
Tạp chí Khoa học và Công nghệ, Số 51, 2021
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH SỬ DỤNG
ỨNG DỤNG GIAO THỨC ĂN CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG
TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
LÊ NAM HẢI, PHAN THỊ TRÚC MAI
Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
lenamhai@iuh.edu.vn
Tóm tắt: Nghiên cứu được thực hiện nhằm mục đích xem xét các yếu tố tác động đến ý định sử dụng ứng
dụng giao thức ăn của người tiêu dùng. Dữ liệu phân tích dựa trên 326 bảng khảo sát hợp lệ được thu thập
từ người tiêu dùng tại khu vực TP. Đà Nẵng. Các phương pháp phân tích chính được sử dụng bao gồm:
phân tích độ tin cậy của thang đo (Cronbach’s Alpha), phân tích nhân tố khám phá (EFA) và phân tích hồi
quy đa biến. Kết quả nghiên cứu cho thấy có năm yếu tố: Nhận thức tính dễ sử dụng, mong đợi về giá, nhận
thức sự thuận tiện, niềm tin và chuẩn chủ quan thực sự có ảnh hưởng tích cực đến ý định sử dụng. Bên cạnh
đó, nghiên cứu cũng đề xuất hàm ý quản trị nhằm giúp các doanh nghiệp về ứng dụng giao thức ăn có thể
nâng cao chất lượng, đề ra hướng phát triển và mở rộng thị trường
Từ khóa: Chấp nhận công nghệ, hành vi người tiêu dùng, thương mại di động, ứng dụng giao thức ăn, ý
định sử dụng.
A STUDY OF FACTORS INFLUENCING THE INTENTION TO USE
FOOD DELIVERY APPLICATIONS OF CONSUMERS IN DA NANG CITY
Abstract: The purpose of this research is to examine factors affecting the intention to use food delivery
applications of consumers. The study analyzed data of 326 suitable questionnaires collected from
consumers in Da Nang City. The main methods used in this research include: the Cronbach’s Alpha test of
reliability, exploratory factor analysis (EFA), and multiple regression analysis. The findings show five
factors such as perceived easy to use, perceived price, perceived convenience, trust and subjective norm
having positive impacts on consumers’ intention to use food delivery applications. In addition, this study
has also proposed some managerial implications for food delivery apps supplier to improve quality, to set
the direction of development and to expand market.
Keywords: technology acceptance, consumer behavior, mobile commerce, food delivery application,
intention to use.
1.GIỚI THIỆU
Thời đại công nghệ lên ngôi, nhịp sống bận rộn đã dẫn đến những thay đổi đáng kể trong thói quen tiêu
dùng của nhiều người khi họ dần chuyển từ việc mua sắm trực tiếp sang sử dụng thương mại điện tử. Bên
cạnh đó, sự phát triển nhanh chóng của công nghệ thông tin với tần suất sử dụng Internet tăng cao thì các
thiết bị di động không còn đơn thuần là một công cụ liên lạc mà dần trở thành một phương tiện cung cấp
các tính năng tiện lợi cho người sử dụng như nghe nhạc, xem phim, mua sắm... Và một trong số đó có thể
kể đến là ứng dụng giao thức ăn. Năm 2018 vừa qua được xem là một cuộc thay đổi lớn đối với thị trường
giao nhận thức ăn trực tuyến Việt Nam khi xu hướng sử dụng ứng dụng giao thức ăn thay cho việc trực tiếp
đến các nhà hàng, quán ăn để ăn uống của người tiêu dùng có sự tăng tưởng mạnh. Theo nghiên cứu của
GCOMM cuối năm 2018 cho thấy, tần suất sử dụng các dịch vụ đặt món trực tuyến của người thành thị
hiện khá cao. Cụ thể, 99% người tham gia khảo sát cho biết sử dụng các dịch vụ đặt thức ăn trực tuyến ít
nhất 2-3 lần/tháng, trong đó 39% người tham gia khảo sát đặt món thông qua ứng dụng 2-3 lần/tuần [5].
Nắm bắt nhu cầu cũng như thấu hiểu được tâm lý của người tiêu dùng, hàng loạt ứng dụng giao thức ăn
như Grabfood, Now.vn, GoViet, Lozi…lần lượt ra đời với phương thức sử dụng đơn giản, tiết kiệm thời
gian, giao dịch nhanh chóng và hiệu quả cao hơn đang dần được khách hàng ưa chuộng. Việc đặt hàng trực
tuyến đã dần phát triển nhanh chóng, không chỉ dừng lại ở cách thỏa mãn nhu cầu, cung ứng sản phẩm mà

56 NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH SỬ DỤNG ỨNG DỤNG GIAO THỨC ĂN
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
còn tác động và làm thay đổi đáng kể thói quen tiêu dùng; đồng thời đang tạo ra cuộc đua vô cùng khốc liệt
giữa các thương hiệu vài năm trở lại đây.
Tuy có sự chuyển biến lớn đối với thị trường giao nhận thức ăn trực tuyến, nhưng do tính chất mới mẻ, chỉ
phát triển mạnh tại một số khu vực như TPHCM, Hà Nội…, cũng như ứng dụng công nghệ không phải lúc
nào cũng phù hợp với tất cả các đối tượng khách hàng thì cần phải có sự quan tâm đúng mức đến nhận thức
người tiêu dùng, có các hướng triển khai tại những khu vực mới như Đà Nẵng, Nha Trang, Biên Hòa…giúp
phát triển thị trường đặt món trực tuyến vẫn còn nhiều tiềm năng và mở rộng phạm vi.
TP. Đà Nẵng được xem là một trong những vùng kinh tế trọng điểm của khu vực Miền Trung - Tây Nguyên
khi chỉ trong vòng vài năm trở lại đây, nền kinh tế của Thành phố này liên tục có sự tăng trưởng vượt trội.
Tình hình kinh tế - xã hội TP.Đà Nẵng năm 2018 tiếp tục phát triển với 9 chỉ tiêu kinh tế chủ yếu đều tăng
trưởng khá, trong đó 6/9 chỉ tiêu đạt và vượt kế hoạch [2]. Đóng góp chính vào mức tăng trưởng cao và ổn
định của kinh tế TP. Đà Nẵng chủ yếu từ hai nhóm ngành dịch vụ và công nghiệp - xây dựng. Thành phố
có xu hướng chuyển dịch từ nông nghiệp sang công nghiệp - dịch vụ, đồng thời đây cũng là khu vực có hơn
9 ngàn người dân, là cửa ngõ giao thương và tiếp cận công nghệ mới, liên tục có các chương trình giao lưu
công nghệ, thương mại di động cũng giúp mở ra cho Đà Nẵng tiềm năng lớn mạnh trong lĩnh vực này. Sự
chuyển mình nhanh chóng của TP. Đà Nẵng là một tín hiệu đáng mừng và đây chắc hẳn sẽ là một thị trường
tiềm năng trong tương lai giữa cuộc đua giao nhận của các thương hiệu.
Với những lý do trên, nhìn nhận được thực trạng tiềm năng của thị trường, cũng như nhận thấy việc nghiên
cứu, tìm ra các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng của người tiêu dung tại TP. Đà Nẵng trong thời điểm
hiện tại là hết sức cần thiết cả về mặt học thuật lẫn thực tiễn, nhóm tác giả quyết định triển khