không là một trong những tiêu chí cơ bản nhất để đánh giá NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ, phân loại TCCSĐ hàng năm trong Tổng cục Tham mưu và Quân đội. Để được
công nhận là đơn vị vững mạnh toàn diện (VMTD), TCCSĐ thuộc Tổng cục phải tập
trung sự lãnh đạo đơn vị thực hiện tốt các tiêu chuẩn của đơn vị VMTD theo quy định
chung của Tổng cục tham mưu QĐND Lào. Vận dụng cụ thể đối với loại hình đơn vị cơ
sở trong Tổng cục, cần thực hiện tốt các tiêu chuẩn đó là: đảm bảo cho đơn vị thường
xuyên vững mạnh về chính trị, kiên quyết đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu chống phá
của các thế lực thù địch từ bên ngoài, gây rối, gây bạo loạn từ bên trong, bảo vệ vững
chắc độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc; đơn vị được tổ chức biên chế
theo đúng quy định của cấp trên; duy trì thường xuyên chế độ trực ban, trực chiến, đơn vị
sẵn sàng chiến đấu, thực hành huấn luyện giỏi, hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị; luôn
xây dựng đơn vị có nền nếp chính quy, giữ nghiêm kỷ luật, điều lệnh của quân đội, quy
định của đơn vị, mệnh lệnh của người chỉ huy; thực hiện tốt công tác bảo đảm hậu cần,
kỹ thuật, tài chính và nâng cao đời sống vật chất cho bộ đội, xây dựng môi trường văn
hoá trong sạch, lành mạnh trong đơn vị và lãnh đạo đơn vị hoàn thành thắng lợi mọi
nhiệm vụ mới được giao.
Lãnh đạo xây dựng các tổ chức, đoàn thể quần chúng trong đơn vị vững mạnh
bao gồm: tổ chức đoàn thanh niên, hội phụ nữ. Sức mạnh của Đảng bắt nguồn từ sức
mạnh của quần chúng nhân dân; sự liên hệ mật thiết với quần chúng là bản chất tốt
đẹp của Đảng. Như vậy, TCCSĐ là cầu nối liền giữa Đảng với quần chúng, phải có
trách nhiệm lãnh đạo xây dựng các tổ chức quần chúng vững mạnh, vừa phải lãnh
đạo đảm bảo phát huy vai trò của quần chúng và các tổ chức quần chúng trong tham
gia xây dựng tổ chức đảng.
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu nếu không xây dựng các tổ chức
đoàn thể quần chúng trong đơn vị vững mạnh, liên hệ mật thiết với quần chúng, phát
huy được khả năng tiềm tàng, sức mạnh to lớn của quần chúng, TCCSĐ không thể
hoàn thành được nhiệm vụ. Do vậy, TCCSĐ phải thường xuyên chăm lo, củng cố, xây
dựng các tổ chức quần chúng, định hướng cho các tổ chức quần chúng hoạt động đúng
chức năng, nhiệm vụ của mình, hướng vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ của đảng bộ
cơ sở, chi bộ và đơn vị. Mặt khác, tiêu chí đánh giá NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục Tham mưu không thể không bàn đến mối quan hệ gắn bó mật thiết
giữa cấp uỷ, TCCSĐ với cấp uỷ đảng, chính quyền và nhân dân địa phương nơi khu
vực địa bàn đóng quân của đơn vị và nơi cư trú của cán bộ, đảng viên; đây là mối
quan hệ bản chất nhất của QĐND Lào, nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp trong xây
dựng TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục trong sạch vững mạnh (TSVM) và xây dựng
đơn vị VMTD, bảo vệ vững chắc địa bàn dân cư và bảo vệ vững chắc địa bàn chiến
lược được giao của đơn vị.
1.2.3. Những vấn đề chủ yếu về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục
* Quan niệm về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức
cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục
Theo nghĩa khái quát, tiếng Việt thấy rằng nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào là thực hiện các chủ trương, giải
pháp làm cho NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ trong những năm tới cao hơn NLLĐ và
SCĐ hiện tại.
Trên cơ sở quan niệm về NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu, nội dung của NLLĐ và SCĐ, tiêu chí đánh giá NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ, từ yêu cầu của nhiệm vụ xây dựng QĐND Lào trong những năm tới, tham khảo
kinh nghiệm của Việt Nam, có thể quan niệm: nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ
thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào là thực hiện đồng bộ các quan điểm,
phương hướng và các giải pháp khả thi của các TCCSĐ và của cấp trên, nhằm làm cho
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong những năm tới cao hơn NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ
hiện nay, đáp ứng tốt yêu cầu thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị và Quân đội trong
thời gian tới.
* Quan điểm chỉ đạo nâng cao NLLĐ và SCĐ của các tổ chức cơ sở đảng thuộc
Đảng bộ Tổng cục tham mưu Quân đội nhân dân Lào
Các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào là một bộ phận của
các TCCSĐ của QĐND Lào và của ĐNDCM Lào. Đây là bộ phận có vai trò rất quan
trọng đối với sự phát triển vững mạnh, hoàn thành nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc của QĐND
Lào. Đây là những TCCSĐ được ĐNDCM Lào đặc biệt quan tâm xây dựng, củng cố,
nâng cao NLLĐ và SCĐ để đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp bảo vệ Tổ
quốc trên đất nước Lào. Trong các văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc và các văn kiện Hội
nghị Ban Chấp hành Trung ương đều quan tâm đến các TCCSĐ này. Các văn kiện Đảng
đã đánh giá những điểm mạnh của TCCSĐ, và những ưu điểm về hoạt động nâng cao
NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục, đồng thời chỉ rõ những khuyết
điểm, yếu kém và những hạn chế về hoạt động nâng cao NLLĐ, SCĐ của các TCCSĐ
đó, cùng với những quan điểm chỉ đạo việc tiếp tục nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục trong những năm tới. Đặc biệt là Nghị quyết Trung
ương hai (khoá VIII) ĐNDCM Lào về xây dựng chỉnh đốn Đảng đã chỉ rõ những quan
điểm đó, gồm:
Một là, nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục là
nhiệm vụ và trách nhiệm của toàn Đảng, mà trước là trách nhiệm của bản thân các
TCCSĐ đó và của cấp uỷ, tổ chức đảng ở trong QĐND Lào, nhất là đảng uỷ Tổng cục
Tham mưu. Phải tập trung thực hiện tốt nhiệm vụ này, tạo nên sự chuyển biến về NLLĐ
và SCĐ của các TCCSĐ, nhằm bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các hoạt động
của đơn vị và hoạt động của cán bộ, chiến sĩ ở địa bàn đơn vị đóng quân. Trong hoạt
động nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ phải lấy hiệu quả hoạt động của của đơn
vị, của các đoàn thể quần chúng ở đơn vị cơ sở làm thước đo kết quả tổng hợp của công
tác xây dựng đảng của cấp uỷ cơ sở và của đảng uỷ Tổng cục Tham mưu.
Quan điểm này xuất phát từ cơ sở lý luận và thực tiễn là, TCCSĐ là nền tảng của Đảng,
hạt nhân chính trị ở cơ sở, cầu nối giữa Đảng với nhân dân, có vị trí rất quan trọng trong hệ
thống tổ chức của Đảng và mọi hoạt động của Đảng.
Hai là, tăng cường mối quan hệ mật thiết giữa TCCSĐ với chiến sĩ và nhân dân
nơi đóng quân, dựa vào cán bộ, chiến sĩ và nhân dân để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ, phát huy sức mạnh tổng hợp của đơn vị, các đoàn thể quần chúng ở các đơn vị
cơ sở trong việc tham gia nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Tôn trọng và phát
huy quyền làm chủ của chiến sĩ; tổ chức đảng cán bộ, đảng viên phải chịu sự giám sát của
chiến sĩ và nhân dân nơi đóng quân.
Dựa vào dân, phát huy vai trò của nhân dân trong công tác xây dựng đảng là bài
học kinh nghiệm lớn được Đảng NDCM Lào tổng kết suốt quá trình lãnh đạo cách mạng
và tiến hành công tác xây dựng Đảng. Bài học này có giá trị lớn đối với việc nâng cao
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu.
Ba là, thực hiện đồng bộ các giải pháp để nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các TCCSĐ. Xây dựng TCCSĐ phải kết hợp chặt chẽ với thực hiện cuộc vận
động "Học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, tác phong Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi
Hản", với xây dựng chính quyền, các tổ chức chính trị - xã hội trên địa bàn đơn vị đóng
quân vững mạnh, với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, trước hết là bí thư
đảng bộ cơ sở, chi bộ, người đứng đầu và cấp uỷ viên [29, tr.17].
Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) ĐNDCM Lào đã chỉ ra những nhiệm vụ và
giải pháp chủ yếu nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong thời gian tới gồm: Tăng
cường công tác giáo dục chính trị, tư tưởng, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên có bản
lĩnh chính trị vững vàng, có trí tuệ, phẩm chất đạo đức cách mạng, có ý thức tổ chức kỷ
luật, thực sự tiên phong, gương mẫu, đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ được giao. Nâng
cao chất lượng, đổi mới mạnh mẽ nội dung, phương thức hoạt động của các loại hình
TCCSĐ theo hướng vừa mở rộng dân chủ, vừa tăng cường kỷ cương, kỷ luật; khắc phục
tính hình thức, đơn điệu trong sinh hoạt, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục, tính chiến
đấu của TCCSĐ. Tăng cường công tác chỉ đạo, kiểm tra, giám sát, quản lý đảng viên; dựa
vào dân để xây dựng Đảng.
Trên cơ sở các nhiệm vụ và giải pháp đó, các cấp uỷ, tổ chức đảng ở đơn vị cơ sở
cần quán triệt, vận dụng để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng
cục Tham mưu trong thời gian tới đạt kết quả.
Chương 2
Năng lực lãnh đạo và Sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ Tổng cục
Tham mưu Quân đội nhân dân lào trong giai đoạn hiện nay - thực trạng, nguyên
nhân và kinh nghiệm
2.1. Thực trạng năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và hoạt động tạo nên năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục
2.1.1. Những ưu điểm
2.1.1.1. Những ưu điểm về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ
sở đảng
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu đã kiên trì đường lối đổi mới của
Đảng, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc gắn liền với con đường đi lên CNXH do Đảng,
chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản và nhân dân các bộ tộc Lào đã lựa chọn. Trên tình thần
đó, TCCSĐ, củng cố xây dựng bản thân vững mạnh, vượt qua nhiều khó khăn thử thách,
tìm mọi cách thực hiện thắng lợi đường lối chủ trương, chính sách của Đảng và nhà nước,
chấp hành nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng, mệnh lệnh của cấp trên, bảo vệ
vững chắc độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc theo phạm vi được phân
công đảm nhiệm.
Trong điều kiện tình hình thế giới và trong nước có nhiều diễn biến phức tạp, yêu
cầu nhiệm vụ công tác quốc phòng - an ninh đặt ra ngày càng cao và nặng nề hơn, song
nhìn chung các TCCSĐ đã khắc phục mọi khó khăn thử thách, năng động sáng tạo, tìm
tòi thử nghiệm, dám nghĩ, dám làm tự đổi mới, tự chỉnh đốn, để nâng cao NLLĐ, SCĐ,
từng bước lãnh đạo thực hiện tốt công tác quốc phòng toàn dân, xây dựng thế trận phòng
thủ nhân dân vững chắc, xây dựng đơn vị, xây dựng các tổ chức quần chúng ngày càng
vững mạnh hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao [43, tr.9].
Thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần nghị quyết
Trung ương 2 (khoá VIII) của Đảng nhân dân cách mạng Lào, những năm gần đây bằng
sự nỗ lực phấn đấu của các đảng bộ cơ sở, chi bộ, mọi cán bộ, đảng viên, cấp uỷ các cấp
ở đơn vị cơ sở, các TCCSĐ đã từng bước được củng cố và nâng lên, thể hiện tập trung
trên những mặt chủ yếu sau:
a. Lãnh đạo giữ vững an ninh, quốc phòng
Nhiệm vụ xây dựng đất nước là hàng đầu, song việc bảo vệ vững chắc độc
lập, chủ quyền, an ninh và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước; bảo vệ nhân dân, bảo vệ
Đảng, bảo vệ chế độ, ngăn ngừa và đập tan mọi âm mưu và hoạt động "diễn biến hoà
bình" và sẵn sàng ứng phó với mọi tình huống phức tạp khác có thể xảy ra, ngăn
chặn và trừng trị có hiệu quả mọi loại tội phạm, làm chuyển biến rõ rệt về trật tự an
toàn xã hội là việc làm rất cần thiết hiện nay.
Để thực hiện nhiệm vụ đó, các TCCSĐ có vị trí, vai trò rất quan trọng trong sự
nghiệp xây dựng củng cố quốc phòng - an ninh một cách toàn diện cả về chính trị, kinh tế
- xã hội và quân sự, an ninh. Từng đơn vị cơ sở phải phát huy sức mạnh tổng hợp tại chỗ
góp phần tạo sức mạnh ở từng đơn vị đủ sức ngăn chặn và làm thất bại chiến lược "diễn
biến hoà bình" của các thế lực hiếu chiến thù địch.
Trên địa bàn đóng quân, cùng với việc tiếp tục củng cố, xây dựng Đảng bộ cơ sở,
chi bộ, việc lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân cũng được đặt ra hết sức
quan trọng. Từ mỗi đơn vị phải luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường,
thống nhất ý chí và hành động, đề cao cảnh giác, giữ vững ổn định chính trị, phát triển
kinh tế, chăm lo đời sống cán bộ, chiến sĩ, xây dựng nền quốc phòng toàn dân và an ninh
nhân dân, tập trung xây dựng sức mạnh chiến đấu và trình độ sẵn sàng chiến đấu của các
đơn vị và lực lượng dân quân tự vệ; du kích ở từng bản làng, xây dựng phong trào quần
chúng bảo vệ an ninh quốc gia, tạo cơ sở nâng cao sức mạnh về quốc phòng và an ninh.
Củng cố quốc phòng, giữ vững trật tự an toàn xã hội phải được coi là nhiệm vụ trọng yếu
thường xuyên của toàn dân, của các tổ chức Đảng và các cấp chính quyền.
Nhìn chung tình hình an ninh chính trị trong các địa bàn đơn vị đóng quân cơ bản
được giữ vững và ổn định, quan hệ đoàn kết giữa đơn vị và chính quyền địa phương,
nhân dân ngày càng được củng cố. Các TCCSĐ đã nhận thức rõ tầm quan trọng của an
ninh, quốc phòng từ đó tăng cường chỉ đạo một cách chủ động, góp phần quan trọng vào
việc bảo đảm sự ổn định chính trị, giữ vững mặt trận an ninh quốc phòng của các bản,
làng trên địa bàn đơn vị đóng quân.
b. Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị và công tác tư tưởng
Hàng năm đảng bộ Tổng cục Tham mưu chăm lo củng cố kiện toàn tổ chức biên
chế trong cơ quan đơn vị, sắp xếp đội ngũ cán bộ, đảng viên đủ số lượng và bảo đảm chất
lượng phục vụ tốt công tác huấn luyện SSCĐ và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Đảng bộ thường xuyên chăm lo xây dựng đơn vị vững mạnh về chính trị, tư tưởng
và tổ chức, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên vững mạnh về chính trị, tư tưởng, gắn
cuộc vận động xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh với cuộc vận động xây dựng nền
nếp chính quy, xây dựng môi trường văn hoá. Đến nay, tuyệt đại đa số cán bộ, chiến sĩ,
đảng viên có bản lĩnh chính trị vững vàng, khắc phục mọi khó khăn, sẵn sàng nhận và
hoàn thành nhiệm vụ trên giao.
Quán triệt sâu sắc và triển khai cụ thể hoá trong Đảng bộ quân đội Nghị quyết số
07 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng ngày 14-6-1997 xác định xây dựng TCCSĐ (đảng bộ cơ
sở, chi bộ cơ sở) trong sạch vững mạnh, gắn liền với xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh
toàn diện. Đây là một đòi hỏi khách quan và cấp bách trong tình hình hiện nay, góp phần
xây dựng QĐND Lào theo hướng cách mạng, chính quy, từng bước hiện đại, ngang tầm
với nhiệm vụ chính trị của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới.
Hướng dẫn số 85, ngày 13-6-1996 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng chỉ rõ:
Xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn liền với xây dựng đơn vị cơ sở vững
mạnh toàn diện phải tập trung xây dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ ở cấp tiểu đoàn, đại đội
làm nhiệm vụ huấn luyện, SSCĐ, xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn liền với
xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện còn phải gắn với nhiệm vụ của cách mạng,
của quân đội và nhiệm vụ chính trị của đơn vị, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị
làm thước đo để đánh giá việc xây dựng TCCSĐ và đơn vị cơ sở [40, tr.24].
Chấp hành nghị quyết của cấp trên, dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ
Tổng cục, các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục đã bám sát yêu cầu, nhiệm vụ chính trị
của đảng bộ cơ sở, chi bộ và của đơn vị để tìm giải pháp thực hiện.
Các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu đã lãnh đạo đơn vị thực hiện
chức năng, nhiệm vụ, tập trung sự lãnh đạo vào mục tiêu hoàn thành tốt nhiệm vụ huấn
luyện, SSCĐ, tăng gia sản xuất. ở các đơn vị, do tính chất, yêu cầu nhiệm vụ SSCĐ,
trong thế trận chiến tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc, địa bàn đóng quân của các đơn vị
rộng nên việc thực hiện nhiệm vụ gặp nhiều khó khăn. Trong công tác lãnh đạo giáo dục
chính trị, tư tưởng ở các đơn vị, TCCSĐ, đảng uỷ cơ sở và các chi bộ đã lãnh đạo và tổ
chức thực hiện những nội dung chương trình, thời gian học tập chính trị cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng từ đơn vị theo quy định của Tổng cục chính trị và của đảng uỷ và cơ
quan chính trị cấp trên, bảo đảm 100% cán bộ, đảng viên, quần chúng đều được tham gia
học tập, bằng những hình thức tổ chức, yêu cầu học tập phù hợp với từng đối tượng và
bảo đảm được yêu cầu nhiệm vụ công tác chuyên môn. Công tác giáo dục chính trị, tư
tưởng đã từng bước kết hợp giữa giáo dục xây dựng bản lĩnh chính trị cho cán bộ, đảng
viên, quần chúng với công tác huấn luyện, rèn luyện kỷ luật, xây dựng nền nếp chính quy
ở đơn vị cơ sở, hướng vào mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ, xây dựng trách nhiệm chính trị
tinh thần phấn đấu, khắc phục khó khăn, yên tâm với công tác và nâng cao ý chí vươn lên
làm chủ vũ khí trang bị.
Trình độ nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, đạo đức cách mạng của Chủ tịch
Cay Xỏn Phôm Vi Hản, đường lối quan điểm của Đảng NDCM Lào, chính sách pháp
luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, của Tổng cục Tham mưu, lòng tin yêu vào
sự nghiệp cách mạng của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đã có bước phát triển.
Qua trao đổi với phòng chính trị Tổng cục Tham mưu và một số đơn vị trực thuộc cho
thấy: đại đa số cán bộ, được hỏi tỏ ra tin tưởng tuyệt đối vào Đảng, vào sự nghiệp đổi
mới toàn diện đất nước do Đảng NDCM Lào khởi xướng và lãnh đạo; 100% cán bộ ở
các cơ quan, đơn vị được hỏi đều nhất trí với lý tưởng mục tiêu độc lập dân tộc và
CNXH, 100% thừa nhận tính cách mạng, khoa học, sáng tạo của chủ nghĩa Mác -
Lênin.
Theo thống kê của Cục Tổ chức thuộc Tổng cục Chính trị QĐND Lào về phân
tích chất lượng các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu, từ năm 2004 đến năm
2008, cho thấy các TCCSĐ đã coi trọng xây dựng, củng cố tổ chức đảng đảm bảo cả số
lượng và chất lượng, vai trò lãnh đạo của các TCCSĐ được nâng lên rõ rệt, thực sự là hạt
nhân lãnh đạo ở đơn vị. Kết quả khảo sát thực tế trong một số các TCCSĐ ở các đơn vị
thấy tỷ lệ lãnh đạo của các TCCSĐ hàng năm tăng lên. Năm 2004: 24,48%; năm 2005:
26,97%; năm 2006: 28,58%; năm 2007: 35,48%; năm 2008: 39,94% ở cấp đại đội, tương
đương có chi bộ chiếm tỷ lệ 96,16%, trong đó chi bộ có chỉ huy 86,32% so với tỷ lệ lãnh
đạo chung trong toàn quân, tỷ lệ lãnh đạo của TCCSĐ ở đơn vị thuộc Tổng cục Tham
mưu tương đối cao.
c. Lãnh đạo xây dựng củng cố các đoàn thể trong đơn vị
Các TCCSĐ trực thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu lãnh đạo các tổ chức
Đoàn tập trung vào việc đoàn kết, tập hợp thanh niên, Hội phụ nữ tham gia sinh hoạt
trong các tổ chức đoàn, Hội, tăng cường giáo dục lý tưởng cách mạng.
Tổ chức Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ ở các đơn vị cơ sở đã thường xuyên coi
trọng và đặt lên hàng đầu nhiệm vụ giáo dục, rèn luyện về chính trị, tư tưởng, định hướng
suy nghĩ và hành động cho Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ. Các hoạt động đó bảo đảm cho
thanh niên, phụ nữ nâng cao hiểu biết về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
đạo đức tác phong của Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản, chủ trương, đường lối của Đảng,
pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị và nhiệm vụ của thanh niên,
phụ nữ trong tình hình mới. Đồng thời cũng vạch rõ âm mưu thủ đoạn của những kẻ hiếu
chiến thù địch, từ đó đã làm cho Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ tin tưởng tuyệt đối vào sự
lãnh đạo của Đảng, kiên định với mục tiêu độc lập dân tộc, dân giàu, nước mạnh, xã hội
văn minh, công bằng mà Đảng và Nhà nước, Chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản và nhân
dân các bộ tộc Lào đã lựa chọn.
Đảng uỷ và các chi bộ đã chú trọng quan tâm lãnh đạo giáo dục việc định hướng
hoạt động cho đoàn và kịp thời lãnh đạo tổ chức đoàn ở đơn vị hoạt động có nền nếp, đã
hướng hoạt động của các tổ chức đoàn thanh niên nhân dân cách mạng Lào, Hội phụ nữ ở
các đơn vị đi vào hoạt động trong các nhiệm vụ huấn luyện sẵn sàng chiến đấu, tăng gia
sản xuất, xây dựng nếp sống chính quy và chú trọng bồi dưỡng về nhận thức chính trị,
phẩm chất đạo đức, ý thức phấn đấu trở thành đảng viên.
d. Lãnh đạo và thực hiện công tác xây dựng TCCSĐ
* Chất lượng đội ngũ đảng viên và đội ngũ cán bộ cơ sở
Có thể khẳng định rằng đa số cán bộ, đảng viên thuộc đảng bộ Tổng cục Tham
mưu có phẩm chất chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng, kiên định mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, luôn tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng và sự nghiệp đổi mới do
ĐNDCM Lào khởi xướng và lãnh đạo. Đội ngũ này có ý thức tổ chức kỷ luật, trưởng
thành qua thực tiễn trong công tác, có phẩm chất đạo đức tốt, gương mẫu thực hiện mọi
chủ trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước, có ý thức tự giác học tập nâng cao trình
độ để phát huy vai trò tiên phong của người đảng viên trong cơ chế mới. Nhiều cán bộ,
đảng viên đã trở thành hạt nhân trong việc xây dựng các phong trào của đơn vị… đa số
cán bộ đảng viên ở các TCCSĐ nhận thức và thực hiện đúng các nguyên tắc tổ chức của
Đảng như: nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, lắng nghe và tiếp thu ý
kiến của quần chúng nhân dân.
Về thực trạng trình độ đội ngũ đảng viên: qua thống kê đội ngũ cán bộ, đảng viên
trong các đơn vị thuộc Tổng cục Tham mưu cho thấy: số cán bộ có trình độ sau đại học
77 người; ở khối cơ quan Đảng chỉ có 08 người có trình độ sau đại học.
Đảng bộ Tổng cục Tham mưu với số lượng cán bộ, đảng viên 1880 người (cán bộ
chuyên trách và không chuyên trách). Hàng năm, việc xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở ở
các đơn vị luôn được chú ý đào tạo, bồi dưỡng về các mặt như: trình độ học vấn, trình độ
chính trị, chuyên môn, nghiệp vụ… Việc đào tạo, bồi dưỡng đã phát huy được vai trò
nhiệm vụ, năng lực điều hành, quản lý các đoàn thể của từng cán bộ và đã có nhiều đóng
góp tích cực, giữ vai trò hạt nhân trong việc vận động và thực hiện các phong trào ở đơn
vị có thể thấy rõ điều đó qua số liệu sau:
Chất lượng cán bộ ở các đơn vị thuộc Tổng cục Tham mưu:
+ Giới tính: nam 1564 người; nữ 316 người.
+ Độ tuổi: dưới 40 tuổi: 1252 người; trên 40 tuổi: 628 người.
+ Trình độ học vấn: tiểu học: 105 người, chiếm 5,58%; trung học cơ sở: 412
người, chiếm 21,91%; trung học phổ thông: 1363 người, chiếm 72,5%.
+ Trình độ chính trị: chưa qua đào tạo: 1253 người, chiếm 66,64%; sơ cấp: 210
người, chiếm 11,17%; trung cấp: 270 người, chiếm 14,36%; cao cấp: 129 người, chiếm
6,86%; bồi dưỡng 18 người, chiếm 0,95%.
+ Chuyên môn nghiệp vụ: sơ cấp: 538 người, chiếm 28,61%; trung cấp - 811
người, chiếm 43,13%; cao đẳng - 274 người, chiếm 14,57%; đại học: 135 người, chiếm
7,18%; sau đại học 77 người, chiếm 4,09%; chưa qua đào tạo: 42 người, chiếm 2,23%.
Các số liệu nêu trên cho thấy, đội ngũ cán bộ đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục Tham
mưu còn nhiều tồn tại nhưng nổi bật nhất là vấn đề trình độ. Đa số cán bộ có trình độ tiểu
học và trung học cơ sở (chiếm tới 27,38%). Trong đó số 1248 cán bộ chuyên trách chỉ có
77 người có trình độ sau đại học, chiếm 4,09%, đây là con số quá thấp.
Về trình độ chính trị, tập trung chủ yếu ở trình độ trung cấp; cán bộ có trình độ cao
cấp chỉ chiếm 6,86%, trong khi có tới 66,64% chưa qua đào tạo.
Vấn đề nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là một trong những nội dung quan
trọng trong công tác xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh. Chính vì vậy, các TCCSĐ
thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu đã quan tâm chỉ đạo, khảo sát, đánh giá thực trạng
đội ngũ đảng viên. Điều này đã góp phần làm cho đội ngũ đảng viên có ý thức hơn trong
công tác cũng như cuộc sống, luôn đi đầu trong các phong trào thi đua, rèn luyện giữ gìn
phẩm chất, phấn đấu thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ của đơn vị.
đ. Thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng
* Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ
Thực hiện các nghị quyết của Đảng nhất là Nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII)
của ĐNDCM Lào, Nghị quyết số 11 của Ban Chấp hành Trung ương (23/3/1999) về nội
dung tiêu chuẩn xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh, Hướng dẫn số 07 của Đảng uỷ
Bộ Quốc phòng (20/4/2000) về tiêu chuẩn và phương pháp xây dựng TCCSĐ trong sạch
vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện trong quân đội và Chỉ thị
số 64 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (13/7/2005) về tiêu chuẩn củng cố xây dựng đơn vị
mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện trong quân đội, những năm qua các cấp uỷ, tổ chức
đảng thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu đã coi trọng việc thực hiện nguyên tắc tập trung
dân chủ, trong hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo các cấp uỷ, tổ chức đảng đã đề ra các nguyên
tắc tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, cấp dưới phục tùng cấp trên, thực hiện nghiêm
các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên kết hợp với việc xây dựng các quy chế hoạt động của
cấp uỷ nên việc thực hiện các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng nói chung, nguyên tắc
tập trung dân chủ nói riêng đã có bước tiến rõ rệt. Hầu hết những chủ trương, biện pháp
lớn trong lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công tác của cấp uỷ được bàn bạc, thảo luận dân chủ
trong tổ chức đảng, sau đó phân công người phụ trách cụ thể. Mọi chủ trương, nghị quyết
của tập thể được cán bộ, đảng viên chấp hành và thực hiện nghiêm túc. Đa số cán bộ,
đảng viên ở các TCCSĐ có ý thức tổ chức, chấp hành kỷ luật phát ngôn và nguyên tắc tổ
chức sinh hoạt đảng. Trong công tác cán bộ nhờ quán triệt và thực hiện tốt nguyên tắc tập
trung dân chủ nên công tác tiến hành bầu cử Đại hội chi bộ, đảng bộ được thực hiện đúng
quy trình.
Trong sinh hoạt cấp uỷ, vấn đề dân chủ được đề cao, tạo không khí cởi mở trong
thảo luận, bàn bạc. Nhờ mở rộng, phát huy dân chủ, các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
đã phát huy được trí tuệ của tập thể, khơi dậy tính chủ động, sáng tạo của cán bộ, đảng
viên vào việc thực hiện nhiệm vụ của đơn vị, nhất là trong việc giải quyết những vấn đề
mới phát sinh trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ chính trị tại đơn vị cơ sở.
* Thực hiện tự phê bình và phê bình
Việc thực hiện tự phê bình và phê bình trong các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu có nhiều tiến bộ. Trong sinh hoạt đảng đã có nhiều ý kiến mạnh dạn, thẳng
thắn phê bình đối với sai lầm, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên và cấp uỷ. Đặc biệt kể
từ khi triển khai nghị quyết Trung ương 2 (khoá VIII) của ĐNDCM Lào, việc thực hiện
tự phê bình và phê bình được đẩy mạnh. Qua tự phê bình và phê bình đã làm rõ được
những ưu điểm, khuyết điểm của tập thể và cá nhân, từ đó cấp uỷ, tổ chức đảng đã có kế
hoạch phát huy ưu điểm, khắc phục khuyết điểm, góp phần loại trừ những biểu hiện của
hiện tượng mất đoàn kết nội bộ, tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong đảng bộ Tổng
cục Tham mưu. Thông qua tự phê bình và phê bình nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức rõ
hơn trách nhiệm của mình trong giai đoạn thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị; thấy
rõ sự cần thiết phải đấu tranh với những biểu hiện tiêu cực trong đội ngũ cán bộ, đảng
viên. Sau tự phê bình và phê bình nhiều TCCSĐ đã có chuyển biến về khắc phục thiếu
sót, khuyết điểm, hoạt động của TCCSĐ có tiến bộ rõ rệt.
* Xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu.
Để tăng cường khối đoàn kết thống nhất trong các TCCSĐ, bên cạnh việc tuyên
truyền, giáo dục, nhiều cấp uỷ đề ra những biện pháp cụ thể để giải quyết vấn đề đoàn kết
thống nhất đem lại hiệu quả như: Thường xuyên kiểm tra, sớm phát hiện những hiện
tượng mất đoàn kết, sau đó giải quyết và xử lý dứt điểm; mặt khác, cấp uỷ tập trung vào
việc xây dựng và thực hiện nghiêm quy chế làm việc, công khai các vấn đề về kinh tế, tài
chính… Trong công tác cán bộ, các cấp uỷ đã coi trọng dân chủ, công khai trong việc
đánh giá, lựa chọn cán bộ. Nhờ xây dựng và thực hiện tốt quy chế, kế hoạch hoạt động
của cấp uỷ và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân
chủ, tự phê bình và phê bình nên khối đoàn kết thống nhất trong các TCCSĐ thuộc đảng
bộ Tổng cục Tham mưu được giữ vững và tăng cường. Đa số cán bộ, đảng viên trong các
TCCSĐ nhận thức rõ tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết thống nhất trong Đảng nên đã
có ý thức giữ gìn trong công tác cũng như đời thường. Nhiều đồng chí có thái độ chân
thành, thẳng thắn trong tự phê bình và phê bình với đồng chí, đồng nghiệp nhằm xây
dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở trong sạch vững mạnh.
* Công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật Đảng.
Những năm qua công tác kiểm tra thi hành kỷ luật đảng đã được các TCCSĐ quan
tâm lãnh đạo, chỉ đạo khá chặt chẽ. Hầu hết các đảng uỷ đã chỉ đạo kiện toàn, xây dựng
quy chế hoạt động, kế hoạch công tác của Uỷ ban kiểm tra đảng uỷ.
Nội dung kiểm tra được đảng bộ Tổng cục Tham mưu tập trung chỉ đạo là: kiểm
tra thực hiện Điều lệ Đảng; thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng như: Chỉ thị số 11
của Ban Chấp hành Trung ương Đảng về nội dung tiêu chuẩn xây dựng TCCSĐ trong
sạch vững mạnh và Hướng dẫn số 07 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng về tiêu chuẩn và
phương pháp xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn với xây dựng đơn vị vững
mạnh toàn diện trong quân đội, Chỉ thị số 64 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng về tiêu chuẩn
củng cố xây dựng đơn vị mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện trong Quân đội. Trong
công tác kiểm tra đã chú trọng đến các lĩnh vực thực hiện nhiệm vụ của các TCCSĐ ở
đơn vị.
Bên cạnh đó, hoạt động kiểm tra của Đảng bộ Tổng cục Tham mưu cũng chú
trọng việc kiểm tra đảng bộ cơ sở, chi bộ và đảng viên. Qua kiểm tra cho thấy phần lớn
các đảng bộ cơ sở, chi bộ đã ra được nghị quyết lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ của
mình ở đơn vị cơ sở, làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, phân công nhiệm vụ và
quản lý đảng viên; đa số đảng viên chấp hành tốt đường lối, chủ trương của Đảng, chính
sách, pháp luật của Nhà nước. Thông qua công tác kiểm tra, cấp uỷ đảng đã phát hiện và
xử lý nhiều trường hợp cán bộ, tập thể cấp uỷ, đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật
của Nhà nước.
2.1.1.2. Những ưu điểm về hoạt động tạo nên năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của các tổ chức cơ sở đảng
Những năm qua, nhìn chung hầu hết các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham
mưu đã quán triệt về nhận thức đúng đắn về các chủ trương, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước và các chỉ thị, nghị quyết của cấp trên. Các cấp uỷ đều có chung nhận
thức là đường lối, chủ trương đúng đắn, tổ chức thực hiện tốt chính là tiền đề cho việc
xây dựng TCCSĐ ở các đơn vị. Điều đó được thể hiện trên các mặt sau:
* Xây dựng các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu về chính trị, tư tưởng.
Trước những diễn biến phức tạp của tình hình quốc tế, những tác động tiêu cực do
mặt trái của cơ chế thị trường đem lại cho công cuộc đổi mới đất nước, đảng bộ Tổng cục
Tham mưu đã coi trọng công tác giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên và chiến sĩ ở
các TCCSĐ. Nhiều TCCSĐ đã thực hiện công tác tuyên truyền giáo dục chính trị, tư
tưởng cho đội ngũ cán bộ, đảng viên và chiến sĩ với nhiều hình thức phong phú như: tổ
chức triển khai nghiên cứu, học tập quán triệt các chỉ thị, nghị quyết của Trung ương và
cấp trên; tổ chức mít tinh kỷ niệm các ngày lễ lớn; tổ chức các cuộc gặp mặt trao đổi, toạ
đàm giữa đảng uỷ với đoàn thanh niên; tổ chức thi Bí thư đảng bộ cơ sở, chi bộ giỏi…
thu hút đông đảo cán bộ, đảng viên và chiến sĩ tham gia. Một số TCCSĐ đã phối hợp với
trung tâm bồi dưỡng chính trị cấp trên mở một số lớp bồi dưỡng lý luận chính trị cho cán
bộ, đảng viên trong TCCSĐ tham gia học tập. Nhiều đảng uỷ đã xây dựng, lãnh đạo các
đảng bộ cơ sở, chi bộ, ngành đoàn thể tham gia thảo luận đóng góp ý kiến cho dự thảo
chương trình hành động của đảng bộ cơ sở, chi bộ và dự thảo văn kiện Đại hội đại biểu
toàn quốc lần thứ VIII của ĐNDCM Lào.
Thông qua việc tuyên truyền, giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ, đảng viên và
chiến sĩ, các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu đã tạo sự tin tưởng và củng cố
lập trường, kiên định với mục tiêu, lý tưởng của Đảng. Vận động đồng bào tự giác chấp
hành đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nâng cao tính tiền phong, gương mẫu
của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong các TCCSĐ.
Giữ vững ý chí chiến đấu, tinh thần trách nhiệm cao, yên tâm gắn bó với quân đội
và đơn vị, chủ động khắc phục khó khăn, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Thực sự là
lực lượng trung thành và tin cậy của Đảng, Nhà nước và nhân dân, là chỗ dựa vững chắc
của cấp uỷ và chính quyền địa phương nơi khu vực đóng quân của đơn vị.
Cán bộ, đảng viên, chiến sĩ đều nhận thức rõ âm mưu, thủ đoạn của chủ nghĩa đế
quốc và các thế lực thù địch, tính chất phức tạp và quyết liệt của cuộc đấu tranh trong bối
cảnh quốc tế mới, đã nâng cao ý thức cảnh giác cách mạng; quán triệt sâu sắc hơn tình
hình nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ dân chủ nhân dân.
Trước những khó khăn nhiều mặt của đơn vị, cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong các
đơn vị cơ sở đã nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, khắc phục khó khăn
thiếu thốn, giữ vững và nâng cao trách nhiệm chính trị, ý chí tiến công trong thực hiện
nhiệm vụ; mặc dù hàng ngày hàng giờ đã bị tác động chi phối từ mặt trái của xã hội,
nhưng đại bộ phận cán bộ, đảng viên, chiến sĩ vẫn kiên trì chính trị, tư tưởng vững vàng,
đã tự giác tu dưỡng rèn luyện, nâng cao đạo đức cách mạng và giữ gìn phẩm chất của bộ
đội nhân dân.
* Xây dựng các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu và tổ chức:
Công tác tổ chức, cán bộ:
Về công tác tổ chức: Đảng bộ Tổng cục đã quan tâm chỉ đạo xây dựng và củng cố
kiện toàn các TCCSĐ và chỉ đạo các TCCSĐ xây dựng quy chế hoạt động của chi uỷ; bố
trí phân công nhiệm vụ cho cấp uỷ viên phụ trách; lãnh đạo, chỉ đạo các hoạt động của
các ngành, đoàn thể.
Đây là vấn đề được các TCCSĐ đặc biệt quan tâm, được cấp uỷ cấp trên quan tâm
chỉ đạo. Vị trí, vai trò của TCCSĐ ghi trong Điều lệ Đảng chính là sự kế thừa, vận dụng
sáng tạo tư tưởng của các nhà kinh điển cho phù hợp với điều kiện nước CHDCND Lào.
Quán triệt quan điểm trên, vấn đề xây dựng TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu
luôn được sự quan tâm, lãnh đạo của đảng uỷ Tổng cục Tham mưu và sự hướng dẫn của
cơ quan cấp trên.
Trong những năm qua, các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu luôn phát
huy được vai trò hạt nhân chính trị, lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động ở đơn vị cơ sở.
Điều này được thể hiện qua số liệu sau: Tổng cục Tham mưu có 14 cục thì có 14 chi bộ,
3 văn phòng thì có 3 chi bộ, 32 đơn vị thì có 20 đảng bộ cơ sở và 90 chi bộ cơ sở. Đảng
bộ Tổng cục Tham mưu đã chú trọng hoạt động xây dựng các TCCSĐ trực thuộc, phát
huy vai trò của các TCCSĐ trực thuộc là hạt nhân chính trị lãnh đạo toàn diện ở đơn vị
cơ sở.
Việc xây dựng TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu còn được thể hiện ở
vấn đề xây dựng quy chế hoạt động cho từng loại hình theo các quy định chức năng
nhiệm vụ của các TCCSĐ nhằm nâng cao NLLĐ của TCCSĐ, xác định rõ mối quan hệ
chặt chẽ giữa các tổ chức trong đơn vị, làm rõ chức năng của từng tổ chức, lãnh đạo điều
hành theo đúng quy chế tránh tình trạng đùn đẩy trách nhiệm.
Trong những năm qua, các TCCSĐ thuộc đảng bộ đã phát huy được vai trò hạt
nhân chính trị lãnh đạo toàn diện các mặt hoạt động theo quy chế và chức năng, nhiệm
vụ của TCCSĐ. Thường xuyên củng cố nâng cao chất lượng TCCSĐ gắn với xây
dựng các tổ chức của hệ thống chính trị ở đơn vị vững mạnh, vận động cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng
cường khối đại đoàn kết trong TCCSĐ.
Hoạt động xây dựng các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục cũng có nhiều chuyển
biến ở đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào như đảng bộ coi đây là nhiệm vụ then
chốt, nên chất lượng hoạt động ngày càng được tăng lên. Đến nay Đảng bộ Tổng cục
Tham mưu có 20 đảng bộ cơ sở và 107 chi bộ trực thuộc, tăng hơn năm 2004 là 2 chi bộ.
Các TCCSĐ được đánh giá chất lượng hàng năm, năm 2008 có 20 đảng bộ cơ sở trong
đó 14 đảng bộ cơ sở 5 năm liền đạt TSVM và 107 chi bộ, trong đó 79 chi bộ 5 năm liền
đạt TSVM.
Thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 2 (khoá VIII) của Đảng NDCM Lào và chỉ thị của Tổng cục chính trị QĐNd
Lào số 05/CT-TCCT ngày 6 tháng 3 năm 2000 về việc củng cố, kiện toàn hệ thống tổ
chức đảng các cấp trong quân đội cấp uỷ đã tập trung vào việc củng cố xây dựng các tổ
chức trong đơn vị luôn TSVM gồm: tổ chức lãnh đạo, tổ chức chỉ huy và tổ chức quần
chúng, bảo đảm cơ cấu hợp lý và hoạt động hiệu quả, nhất là tổ chức đảng. Các TCCSĐ
thường xuyên được củng cố, chỉnh đốn, đảm bảo về số lượng, chất lượng cao, hoạt động
có hiệu quả, có NLLĐ và SCĐ cao, phong cách hoạt động lãnh đạo toàn diện, không
ngừng được cải tiến và đổi mới.
Về công tác cán bộ: hầu hết các đảng uỷ, chi bộ đã quan tâm chăm lo xây dựng đội
ngũ cán bộ nhằm đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ của đơn vị. Thực hiện Nghị quyết Trung
ương 2 (khoá VIII) về Chiến lược cán bộ trong thời kỳ đổi mới hiện nay, các TCCSĐ đã
từng bước xây dựng đội ngũ cán bộ. Để nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cho
đội ngũ cán bộ, các đảng uỷ, chi bộ đã cử cán bộ đi học các lớp tập huấn, bồi dưỡng tại
các trường sĩ quan trong nước và ngoài nước. Hàng năm, các cấp uỷ đều có tổng kết,
đánh giá công tác cán bộ. Việc quy hoạch, bố trí, sử dụng cán bộ và việc quản lý, tuyển
chọn, cử cán bộ đi đào tạo, bồi dưỡng được tiến hành dân chủ, công khai.
Về công tác đảng viên:
Công tác đảng viên của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu những
năm qua có nhiều chuyển biến tích cực trên các mặt: giáo dục, bồi dưỡng đảng viên; quản
lý đảng viên; kiểm tra, đánh giá, xếp loại đảng viên và phát triển đảng viên mới. Việc
quản lý đảng viên từng bước đi vào nề nếp, phân tích chất lượng đảng viên hàng năm
được thực hiện tương đối nghiêm túc; công tác phát triển đảng viên mới được các
TCCSĐ luôn coi trọng. Số đảng bộ cơ sở, chi bộ có đảng viên kết nạp ngày càng tăng;
nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng đã chú ý bồi dưỡng, kết nạp những quần chúng trẻ tuổi, có
trình độ. Đa số đảng viên mới kết nạp đảm bảo tiêu chuẩn, chất lượng, phần lớn thể hiện
được phẩm chất chính trị, lập trường tư tưởng vững vàng và tính tiền phong gương mẫu.
Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ chính trị
trong tình hình mới, các TCCSĐ đã chú trọng việc bồi dưỡng, giáo dục chủ nghĩa Mác -
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đạo đức Cay Xỏn Phôm Vi Hản, kiến thức về xây dựng
đảng. Nhiều TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu đã quan tâm đến việc rèn luyện
phẩm chất đạo đức, lối sống, phong cách của người đảng viên, tinh thần đoàn kết, ý thức
tổ chức kỷ luật. Các biện pháp giáo dục đem lại hiệu quả được kiểm nghiệm qua thực tế
là: bồi dưỡng ngắn hạn, học tập tại chức, tập trung dài hạn, nói chuyện chuyên đề, thông
tin thời sự, giáo dục truyền thống nhân kỷ niệm những ngày lễ lớn…
Những năm qua, tiếp tục triển khai việc thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh
đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 7 (khoá VII), Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ
VIII, các TCCSĐ đã đẩy mạnh việc giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đội ngũ đảng viên. Do
vậy, trình độ nhận thức, năng lực hoạt động công tác và ý thức tổ chức kỷ luật, tinh thần
trách nhiệm của đảng viên được nâng lên một bước. Qua thực tế hoạt động công tác của
đơn vị vừa phải khắc phục khó khăn thiếu thốn, vừa phải đối phó với những hoạt động
phức tạp và căng thẳng, nhưng hầu hết đảng viên đã thể hiện được lập trường, quan điểm
vững vàng, chủ động khắc phục khó khăn, có bản lĩnh công tác tốt, tích cực tu dưỡng,
phấn đấu để hoàn thành nhiệm vụ được giao.
Kết quả phân tích chất lượng đảng viên của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu từ năm 2004 đến năm 2008 cho thấy, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, phát huy tốt
tác dụng (mức 1) hàng năm chiếm tỷ lệ khá cao: năm 2004: 59,30%, năm 2005: 62,69%,
năm 2006: 66,27%, năm 2007: 73,03%, năm 2008: 87,87%. Trong đó, số đảng viên đủ tư
cách xuất sắc được cấp trên biểu dương khen thưởng theo nhiệm kỳ của TCCSĐ, chiếm
tỷ lệ từ 20-25% trong tổng số đảng viên ở các đơn vị cơ sở của Tổng cục Tham mưu.
Ngoài ra các cấp uỷ, TCCSĐ đã phát huy vai trò của các tổ chức ở đơn vị, nhất là
tổ chức đoàn thanh niên tham gia công tác phát triển đảng viên. Qua việc khảo sát thực
tiễn ở các đảng bộ cơ sở, chi bộ cho thấy số đảng viên được kết nạp mới hàng năm như:
năm 2004 là 4,33%, năm 2005 là 4,67%, năm 2006 là 4,23%, năm 2007 là 4,25%, năm 2008
là 4,27%. Như vậy, tỷ lệ phát triển đảng viên của các đảng bộ cơ sở, chi bộ ở các đơn vị từ
năm 2004 đến năm 2008 là 18,65%. Các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào đã nâng cao tỷ lệ lãnh đạo từ 48,9% năm 2004 lên 57,5% năm 2008.
Những kết quả trong hoạt động lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ, công tác của các
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục trong những năm qua đã nêu ở trên là căn cứ cơ bản
chứng tỏ hoạt động tạo nên NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ đã được nâng lên một bước
khá lớn.
2.1.2. Những khuyết điểm, hạn chế
2.1.2.1. Những khuyết điểm, hạn chế về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
các tổ chức cơ sở đảng
Bên cạnh những ưu điểm và kết quả đạt được nêu trên, việc nâng cao NLLĐ
và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu trong những năm vừa
qua còn bộc lộ nhiều hạn chế bất cập thể hiện các mặt sau đây:
Một là, lãnh đạo công tác chính trị, tư tưởng của các TCCSĐ mặc dù được quan
tâm, lãnh đạo chặt chẽ nhưng vẫn còn mặt yếu kém, chưa đáp ứng tốt yêu cầu của tình
hình giai đoạn hiện nay.
Nội dung, biện pháp, hình thức tiến hành công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư
tưởng của một số đảng bộ cơ sở, chi bộ chưa phong phú, đa dạng, thiếu sáng tạo, còn gò
ép, cứng nhắc, chậm đổi mới; chưa nhạy bén, kịp thời, sát với từng đối tượng, có lúc, có
nơi có biểu hiện hình thức chủ nghĩa, qua loa đại khái cho nên kết quả giáo dục chính trị,
lãnh đạo tư tưởng thấp. Trình độ giác ngộ chính trị chưa thực sự vững chắc. Một bộ phận
cán bộ, chiến sĩ còn mơ hồ, kém cảnh giác, chưa nhận thức đầy đủ về âm mưu, thù đoạn
chống phá của các thế lực thù địch; năng lực đấu tranh trên lĩnh vực chính trị, tư tưởng và
quản lý nội bộ còn thiếu chủ động, nhạy bén, có lúc còn thụ động trong đấu tranh chống
lại những quan điểm, tư tưởng và nhận thức sai trái trong đảng bộ cơ sở, chi bộ. ở nhiều
đảng bộ trình độ nhận thức và NLLĐ của cán bộ, đảng viên chưa được phát huy. Biểu
hiện cụ thể, trước hết là việc nắm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng, quan điểm, đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, chỉ thị, nghị quyết, hướng dẫn của cấp trên còn hạn chế
bất cập, khả năng đánh giá phân tích, nắm bắt tình hình chưa đủ sức lý giải có cơ sở khoa
học, có sức thuyết phục trước những vấn đề biến động phức tạp của thế giới, trong nước,
đơn vị mình.
Khả năng vận dụng sáng tạo nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên vào việc
đề ra chủ trương biện pháp lãnh đạo của một số đảng bộ cơ sở, chi bộ còn hạn chế, chưa
đáp ứng với yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị trong tình hình
mới, nhất là trong tổ chức thực hiện cơ chế lãnh đạo theo chế độ hai thủ trưởng và chế độ
chính uỷ trong các đơn vị. Có lúc có nơi mặc dù thực hiện chế độ hai thủ trưởng nhưng
khi hoạt động và giải quyết vấn đề nội bộ vẫn còn biểu hiện của chế độ một người chỉ
huy. Có hiện tượng quan liêu, thiếu dân chủ cho nên hoạt động lãnh đạo, chỉ huy, quản
lý, điều hành đơn vị kém hiệu lực, không phát huy được trí tuệ, tính sáng tạo của tập thể
và cá nhân trong lãnh đạo, chỉ đạo công tác giáo dục chính trị, lãnh đạo tư tưởng ở các
TCCSĐ.
Hai là, lãnh đạo xây dựng các TCCSĐ và củng cố, kiện toàn các cấp uỷ đảng, chi
bộ trong những năm qua mặc dù có tiến độ, nhưng còn có nhiều mặt hạn chế bất cập chưa
đáp ứng tốt yêu cầu lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị của các đơn vị.
NLLĐ và SCĐ của các cấp uỷ đảng, chi bộ trong lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ
chính trị trung tâm là huấn luyện chiến đấu và sẵn sàng chiến đấu có mặt chưa thực sự
vững chắc. Khả năng dự báo, phát hiện những bất cập, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo, chủ
động khắc phục còn hạn chế, chưa theo kịp sự phát triển của thực tiễn đơn vị.
Việc xây dựng và củng cố TCCSĐ còn nhiều mặt chưa đáp ứng với nhiệm vụ
chính trị trong tình hình hiện nay, nhất là việc xây dựng chi bộ trong sạch vững mạnh.
Chưa thành phong trào sôi nổi, mạnh mẽ và rộng khắp. So với mục tiêu, yêu cầu của
Đảng uỷ Bộ Quốc phòng đề ra nhiều mặt còn khoảng cách khá xa. Một số đảng uỷ, chi
bộ khả năng tiến hành công tác xây dựng Đảng còn hạn chế, biểu hiện: khi có chỉ thị,
hướng dẫn, không tổ chức phổ biến triển khai, hoặc phổ biến một cách chung chung,
không cụ thể, sát thực, có nơi chưa có chương trình, kế hoạch hoặc có kế hoạch lại thiếu
sự quan tâm theo dõi, chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc thường xuyên. Do đó, kết quả xây dựng
các TCCSĐ trong sạch vững mạnh không cao, thiếu vững chắc.
Việc lãnh đạo, chỉ đạo triển khai thực hiện xây dựng đơn vị VMTD của một số
cấp uỷ, TCCSĐ còn thiếu cụ thể, chưa chặt chẽ, thường xuyên. Qua bản tổng kết năm
2008 của Đảng bộ Tổng cục Tham mưu và qua khảo sát thực tiễn cho thấy, số đơn vị đạt
tiêu chuẩn VMTD hàng năm còn chiếm tỷ lệ thấp là 16,09%, trong đó số đơn vị đạt tiêu
chuẩn VMTD 3 năm liền vào năm 2008 là 3,06%, đạt 4 năm liền là 4,03%, đạt 5 năm liền
là 9%. Các TCCSĐ còn lại năm đạt, năm không đạt [52, tr.14-15].
Việc củng cố kiện toàn cấp uỷ đảng chưa kết hợp chặt chẽ giữa nâng cao chất
lượng đội ngũ cấp uỷ viên, chi uỷ viên và đội ngũ cán bộ chủ trì. Trong bầu cử Ban chấp
hành đảng bộ cơ sở, chi bộ và chỉ định bổ sung cấp uỷ viên còn có hiện tượng nặng nề cơ
cấu, chưa chú ý hơn đến tiêu chuẩn, một số đồng chí đảng uỷ viên là cán bộ chủ trì đơn vị
chưa phát huy tốt vai trò của mình. Đội ngũ bí thư và các cấp uỷ viên trong các đảng bộ
cơ sở, chi bộ có nhiều đồng chí trình độ còn hạn chế, năng lực chưa toàn diện, chưa thật
tương xứng với yêu cầu đặt ra ở cương vị này. Nhiều đồng chí là cán bộ chính trị còn yếu
về quân sự, là cán bộ quân sự thì yếu về chính trị. Nhiều đồng chí có phong cách thiếu
khoa học, thực hiện quy chế làm việc thiếu chặt chẽ, chưa phân biệt rõ giữa hoạt động
lãnh đạo của đảng uỷ và quản lý điều hành của chỉ huy, cho nên khi tiến hành công tác cụ
thể thường năng về chỉ huy hành chính. Một số đảng bộ cơ sở, chi bộ sinh hoạt đảng nội
dung thiếu sâu sắc, vừa thiếu tính chiến đấu mạnh mẽ, vừa kém chất lượng hiệu quả.
Thậm chí số nơi không sinh hoạt đảng 2-3 tháng [36, tr.13].
Ba là, phương thức lãnh đạo của một số đảng bộ cơ sở, chi bộ chậm được đổi mới,
khả năng tổ chức hoạt động thực tiễn còn có mặt hạn chế. Việc chấp hành các nguyên tắc
tổ chức lãnh đạo có lúc, có nơi chưa thực sự nghiêm túc. Chất lượng sinh hoạt, nhất là
sinh hoạt tự phê bình và phê bình ở một số đảng bộ cơ sở, chi bộ còn thấp. Việc xây dựng
quy chế làm việc của các cấp uỷ đảng và chi bộ có nơi còn chậm... việc tổ chức thực hiện
quy chế có tổ chức đảng chưa nghiêm túc, có nơi có quy chế nhưng không thực hiện theo
quy chế dẫn đến vi phạm nguyên tắc, khuyết điểm. Sự hoàn thiện, bổ sung quy chế chưa
kịp thời... Giải quyết các mối quan hệ giữa lãnh đạo và chỉ huy, giữa tập thể và cá nhân
có lúc, có nơi chưa thật tốt, vẫn còn biểu hiện đề cao cá nhân quá mức. Có trường hợp
người chỉ huy can thiệp vào công việc thuộc quyền hạn của cấp uỷ và ngược lại trường
hợp cấp uỷ can thiệp quá sâu sắc vào công việc của người chỉ huy. Kế hoạch, chương
trình hoạt động của người chỉ huy đơn vị chưa quán triệt đầy đủ tinh thần của nghị quyết
đảng uỷ... (những trường hợp này thường xảy ra giai đoạn mới tổ chức thực hiện cơ chế
lãnh đạo theo chế độ hai thủ trưởng). Do vậy, dẫn tới hiện tượng "lấn sân", chồng chéo,
bao biện, làm thay hoặc chờ đợi, dựa dẫm vào cấp trên, đùn đẩy, "khoán trắng" cho cấp
dưới, thậm chí đến mức vi phạm nguyên tắc.
Không ít TCCSĐ thực hiện không đúng quy chế ra nghị quyết và lãnh đạo thực
hiện nghị quyết. Sau khi có nghị quyết, phân công trách nhiệm không rõ rằng, thiếu
chương trình hành động cụ thể. Quá trình thực hiện nghị quyết, tiến hành công tác kiểm
tra, đôn đốc, nhắc nhở, uốn nắn ... không kịp thời, sâu sát. Một số đảng bộ cơ sở, chi bộ
phương pháp tác phong lãnh đạo chưa phù hợp với vai trò, chức trách, cương vị công tác.
Số ít đảng bộ cơ sở, chi bộ vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Trong sinh
hoạt ở một số đảng bộ cơ sở, chi bộ, nội dung sinh hoạt còn chung chung, ít thiết thực,
đảng viên không tích cực đóng góp ý kiến, chủ yếu là nhất trí thông qua. Vì vậy, có
những nghị quyết kém hiệu lực, thiếu những biện pháp mới, sinh hoạt tự phê bình và phê
bình chất lượng không cao. Một số đồng chí còn nể nang, hữu khuynh, né tránh, chưa
mạnh dạn công khai, đấu tranh kiên quyết với những biểu hiện tiêu cực sai trái. Nhìn
chung đảng viên ít tham gia ý kiến hoặc ý kiến một cách chung chung, không rõ chính
kiến. Trong sinh hoạt còn biểu hiện, quan liêu, dân chủ hình thức.
Bốn là, năng lực của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu trong lãnh
đạo tiến hành công tác kiểm tra, sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm chưa đáp ứng yêu cầu
của thực tiễn, thiếu chủ động, nhạy bén trong lãnh đạo, chỉ đạo tiến hành công tác kiểm
tra. Thực tế cho thấy công tác kiểm tra ở các đơn vị cơ sở kém hiệu lực, không phát hiện
ra những vụ vi phạm lớn trong đơn vị. Phát hiện ra các vụ việc này chủ yếu là các đợt cấp
trên kiểm tra hoặc dư luận của quần chúng phát hiện, các cơ quan chức năng xem xét xử
lý.
Công tác sơ tổng kết, rút kinh nghiệm tuy được tiến hành thường xuyên, song
chưa rút ra được những bài học quý báu, thực sự có giá trị trực tiếp cho chỉ đạo hoạt động
thực tiễn ở các đơn vị cơ sở. Đáng chú ý hơn cả là trong công tác xây dựng TCCSĐ trong
sạch vững mạnh gắn liền với xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh toàn diện. Mặc dù đã có
nhiều cố gắng, thường xuyên sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm hàng năm và từng giai
đoạn công tác nhưng hiệu quả chưa đạt được theo mong muốn. Vì vậy việc nâng cao
năng lực của các cấp uỷ đảng trong lãnh đạo công tác kiểm tra, sơ tổng kết rút kinh
nghiệm là một biện pháp tích cực được quan tâm đẩy mạnh nhưng vẫn chưa đạt kết quả
mong muốn. Đây là một nhân tố hạn chế việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ
thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu đủ sức lãnh đạo đơn vị hoàn thành nhiệm vụ chính trị
trong giai đoạn hiện nay.
Năm là, sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp trên nhất là cấp trên trực tiếp đối với việc xây
dựng, nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục nhiều nội dung còn
chung chung, thiếu sâu sát, cụ thể, thiết thực, kịp thời. Những năm qua việc chỉ đạo
hướng dẫn thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn đảng nói chung, đối với các
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu nói riêng có tốt hơn, song cấp trên cơ sở nhất
là cấp trên trực tiếp có lúc, có nơi có vấn đề cũng còn lúng túng, thiếu nội dung, biện
pháp cụ thể cho từng bước đi cụ thể trong thực hiện cuộc vận động; gợi ý những nội dung
phê bình và tự phê bình cho đảng uỷ và từng đảng uỷ viên ở các TCCSĐ còn chung
chung. Vì vậy, làm cho cấp uỷ cấp dưới cũng lúng túng trong thực hiện, thiếu chặt chẽ,
không bảo đảm chất lượng theo yêu cầu đề ra.
Việc tổ chức cho cấp dưới và quần chúng tham gia xây dựng Đảng, góp ý phê bình
các đảng uỷ viên gần đây làm tốt hơn, những cũng còn hạn chế, chưa dân chủ, khơi dậy
được ý thức trách nhiệm và tính tự giác của quần chúng. Có nơi còn coi nhẹ, giản đơn, tổ
chức thiếu chặt chẽ. Chưa kịp thời giải đáp những vấn đề vướng mắc của quần chúng.
Tiếp thu những ý kiến, phê bình của quần chúng còn chậm hoặc chưa triệt để.
Những vấn đề nêu trên vừa là những mặt hạn chế, khuyết điểm, vừa là cơ sở đề ra
giải pháp cơ bản về NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục. Nhận thức
đầy đủ đúng mức những khuyết điểm, hạn chế này sẽ giúp cho việc đề ra những giải pháp
đúng đắn, sát thực và tiến hành công tác xây dựng, nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ của đảng bộ Tổng cục.
2.1.2.2. Những khuyết điểm, hạn chế về hoạt động tạo nên năng lực lãnh đạo
và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng
Các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu vừa qua tuy đã được nâng lên
một bước, song chưa đồng đều và vững chắc, còn có những khuyết điểm, hạn chế, bất
cập trước yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị, yêu cầu hoạt động xây dựng đảng bộ cơ sở, chi
bộ ở các đơn vị cơ sở trong thời kỳ mới hiện nay được biểu hiện trên những nội dung cơ
bản sau:
Điểm yếu nổi bật của đội ngũ cán bộ ở các TCCSĐ thuộc đảng bộ là năng lực tổ
chức, chỉ huy, điều hành, quản lý đơn vị còn có mặt hạn chế, nhất là quản lý bộ đội, năng
lực nhằm vận dụng chủ trương, chính sách, pháp luật và hoạt động chiến đấu, công tác
của một số cán bộ, đảng viên còn lúng túng, thiếu nhuần nhuyễn; trình độ kiến thức nhìn
chung còn chưa toàn diện, chưa thành hệ thống, nhất là những kiến thức có liên quan đến
việc thi hành nhiệm vụ đòi hỏi phải đầy đủ như: chính trị, quân sự, ngoại giao và các hệ
thống kiến thức khác như văn hoá - xã hội, kinh tế, pháp luật, ngoại ngữ, tin học... năng
lực chiến đấu trên lĩnh vực ta tư tưởng chính trị, lý luận, đấu tranh vũ trang và phi vũ
trang, chống "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ từ bên trong, cuộc chiến tranh xâm lược
từ bên ngoài của các thế lực thù địch còn chưa nhạy bén, sắc sảo. Đội ngũ sĩ quan ở các
đơn vị công tác, đặc biệt là đội ngũ cán bộ ở đơn vị cơ động chiến đấu, xây dựng địa bàn
phòng thủ chiến lược, xây dựng cơ sở chính trị địa phương, năng lực ứng xử, năng lực
công tác vận động quần chúng nhân dân, năng lực tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa
phương còn yếu, chưa thật sự đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ, đặc biệt là các tình huống nảy
sinh phải chủ động, độc lập xử lý...
Việc chấp hành nguyên tắc tổ chức lãnh đạo của Đảng nhất là nguyên tắc tập trung
dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, tự phê bình và phê bình ở các TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục tuy đã có nhiều chuyển biến tiến bộ, nhưng có lúc, có nơi chưa thật sự
nghiêm túc, chất lượng sinh hoạt nhất là sinh hoạt tự phê bình và phê bình ở một số đảng bộ
cơ sở, chi bộ hiệu quả còn thấp. Biểu hiện rõ nhất là sự vi phạm nguyên tắc lãnh đạo của
Đảng ở từng lúc, từng nơi, ở từng TCCSĐ vẫn còn xảy ra, việc xây dựng quy chế xác định
phạm vi lãnh đạo chưa toàn diện, chưa cụ thể, việc tổ chức thực hiện quy chế có tổ chức có
tổ chức đảng chưa nghiêm túc... có nơi có quy chế nhưng không thực hiện theo quy chế dẫn
tới vi phạm nguyên tắc, khuyết điểm, việc rà soát bổ sung hoàn thiện quy chế chưa kịp thời,
giải quyết các mối quan hệ giữa đồng chí bí thư với đồng chí chỉ huy trưởng có nơi chưa thật
mẫu mực, có biểu hiện đề cao cá nhân, bè phái...
Dân chủ trong Đảng tuy được cải thiện nhưng tình trạng thiếu dân chủ, nặng về
mệnh lệnh hoặc dân chủ hình thức vẫn còn tồn tại, có nơi còn diễn ra nghiêm trọng.
Việc tự phê bình và phê bình tuy đã khá hơn trước, song vẫn còn là khâu yếu, hiện
tượng nể nang, xuề xoà, che dấu khuyết điểm cho nhau, cấp dưới không dám phê bình
cấp trên, chiến sĩ không dám phê bình cán bộ vẫn khá phổ biến, đi đôi với nó là hiện
tượng cục bộ, địa phương chủ nghĩa, phe cánh dẫn đến nhiều trường hợp phê bình đã
phản tác động.
Công tác kiểm tra còn nhiều hạn chế, nhiều TCCSĐ chưa quán triệt phương châm
kết hợp chặt chẽ giữa "xây" và "chống" trong đó coi "xây" là chủ yếu. Công tác kiểm tra
ở nhiều TCCSĐ chưa đi vào nề nếp, nhiều nơi khi phát hiện thấy có dấu hiệu đảng viên
vi phạm kỷ luật mới tiến hành công tác kiểm tra. Tình trạng mất đoàn kết kéo dài ở một
số TCCSĐ vẫn còn tồn tại.
Việc duy trì nề nếp, chế độ sinh hoạt ở một số TCCSĐ làm chưa nghiêm túc, chế
độ sinh hoạt đảng, nhất là sinh hoạt tổ đảng còn thất thường, nội dung, hình thức chậm
được đổi mới. Nhiều chi bộ chuẩn bị nội dung sinh hoạt còn chung chung, giản đơn, thiếu
chiều sâu, tính chiến đấu tính giáo dục và tính lãnh đạo không cao. Có những nghị quyết
còn dàn đều, chung chung sao chép lại của trên, mệnh lệnh của người chỉ huy, thiếu
những biện pháp cụ thể, thiếu thực có tính khả thi. Trong sinh hoạt lãnh đạo của cấp uỷ,
chi bộ nhiều đảng viên không tích cực tham gia đóng góp ý kiến, chủ yếu là nhất trí thông
qua, do đó làm hạn chế chất lượng của nghị quyết và ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng
du lịch của đảng bộ cơ sở, chi bộ, kết quả thấp những khuyết điểm trên đã trực tiếp làm
giảm sút hoạt động tạo nên NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham
mưu QĐND Lào.
Hoạt động lãnh đạo công tác tư tưởng có thời điểm một số cấp uỷ, chi bộ chưa sát
thực tế, chưa chủ động nhạy bén, biện pháp công tác tư tưởng chưa sát thực tế, chưa kịp thời
nắm bắt tình hình; chưa kết hợp giữa công tác tư tưởng với công tác tổ chức, ở một số
TCCSĐ, những vấn đề bức xúc chưa được làm rõ, giải quyết từ cơ sở, chủ yếu chờ đợi và
đùn đẩy trách nhiệm lên cấp trên, tư tưởng tự nghiên cứu học tập và rèn luyện của một bộ
phận cán bộ, đảng viên còn hạn chế, phải được khắc phục; một số cấp uỷ, chỉ huy có lúc
thiếu thống nhất trong hoạt động lãnh đạo, điều hành thực hiện nhiệm vụ, nội bộ mất đoàn
kết kéo dài không được làm rõ nguyên nhân và giải quyết triệt để từ cơ sở [53, tr.17].
Công tác sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo các mặt công
tác của đơn vị chưa tiến hành thường xuyên, chưa rút ra những bài học kinh nghiệm thực
sự quý báu và giá trị để trực tiếp lãnh đạo, chỉ đạo hoạt động thực tiễn có hiệu quả. Hạn
chế nêu trên được biểu hiện ở tất cả các mặt: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị, xây
dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ, xây dựng đảng viên và các tổ chức quần chúng ở cơ sở.
Những tồn tại khuyết điểm đó có liên quan trực tiếp đến chất lượng lãnh đạo của các
TCCSĐ, nhất là về hoạt động tạo nên năng lực du lịch và SCĐ của các đồng bộ cơ sở, chi
bộ, đặt ra yêu cầu phải xây dựng, củng cố các TCCSĐ nhằm phát huy hơn nữa vai trò hạt
nhân lãnh đạo hoạt động của mình, để đủ sức lãnh đạo đơn vị hoàn tất mọi nhiệm vụ
được giao trong tình hình mới.
2.2. Nguyên nhân và kinh nghiệm
2.2.1. Nguyên nhân của ưu điểm
Một là, Đảng nhân dân cách mạng Lào đã đề ra đường lối đổi mới đúng đắn, phù
hợp với điều kiện của đất nước, những thành tựu đó đã tạo nên tiền đề thuận lợi trong xây
dựng, nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu
QĐND Lào những năm vừa qua.
Sự nghiệp đổi mới toàn diện của đất nước theo định hướng con đường XHCN do
Đảng, chủ tịch Cay Xỏn Phôm Vi Hản và nhân dân các bộ tộc Lào đã lựa chọn. Qua 20
năm đổi mới, đất nước đã đạt được những thành tựu quan trọng, đã tạo ra thế và lực mới
để bước vào thời kỳ phát triển mới, là thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Thúc đẩy nền kinh tế tăng trưởng, đời sống mọi mặt của nhân dân được cải thiện,
chính trị đất nước ổn định, quốc phòng - an ninh được củng cố, đất nước vượt qua giai đoạn
khủng hoảng kinh tế - xã hội, phá vỡ thế bao vây cấm vận của chủ nghĩa đế quốc và các thế
lực thù địch, mở rộng quan hệ quốc tế, vị thế của đất nước trên trường quốc tế và khu vực
tăng lên, nhân dân phấn khởi tin tưởng vào Đảng, vào sự nghiệp đổi mới của đất nước, vai
trò, uy tín của Đảng và nhà nước được nâng lên.
Những thành tựu to lớn của công cuộc đổi mới đất nước đã tạo sức mạnh vật chất
và tinh thần, là nguồn lực cổ vũ động viên đối với toàn thể cán bộ, đảng viên, chiến sĩ ở
các đơn vị và các TCCSĐ ở đó. Mặt khác, cùng với sự phát triển của đất nước, đời sống
tinh thần của đội ngũ cán bộ, đảng viên, chiến sĩ trong quân đội nói chung và đội ngũ cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ ở các đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục Tham mưu nói riêng cũng được
nâng cao hơn trước. Đảng và Nhà nước đã có nhiều chính sách ưu đãi về lương thực, thực
phẩm, phụ cấp cho các đơn vị cơ sở, được chăm lo tốt hơn về các điều kiện ăn, ở, sinh
hoạt, phương tiện phục vụ công tác của đơn vị; quan tâm hơn các chế độ chính sách hậu
phương quân đội với cán bộ, đảng viên trực tiếp công tác ở các đơn vị cơ sở, giúp họ yên
tâm hơn gắn bó với cơ sở, đơn vị, ra sức phấn đấu, tập trung xây dựng TCCSĐ ngày càng
trong sạch vững mạnh, chất lượng cao trong lãnh đạo xây dựng đơn vị cơ sở vững mạnh
toàn diện hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao.
Hai là, sự quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo kịp thời, đúng đắn của cấp uỷ đảng cấp trên,
mà trực tiếp và toàn diện là đảng uỷ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào, là nguyên nhân có
ý nghĩa quyết định kết quả NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu những năm vừa qua.
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vai trò, vị trí của TCCSĐ nói chung, TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục nói riêng, những năm qua các đảng bộ cơ sở, chi bộ đã quán triệt sâu
sắc đường lối đổi mới và nhiệm vụ chỉnh đốn Đảng trong Đảng bộ quân đội, các cấp uỷ
đảng cấp trên, mà trực tiếp nhất là đảng uỷ Tổng cục Tham mưu, đã tập trung sự lãnh
đạo, chỉ đạo vào củng cố, xây dựng, nâng cao chất lượng tổ chức lãnh đạo ở các đơn vị,
mà trọng tâm là các TCCSĐ và chi bộ, gắn xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh
với xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện; nâng cao NLLĐ và sức chiến đấu của cấp uỷ,
đội ngũ đảng viên; gắn xây dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng cán bộ; chú trọng kiện
toàn tổ chức, đảm bảo chất lượng của các TCCSĐ ở loại hình đơn vị chiến đấu, công
tác...
Đảng uỷ Tổng cục tham mưu đã nắm vững và quán triệt các nghị quyết, chỉ thị,
quy định, hướng dẫn của Đảng, của đảng uỷ Bộ Quốc phòng, Tổng cục chính trị về chủ
trương biện pháp chỉ đạo xây dựng các TCCSĐ, từ đó đã tạo nên sự thống nhất về nhận
thức, ý chí và hành động, nâng cao tinh thần trách nhiệm của các tổ chức và cơ quan cấp
trên, làm chuyển biến ở cơ sở, dồn sức cho cơ sở, bảo đảm sự hoạt động đồng bộ, thống
nhất và hiệu quả hơn công tác xây dựng TCCSĐ. Tiến hành rà soát lại, đánh giá đúng
thực trạng, nguyên nhân mạnh yếu của các TCCSĐ, xác định phương hướng, mục tiêu,
nội dung, biện pháp để củng cố, xây dựng nâng cao chất lượng lãnh đạo của TCCSĐ
thuộc đảng bộ Tổng cục. Đảng uỷ Tổng cục Tham mưu đã chú trọng xây dựng quy định
cụ thể về chức năng, nhiệm vụ của các loại hình TCCSĐ, trong đó có loại hình TCCSĐ
đơn vị sẵn sàng chiến đấu, cơ động chiến đấu là cơ bản nhất để thực hiện nhiệm vụ của
các đơn vị; đồng thời chỉ đạo các TCCSĐ xây dựng quy chế hoạt động theo đúng chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn; giải quyết tốt các mối quan hệ công tác giữa tổ chức đảng
với chỉ huy và hiệu quả hoạt động của tổ chức quần chúng trong đơn vị cơ sở; phát huy
được trách nhiệm, trí tuệ, tính sáng tạo của đội ngũ cấp uỷ và đảng viên trong việc xây
dựng, nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Đó là nguyên nhân ưu điểm cơ bản, có ý
nghĩa quyết định kết quả lãnh đạo, chất lượng thực tế của các TCCSĐ thuộc đảng bộ
Tổng cục tham mưu QĐND Lào vừa qua.
Ba là, có sự phối hợp chặt chẽ và tích cực của cấp uỷ, chỉ huy, toàn thể quần
chúng với tổ chức đảng, chính quyền địa phương ở nơi địa bàn đóng quân của đối với, đã
góp phần tham gia xây dựng TCCSĐ và đơn vị.
Do đặc điểm, nhiệm vụ, công tác của đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục tham mưu là
bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia, bảo vệ cơ sở chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội; tính mạng, tài sản của nhân dân trên địa bàn chiến lược của các bản, huyện,
tỉnh, thành phố... nơi khu vực đảm nhiệm. Do vậy, đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các
TCCSĐ thường xuyên gắn bó, tiếp xúc làm việc với cấp uỷ, chính quyền địa phương và
nhân dân các bản làng, huyện, luôn thực hiện 4 cùng với dân "cùng ăn, cùng ở, cùng làm,
cùng làm chủ Tổ quốc". Bên cạnh những mặt tích cực của đội ngũ cán bộ, đảng viên đã
được cấp uỷ, quần chúng và nhân dân các bản, huyện ghi nhớ thì những yếu kém, khuyết
điểm của họ cũng được nhân dân, chính quyền địa phương phản ánh, cung cấp kịp thời
những thông tin cho cấp uỷ, TCCSĐ và đơn vị kiểm điểm, nhắc nhở, uốn nắn, rút kinh
nghiệm. Đây là điều kiện rất quan trọng góp phần xây dựng, nâng cao NLLĐ và SCĐ của
các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục.
Mặt khác, cũng phải ghi nhận vai trò của tổ chức quần chúng trong đơn vị thời
gian qua đã tích cực tham gia đóng góp, xây dựng các TCCSĐ, thông qua việc tham gia
góp ý kiến đối với sự lãnh đạo của cấp uỷ, TCCSĐ và từng cán bộ đảng viên, giúp tổ
chức đảng kịp thời xem xét và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm của mình. Quần
chúng trong đơn vị là người trực tiếp gần gũi, gắn bó đối với cán bộ, đảng viên, trực tiếp
tham gia kiểm tra, giám sát mọi hoạt động công tác đời sống sinh hoạt của đảng viên, họ
đã đề cao trách nhiệm, phản ánh kịp thời cho lãnh đạo, chỉ huy đơn vị những điểm mạnh,
điểm yếu kém của đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quá trình hoạt động công tác ở đơn vị
và ngoài xã hội; để cấp uỷ, TCCSĐ có chủ trương, biện pháp quản lý, giáo dục, rèn
luyện, giúp họ ngày càng tiến bộ hơn. Bên cạnh đó, các tổ chức quần chúng còn thường
xuyên giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng những quần chúng ưu tú là đoàn viên, hội viên...
cung cấp cho tổ chức đảng, để bồi dưỡng kết nạp vào Đảng, đã làm tăng thêm số đảng
viên mới, góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng
cục.
Bốn là, các cấp uỷ cơ sở đã nhận thức rõ vị trí, vai trò của các TCCSĐ, đã đề cao
trách nhiệm trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng TCCSĐ, đây là nguyên nhân chủ yếu quyết
định nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục.
Các cấp uỷ cơ sở thuộc đảng bộ Tổng cục (đảng bộ cơ sở, chi bộ) đã quán triệt và
nhận thức sâu sắc nhiệm vụ đổi mới chỉnh đốn Đảng; có nhận thức đúng đắn về vai trò
hạt nhân chính trị của TCCSĐ; thấy rõ được sự cần thiết phải đổi mới để nâng cao chất
lượng lãnh đạo của tổ chức đảng ở cơ sở, nhằm phát huy NLLĐ toàn diện, SCĐ cao của
cấp uỷ, đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của đơn vị trong thời kỳ mới.
Trong bối cảnh, điều kiện đơn vị còn nhiều khó khăn, thử thách, hầu hết các cấp uỷ đã
tập trung mọi nỗ lực của mình không ngừng được củng cố, kiện toàn về số lượng và nâng
cao chất lượng, xây dựng đội ngũ cấp uỷ viên có phẩm chất, năng lực, tiền phong gương
mẫu trong sinh hoạt và hoạt động công tác ở đơn vị. Đến nay các cấp uỷ đã nhận thức rõ
chức năng, nhiệm vụ lãnh đạo của TCCSĐ, 100% cấp uỷ, TCCSĐ đã xây dựng quy chế
làm việc và duy trì tổ chức thực hiện theo quy chế, do đó đã góp phần giải quyết tốt các
mối quan hệ của TCCSĐ, đặc biệt là mối quan hệ giữa cấp uỷ, đồng chí bí thư với người
chỉ huy đơn vị; giữa thủ trưởng chính trị với thủ trưởng quân sự theo một cơ chế thống
nhất hơn, hạn chế đến mức thấp nhất tình trạng buông lỏng vai trò lãnh đạo của Đảng
hoặc bao biện làm thay, chồng chéo trong công việc; đổi mới phương thức sinh hoạt và
lãnh đạo của Đảng ở cơ sở. Đó là những chuyển biến hết sức quan trọng để giữ vững và
tăng cường vai trò lãnh đạo của TCCSĐ; đồng thời cũng là nguyên nhân chủ yếu quyết
định NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào hiện
nay.
Năm là, đội ngũ cán bộ, đảng viên đã được nâng cao trình độ, năng lực về mọi
mặt, phát huy tốt vai trò tiền phong gương mẫu, tích cực tu dưỡng, rèn luyện, phấn đấu
trưởng thành, đó là điều kiện cơ bản, là nhân tố quan trọng tạo nên NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ.
Đội ngũ cán bộ, đảng viên của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục ngày càng
được đào tạo cơ bản hơn, số có trình độ học vấn, trình độ về lý luận chính trị, chuyên
môn nghiệp vụ đã được tăng lên hơn trước; tỷ lệ lãnh đạo của các TCCSĐ những năm
qua cũng đã tăng dần, đó là điều kiện cơ bản góp phần nâng cao chất lượng lãnh đạo của
các TCCSĐ, là một nhân tố tạo nên NLLĐ của các TCCSĐ trong những năm vừa qua.
Hầu hết cán bộ, đảng viên của các TCCSĐ đã tích cực trong việc tu dưỡng, rèn luyện bản
thân, có tinh thần phấn đấu bền bỉ, xác định tốt trách nhiệm, yên tâm công tác, gắn bó với
đơn vị; phát huy tốt vai trò tiên phong gương mẫu, đi đầu trong công tác và hoàn thành
tốt nhiệm vụ được giao....
2.2.2. Nguyên nhân của khuyết điểm
Một là: sự tác động tiêu cực của mặt trái kinh tế thị trường và các tệ nạn xã hội; sự
chống phá quyết liệt của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch là một trong những nguyên
nhân trực tiếp dẫn đến mặt khuyết điểm của các TCCSĐ.
Sự phát triển của nền kinh tế thị trường trong nước để tạo ra tốc độ tăng cường
kinh tế cao, tạo ra nhiều của cải vật chất, đời sống xã hội có bước đổi mới. Song, mặt trái
của nó lại là nhân tố tác động, chi phối đến mọi mặt của đời sống xã hội, đến mọi đối
tượng trong xã hội, trong đó bao gồm các đội ngũ cán bộ, đảng viên, sự phân hoá giàu
nghèo, chênh lệch nhau về mức sống ngày càng rõ hơn, sự mài mòn những giá trị đạo
đức, văn hoá truyền thống, sự gia tăng các tệ nạn xã hội, lối sống thực dụng, bon chen ...
đã hàng ngày, hàng giờ tác động, lầm nảy sinh tâm trạng băn khoăn, lo lắng, so đo tính
toán thiệt hơn trong một bộ phận cán bộ, đảng viên của các TCCSĐ. Hiệu quả là có cán
bộ, đảng viên lập trường không vững vàng, bị chi phối tác động, không giữ được bản
lĩnh, tư cách, phẩm chất của người cán bộ, đảng viên, xuất hiện lối sống thực dụng, hám
danh, hám lợi, chạy theo đồng tiền, làm giàu bất chính... dẫn đến không tích cực trong
công tác, thiếu cố gắng phấn đấu vươn lên, có trường hợp đã tha hoá biến chất, vi phạm
kỷ luật của Đảng, pháp luật của nhà nước và kỷ luật của quân đội.
Sự tác động chi phối của tình hình chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có nhiều
biến động phức tạp: chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch lợi dụng thời cơ tăng
cường chống phá nước CHDCND Lào bằng nhiều thủ đoạn, nhất là đẩy mạnh thực hiện
chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ, nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng
nhân dân cách mạng Lào, phi chính trị hoá quân đội... Đi đôi với sự am hiểu và nhận thức
sâu sắc của tuyệt đại đa số cán bộ, đảng viên có lập trường vững vàng, có ý thức cảnh
giác cách mạng cao với những âm mưu, thủ đoạn nham hiểm của kẻ thù, thì bên cạnh đó
còn có một số cán bộ, đảng viên chưa nhận thức rõ vấn đề này, ở lúc này, lúc khác còn
mất cảnh giác, cá biệt có trường hợp đã bị địch mua chuộc, lôi kéo, móc nối, vô tình hay
hữu ý đã tiếp tay cho các thế lực thù địch, cung cấp thông tin, làm lộ bí mật quân sự, bí
mật quốc gia... gây ảnh hưởng lớn đến Tổ quốc, Quân đội cũng như các đối với cơ sở.
Hai là, đứng trước sự tác động của tình hình chính trị, kinh tế, văn hoá xã hội thế
giới, khu vực và trong nước có nhiều biến động phức tạp, công tác chính trị, tư tưởng của
nhiều TCCSĐ còn có những hạn chế, khuyết điểm, chưa theo kịp sự phát triển của tình
hình.
Nhiều cấp uỷ, chỉ huy đơn vị chưa nhanh nhạy, kịp thời nắm bắt những vấn đề nảy
sinh trong đời sống xã hội, chưa quan tâm đúng mức vai trò của công tác chính trị, tư
tưởng ở cơ sở, dẫn đến xem nhẹ, chủ quan hoặc ngại làm công tác tư tưởng. Trong lãnh
đạo của cấp uỷ, TCCSĐ còn biểu hiện giản đơn, chưa chủ động dự kiến được những vấn
đề tư tưởng phức tạp trong môi trường xã hội mới, thiếu biện pháp hợp lý, cụ thể định
hướng, quản lý các vấn đề tư tưởng nảy sinh ở cơ sở; nề nếp công tác chính trị, tư tưởng
chưa được duy trì chặt chẽ thường xuyên và thiếu toàn diện đồng bộ, đặc biệt là thiếu
những hình thức, biện pháp hữu hiệu trong xây dựng lối sống, nếp sống và rèn luyện
phẩm chất đạo đức cách mạng lành mạnh. Một số biện pháp công tác tư tưởng còn sơ
cứng, đơn điệu, áp đặt, thiếu dân chủ. Một số TCCSĐ chưa kết hợp chặt chẽ giữa công
tác giáo dục với công tác tổ chức, và chăm lo đến đời sống mọi mặt cho cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ trong đơn vị. Vì vậy, trước sự phát triển mới của tình hình, nhận thức chính
trị, trình độ lý luận của một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa theo kịp; trước những vấn đề
mới nảy sinh trong thực tiễn, nhiều đồng chí còn bỏ ngỏ, chưa lý giải được cho mình. Một
số cán bộ, đảng viên nhận thức về tình hình nhiệm vụ mới chưa sâu, trước âm mưu "diễn
biến hoà bình" bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch còn mơ hồ, thiếu cảnh giác. Mặt khác,
trước sự tác động của cơ chế thị trường, tư tưởng cá nhân, thực dụng để bộc lộ ở các mức độ
khác nhau, trong đời sống đơn vị, hiệu quả công tác thấp, một số ít cán bộ sa sút phẩm chất
đạo đức, vi phạm kỷ luật và pháp luật...
Ba là, năng lực, trách nhiệm của một số cấp uỷ, của TCCSĐ chưa tương xứng với
yêu cầu, nhiệm vụ lãnh đạo trong tình hình thực tiễn ở cơ sở.
Yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong
tình hình mới đặt ra rất toàn diện và nặng nề, tuy nhiên trình độ năng lực và trách nhiệm
của một số cấp uỷ không đáp ứng với yêu cầu nhiệm vụ. Một mặt do các cấp uỷ không
thường xuyên tích cực nghiên cứu, học tập, trao đổi thêm kiến thức, đúc rút kinh nghiệm
từ thực tiễn. Mặt khác lại chưa đề cao vai trò trách nhiệm trước TCCSĐ, nên trước những
vấn đề thực tiễn đặt ra còn bị động, lúng túng cả về chủ trương và biện pháp lãnh đạo,
dẫn tới kết quả đạt được thấp.
Một số cấp uỷ do chưa quán triệt sâu sắc và vận dụng sáng tạo những vấn đề cơ
bản về công tác xây dựng Đảng; nhận thức về chức năng nhiệm vụ của TCCSĐ không rõ
ràng nên việc duy trì và thực hiện nguyên tắc tổ chức lãnh đạo và sinh hoạt đảng thiếu
nghiêm túc, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, với phân công cá nhân
phụ trách còn chung chung, chưa thực hiện nghiêm tự phê bình và phê bình, dẫn đến nội
bộ mất đoàn kết, chất lượng sinh hoạt thấp, tính chiến đấu và vai trò tiền phong gương
mẫu của đội ngũ cán bộ, đảng viên và cấp uỷ hạn chế, một số cấp uỷ viên vi phạm kỷ
luật...
Bốn là, một bộ phận cán bộ, đảng viên thiếu tu dưỡng, rèn luyện, không phát huy
được vai trò tiền phong gương mẫu đã làm suy giảm uy tín và vai trò lãnh đạo của
TCCSĐ.
Một bộ phận cán bộ, đảng viên chưa ý thức được trách nhiệm đối với công tác xây
dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ; chưa nhận thức đầy đủ ý nghĩa, tầm quan trọng của việc nâng
cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ, coi đó là công việc của bí thư, cấp uỷ và cán bộ chính
trị; nhận thức về vai trò công tác đảng, công tác chính trị chưa sâu sắc, dẫn đến biểu hiện
xem nhẹ, thiếu tích cực, chưa chủ động tham gia xây dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ trong
sạch vững mạnh và đơn vị vững mạnh toàn diện.
Năm là, một số cán bộ chủ chốt ở cơ sở (nhất là đồng chí bí thư của TCCSĐ và
cán bộ chỉ huy đơn vị) chưa phát huy tốt vai trò trách nhiệm trong xây dựng TCCSĐ, sự
quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo của một số đảng uỷ, cơ quan chính trị của các đơn vị trong
xây dựng TCCSĐ còn hạn chế.
Biểu hiện rõ nhất là một số đồng chí bí thư đảng bộ cơ sở, chi bộ, tính chủ động,
sự nỗ lực chủ quan chưa cao, còn ỷ lại vào cấp trên, dựa dẫm vào hoàn cảnh đơn vị. Một
số đồng chí chỉ huy đơn vị tính đảng chưa cao, sự nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm đối
với các hoạt động trong công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị còn hạn chế, còn
biểu hiện ỷ lại, khoán trắng công tác xây dựng Đảng cho đồng chí bí thư (thủ trưởng
chính trị).
Sáu là, sau khi thực hiện chế độ hai thủ trưởng trong quân đội, các tổ chức đảng,
các tổ chức chỉ huy các cấp chưa được bồi dưỡng thường xuyên về năng lực, trách nhiệm
và nghiệp vụ công tác cho đội ngũ cán bộ chính trị, bí thứ, cấp uỷ, chi bộ, nên còn lúng
túng trong công việc. Báo cáo tổng kết rút kinh nghiệm 5 năm việc tổ chức vận hành chế
độ hai thủ trưởng và đảng uỷ trong quân đội, có một số cán bộ chuyên ngành quân sự
hoặc là chuyên ngành khác sang làm cán bộ chính trị không được bồi dưỡng về chức
trách, nghiệp vụ công tác cho nên bộc lộ nhiều hạn chế bất cập trong hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo đơn vị' [41, tr.20]. Do đó, NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng
cục Tham mưu kém.
2.2.3. Những kinh nghiệm
Qua thực tiễn nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
tham mưu QĐND Lào thời gian qua, có thể rút ra một số kinh nghiệm sau đây:
Thứ nhất, phải luôn xuất phát từ yêu cầu nhiệm vụ chính trị và tình hình cụ thể của
đơn vị mà xác định nội dung, biện pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục Tham mưu.
Xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của đơn vị để xác định nội dung, biện pháp tổ
chức thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của các TCCSĐ là một trong những biểu hiện
trước tiên và tập trung nhất để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Đây là một
trong những kinh nghiệm đầu tiên được rút ra từ thực tiễn xây dựng, nâng cao NLLĐ và
SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào.
Thứ hai, thường xuyên chăm lo xây dựng và kiện toàn cấp uỷ các cấp và chi bộ.
Đây là nhân tớ chủ yếu quyết định NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Xây dựng đảng phải
vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, xây dựng cấp uỷ và đội ngũ cán bộ, đảng
viên là khâu then chốt, trên cơ sở đó nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ, tập trung
vào thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của đơn vị.
Thường xuyên kiện toàn, nâng cao chất lượng các cấp uỷ đảng, nhất là đảng uỷ cơ
sở ở các đơn vị thuộc Tổng cục Tham mưu luôn luôn là khâu trung tâm giữa vai trò quyết
định kết quả việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ và mức độ hoàn thành nhiệm
vụ chính trị của đơn vị. Phải chú ý kiện toàn cấp uỷ đủ về số lượng, nâng cao phẩm chất
năng lực của cấp uỷ viên, đặc biệt là trình độ, NLLĐ quản lý, điều hành thực hiện nhiệm
vụ chính trị của đơn vị.
Thứ ba, không ngừng thắt chặt mối quan hệ giữa tổ chức đảng và cán bộ, đảng
viên với chiến sỹ ở đơn vị và nhân dân nơi đóng quân.
Đây là mối quan hệ bản chất và truyền thống tốt đẹp của Đảng. Công tác xây dựng
Đảng nói chung, xây dựng và nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ nói riêng chỉ có
thể đạt được kết quả cao khi bắt thắt chặt các mối quan hệ này. Thực tế cho thấy nhiều
tấm gương cán bộ, đảng viên mẫu mực được quần chúng ca ngợi, noi theo; gắn bó với
quần chúng, TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên học hỏi được nhiều điều bổ ích ở quần
chúng, nhận được sự đóng góp, giúp đỡ thiết thực, bổ ích của quần chúng. Do đó, NLLĐ
và SCĐ của các TCCSĐ không ngừng được củng cố và nâng lên.
Thứ tư, phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên và sự hướng dẫn
giúp đỡ của cơ quan chức năng.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ cấp trên và cơ quan chức năng mang tính định
hướng chính trị sâu sắc cho việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ. Do vậy, trong quá
trình nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu các cấp uỷ
cấp trên, đặc biệt là cấp trên trực tiếp TCCSĐ (đảng uỷ Tổng cục Tham mưu) cần chú
trọng tới việc kiện toàn đội ngũ cán bộ chủ trì, kiện toàn cấp uỷ, nhất là đội ngũ bí thư
đảng uỷ. Thường xuyên làm tốt công tác kiểm tra, kịp thời uốn nắn những sai sót trong
quá trình lãnh đạo, chỉ đạo việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu là
trách nhiệm không chỉ của TCCSĐ mà còn của cấp uỷ cấp trên. Tuy nhiên, vai trò quyết
định nhất vẫn là của các cấp uỷ ở cơ sở. Muốn vậy, phải phát huy được vai trò trách
nhiệm của toàn thể cán bộ, đảng viên, giáo dục để xây dựng ý thức, tính tiên phong
gương mẫu cho cán bộ, đảng viên, rèn luyện tính tích cực chủ động, sáng tạo và ý thức tự
giác cho họ là vấn đề hết sức quan trọng có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả nâng cao
NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu.
Chương 3
Mục tiêu, phương hướng và những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng thuộc Đảng bộ Tổng cục tham mưu quân đội
nhân dân lào đến năm 2015
3.1. Dự báo thuận lợi, khó khăn, thách thức và mục tiêu, phương hướng nâng cao
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng thuộc Đảng bộ Tổng cục
tham mưu
3.1.1. Thuận lợi
Đảng nhân dân cách mạng Lào có đường lối, chính sách đúng đắn, có quy chế
pháp luật của nhà nước và sự quan tâm chỉ đạo thường xuyên của cấp uỷ cấp trên. Trong
quá trình thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo và xây dựng Đảng, các tổ chức đảng cấp trên, mà
trực tiếp là đảng uỷ Tổng cục Tham mưu đã tập trung xây dựng chi bộ, đảng bộ cơ sở,
thực hiện sự lãnh đạo trực tiếp về mọi mặt đã chú trọng đến lãnh đạo công tác đảng, công
tác chính trị trong các đơn vị và xây dựng các TCCSĐ để làm tốt chức năng tham mưu
cho Đảng uỷ Tổng cục về công tác đảng, công tác chính trị và tổ chức chỉ đạo thực
hiện công tác đảng, công tác chính trị trong đơn vị. Sự lãnh đạo của Đảng uỷ Tổng
cục Tham mưu, sự chỉ đạo về công tác của các cơ quan cấp trên và sự hướng dẫn của
cơ quan phòng chính trị Tổng cục đã là nhân tố tạo cho các TCCSĐ thực hiện có kết
quả chức năng lãnh đạo, xây dựng và hoàn thành nhiệm vụ [53, tr.4].
Các TCCSĐ đã có những nghị quyết, kế hoạch sát thực đối với công tác quốc
phòng trên lĩnh vực đóng quân. Đội ngũ đảng viên ở các TCCSĐ đã xác định được vai
trò gương mẫu trong nhiệm vụ, không ngừng tự ý thức về thời đại mới hiện nay, đã tự
học hỏi, trau dồi kiến thức về chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao trình độ lý luận chính trị
để không bị lạc hậu với nhiệm vụ mới.
Các TCCSĐ biết dựa vào nhiệm vụ của đơn vị, nhiệm vụ của từng cán bộ đảm
nhiệm, nhiệm vụ của người đảng viên để tổ chức rèn luyện, bồi dưỡng bản chất, giai cấp
công nhân cho đội ngũ đảng viên. Đồng thời phát huy tốt công tác phê bình và tự phê
bình trong tổ chức đảng, từng đảng viên.
Thực tế các TCCSĐ trong những năm qua đã tích cực tiến hành nhiều hoạt động
bồi dưỡng, mở rộng tri thức hiểu biết, thống nhất cách thức tổ chức tiến hành các hoạt
động công tác đảng, công tác chính trị với những nội dung, chình thức, biện pháp phong
phú, đa dạng, sát hợp với trình độ, đặc điểm đội ngũ cán bộ và đáp ứng yêu cầu đòi hỏi
của thực tiễn công tác đảng, công tác chính trị ở đơn vị; đại bộ phận cán bộ, đảng viên
đều nhận thức đầy đủ trách nhiệm chính trị của mình đối với sự nghiệp xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Lãnh đạo, chỉ huy đơn vị hết sức chăm lo và thường xuyên quan tâm hướng dẫn,
khích lệ, động viên từng cán bộ chính trị tích cực chủ động tự học tập mở rộng tri thức,
hiểu biết, tự rèn luyện thích hợp là nguyên nhân cơ bản tạo nên kết quả bồi dưỡng nâng
cao năng lực công tác đảng, công tác chính trị của đội ngũ cán bộ, đảng viên [25, tr.51].
Đa số cán bộ, đảng viên có phẩm chất chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu, lý
tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, có tinh thần trách nhiệm cao trước Đảng và
đồng bào, gương mẫu đi đầu trong thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách
và pháp luật của nhà nước.
3.1.1.2. Khó khăn và thách thức
Trong sự nghiệp đổi mới toàn diện và có nguyên tắc của đất nước đã thu được
những thành tựu đáng kể trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, song tình hình đất nước
đang đứng trước những khó khăn và thách thức mới. Sự tác động không nhỏ của mặt trái
nền kinh tế thị trường đang từng ngày, từng giờ ảnh hưởng đến lối sống của cán bộ đảng
viên, làm nảy sinh và phát triển tư tưởng xấu. Chủ nghĩa đế quốc đứng đầu là Mỹ chưa từ
bỏ âm mưu chống phá cách mạng Lào. Chúng đang ráo riết tiến hành chiến lược "diễn
biến hoà bình", bạo loạn lật đổ chế độ cộng hoà dân chủ nhân dân Lào.
Năng lực và biện pháp tiến hành công tác chính trị, công tác tư tưởng của một số
cấp uỷ, chi bộ còn yếu cả về nội dung, hình thức, còn chậm đổi mới không đáp ứng kịp
thời với diễn biến tư tưởng của đảng viên trước tình hình hiện nay. Nội dung phương
pháp lãnh đạo của các cấp uỷ, chi bộ các đơn vị chưa thường xuyên cải tiến, có lúc còn vi
phạm quy chế sinh hoạt đảng; sự phân công trong cấp uỷ cũng chưa được cụ thể và phù
hợp.
Việc quán triệt cho cán bộ, đảng viên về ý nghĩa tầm quan trọng của việc nâng cao
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ có một số nơi chưa thấu suốt và đúng mức. Do vậy kiến thức
năng lực thực tiễn về hoạt động công tác đảng, công tác chính trị của cán bộ chính trị và
cơ quan chức năng ở đơn vị cơ sở còn hạn chế. Tinh thần tự giác phấn đấu của cán bộ,
đảng viên chưa đáp ứng được yêu cầu xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh, xây
dựng đơn vị VMTD, trách nhiệm của một số cấp uỷ, chi bộ chưa cao, NLLĐ, quản lý,
điều hành đơn vị có mặt hạn chế, tác phong làm việc còn đơn giản, chủ quan, chưa kiên
quyết đấu tranh những hiện tượng nhận thức và hành động sai trái một cách có hiệu lực,
do đó NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ở một số đơn vị yếu kém.
Một số đồng chí bí thư của TCCSĐ tính chủ động, sự nỗ lực chủ quan chưa cao,
còn ỷ lại vào cấp trên, dựa dẫm vào hoàn cảnh. Một số ít được đào tạo, bồi dưỡng nâng
cao kiến thức toàn diện về công tác Đảng, công tác chính trị, năng lực trình độ, khả năng
ứng xử, cảm hoá, thuyết phục chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ. Một số ít cán bộ chỉ
huy đơn vị (thủ trưởng quân sự) tính đảng chưa cao, nhiệt tình, tinh thần trách nhiệm đối
với công tác Đảng, công tác chính trị trong đơn vị có nhiều hạn chế, còn ỷ lại, khoán
trắng công tác xây dựng đảng cho đồng chí bí thư (thủ trưởng chính trị).
Một số cán bộ, đảng viên chưa nêu cao vai trò tiền phong gương mẫu, chưa tự giác
học tập, tu dưỡng, rèn luyện, trình độ kiến thức năng lực của một bộ phận cán bộ, đảng
viên chưa đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ. Có những đảng viên sống buông thả, vi phạm đạo
đức, nguyên tắc, Điều lệ Đảng phải xử lý kỷ luật đã ảnh hưởng đến uy tín, chất lượng
hiệu quả lãnh đạo của tổ chức đảng.
3.1.2. Mục tiêu và phương hướng nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến
đấu của tổ chức cơ sở đảng
3.1.2.1. Mục tiêu
Mục tiêu nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu
là xây dựng các chi bộ, đảng bộ cơ sở trong sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và
tổ chức; trong sạch vững mạnh trong toàn đảng bộ và trong từng chi bộ, tổ đảng, trong cả
đội ngũ cán bộ, đảng viên; giữ mối liên hệ vững chắc giữa TCCSĐ với chiến sĩ, phát huy
vai trò Đảng là hạt nhân chính trị ở cơ sở với phương thức lãnh đạo khoa học và có hiệu
quả.
Bồi dưỡng nâng cao các bản lĩnh chính trị, trình độ trí tuệ ở tầm chiến dịch - chiến
lược của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu, nhằm quán triệt sâu sắc và
thực hiện nghiêm túc đường lối, chỉ thị, nghị quyết cấp trên; luôn ra được nghị quyết
đúng, tổ chức thực hiện nghiêm và hiệu quả, lãnh đạo cơ quan, đơn vị hoàn thành xuất
sắc nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của giai đoạn hiện nay.
Có phương thức lãnh đạo khoa học, tác phong sâu sát cụ thể, luôn gắn bó mật thiết
với quần chúng. Trên cơ sở lãnh đạo toàn diện, biết tập trung sức mạnh lãnh đạo vào
những nhiệm vụ trọng tâm, trọng điểm; biết đột phá vào những nhiệm vụ mới, những
khâu yếu, mặt yếu, tạo ra những bước tiến nhảy vọt, vững chắc, chất lượng cao cả về thực
hiện nhiệm vụ chính trị và xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện.
Không ngừng đề cao tinh thần tự phê bình và phê bình, xây dựng 100% tổ chức
đảng, cấp uỷ thực sự trong sạch vững mạnh, 100% đảng viên đủ tư cách hoàn thành
nhiệm vụ trở nên, đội ngũ cán bộ, đảng viên luôn kiên quyết đấu tranh bảo vệ nền tảng tư
tưởng, đường lối, quan điểm của Đảng, bảo vệ cái đúng, bảo vệ cán bộ, đảng viên. Đồng
thời, có đủ sức mạnh đấu tranh, chiến thắng mọi biểu hiện tiêu cực, suy thoái trong Đảng,
luôn xứng đáng là nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở.
Thực hiện nghiêm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nâng cao chất lượng
đảng viên; kiên quyết chống biểu hiện tham nhũng, quan liêu, xa rời quần chúng, giảm
sút ý chí chiến đấu, phai nhạt lý tưởng, đạo đức, lối sống trong đội ngũ cán bộ đảng viên.
3.1.2.2. Phương hướng
* Phương hướng chung
Một là, thực hiện nghiêm túc những nguyên lý về Đảng và xây dựng đảng của chủ
nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, những nguyên tắc và quan điểm
đổi mới của Đảng, trước hết là những phương hướng, nhiệm vụ đổi mới và chỉnh đốn
đảng, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công nhân của
Đảng là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của công cuộc đổi mới và chỉnh đốn Đảng, có ý
nghĩa chi phối toàn bộ các hoạt động xây dựng Đảng. Đối với các chi bộ, đảng bộ cơ sở
thuộc Đảng bộ Tổng cục tham mưu 30% đảng viên trình độ văn hoá thấp, phần lớn đảng
viên ở đơn vị cơ sở chưa qua trường, thì vấn đề giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp
công nhân của Đảng càng có ý nghĩa quan trọng và trở thành yêu cầu trực tiếp cấp bách.
- Kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, trong bất kỳ tình huống nào cũng
không dao động, xa rời mục tiêu đó. Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ chính trị, chi bộ,
đảng bộ cơ sở thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu phải đứng trên lập trường giai cấp công
nhân, nắm vững quy luật khách quan, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Cay Xỏn Phôm Vi Hản, đường lối quan điểm của Đảng và chính sách của nhà
nước.
- Giữ vững nguyên tắc tập trung dân chủ, thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách, thường xuyên tự phê bình và phê bình, giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng,
kiên quyết đấu tranh chống tệ gây bè, kéo cánh, chia rẽ đoàn kết nội bộ Đảng.
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng lập trường quan điểm, ý thức tổ chức kỷ luật
của giai cấp công nhân, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng viên theo quan điểm của
giai cấp công nhân.
- Tăng cường quan hệ đoàn kết Đảng, quân đội với nhân dân và các nước XHCN,
đặc biệt là hai nước Anh - em (Việt Nam - Lào).
Hai là, chỉ đạo tốt cuộc vận động xây dựng cơ sở đảng trong sạch vững mạnh, chấn
chỉnh các cơ sở yếu kém, khắc phục sự buông lỏng công tác Đảng.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu cần
phải chú ý cả hai đối tượng: đối với các TCCSĐ đã đạt trong sạch vững mạnh cần quan
tâm nhiều hơn đến "thực lực", sức mạnh toàn diện, vai trò hạt nhân lãnh đạo của cơ sở
đảng sự ảnh hưởng các cơ sở đảng yếu kém, phải xuất phát từ thực tế ở đơn vị cơ sở, từ
sự đánh giá đúng thực trạng, xác định khâu yếu mà tìm ra giải pháp để tập trung giải
quyết dứt điểm. Cần có kế hoạch tiến hành cụ thể, xác định rõ yêu cầu, nội dung và bước
đi thích hợp - không hữu khuynh, né tránh những vấn đề gai góc phức tạp. Cần đặc biệt
coi trọng, củng cố và kiện toàn các TCCSĐ đảng làm nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu và
chiến đấu.
Khi tiến hành củng cố, nâng cao chất lượng các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu QĐND Lào cần quán triệt quan điểm hệ thống và toàn diện. Đảng mạnh là
mạnh từ Trung ương đến cơ sở. Vì vậy, nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ phải gắn
với nâng cao chất lượng cấp trên trước để tạo điều kiện cho việc nâng cao chất lượng cơ
sở đảng, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên. Song với vai trò là hạt nhân lãnh đạo ở
đơn vị, việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ phải gắn với củng cố và kiện toàn các
đoàn thể ở đơn vị. Muốn làm được điều đó phải chăm lo đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, đảng
viên, coi trọng việc kiện toàn đội ngũ cốt cán ở đơn vị cơ sở, phải đẩy mạnh công tác
phát triển đảng viên, tăng cường công tác quản lý đảng viên, thực hiện nguyên tắc: không
có đảng viên nào không có nhiệm vụ và đứng ngoài sự quản lý của tổ chức; khuyến khích
quần chúng tham gia xây dựng Đảng.
Ba là, kết hợp sự chỉ đạo, giúp đỡ của cấp trên với phát huy tính tự chủ và tinh
thần năng động, sáng tạo của đơn vị cơ sở.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trước hết là trách nhiệm của bản thân đơn vị
cơ sở, song ở Đảng bộ Tổng cục tham mưu, chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên nói
chung còn nhiều mặt hạn chế. Vì thế, sự chỉ đạo, giúp đỡ của cấp trên là rất cần thiết,
nhất là những đơn vị cơ sở yếu kém kéo dài, nội bộ mất đoàn kết. Nhưng cần lưu ý rằng
vai trò của cấp trên là chỉ đạo, giúp đỡ, có nghĩa là hướng cho đơn vị cơ sở, những chủ
trương, giải pháp để tự tháo gỡ; tăng cường cán bộ xuống trực tiếp giúp đỡ đơn vị cơ sở
(khi cần thiết) và ủng hộ về vật chất (khi có điều kiện). Cấp trên trong vai trò ủng hộ,
giúp đỡ đơn vị cơ sở thì điều quan trọng nhất là giúp đơn vị cơ sở về đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, đảng viên và nâng cao dân trí, để đơn vị cơ sở tự vươn lên đảm nhiệm thấy công
việc là chính; cấp trên chỉ đóng vai trò chỉ đạo và kiểm tra thực hiện, đồng thời phát động
quần chúng thực hiện việc giám sát các hoạt động của tổ chức đảng và từng cán bộ, đảng
viên.
* Phương hướng cụ thể
Trong giai đoạn hiện nay, trước yêu cầu xây dựng Đảng ngang tầm nhiệm vụ, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc CHDCND Lào, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII
ĐNDCM Lào chỉ rõ: "Đảng uỷ các cấp từ Trung ương đến cơ sở phải chăm lo công tác
xây dựng TCCSĐ vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức và phong cách lãnh đạo
để làm cho TCCSĐ giữ vai trò hạt nhân lãnh đạo trên mọi lĩnh vực công tác ở cơ sở" [37,
tr.53].
"..Để đảm bảo cho hệ thống tổ chức của Đảng vững mạnh trước hết phải tiếp tục
xây dựng, củng cố TCCSĐ vững mạnh, biết lãnh đạo toàn diện gắn với xây dựng cơ sở
chính trị, huyện và làng vững mạnh" [22, tr.56]. Nghị quyết số 011 của Bộ chính trị Ban
chấp hành Trung ương ngày 17/8/1996 cũng chỉ rõ:
Đảng uỷ các cấp phải có kế hoạch cụ thể để củng cố và nâng cao NLLĐ
và SCĐ của TCCSĐ; coi trọng chi bộ và đảng bộ cơ sở ở nông thôn, các doanh
nghiệp, xí nghiệp và các đơn vị cơ sở trong lực lượng vũ trang, làm cho
TCCSĐ thực sự là hạt nhân lãnh đạo phong trào và trung tâm đoàn kết ở cơ sở
[33, tr.38].
Với các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào, phương hướng
cụ thể để nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ cần tập trung làm tốt một số vấn đề
sau:
Một là, quán triệt thực hiện đầy đủ Đại hội VII của Đảng và nghị quyết của bộ
chính trị Ban chấp hành Trung ương về tăng cường vai trò lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng
trong việc củng cố xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện.
Hai là, quán triệt sâu sắc và triển khai cụ thể trong Đảng bộ Quân đội Nghị
quyết số 07 của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng ngày 14/6/1997 xác định xây dựng TCCSĐ
(chi bộ, đảng bộ cơ sở) TSVM, gắn liền với xây dựng đơn vị cơ sở VMTD. Đây là
một đòi hỏi khách quan và cấp bách trong giai đoạn hiện nay, làm cơ sở cho xây dựng
QĐND Lào theo hướng cách mạng, chính quy từng bước hiện đại hoá, ngang tầm với
nhiệm vụ chính trị của quân đội trong giai đoạn cách mạng mới. Hướng dẫn số 85,
ngày 13/6/1996 của Đảng uỷ Bộ quốc phòng chỉ rõ:
Xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn liền với xây dựng đơn
vị cơ sở vững mạnh toàn diện phải tập trung xây dựng chi bộ ở cấp tiểu
đoàn, đại đội làm nhiệm vụ huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu, xây dựng
TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn liền với xây dựng đơn vị cơ sở vững
mạnh toàn diện còn phải gắn với nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội và
nhiệm vụ chính trị của các đơn vị, lấy kết quả hoàn thành nhiệm vụ chính trị
làm thước đo để đánh giá việc xây dựng TCCSĐ và đơn vị cơ sở [40, tr.24].
Ba là, tăng cường giáo dục nâng cao nhận thức và bản lĩnh, phẩm chất chính trị, NLLĐ
cho cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ trì, nòng cốt ở cơ sở về ý thức trách nhiệm, về vai trò
tầm quan trọng, tính cấp thiết và chủ trương, biện pháp xây dựng TCCSĐ, tạo sự chuyển biến
mới về nhận thức và hành động.
Thường xuyên bồi dưỡng, không ngừng nâng cao trình độ nhận thức, năng lực
công tác và trách nhiệm cho mọi đối tượng trong các đơn vị thuộc Tổng cục tham mưu,
trước hết là đảng uỷ, các đảng uỷ viên và cán bộ chủ trì làm nòng cốt cho việc lãnh đạo,
chỉ đạo, điều hành, quản lý. Tiến hành xây dựng TCCSĐ gắn liền với xây dựng đơn vị cơ
sở bảo đảm cho cơ sở luôn luôn vững mạnh. Xây dựng niềm tin, củng cố trận địa chính
trị tư tưởng của Đảng ở cơ sở, tạo ra sự chuyển biến từng mặt ở từng đơn vị cơ sở, phát
huy sức mạnh tổng hợp của các tổ chức, các lực lượng nâng cao chất lượng huấn luyện
chiến đấu, ý thức cảnh giác sẵn sàng chiến đấu cao và cơ động chiến đấu thắng lợi trong
mọi tình huống.
Bốn là, xây dựng đảng bộ, chi bộ vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức,
thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn đạt tiêu chuẩn trong sạch vững mạnh vững vàng
trước mọi tình huống phức tạp.
Xây dựng tập thể cấp uỷ, bồi dưỡng cấp uỷ viên gắn với xây dựng và bồi dưỡng
cán bộ chủ trì về mọi mặt để đủ khả năng thực hiện tốt chức trách, hoàn thành các nhiệm
vụ được giao; phải bảo đảm cho đảng bộ cơ sở, chi bộ nắm vững và vận dụng tốt đường
lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước, nghị quyết, chỉ thị mệnh lệnh của cấp
trên, lãnh đạo đơn vị thực hiện thắng lợi mọi nước trong mọi tình huống. Đây là vấn đề
trong tâm, là mục tiêu cơ bản của việc xây dựng TCCSĐ TSVM gắn với xây dựng đơn vị
cơ sở VMTD ở Tổng cục Tham mưu QĐND Lào, nó chi phối toàn bộ nội dung biện pháp
và các hoạt động xây dựng tổ chức đảng và đơn vị.
Năm là, nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ trong thực hiện nhiệm vụ chính trị
trung tâm, huấn luyện chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu và hoạt động công tác khác.
Đây là phương hướng cụ thể, nội dung tổng hợp và là kết quả của quá trình xây
dựng TCCSĐ TSVM, nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu cần gắn liền với việc bảo đảm đúng đắn và hiệu quả thực hiện nhiệm vụ chính
trị của đơn vị cơ sở. Nó được biểu hiện ở các khâu, các bước trong hoạt động lãnh đạo
của cấp uỷ và chi bộ từ khâu ra nghị quyết lãnh đạo đến khâu tổ chức thực hiện, kiểm tra
việc thực hiện và sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm để bổ sung hoàn thiện nghị quyết. Vì
vậy nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục phải có yêu cầu cụ
thể về nâng cao chất lượng hoạt động ở các khâu, các bước nhằm phát huy đầy đủ khả năng
trách nhiệm của cấp uỷ, chi bộ, cán bộ chủ trì của đơn vị, đặc biệt là nhiệm vụ trọng yếu,
phức tạp và cấp bách đang diễn ra trong giai đoạn hiện nay.
3.2. Những giải pháp chủ yếu nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của tổ chức cơ sở đảng thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu
3.2.1. Nhóm giải pháp về nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của cấp uỷ,
tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng
Thực tiễn và kinh nghiệm xây dựng và hoạt động lãnh đạo của Đảng đã chứng
minh rằng nâng cao nhận thức trách nhiệm cho toàn Đảng bộ, trước hết là cấp uỷ viên,
cán bộ chủ trì về NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ là vấn đề có ý nghĩa quan trọng hàng đầu
định hướng cho mọi người trong nhận thức và hành động. Bởi vì có nhận thức đúng, xác
định trách nhiệm cao thì mới có những hành động đúng. Chỉ có trên cơ sở nhận thức
đúng mới giúp cho từng cấp uỷ, chi bộ và mọi cán bộ, đảng viên chủ động nhạy bén trong
đề ra các chủ trương, biện pháp lãnh đạo sát với tình hình thực tế của đảng bộ và đơn vị
mình, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Mặt khác, nhận thức đúng còn giúp
cho mỗi cán bộ, đảng viên trong đảng bộ có hiểu biết cần thiết, làm chuyển biến hành
động của mình. Trên cơ sở đó xây dựng ý chí quyết tâm, đoàn kết thống nhất về tư tưởng
và hành động trong nội bộ, ra sức học tập, rèn luyện, nâng cao bản lĩnh chính trị, kiến
thức, năng lực công tác, góp phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ ngang tầm với
nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội và đơn vị trong tình hình mới.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm cho các cấp uỷ, chi bộ và cán bộ, đảng viên
về nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu hiện nay,
đảng uỷ các cấp, nhất là đảng uỷ cấp trên cơ sở phải có kế hoạch, hình thức, phương
hướng, biện pháp tổ chức học tập, đa dạng, phong phú thông qua các hoạt động cụ thể
như: học tập lý luận chính trị, hoạt động công tác tư tưởng, tổ chức sinh hoạt chuyên đề,
quán triệt các nghị quyết của đảng uỷ gắn với quán triệt nhiệm vụ của quân đội của đơn
vị, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên. Kết hợp bồi dưỡng nâng cao kiến thức, năng lực công
tác về mọi mặt với bồi dưỡng động cơ, thái độ, trách nhiệm cho cấp uỷ viên, cán bộ, đảng
viên.
Tạo điều kiện thuận lợi để mọi người tích cực tham gia học tập, tự học, tự rèn
luyện ở mọi lúc, mọi nơi. Việc đánh giá phẩm chất, năng lực của cán bộ, đảng viên hàng
năm phải gắn với nhiệm vụ học tập, lấy kết quả học tập rèn luyện và hiệu quả công tác
nâng cao nhận thức trách nhiệm làm một tiêu chí đánh giá bình xét tiêu chuẩn cán bộ,
đảng viên trong tập thể đảng uỷ, chi uỷ; phải kiên quyết đấu tranh với những biểu hiện
lười học tập, ngại rèn luyện, hiệu quả công tác kém.
Trong quá trình lãnh đạo tổ chức thực hiện phải có kế hoạch cụ thể, phải kết hợp
chặt chẽ giữa bồi dưỡng riêng từng đối tượng với bồi dưỡng chung và phải chọn đơn vị
điểm, tổ chức rút kinh nghiệm, trên cơ sở đó đảng uỷ, chi bộ bổ sung kịp thời và có biện
pháp chỉ đạo sát thực, phù hợp với điều kiện, khả năng nhận thức và trình độ của từng đối
tượng, từng đơn vị.
Nội dung bồi dưỡng phải toàn diện, nhưng phải biết tập trung vào những vấn đề
mà thực tiễn cuộc sống đòi hỏi. Hiện nay, đặc biệt coi trọng bồi dưỡng những vấn đề cơ
bản về lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng quan điểm, chủ trương, chính sách của
Đảng gắn với quán triệt nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội và đơn vị trong từng
giai đoạn; bồi dưỡng đạo đức, phẩm chất cách mạng, tác phong công tác, ý chí quyết tâm,
phấn đấu vươn lên cho mọi đảng uỷ viên, mọi cán bộ, đảng viên. Bồi dưỡng kiến thức,
năng lực về công tác xây dựng Đảng, khả năng hoạt động công tác Đảng, công tác chính
trị, làm cho mọi đảng uỷ viên có sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức trách nhiệm, coi
trọng công tác xây dựng Đảng, có nhận thức đúng và có trách nhiệm cao. Đây là nhân tố
quyết định việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu.
Thực hiện tốt điều đó mới phát huy trách nhiệm cao nhất của mỗi đảng viên, cán bộ đối
với công tác xây dựng, chỉnh đốn và nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ nói chung, ở
các đơn vị thuộc Tổng cục nói riêng.
Trong giai đoạn hiện nay, nội dung giáo dục, rèn luyện cần tập trung vào: nâng
cao bản chất giai cấp công nhân cho cán bộ, đảng viên là một vấn đề quan trọng trong
xây dựng Đảng nói chung và xây dựng đảng bộ cơ sở, chi bộ ở các đơn vị nói riêng. Làm
cho mọi người thấy rõ những đặc điểm tình hình thuận lợi, khó khăn đang tác động vào
các hoạt động của Đảng bộ, chi bộ và đơn vị; nhận rõ âm mưu, thủ đoạn phá hoại nhiều
mặt của kẻ thù, trên cơ sở đó xây dựng và củng cố trận địa tư tưởng, giữ vững lập trường
của giai cấp công nhân, nâng cao tính chiến đấu, làm cho cán bộ, đảng viên có đủ sức đối
phó, phòng chống những tiêu cực, hạn chế các tệ nạn xã hội. Khi cán bộ, đảng viên đứng
vững trên lập trường giai cấp công nhân, mới làm thất bại mọi âm mưu thủ đoạn của kẻ
thù hòng phủ nhận vai trò lãnh đạo của Đảng, phủ nhận chủ nghĩa Mác - Lênin, đòi đa
nguyên chính trị, đa đảng đối lập, chia rẽ nội bộ "phi chính trị hoá quân đội".
Nâng cao nhận thức về vai trò của đảng bộ, chi bộ, nhiệm vụ của đơn vị là việc
làm thường xuyên và có ý nghĩa thiết thực để thực hiện các yêu cầu về nâng cao NLLĐ
và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu, làm cho mọi người thấy rõ đảng
bộ cơ sở, trung tâm là huấn luyện, sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi trong mọi
tình huống. Qua đó đẩy mạnh thực hiện nhiệm vụ xây dựng nề nếp chính quy, ngày càng
hiện đại, huấn luyện chiến sĩ mới, huấn luyện quân dự bị động viên, rèn luyện kỷ luật.
Mỗi cán bộ, đảng viên cần phải nhận thức sâu sắc rằng, đảng viên không chỉ có trách
nhiệm phấn đấu thực hiện nghị quyết của đảng uỷ, chi bộ, nhiệm vụ của đơn vị, mà còn
phải thể hiện vai trò lãnh đạo của mình thông qua hoạt động giáo dục, vận động mọi quần
chúng trong đơn vị cùng tích cực thực hiện nghị quyết của cấp uỷ, chi bộ.
Thường xuyên làm tốt công tác tổng kết việc tự phê bình và phê bình trong nội bộ
để mỗi cán bộ, đảng viên tích cực tự giác và chủ động nâng cao trình độ nhận thức trách
nhiệm. Kết hợp tốt công tác tư tưởng và công tác tổ chức, trên cơ sở phát huy tính chủ
động tự giác phấn đấu và giúp đỡ lẫn nhau tất cả vì lợi ích chung để xây dựng quân đội
và đơn vị theo hướng cách mạng, chính quy, ngày càng hiện đại, có cơ cấu hợp lý để mỗi
người và mọi người tiến bộ, trưởng thành về mọi mặt.
Trên cơ sở nâng cao nhận thức, xây dựng và phát huy cao độ trách nhiệm của cấp
uỷ, chi bộ và mọi cán bộ, đảng viên trong nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục, làm cho mỗi người gắn với vị trí, chức trách được đảm nhiệm. Đồng thời
chủ động kiên quyết đấu tranh khắc phục những nhận thức, tư tưởng không đúng, thiếu quan
tâm, thiếu trách nhiệm trong việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng
cục.
3.2.2. Nhóm giải pháp về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, đội ngũ đảng viên
3.2.2.1. Đổi mới và nâng cao chất lượng công tác cán bộ cơ sở
ĐNDCM Lào từ khi ra đời đến nay đã thấm nhuần những quan điểm cơ bản của
các nhà kinh điển về nâng cao chất lượng công tác cán bộ. Đảng xác định công tác cán bộ
có vai trò quan trọng, cán bộ vừa là chiến lược cách mạng, vừa là vốn quý của dân tộc.
Cán bộ là người quyết định sự thành bại, của sự nghiệp cách mạng. Kinh nghiệm thực
tiễn cho thấy: nếu không có đội ngũ cán bộ thật trung thành, gương mẫu đi đầu và vững
vàng về lý tưởng thì không thể hoàn thành cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ trước đây và
sự nghiệp xây dựng, bảo vệ chế độ mới hiện nay. Chủ tịch Khăm Tày - Xi phan Đon đã
chỉ ra rằng: "Đường lối, chính sách của Đảng tuy đúng đến mấy, nếu cán bộ thiếu trình
độ năng lực về các mặt tổ chức thực hiện đạt kết quả thiết thực trong thực tiễn, thì đường
lối đó chỉ tốt trên giấy tờ mà thôi" [35, tr.61]. Điều đó chứng tỏ rằng ĐNDCM Lào luôn
quan tâm đến công tác cán bộ và vấn đề tổ chứ thực hiện đường lối đổi mới để đưa sự
nghiệp cách mạng của nước Lào tiến lên mục tiêu XHCN. Coi đây là khâu quyết định
thắng lợi của cách mạng.
Khâu then chốt của quá trình xây dựng và củng cố đảng là xây dựng, nâng cao
chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, trong đó, việc lựa chọn, bố trí cán bộ chủ chốt cơ sở
đảm bảo đúng tiêu chuẩn, đủ sức hoàn thành nhiệm vụ chính trị của thời kỳ mới là vấn đề
có ý nghĩa quyết định.
Muốn có cốt cán lãnh đạo tốt thì phải quan tâm bồi dưỡng họ, lựa chọn họ từ
trong những đảng viên ưu tú xuất hiện qua các phong trào thi đua ở cơ sở, thật sự
được quần chúng tín nhiệm, nhất là trong các đồng chí ưu tú, trẻ tuổi.
Việc nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ chủ chốt ở đơn vị cơ sở thuộc Tổng cục
tham mưu hiện nay đòi hỏi cao hơn sơ với trước đây, chỉ đạo các đơn vị tiến hành tự phê
bình và phê bình một cách nghiêm túc, kịp thời thay thế những cán bộ không đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ, có sai lầm, khuyết điểm về tư tưởng, đạo đức lối sống, mất uy tín đối với
cán bộ, chiến sỹ trong đơn vị. Sau khi rà soát lại, cần chấn chỉnh và ổn định ngay đội ngũ
cán bộ chủ chốt ở cơ sở, đồng thời có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao trình độ hiểu biết và
NLLĐ, quản lý đơn vị cho đội ngũ cán bộ chủ chốt đó. Cán bộ chủ chốt ở cơ sở đều là
những người nắm giữ quyền hành ở đơn vị. Do đó bên cạnh việc nâng cao trình độ kiến
thức về lãnh đạo, chỉ huy đơn vị còn cần đặc biệt chú ý việc giáo dục, rèn luyện phẩm
chất đạo đức lối sống giúp cho đội ngũ cán bộ này đi sát quần chúng, gắn bó với quần
chúng, tôn trọng quần chúng trong đơn vị, nhân dân, cấp uỷ chính quyền địa phương ở
khu vực đơn vị đóng quân, không tham nhũng, quan liêu, quân phiệt.
Trong quân đội, đội ngũ cán bộ phải đạt những tiêu chuẩn sau:
- Cán bộ chính trị cần có bản lĩnh chính trị vững vàng, có kiến thức và kinh
nghiệm tiến hành công tác Đảng, công tác chính trị, có tác dụng và phương pháp vận
động quần chúng tốt, giỏi công tác xây dựng con người, đồng thời phải biết làm tốt công
tác chỉ huy quản lý, khi cần thiết có thể bổ nhiệm làm cán bộ chỉ huy hoặc đưa lên làm
cán bộ chính trị cấp trên. Những cán bộ chính trị không đáp ứng yêu cầu đó thì phải điều
chỉnh, bồi dưỡng, đào tạo lại.
- Cán bộ chỉ huy (thủ trưởng quân sự) nhất là cán bộ chỉ huy phải có bản lĩnh
chính trị vững vàng, giỏi về năng lực chỉ huy quân sự, được sự tín nhiệm của quần chúng,
có tính Đảng cao chăm lo xây dựng Đảng, tôn trọng và biết phát huy tập thể, biết làm tốt
công tác Đảng - công tác chính trị, khi cần thiết có thể bổ nhiệm đề đạt làm cán bộ chính
trị. Thiếu các điều kiện đó thì không thể là người chỉ huy quản lý tốt, cần được điều chỉnh
thay thế và bồi dưỡng để đạt được yêu cầu trên.
Để thực hiện quy hoạch bố trí sắp xếp cán bộ chủ trì phải xây dựng quy trình chặt
chẽ, chủ động, kiên quyết trong việc điều hành thực hiện các kế hoạch đề ra với bước đi
thích hợp. Thường xuyên bám sát thực tiễn, kịp thời điều chỉnh, bổ sung quy hoạch sát
với sự phát triển của nhiệm vụ, của đội ngũ và từng người cán bộ. Cán bộ chủ trì đơn vị
phải trực tiếp bổ sung cán bộ dự bị thay thế mình và điều hành thực hiện quy hoạch
chung. Trong một năm phải có ít nhất một lần kiểm điểm việc thực hiện quy hoạch của
cấp mình và kiểm tra việc thực hiện quy hoạch của cấp dưới để kịp thời bổ sung, điều
chỉnh, phối hợp các cấp, các ngành có liên quan để bảo đảm việc thực hiện đồng bộ
trong một quy hoạch tổng thể, tránh tuỳ tiện, khép kín từng đơn vị [23, tr.464].
Trong thực tế hoạt động công tác thực hiện nhiệm vụ ở các đơn vị thuộc Tổng cục
tham mưu đã có những rà soát đánh giá đội ngũ cán bộ trên cơ sở hoàn thành chất lượng
công việc được phân công, khả năng mức độ phấn đấu, trình độ năng lực của cán bộ để
xây dựng kế hoạch, quy hoạch đội ngũ cán bộ theo yêu cầu sử dụng cán bộ cụ thể đến
từng người theo tiểu chuẩn hướng dẫn của cấp trên. Xây dựng quy hoạch, sử dụng đội
ngũ cán bộ theo cương vị, khả năng phát triển của từng đối tượng cụ thể để có thể
chuyển ra, hoặc đề nghị đi học, đào tạo dài hạn hoặc ngắn hạn, tạo điều kiện để bố trí
sắp xếp sử dụng tạo nguồn thay thế, bổ nhiệm đề bạt đưa vào những vị trí dự kiến sử
dụng cán bộ từ đó đã động viên được đội ngũ cán bộ để họ tu dưỡng phấn đấu. Đồng
thời cấp uỷ Đảng, cơ quan chính trị, người chỉ huy cũng có nội dung biện pháp chương
trình cụ thể để đào tạo, bồi dưỡng tại đơn vị, đánh giá đúng cán bộ, đời sống đúng
người đúng việc, tránh được sự chồng chéo vướng mắc trong sử dụng.
3.2.2.2. Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên
Hồ Chí Minh từng nói: "Để lãnh đạo cách mạng Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là
do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do đảng viên đều tốt" [16, tr.149]
Vì thế, vấn đề đảng viên trở thành một trong những nội dung cơ bản về lý luận và
thực tiễn của công tác xây dựng Đảng và nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ. Nâng cao
chất lượng đội ngũ đảng viên phụ thuộc vào việc thực hiện các khâu của công tác đảng
viên như: cụ thể hoá tiêu chuẩn đảng viên, giáo dục bồi dưỡng đảng viên, kết nạp đảng
viên mới, đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng v.v...
Để nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
Tham mưu, trước hết đảng uỷ, chi bộ trong phạm vi lãnh đạo của mình phải cụ thể hoá
nhiệm vụ và tiểu chuẩn của người đảng viên. Để đảng viên có hướng tự tu dưỡng, rèn
luyện, phấn đấu. Công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên của đảng uỷ và chi bộ phải căn
cứ vào đặc điểm công tác và chỗ mạnh, chỗ yếu của từng đối tượng cụ thể có nội dung,
phương pháp, hình thức giáo dục, rèn luyện phù hợp, có hiệu quả. Đảng uỷ, chi bộ (chi
uỷ) phải căn cứ vào nội dung trọng tâm đã được Đảng uỷ quân sự Trung ương xác định
để giáo dục, rèn luyện xây dựng và nâng cao chất lượng đảng viên trong đảng bộ. Phải
nắm chắc vấn đề cốt lõi là bồi dưỡng củng cố và phát huy bản chất giai cấp công nhân
của đảng viên, đề phòng và chống lại sự giảm sút và xoá mòn về bản chất giai cấp công
nhân trong bối cảnh và tình hình thực tiễn mới trước tác động của cơ chế thị trường.
Tiêu chuẩn đảng viên là điều kiện cần và đủ của người được mang danh hiệu đảng
viên, là những điều kiện cơ bản cơ sở phân định ranh giới giữa đảng viên với quần chúng
tích cực ngoài Đảng. Tiêu chuẩn đảng viên không phải là lý tưởng cao xa, không phải là
ý muốn chủ quan của một nhóm người nào đó mà tiêu chuẩn đảng viên được xây dựng
dựa trên cơ sở bản chất giai cấp của Đảng và nó luôn luôn bổ sung hoàn thiện phù hợp
với yêu cầu nhiệm vụ chính trị của từng thời kỳ cách mạng. Tiêu chuẩn đảng viên được
thể hiện thành những điểm cơ bản và phổ quát nhất trong Điều lệ ĐNDCM Lào. Các
đảng bộ cơ sở, chi bộ một mặt phải triệt để chấp hành các tiêu chuẩn chung, mặt khác
phải xuất phát từ thực tế của đơn vị cơ sở mình để vận dụng, vừa bảo đảm tính nguyên
tắc chặt chẽ, vừa thể hiện khả năng ứng dụng linh hoạt nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ phát
triển và bảo vệ Đảng, đồng thời sàng lọc đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra
khỏi Đảng...
Điều lệ Đảng nhân dân cách mạng Lào đã quy định: Đảng viên là chiến sĩ cách
mạng trong đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động Lào, Người
trung thành, thuỷ chung với lý tưởng của Đảng, bảo vệ giữ gìn tình đoàn kết thống nhất
trong Đảng, chịu hy sinh để Tổ quốc, để nhân dân. Người mang lại lợi ích chung của đất
nước, của giai cấp công nhân và nhân dân lao động trên lợi ích cá nhân. Người quan hệ
mật thiết với quần chúng hoạt động theo đường lối quần chúng của Đảng, có khả năng
trong sự lãnh đạo quần chúng và đã được tin cậy từ quần chúng. Gương mẫu trong thực
hiện cương lĩnh chính trị, nghị quyết, mệnh lệnh, kỷ luật của Đảng, hiến pháp và pháp
luật của nhà nước nghiêm túc. là người cần cù lao động đúng đắn theo nghị quyết, kỷ luật
của Đảng và pháp luật của Nhà nước, tiêu dùng lợi ích trong phạm vi [39, tr.7-8] của
pháp luật và chính sách đã được quy định; có lối sống đúng đắn và trong sạch.
Trên tinh thần chung đó, các cấp uỷ đảng thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu vận
dụng cụ thể hoá thành tiêu chuẩn đảng viên phù hợp thực tế ở đơn vị cơ sở, cần quán triệt
các yêu cầu sau:
- Tuyệt đối trung thành với mục đích lý tưởng cách mạng của Đảng, điều này được
biểu hiện bằng niềm tin tưởng và bằng hành động thực tế là đảng viên nghiêm chỉnh
chấp hành đường lối của Đảng trước hết là đường lối quân sự, xây dựng quân đội, bảo vệ
Tổ quốc.
- Có phẩm chất trong sáng, lối sống lành mạnh, gương mẫu đi đầu trong phong
trào xây dựng đơn vị và TCCSĐ, không ngừng tu dưỡng, học tập, nâng cao trình độ đảm
bảo đủ năng lực hoàn thành nhiệm vụ đảng viên, vận động quần chúng thực hiện tốt
đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách và và pháp luật của Nhà nước, nhất là về
quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc.
- Nêu cao ý thức tổ chức kỷ luật trong sinh hoạt và hoạt động của Đảng. Nâng cao
tinh thần cảnh giác cách mạng chống mọi âm mưu "diễn biến hoà bình" của kẻ thù; tăng
cường đoàn kết nội bộ, xây dựng khối đoàn kết toàn dân và tăng cường mối quan hệ giữa
Đảng với nhân dân các dân tộc.
Không ngừng học tập, rèn luyện, nâng cao trình độ kiến thức, năng lực công tác,...
"là nhiệm vụ của đảng viên và là một tiêu chuẩn đảng tính. Học tập không chỉ đơn thuần
nâng cao hiểu biết mà cốt để lao động tốt nhất, công tác tốt nhất và chiến đấu tốt nhất. Vì
thế các cấp uỷ đảng cơ sở cần có kế hoạch cụ thể, giao nhiệm vụ cho từng đảng viên và
tạo điều kiện thuận lợi cho đảng viên phấn đấu thực hiện nhiệm vụ kế hoạch đó. Dưới sự
chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên trực tiếp, cấp uỷ cơ sở có thể lựa chọn hình thức học tập và
chỉ định đối tượng học tập phù hợp với điều kiện hoạt động của từng đơn vị trong Tổng
cục.
Đối với những đảng viên không có điều kiện đi học tập trung, các cấp uỷ cơ sở cần
có hình thức tổ chức học tập tại chức thật linh hoạt, phù hợp với điều kiện thực tế của
đơn vị, bảo đảm cho mọi đảng viên đều được học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ mọi
mặt, nhất là về lý luận chính trị, quân sự…
Thông qua sinh hoạt Đảng thường kỳ hàng tháng và các đợt sơ kết 6 tháng, tổng
kết 1 năm hoạt động của đảng bộ cơ sở, chi bộ, đảng viên phải báo cáo trước đảng bộ cơ
sở, chi bộ cơ sở, chi bộ về việc thực hiện chương trình học tập và kết quả học tập. Đó là
một điểm thi đua, một tiêu chuẩn bình xét phân loại đảng viên và xếp loại chi bộ, đảng bộ
cơ sở.
Vì vậy, đi đôi với việc nâng cao chất lượng đảng viên, cần thu hút những quần
chúng ưu tú đó bổ sung vào hàng ngũ của Đảng, làm cho đội ngũ của Đảng được tăng
cường cả về số lượng và chất lượng, bảo đảm yêu cầu lãnh đạo của Đảng trên mọi lĩnh
vực công tác của đơn vị. Đó là yêu cầu thường xuyên, là đòi hỏi khách quan của công tác
xây dựng Đảng trong thời kỳ mới, là yêu cầu cấp thiết của nhiệm vụ xây dựng đội ngũ
đảng viên hiện nay. Tăng cường công tác phát triển Đảng không chỉ nhằm tăng thêm số
lượng mà còn vì xây dựng đội ngũ đảng viên có cơ cấu hợp lý về thành phần giới tính,
lứa tuổi... cần khắc phục những khuynh hướng không đúng như: ngại khó, bảo thủ, rụt rè,
không tích cực phát triển Đảng hoặc chạy theo số lượng phát triển Đảng để báo cáo lên
cấp trên hoặc vì cảm tình cá nhân, muốn kéo vây cánh... dẫn đến không đảm bảo yêu cầu
về chất lượng, đưa cả người không đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Những biểu hiện sai lầm đó
cần được tích cực sửa chữa [1].
Để bảo đảm mục đích, yêu cầu của công tác phát triển Đảng, các cấp uỷ cần quán
triệt các yêu cầu sau:
- Phải thường xuyên coi trọng công tác phát triển Đảng. Điều đó có nghĩa là các
TCCSĐ phải có kế hoạch phát triển Đảng từng thời kỳ, phải tích cực tuyên truyền giáo
dục quần chúng ưu tú và nâng cao dần trình độ của họ từ thấp đến cao, tạo cho họ có đủ
điều kiện để kết nạp, không thể bị động ngồi chờ người có đủ điều kiện để kết nạp theo
lối "ăn sẵn", vì như vậy, sẽ làm cho công tác phát triển Đảng không được tiến hành
thường xuyên và không bảo đảm yêu cầu về chất lượng.
- Tăng cường công tác phát triển Đảng song phải bảo đảm người vào Đảng phải có
đủ tiêu chuẩn, hết sức tránh tư tưởng nóng vội, chạy theo thành tích, dấn đến kết nạp cả
những người không đủ tiêu chuẩn vào Đảng. Do đó, cần phải nắm vững tiêu chuẩn, phải
thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc, thủ tục kết nạp đảng viên mà điều lệ đã quy định,
đề phòng những phần tử cơ hội chui vào Đảng. Ngược lại cần khắc phục khuynh hướng
rụt rè, bảo thủ, không mạnh dạn phát triển Đảng.
- ĐNDCM Lào mạnh không phải chỉ vì số lượng đảng viên đông mà trước hết
là chất lượng đảng viên quyết định. Bởi vậy, phải nắm vững yêu cầu về chất lượng,
phải trên cơ sở bảo đảm chất lượng là chính mà tiến hành công tác phát triển Đảng,
tuyệt đối không vì tăng thêm đảng viên mà coi nhẹ chất lượng.
- Phát triển phải đi đôi với củng cố, đó là hai mặt của vấn đề xây dựng Đảng
có quan hệ hữu cơ với nhau. Không thể phát triển Đảng tốt nếu TCCSĐ trong Tổng
cục không được củng cố tốt. Ngược lại, phát triển Đảng theo đúng yêu cầu thực ra
cũng là một mặt để củng cố Đảng tốt hơn. Bởi vậy, đi đôi với việc phát triển những
người ưu tú trong quần chúng có đủ tiêu chuẩn vào Đảng để tăng cường lực lượng
của Đảng, phải thường xuyên chăm lo giáo dục, nâng cao nhận thức tư tưởng, bồi
dưỡng lập trường giai cấp, tác phong công tác cho đảng viên, quan tâm giúp đỡ, giáo
dục đảng viên dự bị, tạo cho họ có đủ điều kiện trở thành đảng viên chính thức. Phải
kiên quyết đưa những đảng viên quá kém, không còn đủ tư cách đảng viên ra khỏi
đảng, bảo đảm trong sạch đội ngũ, nâng cao tính chiến đấu của đảng bộ cơ sở, chi
bộ.
Các đảng uỷ cơ sở và chi bộ trong đảng bộ Tổng cục phải thường xuyên bồi
dưỡng, giáo dục đảng viên về công tác phát triển Đảng, đồng thời phải tăng cường công
tác kiểm tra để kịp thời phát hiện, phổ biến những kinh nghiệm tốt, uốn nắn những lệch
lạc trong công tác phát triển Đảng.
3.2.3. Nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện
nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng và đổi mới phương
thức lãnh đạo
3.2.3.1. Nâng cao chất lượng sinh hoạt Đảng (sinh hoạt cấp uỷ, chi bộ, tổ đảng)
Sinh hoạt đảng có vị trí quan trọng trong việc củng cố và kiện toàn chi bộ. Chất
lượng sinh hoạt tác động trực tiếp đến chất lượng lãnh đạo và xây dựng nội bộ Đảng. Do
vậy, phải thường xuyên cải tiến và nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ. Mỗi loại chi bộ
có nội dung và hình thức sinh hoạt cụ thể phù hợp với yêu cầu, tính chất và điều kiện
công tác ở đơn vị. Song điều quan trọng là sinh hoạt chi bộ phải đúng định kỳ, coi nội
dung thiết thực và bảo đảm đúng nguyên tắc, tính chất của sinh hoạt Đảng. Mỗi tổ chức
Đảng phải coi đây là vấn đề quan trọng để nâng cao chất lượng đảng viên, phát huy vai
trò lãnh đạo của chi bộ đối với quần chúng để thực hiện tốt đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng và nhiệm vụ chính trị của đơn vị. Sinh hoạt chỉ uỷ, chi bộ là hình thức
sinh hoạt tập thể thảo luận và ra nghị quyết, quyết định công tác của chi bộ theo đúng
nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo cá nhân phụ trách. Sinh hoạt chi uỷ, chi bộ
có ảnh hưởng quyết định đến chất lượng các nghị quyết của chi bộ, nếu không chuẩn bị
tốt, không thảo luận một cách khoa học và dân chủ thì sinh hoạt chi uỷ, chi bộ sẽ lãng phí
thời gian, sức lực của cán bộ, đảng viên, sẽ là dân chủ hình thức, không nâng cao chất
lượng sinh hoạt chi bộ, chi bộ sẽ không đề ra được nghị quyết sát đúng. Cuối cùng là hạ
thấp vai trò lãnh đạo của chi bộ [22].
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu cần tập trung làm chuyển biến một
bước quan trọng việc nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng của chi bộ, đảng bộ cơ sở, sinh
hoạt đảng uỷ, chi bộ (chi uỷ). Đổi mới nâng cao chất lượng sinh hoạt phải chú ý cả sinh
hoạt lãnh đạo, sinh hoạt học tập, sinh hoạt tư tưởng, tự phê bình và phê bình. Trong đó
vấn đề cơ bản nhất và trước hết là việc nâng cao chất lượng sinh hoạt lãnh đạo.
Để nâng cao chất lượng sinh hoạt chi bộ, các cấp uỷ cần tiếp tục tập trung lãnh
đạo, chỉ đạo thực hiện tốt một số nội dung sau đây:
- Các chi uỷ, chi bộ phải duy trì và thực hiện nghiêm túc, có nề nếp chế độ sinh
hoạt chi bộ định kỳ theo quy định của Điều lệ Đảng và thực hiện việc đóng góp đảng phí
hàng tháng trước khi sinh hoạt chi bộ. Đây là vấn đề tưởng đơn giản nhưng lại rất quan
trọng nhằm nâng cao ý thức Đảng cho đảng viên; đề cao tinh thần trách nhiệm của chi uỷ,
mà trước hết là đồng chí bí thư chi bộ; giúp từng đảng viên thấy trách nhiệm của mình,
thường xuyên liên hệ, tự nhắc nhở bản thân phải giữ gìn phẩm chất, đạo đức, tư cách của
người đảng viên; phát huy vai trò tiền phong, gương mẫu trước quần chúng, làm gương
cho quần chúng nói theo. Các buổi sinh hoạt chi bộ nhất thiết phải bố trí thư ký để ghi
chép trung thực, đầy đủ ý kiến kết luận của đồng chí chủ trì; đồng chí chủ trì và thư ký
hội nghị phải ký vào sổ ghi biên bản cuộc họp chi bộ.
- Chi uỷ mà trước hết là đồng chí bí thư chi bộ phải chuẩn bị kỹ nội dung sinh hoạt
chi bộ; đồng thời thông báo trước nội dung, thời gian, địa điểm cho đảng viên biết để chủ
động bố trí thời gian dự sinh hoạt và chuẩn bị ý kiến phát biểu. Chi uỷ cần xác định và
chọn những việc cụ thể, thiết thực, bức xúc trước mặt liên quan đến thực hiện nhiệm vụ
chính trị của chi bộ và quyền lợi trách nhiệm của đảng viên, quần chúng trong đơn vị để
đưa ra chi bộ thảo luận, bàn biện pháp giải quyết. Trong một buổi sinh hoạt định kỳ
không nên đưa ra bàn, thảo luận quá nhiều nội dung: không nên sa đà vào thảo luận
những việc của chi bộ khác, những vấn đề không liên quan trực tiếp đến hoạt động của
chi bộ. Chi uỷ cần thông qua nhiều kênh, nhiều nguồn thông tin khác nhau để nắm tình
hình tư tưởng, việc thực hiện nhiệm vụ của đảng viên và những vấn đề có liên quan đến
phẩm chất, đạo đức của cán bộ, đảng viên, quần chúng trong đơn vị. Kịp thời biểu dương,
động viên những đảng viên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ; nhắc nhở, giúp đỡ những đảng
viên hạn chế.
- Các cấp uỷ, đảng bộ cơ sở, chi bộ thực hiện nghiêm túc, có nề nếp sinh hoạt đảng
định kỳ; tích cực đổi mới nội dung, hình thức sinh hoạt cho thiết thực, phù hợp với tình
hình, nhiệm vụ cụ thể của chi bộ trong từng loại hình TCCSĐ. Nội dung sinh hoạt chi bộ
vừa phải tập trung bàn để lãnh đạo giải quyết những vấn đề cụ thể, thiết thực, liên quan
đến chức năng nhiệm vụ của chi bộ và quyền lợi trách nhiệm của đảng viên, giải quyết
kịp thời những vấn đề bức xúc xảy ra ở cơ quan, đơn vị, vừa phải góp phần nâng cao
trình độ, nhận thức của đảng viên, tạo điều kiện cho đảng viên hiểu và thực hiện đúng các
quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước; thực hiện tốt nghị quyết của chi bộ và của
cấp uỷ cấp trên, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ được giao và có biện pháp cụ thể để
quản lý, theo dõi, nắm chắc tình hình tư tưởng, phẩm chất chính trị, đạo đức, lối sống của
đảng viên.
- Trong sinh hoạt chi bộ phải thực sự mở rộng và phát huy dân chủ; mọi đảng viên
thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, chi bộ cần dành thời gian thoả đáng
để đảng viên trong chi bộ phát biểu và thể hiện chính kiến của mình, đồng chí chủ trì hội
nghị phải thực sự công tâm, khách quan, lắng nghe ý kiến phát biểu của đảng viên và gợi
mở những vấn đề cần thiết để đảng viên tranh luận, trình bày tâm tư, nguyện vọng và
những khó khăn, vướng mắc của bản thân, gia đình. Qua đó, chi uỷ, chi bộ nắm được tư
tưởng và những khó khăn, vướng mắc của đảng viên để thông cảm, chia sẻ và có các hình
thức giúp đỡ phù hợp trên tinh thần đồng chí, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
Những vấn đề cần phải biểu quyết nhưng đang còn có những ý kiến khác nhau, chi bộ
nên trao đổi, thảo luận kỹ để tạo sự thống nhất trước khi biểu quyết. Trong khi thảo luận,
mọi đảng viên đều có quyền phát biểu và thể hiện chính kiến của mình, nhưng khi chi bộ
đã biểu quyết thông qua thì mọi đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết của chi bộ
không được tuyên truyền quan điểm, ý kiến riêng của mình.
- Chi uỷ cần chủ động chuẩn bị nội dung và tăng cường sinh hoạt chi bộ theo
chuyên đề (mỗi quý nên tổ chức sinh hoạt chuyên đề ít nhất một lần) để nội dung sinh
hoạt chi bộ phong phú, hấp dẫn, tránh đơn điệu và góp phần nâng cao nhận thức cho đảng
viên. Việc chọn chuyên đề cần bám sát vào chức năng, nhiệm vụ của chi bộ trong từng
thời gian. Thông qua các buổi sinh hoạt chuyên đề để tạo sự thống nhất và nâng cao nhận
thức cho đảng viên, nhất là những vấn đề mới phát sinh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại và công tác xây dựng Đảng v.v. Các
chuyên đề đưa ra trao đổi trong sinh hoạt chi bộ cần chọn lọc nội dung sát thực, phù hợp
với trình độ nhận thức của đảng viên, đồng thời phân công những đảng viên có khả năng,
điều kiện nghiên cứu, tập hợp tự liệu để chuẩn bị nội dung và trực tiếp trình bày trước chi
bộ. Qua đó, góp phần rèn luyện, bồi dưỡng, nâng cao khả năng diễn đạt, thuyết trình
trước tập thể cho đảng viên trong chi bộ.
- Cấp uỷ cấp trên cần thường xuyên bồi dưỡng nghiệp vụ, kinh nghiệm thực tiễn
và cập nhật những thông tin, kiến thức mới cho các cấp uỷ viên, mà trước hết là bí thư
các chi bộ; coi trọng việc bồi dưỡng, nâng cao năng lực nhận thức, vận dụng, cụ thể hoá
thực hiện các chỉ thị, nghị quyết của Đảng cho cấp uỷ viên cơ sở và bí thư chi bộ. Cấp uỷ
cấp trên cần trang bị thống nhất số ghi nghị quyết cho các chi bộ, tăng cường chỉ đạo,
hướng dẫn, kiểm tra việc thực hiện nề nếp, nội dung và chất lượng sinh hoạt chi bộ thông
qua sổ ghi biên bản các cuộc họp và thông báo trong toàn Đảng bộ để rút kinh nghiệm
của những chi bộ làm tốt.
- Các đảng viên trong chi bộ là cấp uỷ viên cấp trên hoặc là cán bộ lãnh đạo, quản
lý phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong thực hiện chế độ, nề nếp sinh hoạt đảng để đảng
viên và cán bộ cấp dưới học tập, noi theo; thường xuyên quan tâm và chăm lo chỉ đạo
công tác xây dựng đảng ở đảng bộ cơ sở, chi bộ sinh hoạt, gương mẫu trong tự phê bình
và phê bình, thẳng thắn đấu tranh với những quan điểm sai trái và những biểu hiện tham
nhũng, lãng phí, tiêu cực trong chi bộ, đảng bộ cơ sở. Ngược lại, chi uỷ cần bố trí thời
gian sinh hoạt chi bộ thích hợp (có thể trong giờ hoặc ngoài giờ hành chính) để các đảng
viên trong chi bộ là cán bộ lãnh đạo, quản lý có điều kiện tham gia sinh hoạt chi bộ, thực
hiện quyền và trách nhiệm của đảng viên [2, tr.7,8,47].
3.2.3.2. Thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng
- Thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, trong đó
nguyên tắc tập trung dân chủ, là yêu cầu quan trọng hàng đầu đối với mọi tổ chức đảng.
Các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng thể hiện bản chất cách mạng và khoa học,
bảo đảm cho toàn Đảng và mọi tổ chức đảng thống nhất về tư tưởng, ý chí và hành động,
là cơ sở để xây dựng khối đại đoàn kết thống nhất trong Đảng, tạo ra sức mạnh vô địch
và SCĐ cao, đủ sức lãnh đạo hệ thống chính trị và quần chúng đồng bào thực hiện thắng
lợi công cuộc đổi mới [4].
+ Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ, các đảng uỷ, chi bộ đơn vị cần
nhận thức đúng và đầy đủ nội dung, yêu cầu của nguyên tắc, đồng thời tổ chức nghiên
cứu thảo luận trong chi bộ về tầm quan trọng, nội dung, bản chất của nguyên tắc tập trung
dân chủ, tạo sự thống nhất về nhận thức trong chi bộ.
+ Các chi bộ đơn vị cần cụ thể hoá nguyên tắc tập trung dân chủ thành quy chế: về
quá trình chuẩn bị nghị quyết, thảo luận và thông qua nghị quyết của chi bộ; cụ thể hoá
về quy chế cán bộ, chế độ sinh hoạt, thông tin và báo cáo; quy định về trách nhiệm cá
nhân bí thư chi bộ khi có sai phạm trong cấp uỷ và đảng viên trong chi bộ, về xem xét có
ý kiến, bảo lưu, khiếu nại của đảng viên.
+ Chi uỷ cần tăng cường công tác giáo dục, bồi dưỡng về tư tưởng, chính trị, về ý
thức tổ chức kỷ luật cho đảng viên, kiểm tra và giám sát đảng viên thực hiện nguyên tắc
tập trung dân chủ, gia trưởng, độc đoán; đồng thời xử lý những người lợi dụng dân chủ
để đả kích, chia rẽ nội bộ và trong đồng bào, kịp thời loại trừ những mầm mống gây nên
điểm nóng.
+ Để thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ phải tổ chức và hoạt động của chi
bộ, đòi hỏi mọi cán bộ, đảng viên phải tự giác thực hiện, phải thấy việc thực hiện tốt
nguyên tắc tập trung dân chủ là nhằm tạo nên sức mạnh to lớn của chi bộ.
- Khi đã có quy chế thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ và hướng dẫn thực
hiện, chi uỷ cần tổ chức thực hiện nghiêm chỉnh nguyên tắc và hướng dẫn, để khắc phục
những yếu kém nêu trên như sau:
+ Nâng cao nhận thức trách nhiệm cho tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên về nội
dung bản chất nguyên tắc tập trung dân chủ. Tiếp tục thể chế hoá, cụ thể hoá nguyên tắc
thành quy chế, quy định trong Đảng và pháp luật của nhà nước để tổ chức thực hiện có
hiệu quả, nhất là trong thảo luận ra nghị quyết và trong công tác cán bộ. Hệ thống quy
chế, quy định đồng bộ, nhất quán càng có cơ sở để quản lý, điều chỉnh các hành vi hoạt
động của tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên, cần và soát lại những điểm bất hợp lý, lạc hậu
trong các quy chế, quy định đã ban hành để bổ sung hoàn thiện, giúp cho việc thực hiện
được thống nhất. Làm rõ quyền hạn gắn với trách nhiệm, giáo dục đi đôi với kiểm tra
giám sát, tự giác gắn liền với bắt buộc... chẳng hạn trong công tác cán bộ phải lượng hoá
trách nhiệm của người đứng đầu cấp uỷ, thủ trưởng cơ quan, đơn vị với trách nhiệm của
tập thể cấp uỷ, cần minh bạch khi xác định hệ tiêu chuẩn đề bạt cán bộ [24, tr.2].
- Thực hiện tốt nguyên tắc tự phê bình và phê bình, từng bước nâng cao chất lượng
tự phê bình và phê bình trong chi bộ, đảng bộ cơ sở thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu.
Cần duy trì thường xuyên, nghiêm túc chế độ tự phê bình và phê bình trong chỉ huy, chi
bộ. Bí thư chi bộ và các chi uỷ viên tự phê bình nghiêm túc trước chi bộ, là biện pháp làm
gương tốt nhất cho đảng viên tự phê bình và phê bình hiệu quả. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
dạy: "Muốn tự phê bình và phê bình kết quả, cán bộ các cấp, nhất là cán bộ cao cấp phải
làm gương trước" [18, tr.290].
Chi uỷ cán bộ ở các đơn vị cần chủ động ngăn chặn và loại trừ các yếu tố làm
giảm chất lượng tự phê bình và phê bình như: nể nang, né tránh, lựa chiều. Đảng bộ Tổng
cục Tham mưu và các đảng bộ cơ sở cần tăng cường công tác kiểm tra, giúp đỡ và phân
công cấp uỷ viên phụ trách những chi bộ yếu kém; trực tiếp tham gia các buổi sinh hoạt
chi bộ.
Xử lý nghiêm những cán bộ, đảng viên mắc khuyết điểm và những cán bộ có thái
độ không đúng đối với tự phê bình và phê bình. Cần tránh tình trạng phê bình xuề xoà,
hình thức, gia đình chủ nghĩa, hoặc thái quá, làm sai lệch mục đích và ý nghĩa to lớn của
tự phê bình và phê bình.
3.2.3.3. Đổi mới phương thức lãnh đạo của cấp uỷ tổ chức cơ sở Đảng
Phương thức lãnh đạo của cấp uỷ TCCSĐ không chỉ bảo đảm cho sự lãnh đạo của
TCCSĐ có hiệu quả mà còn góp phần quan trọng vào nâng cao NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ, bồi dưỡng nâng cao năng lực của cán bộ, đảng viên. Ngày 13/6/1997 Bộ Chính
trị Ban chấp hành Trung ương ĐNDCM Lào đã ra nghị quyết số 011 về tổ chức vận
dụng chế độ hai thủ trưởng và chế độ đảng uỷ trong QĐND Lào nói chung, trong các đơn
vị bộ đội nói riêng làm cho vai trò lãnh đạo của Đảng đối với quân đội được tăng lên một
bước rõ rệt, tạo sự chuyển biến tiến bộ nhiều mặt, bảo đảm cho các tổ chức cơ sở thực sự
là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Do đó, để đổi mới phương thức lãnh đạo của
TCCSĐ, cần tập trung thực hiện tốt một số yêu cầu sau đây:
- Lãnh đạo đơn vị thông qua các nghị quyết, xác định các quan điểm, nguyên tắc,
phương hướng giải quyết những vấn đề quan trọng liên quan đến đời sống của cán bộ, đảng
viên, chiến sĩ, phù hợp với thực tế và theo đúng đường lối của Đảng; xác định định hướng xử
lý đối với các vấn đề cụ thể nhưng có ý nghĩa chính trị quan trọng và có hiệu quả tới cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ ở đơn vị.
- Lãnh đạo đơn vị cụ thể hoá các quan điểm, đường lối chính sách của Đảng thành
chương trình kế hoạch công tác phù hợp với thực tế của đơn vị và tổ chức cán bộ, đảng
viên thực hiện.
- Lãnh đạo TCCSĐ và chiến sĩ hoạt động thực hiện theo nguyên tắc Đảng lãnh đạo
chính trị, đồng thời tôn trọng phát huy trách nhiệm của các tổ chức quần chúng trong đơn
vị
- Lãnh đạo bằng kiểm tra thông qua tổ chức đảng, đảng viên, đồng thời thông qua
tổ chức, cơ chế và phương thức kiểm tra, giám sát của quần chúng.
- Tuyên truyền giám sát; nâng cao nhận thức và quan điểm chính trị đối với cán
bộ, đảng viên, chiến sĩ nhằm tạo ra tiềm năng chính trị để tiếp thu và thực hiện chủ động
sáng tạo đường lối của Đảng.
- Thuyết phục - gương mẫu: bằng chính tính đúng đắn và hiệu quả thực tiễn của
việc thực hiện các đường lối, chủ trương của Đảng.
- Thảo luận dân chủ: tổ chức thảo luận dân chủ những chủ trương quan trọng trước
khi ra nghị quyết, quyết định hoặc khi tổ chức thực hiện để tạo ra sự thống nhất, thông
suốt với đường lối, chủ trương của Đảng nhằm nâng lên sức mạnh của quá trình thực
hiện.
- Đề cao tính Đảng và thực hiện nguyên tắc tổ chức của Đảng: mỗi đảng viên đủ
hoạt động ở cương vị nào cũng vừa phải tuân thủ quy định của luật pháp - vừa phải đảm
bảo trách nhiệm chính trị và vai trò lãnh đạo mà đảng viên được tổ chức đảng phân công.
- Cấp uỷ phải thường xuyên thực hiện tốt chế độ tự phê bình và phê bình theo
đúng quy định của Điều lệ Đảng và quy chế làm việc. Cán bộ, đảng viên phải xây dựng
và thực hiện.
3.2.4. Nhóm giải pháp về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phát huy
vai trò của lãnh đạo đơn vị và các đoàn thể
3.2.4.1. Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức Đảng
Kiểm tra, giám sát là một bộ phận quan trọng của công tác xây dựng Đảng, là một
bộ mặt trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng "lãnh đạo mà không có kiểm tra thì
coi như không lãnh đạo". Muốn cho mọi công việc đều được hoàn thành, mọi đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng được chấp hành nghiêm chỉnh thì ngoài ý thức tổ chức
kỷ luật, tình thần tự giác của cấp uỷ, tổ chức đảng và cán bộ, đảng viên cơ sở cấp trên cần
tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, cần nhanh chóng khắc phục những mặt còn tồn
tại, yếu kém của công tác kiểm tra, giám sát [47, tr 8].
* Cần giáo dục cho cán bộ, đảng viên trực tiếp là cấp uỷ, tổ chức đảng có nhận
thức đúng về công tác kiểm tra, giám sát của Đảng
Kiểm tra, giám sát có tác dụng đẩy cán bộ, đảng viên làm tròn nhiệm vụ đối với
Đảng, nhà nước và làm gương tốt cho quần chúng, do đó góp phần vào việc củng cố
Đảng về tư tưởng và tổ chức. Kiểm tra giám sát là để xây dựng Đảng ngày càng vững
mạnh, để giúp đồng chí tránh khỏi sai lầm, hư hỏng chứ tuyệt nhiên không phải chuyện
trả thù, báo oán như là việc đối xử giữa cá nhân với nhau. Vì thế, kiểm tra, giám sát
không phải chỉ là phát hiện cái sai, mà còn phải biết phát hiện cái hay, cái đúng, tổng kết
lại thành bài học để phổ biến nhận ra diện rộng.
* Xác định đúng đối tượng, nội dung, hình thức, phương pháp kiểm tra, giám sát
Đối tượng chủ yếu cần kiểm tra, giám sát thường xuyên là cán bộ, đảng viên. Đó
là những người liên hệ hàng ngày với quần chúng, là những người thực hiện cụ thể mọi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng. Việc làm của họ tốt hay xấu đều có ảnh
hưởng trực tiếp đến đời sống mọi mặt của quần chúng, do đó cần tập trung vào việc kiểm
tra, giám sát cán bộ, đảng viên, để xem các cán bộ, đảng viên có lãnh đạo đúng hay
không, có tôn trọng quyền làm chủ của quần chúng hay không.
ở đơn vị, ngoài những biểu hiện quan liêu, xa rời quần chúng, tham ô tư lợi còn có
những lệch lạc trong chủ trương công tác, trong việc chấp hành đường lối, chính sách của
Đảng. Kiểm tra, giám sát phải phát hiện cả ưu điểm, khuyết điểm trên hai mặt đó. Do
vậy, không những kiểm tra, giám sát đạo đức tác phong, tinh thần trách nhiệm của cán
bộ, đảng viên trong việc thực hiện nhiệm vụ mà còn phải chú trọng kiểm tra, giám sát chủ
trương công tác, lề lối làm việc, phương pháp lãnh đạo và thực hiện các nguyên tắc tổ
chức và sinh hoạt đảng của cán bộ, đảng viên.
Hình thức tổ chức kiểm tra, giám sát cũng cần linh hoạt và đa dạng. Trước hết là
hình thức kiểm tra, giám sát thường xuyên, thông qua các kỳ sinh hoạt hàng tháng, hàng
quý trong năm bằng việc từng đảng viên tự kiểm điểm báo cáo những hoạt động rèn
luyện tu dưỡng của bản thân trước chi bộ. Tập thể chi bộ không chỉ nghe, hiểu biết được
hoạt động của đảng viên mà còn góp ý kiến giúp đảng viên xử lý những vấn đề còn
vướng mắc trong quá trình hoạt động.
* Kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nghị quyết
Công tác kiểm tra, giám sát việc tổ chức thực hiện nghị quyết có ý nghĩa rất quan
trọng trong chu trình lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng, cần coi trọng công tác kiểm tra,
giám sát, nhằm góp phần bảo đảm cho đường lối, chủ trương, biện pháp lãnh đạo của cấp
uỷ, tổ chức đảng được thực hiện chính xác, đúng đắn được chấp hành triệt để. Công tác
kiểm tra, giám sát của cấp uỷ, tổ chức đảng phải có chương trình, kế hoạch kiểm tra,
giám sát toàn diện, hay kiểm tra từng mặt công tác. Tuỳ theo từng quý, từng giai đoạn,
từng nhiệm vụ cụ thể xác định đối tượng kiểm tra, giám sát toàn diện thường xuyên với
kiểm tra đột xuất, từng mặt công tác đối với đơn vị về việc quán triệt và chấp hành nghị
quyết. Trong quá trình kiểm tra phải đúng nguyên tắc, thủ tục và phải có nội dung, biện
pháp phù hợp thực tế tránh giản đơn, qua loa, đại khái, không đúng thực tế và kém hiệu
quả.
Sau khi kiểm tra phải kết luận rõ ràng để hướng dẫn thực hiện và thông báo để đơn
vị trong đảng bộ cơ sở, chi bộ áp dụng những kinh nghiệm hay, biện pháp cách làm tốt,
nhân điển hình tiên tiến, khắc phục sửa chữa có hiệu quả những hạn chế thiếu sót, bảo
đảm thực hiện thắng lợi những nhiệm vụ mà nghị quyết đề ra của cấp uỷ, tổ chức đảng.
Thực hiện tốt chế độ báo cáo xin ý kiến chỉ đạo của cấp trên.
3.2.4.2. Phát huy vai trò của lãnh đạo chính quyền, Hội đồng quân nhân, Đoàn
thanh niên
Trên cơ sở quán triệt, chấp hành sâu sắc các nghị quyết, đường lối của Đảng,
chính sách và pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ chính trị của đơn vị, các TCCSĐ thuộc
đảng bộ Tổng cục phải phát huy vai trò của lãnh đạo chính quyền, Đoàn thanh niên trong
việc xác định biện pháp thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ chính trị, tập trung vào:
- Lãnh đạo Ban chỉ huy đơn vị thực hiện các chủ trương, nhiệm vụ quốc phòng, an
ninh và tham gia phát triển kinh tế - xã hội theo nghị quyết của Đại hội lần thứ VIII
ĐNDCM Lào.
- Lãnh đạo Ban chỉ huy đơn vị thực hiện đúng chức năng theo quy định của Điều lệnh
quân đội. Chủ động phối hợp với cấp trên xây dựng đơn vị vững mạnh.
- Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt phương
châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra" giám sát mọi hoạt động của cấp uỷ, tổ
chức đảng, cán bộ, đảng viên trong đơn vị.
- Lãnh đạo xây dựng thực hiện các nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và chính sách
hậu phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội trong đơn vị và
nơi đóng quân; đề cao tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản vũ
khí, trang bị, ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã hội không để xảy ra trong đơn vị.
- Lãnh đạo công tác tư tưởng phải thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng, đạo đức Cay Xỏn Phôm Vi Hản và phát huy truyền thống yêu
nước, yêu CNXH, xây dựng tinh thần làm chủ, tình đoàn kết, gắn bó thương yêu giúp đỡ
lẫn nhau giữa cán bộ, chiến sĩ, xây dựng văn hoá lành mạnh.
Lãnh đạo đơn vị đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những hành vi nói, viết và
làm trái với đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước; chống
tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ, các hủ tục lạc hậu, mê
tín, dị đoan; phòng chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống.
Các cấp uỷ xây dựng quy chế về công tác tổ chức, cán bộ; nhận xét, đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ thuộc quyền; quản lý và
kiểm tra thực hiện chính sách đối với cán bộ cơ sở theo phân cấp.
TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục tham mưu phải thường xuyên có chủ trương lãnh
đạo chỉ đạo việc củng cố kiện toàn tổ chức, định hướng hoạt động của đoàn thanh niên.
Phải lựa chọn những đảng viên có phẩm chất tốt, có uy tín và khả năng trong công tác
tuyên truyền vận động quần chúng để giới thiệu tham gia vào Ban chấp hành Đoàn Thanh
niên cách mạng Lào; đồng thời chú ý bồi dưỡng cho những đồng chí này có đủ khả năng
hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình, phải có quy định cụ thể, rõ ràng về chế độ làm việc,
quan hệ giữa cấp uỷ, tổ chức đảng, người chỉ huy với ban chấp hành Đoàn thanh niên.
Cấp uỷ, chính uỷ, người chỉ huy và mọi đảng viên phải đi đầu trong việc duy trì và thực
hiện nghiêm chỉnh các chế độ quy định và lãnh đạo, chỉ đạo Đoàn thanh niên làm theo.
Mặt khác, lãnh đạo chỉ huy đơn vị phải chú trọng định hướng và tạo điều kiện thuận lợi
giúp đỡ về mọi mặt (bố trí thời gian, kinh phí đầu tư, cơ sở vật chất...) cho các hoạt động
của tổ chức quần chúng. Trong từng thời gian, cần tổ chức rút kinh nghiệm để kịp thời
khắc phục những khuyết điểm, phát huy ưu điểm, bảo đảm xây dựng tổ chức Đoàn Thanh
niên Cách mạng Lào luôn vững mạnh, góp phần tích cực tham gia xây dựng TCCSĐ
TSVM gắn với xây dựng đơn vị VMTD.
3.2.5. Nhóm giải pháp đối với cấp trên cơ sở và sự phối hợp với các tổ chức đảng
ngoài Đảng bộ Tổng cục, cấp uỷ, tổ chức đảng nơi đóng quân
3.2.5.1. Tăng cường sự chỉ đạo, giúp đỡ về mọi mặt của cấp uỷ các ban ngành
cấp trên cơ sở
Đây là một trong những giải pháp quan trọng có ý nghĩa trực tiếp quyết định đến
việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND
Lào.
Kết quả của quá trình và nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ
Tổng cục trước hết phụ thuộc vào sự phấn đấu vươn lên của chính bản thân cấp uỷ đảng
và đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các đảng bộ cơ sở, chi bộ đó. Song sự lãnh đạo, chỉ đạo
của đảng uỷ, các cơ quan chức năng cấp trên và sự tham gia rộng rãi của quần chúng
trong đơn vị có vai trò rất quan trọng. Sự lãnh đạo, chỉ đạo ấy, cần tập trung vào:
Trước hết đảng uỷ cấp trên, nhất là cấp trên trực tiếp cần có nhận thức đúng tầm
quan trọng của việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ, đáp ứng yêu cầu lãnh đạo hiện
nay. Hiểu rõ sự thống nhất biện chứng giữa sự TSVM của TCCSĐ và sự VMTD của đơn
vị để từ đó có chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phù hợp. Sự lãnh đạo, chỉ đạo của
cấp trên hiện nay cần tập trung vào xác định rõ mục tiêu, phương hướng, nội dung xây
dựng và yêu cầu nâng cao NLLĐ và SCĐ của đảng uỷ, chi bộ, làm cơ sở bảo đảm tính
đúng đắn cho mọi hoạt động của cấp uỷ, chi bộ và toàn đơn vị trong thực hiện nhiệm vụ
chính trị cũng như trong xây dựng cấp uỷ, chi bộ; quyết định và bảo đảm những vấn đề
cơ bản về chính trị, tư tưởng, tổ chức cho cấp uỷ, chi bộ cấp dưới. Rà soát lại tình hình cụ
thể ở từng TCCSĐ đặc biệt là công tác tổ chức cán bộ để xác định chính xác những vấn
đề trọng tâm, trọng điểm cần tập trung lãnh đạo, chỉ đạo trong quá trình xây dựng và
nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào.
Sự lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ, các cơ quan chức năng cấp trên còn phải tập
trung vào những nội dung, yêu cầu của cuộc vận động xây dựng chỉnh đốn Đảng để tự
xây dựng cơ sở vững mạnh và có khả năng chỉ đạo xây dựng cấp uỷ, chi bộ trong sạch
vững mạnh. Nắm vững tình hình các đơn vị và thực trạng của cấp uỷ, chi bộ giúp cho họ
biết đánh giá chính xác những mặt mạnh, mặt yếu kém trong hoạt động và xây dựng, trên
cơ sở đó đề ra phương hướng, yêu cầu, nội dung, biện pháp xây dựng TCCSĐ trong sạch
vững mạnh có NLLĐ và SCĐ cao.
Theo cương vị, chức trách, các cấp trên cơ sở cần có nội dung, biện pháp, chương
trình, kế hoạch cụ thể giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện đảng uỷ, chi bộ và từng đảng uỷ viên,
nhất là đội ngũ cán bộ chủ trì, nâng cao nhận thức, tư tưởng chính trị, củng cố bản lĩnh
chính trị, niềm tin vào sự lãnh đạo của Đảng và sự thành công của CNXH, rèn luyện đạo
đức lối sống, ý thức tổ chức kỷ luật, đoàn kết thống nhất nội bộ… Trên cơ sở đó lãnh đạo,
chỉ đạo giữ vững và tăng cường trận địa tư tưởng của Đảng cho toàn đảng bộ cơ sở, chi bộ
và đơn vị. Bảo đảm cho đảng uỷ, chi bộ đủ sức lãnh đạo và làm nòng cốt cho toàn đơn vị
tiến hành đấu tranh có hiệu quả trên mặt trận chính trị tư tưởng hiện nay.
Thường xuyên quan tâm theo dõi, chỉ đạo, giúp đỡ đảng uỷ, chi bộ và đơn vị ổn
định về tổ chức. Bồi dưỡng bí thư, sử dụng đội ngũ cán bộ ở đơn vị cơ sở. Trong tình
hình hiện nay, cần đặc biệt coi trọng việc bồi dưỡng, rèn luyện nâng cao trình độ kiến
thức, năng lực công tác, kinh nghiệm mọi mặt cho đội ngũ cán bộ chủ trì, nhất là cán bộ
chính trị ở đơn vị cơ sở, đội ngũ bí thư chi bộ và đảng uỷ viên, chăm lo chỉ đạo và tạo
điều kiện thuận lợi để phát huy tốt sức mạnh của các tổ chức và hiệu lực của cơ chế hoạt
động của các hệ thống lãnh đạo như: Hệ thống tổ chức đảng, hệ thống tổ chức chỉ huy và
hệ thống tổ chức quần chúng ở đơn vị.
Các cấp trên cơ sở cần có tác phong sâu sát thực tiễn, quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
cụ thể, giải quyết tại chỗ những vấn đề thuộc quyền. Luôn hướng về cơ sở để lãnh đạo,
chỉ đạo những vấn đề thực tiễn đặt ra ở cơ sở. Hiện nay cần chú trọng đầu tư kinh phí hợp
lý để xây dựng và cải thiện đời sống, điều kiện sinh hoạt, làm việc ở các TCCSĐ, đặc biệt
là các TCCSĐ đang thực hiện nhiệm vụ hoạt động chiến đấu ở vùng sâu, vùng xa và một
số nơi hết sức khó khăn, phức tạp, còn nhiều vấn đề vướng mắc và nhiều mặt yếu kém,
để giúp họ đủ sức vượt qua khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ được giao trong mọi tình
huống. Đồng thời đấu tranh khắc phục những biểu hiện quan liêu, hình thức, ngại xuống
cơ sở, thiếu sâu sát, thiếu trách nhiệm… trong lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng và nâng cao
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục tham mưu.
Các cơ quan chức năng cấp trên, trước hết là cơ quan chính trị phải đề cao vai trò,
trách nhiệm trong xây dựng và nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc Tổng cục
tham mưu.
3.2.5.2. Phối hợp chặt chẽ với hoạt động của cấp uỷ, tổ chức đảng ngoài Đảng
bộ Tổng cục và nơi đóng quân
Cần phối hợp chặt chẽ với cấp uỷ, chính quyền và toàn thể quần chúng nhân dân
địa phương nơi địa bàn khu vực đóng quân của các đơn vị cơ sở trong tham gia xây dựng
TCCSĐ và đội ngũ cán bộ, đảng viên. Để làm tốt vấn đề này: cấp uỷ, TCCSĐ phải chủ
động trao đổi, hợp tác công việc; xây dựng quy chế thống nhất, quy định rõ nội dung,
thời gian gặp gỡ trao đổi thông tin, thông báo tình hình cho nhau (cần kết hợp thông tin
trên các lĩnh vực hoạt động công tác của đơn vị, thông tin về tình hình hoạt động của đội
ngũ cán bộ, đảng viên đang công tác ở cơ sở khu vực…). Việc trao đổi công tác giữa cấp
uỷ, chỉ huy đơn vị với cấp uỷ chính quyền và toàn thể địa phương phải được duy trì thành
chế độ thường xuyên, có nền nếp. Ngoài ra cần kết hợp trong các hội nghị của bản,
huyện, của đơn vị để trao đổi cung cấp thông tin cho nhau.
Cấp uỷ, chỉ huy các đơn vị phải tăng cường giáo dục cán bộ chiến sĩ giữ vững mối
quan hệ đoàn kết gắn bó với nhân dân, với cấp uỷ, chính quyền địa phương; tranh thủ sự
giúp đỡ, ủng hộ, giám sát và tham gia đóng góp ý kiến phê bình của họ đối với cán bộ,
đảng viên, chiến sĩ, nhằm không ngừng xây dựng đơn vị và TCCSĐ ở các đơn vị vững
mạnh hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao trong mọi tình huống.
Kết luận
TCCSĐ là nền tảng của Đảng, hạt nhân chính trị ở cơ sở, NLLĐ và SCĐ của
TCCSĐ quan hệ mật thiết với NLLĐ và SCĐ của toàn Đảng và chất lượng thực hiện
nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ và của nhiệm vụ cách mạng. Bởi vậy nâng cao NLLĐ và
SCĐ của các TCCSĐ là vấn đề rất cần thiết hiện nay.
Với vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ và đặc điểm của các TCCSĐ thuộc đảng
bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào cho thấy việc nâng cao NLLĐ và SCĐ của các
TCCSĐ này thực sự là vấn đề rất cần thiết và cấp bách hiện nay, nhằm góp phần xây
dựng QĐND Lào chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại đảm bảo hoàn thành thắng lợi
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
NLLĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu là khả năng quán triệt,
nắm vững và vận dụng đúng đắn, sáng tạo đường lối của Đảng, chính sách pháp luật của
Nhà nước, các chỉ thị, nghị quyết của đảng uỷ quân sự Trung ương và của cấp trên để cụ
thể hoá đúng đắn nhiệm vụ chính trị và tổ chức thực hiện, tiến hành công tác kiểm tra,
giám sát đảm bảo cho nhiệm vụ chính trị được thực hiện.
SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu là sự thống nhất về chính
trị, tư tưởng, tổ chức, được thể hiện ra ở việc thực hiện đúng đắn, nghiêm túc các nguyên
tắc tổ chức, sinh hoạt đảng, đặc biệt là nguyên tắc tập trung dân chủ, đảm bảo sự thống
nhất về ý chí và hành động trong TCCSĐ, tạo nên sức mạnh nội tại của TCCSĐ để vượt
qua mọi khó khăn, thử thách, loại trừ những tiêu cực nảy sinh trong quá trình hoạt động
của TCCSĐ và sự phá hoại của các thế lực thù địch, lãnh đạo cán bộ, đảng viên, chiến sĩ
thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ.
NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào quan
hệ mật thiết với nhau. Đánh giá NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục
căn cứ vào các tiêu chí: lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị; lãnh đạo công tác chính
trị, tư tưởng; lãnh đạo thực hiện công tác xây dựng tổ chức đảng; lãnh đạo xây dựng đơn
vị và các tổ chức quần chúng.
Trong thời gian qua các cấp uỷ, tổ chức đảng thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào đã coi trọng nâng cao NLLĐ và SCĐ của các TCCSĐ. Mặc dù còn nhiều
khuyết điểm, yếu kém, song công việc này đã thu được kết quả quan trọng. Đồng thời các
cấp uỷ đã rút ra được những kinh nghiệm bổ ích: phải xuất phát từ nhiệm vụ chính trị của
đơn vị để xác định nội dung, biện pháp nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ; chăm lo
xây dựng và kiện toàn cấp uỷ và chi bộ; tăng cường mối quan hệ giữa TCCSĐ với chiến
sĩ; phát huy vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ cấp trên và các cơ quan chức năng đối
với nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND
Lào trong giai đoạn hiện nay cần thực hiện đồng bộ nhiều giải pháp. Trong đó, cần
nghiên cứu, ứng dụng các nhóm giải pháp đã nêu trong luận văn: Nhóm giải pháp về
nâng cao nhận thức, đề cao trách nhiệm của cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ, đảng viên;
nhóm giải pháp về nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng, thực hiện nghiêm chỉnh các nguyên
tắc tổ chức và hoạt động của Đảng, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng; nhóm giải pháp
về tăng cường công tác kiểm tra, giám sát và phát huy vai trò của lãnh đạo đơn vị và các
đoàn thể; nhóm giải pháp đối với cấp trên cơ sở và các đơn vị có liên quan.
Nâng cao NLLĐ và SCĐ của TCCSĐ thuộc đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND
Lào trong giai đoạn hiện nay là vấn đề mới và khó, đang đòi hỏi nghiên cứu.
Danh mục tài liệu tham khảo
I. Tiếng Việt (phần tiếng Việt)
1. Nguyễn Đức ái (2001), Năng lực lãnh đạo và SCĐ của TCCSĐ nông thôn vùng cao
phía Bắc trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước,
Luận án tiến sĩ lịch sử, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
2. Ban Tổ chức Trung ương (2008), Tạp chí hướng dẫn công tác tổ chức xây dựng
Đảng, (11).
3. Phạm Huy Bình (1998), Nâng cao chất lượng TCCSĐ phòng kỹ thuật ở các sư đoàn
trong tình hình mới, Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
4. Đàm Thiện Cầu (2006), Năng lực lãnh đạo và SCĐ của chi bộ ở các bản thuộc
huyện Hoà An, tỉnh Cao Bằng giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm BCHTW khoá X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (2008), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu BCHTW khoá X,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Viện Xây dựng Đảng (1999), Giáo trình
xây dựng Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Kham Tăn - Sôm Phăn Đon (2003), Nâng cao chất lượng TCCSĐ cấp tiểu đoàn Bộ
đội địa phương ở các tỉnh phía Nam nước Cộng hoà dân chủ nhân dân Lào
trong thời kỳ mới, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
10. V.I.Lênin (1977), Toàn tập, tập 9, Nxb Sự thật, Hà Nội.
11. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 36, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
12. V.I.Lênin (1979), Toàn tập, tập 40, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
13. V.I.Lênin (1978), Toàn tập, tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
14. C.Mác - Ph.Ăngghen (1993), Toàn tập, tập 2, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
15. C.Mác - Ph.Ăngghen (1988), Lút - vích Phoi - ơ - bắc và sự cáo chung của triết học
cổ điển Đức, Toàn tập, tập 21, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Hồ Chí Minh (1970), Về xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội.
17. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Hồ Chí Minh (1995), Toàn tập, tập 9, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Nâng cao NLLĐ và SCĐ của Đảng trong thời kỳ mới (2004), Nxb Chính trị quốc
gia, Hà Nội.
21. Vũ Hữu Ngoạn (chủ biên) (2001), Tìm hiểu một số khái niệm trong văn kiện Đại hội
IX của Đảng, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Sổ tay công tác bí thư chi bộ (1991), Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
23. Tổng cục Chính trị - QĐND Việt Nam (1999), Giáo trình môn công tác đảng, công
tác chính trị, tập I, Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội.
24. TS. Nguyễn Thế Tư (2007), Những biến dạng nguyên tắc tập trung dân chủ và giải
pháp khắc phục, Học viện Chính trị khu vực III.
25. Xỉ - Tha-Phênh-Vi-Lay-Xúc (2002), Tăng cường bồi dưỡng năng lực công tác đảng,
công tác chính trị của đội ngũ cán bộ chính trị ở cơ quan Tổng cục Hậu cần
QĐND Lào hiện nay, Luận văn thạc sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng, Học viện
Chính trị - Quân sự, Hà Nội.
26. Nguyễn Như ý (1999), Đại từ điển tiếng Việt, Nxb Văn hoá thông tin, Hà Nội.
II. Tiếng Lào (Phần tiếng Lào dịch sang tiếng Việt)
27. Bộ Chính trị (1996), Chỉ thị về tăng cường sự lãnh đạo của đảng uỷ các cấp trong
việc củng cố, xây dựng cơ sở đảng vững mạnh biết lãnh đạo toàn diện, Thủ đô
Viêng Chăn.
28. Bộ Chính trị (2002), Quyết định số 03 ngày 13/3/2002 về tiêu chuẩn củng cố xây
dựng chi bộ vững mạnh, biết lãnh đạo toàn diện.
29. Cay Xỏn Phôm Vi Hản (1985), Xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh làm hạt
nhân trung tâm đoàn kết cơ sở, Tuyển tập, tập 1, Nxb Cộng hoà Dân chủ Nhân
dân Lào, Viêng Chăn.
30. Cay Xỏn Phôm Vi Hản (1997), Về đạo đức cách mạng, Nxb Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào, Viêng Chăn.
31. Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào (2008), Báo cáo số 1082 ngày 6/11/2008
về kết quả kiểm tra Đảng uỷ cơ sở và chi bộ trong toàn đảng bộ.
32. Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào (2008), Kế hoạch củng cố xây dựng đơn
vị cơ sở vững mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện của Tổng cục Tham mưu.
33. Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào (2002), Quy định về vị trí, vai trò, chức
năng, nhiệm vụ và phong cách làm việc của đảng uỷ Tổng cục Tham mưu.
34. Đảng NDCM Lào (1998), Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương nghị quyết số
11 ngày 14 tháng 8 năm 1998 về tăng cường công tác xây dựng chi bộ vững
mạnh, biết lãnh đạo toàn diện.
35. Đảng NDCM Lào (2001), Nghị quyết Đại hội VII, Nxb Ban Tuyên huấn Trung
ương, Viêng Chăn.
36. Đảng NDCM Lào (2005), Đại hội lần thứ II của Đảng uỷ Bộ Quốc phòng QĐND
Lào.
37. Đảng NDCM Lào (2006), Nghị quyết Đại hội VIII, Nxb Ban Tuyên giáo Trung
ương, Viêng Chăn.
38. Đảng NDCM Lào (2006), Báo cáo chính trị tại Đại hội VIII, Nxb Ban Tổ chức
Trung ương, Viêng Chăn.
39. Đảng NDCM Lào (2006), Điều lệ Đảng, Nxb Thủ đô Viêng Chăn.
40. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (1996), Hướng dẫn số 85 ngày 13 tháng 6 năm 1996 về
xây dựng TCCSĐ trong sạch vững mạnh gắn liền với xây dựng đơn vị cơ sở
vững mạnh toàn diện trong QĐND Lào.
41. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (1998), Hội nghị tổng kết rút kinh nghiệm 5 năm việc tổ
chức vận hành chế độ hai thủ trưởng và chế độ đảng uỷ trong quân đội.
42. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (2001), Nghị quyết Hội nghị đại biểu toàn quân lần thứ
nhất, Thủ đô Viêng Chăn.
43. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (2004), Hội nghị tổng kết công tác xây dựng TCCSĐ toàn
quân lần thứ II.
44. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (2005), Quy định số 64 ngày 13 tháng 7 năm 2005 về tiêu
chuẩn, củng cố xây dựng đơn vị vững mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện
trong quân đội.
45. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (2005), Quy định số 65 ngày 13 tháng 7 năm 2005 về chế
độ kiểm tra đánh giá phân loại chất lượng TCCSĐ và đảng viên trong quân
đội.
46. Đảng uỷ Bộ Quốc phòng (2005), Hội nghị tổng kết công tác xây dựng TCCSĐ toàn
quân lần thứ II.
47. Đảng uỷ Tổng cục tham mưu QĐND Lào (2008), Quy định số 1082 ngày 6/11/2008
về củng cố xây dựng đơn vị vững mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện.
48. Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào (2008), Hội nghị tổng kết công tác kiểm
tra đảng uỷ cơ sở và chi bộ thuộc đảng bộ Tổng cục.
49. Đảng bộ Tổng cục tham mưu QĐND Lào (2008), Báo cáo tổng kết của công tác
kiểm tra đảng uỷ cơ sở, chi bộ.
50. Khăm - Tày - Xỉ - Phăn - Đon (1995), Bài phát biểu tại mít tinh kỷ niệm 40 năm
ngày thành lập ĐNDCM Lào, Nxb Ban Tuyên huấn Trung ương, Viêng Chăn.
51. Quân đội nhân dân Lào (1996), Chỉ thị số 85 về vị trí, chức năng, nhiệm vụ, phạm vi
quyền hạn và phương thức làm việc của các TCCSĐ trong QĐND Lào.
52. Tổng cục Chính trị Bộ Quốc phòng QĐND Lào (2000), Chỉ thị về tăng cường sự
lãnh đạo của Đảng uỷ các cấp trong quân đội để chỉ đạo các đơn vị cơ sở
vững mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện, số 01/TCCT, Thủ đô Viêng Chăn.
53. Tổng cục Tham mưu QĐND Lào (2008), Kế hoạch củng cố xây dựng đơn vị cơ sở
vững mạnh, chi bộ biết lãnh đạo toàn diện.
Phụ lục
Phụ lục 1
Hệ thống TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào
Đảng uỷ Bộ Quốc phòng
Đảng uỷ Tổng cục tham mưu
(TCCSĐ 2 cấp)
(TCCSĐ 1 cấp)
Đảng bộ cơ sở (Tiểu đoàn độc lập)
Chi bộ (các cục)
Chi bộ (đại đội độc lập)
Chi bộ (đại đội)
Chi bộ (đại đội)
Chi bộ (đại đội)
Chi bộ (các văn phòng)
Nguồn: Cục Tổ chức (Tổng cục chính trị).
Phụ lục 2
Kết quả phân loại TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu
QĐND Lào từ năm 2004 đến năm 2008
1. Đảng bộ cơ sở thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu
Mức I Mức II Mức III Tổng số
cấp uỷ Năm Số Số Số phân % % % lượng lượng lượng loại
20 2004 10 50 10 50 0
20 2005 12 60 8 40 0
20 2006 13 65 7 35 0
20 2007 12 60 8 40 0
20 2008 14 70 6 30 0
2. Chi bộ thuộc Đảng bộ Tổng cục tham mưu
Tổng số Mức I Mức II Mức III
chi bộ Năm Số Số Số phân % % % lượng lượng lượng loại
2004 105 73 76,65 30 31,5 2 2,1
2005 105 77 73,34 27 25,71 1 0,95
2006 107 67 62,26 40 37,37
2007 107 72 67,28 34 31,78 1 0,94
2008 107 79 73,84 26 24,30 2 1,86
Nguồn: Cục Tổ chức (Tổng cục chính trị).
Phụ lục 3
Phân loại đảng viên các TCCSĐ thuộc Đảng bộ Tổng cục Tham mưu QĐND Lào từ
năm 2004-2008
Năm 2004 2005 2006 2007 2008 Phân loại
Tổng cộng 1.563 1.632 1.720 1.810 1.880
Nữ 302 306 311 313 316
Vững mạnh 927 1219 1140 1322 1652
Khá 629 413 672 457 228
Yếu kém 3 0 2 21 0
Không được phân loại 4 9 6 10 16
Nguồn: Cục Tổ chức (Tổng cục chính trị).
Phụ lục 4
Tình hình đội ngũ cán bộ, đảng viên ở các đơn vị thuộc
Tổng cục Tham mưu từ năm 2004-2008
Cơ cấu 2004 2005 2006 2007 2008 % 2008
Tổng số đảng viên 1563 1632 1720 1810 1880 100
Dự bị 142 115 131 128 173 9,20
Nam 1254 1320 1405 1495 1564 83,19
Nữ 309 312 315 315 316 16,80
Dân tộc
- Lào Xủng 10 13 13 13 13 0,69
- Lào Thâng 156 169 173 178 189 10,05
Tuổi đời
- Dưới 40 1145 1143 1249 1185 1252 66,59
- Trên 40 418 489 471 625 628 33,40
Trình độ học vấn
- Tiểu học 97 102 98 103 105 5,58
- Trung học cơ sở 407 405 410 409 412 21,91
- Trung học phổ 1059 1125 1212 1298 1363 72,5 thông
Trình độ chính trị
- Sơ cấp 155 168 199 196 210 11,17
- Trung cấp 216 243 239 268 270 14,36
- Cao cấp 117 116 125 124 129 6,86
- Bồi dưỡng 19 15 17 13 18 0,95
- Chưa qua đào tạo 1056 1090 1140 1209 1253 66,64
Trình độ nghiệp vụ
- Sơ cấp 489 461 507 519 538 28,61
- Trung cấp 718 665 741 795 811 43,13
- Cao đẳng 193 187 230 238 274 14,57%
- Đại học 115 96 120 129 135 7,18%
- Sau đại học 53 43 60 73 77 4,09%
- Chưa qua đào tạo 111 64 62 56 42 2,23
Vào Đảng trước 0 0 0 0 0 0 1945
1945-1954 12 18 8 7 4 0,21
1954-1975 659 664 656 553 449 23,88
961 881 Từ 1975 đến nay 1056 1250 1427 75,90
Nguồn: Phòng Chính trị - Tổng cục Tham mưu.
Phụ lục 5
Tổng hợp số liệu kết nạp đảng viên của các TCCSĐ thuộc đảng bộ
Tổng cục Tham mưu QĐND Lào từ năm 2004 đến 2008
TCCSĐ Tỷ lệ lãnh
không kết đạo của
nạp được TCCSĐ Tổng số Hạ sĩ quan Năm Sĩ quan đảng viên thuộc đảng kết nạp chiến sĩ (tỷ lệ % bộ Tổng
trong tổng cục Tham
số TCCSĐ) mưu
19,12% 48,9% 2004 92 25 67
15,62% 52,65% 2005 69 36 33
17,7% 53,72% 2006 88 26 62
20,99% 55,31% 2007 90 29 51
16,58% 57,5% 2008 70 23 47
Nguồn: Cục Tổ chức - Tổng cục Chính trị.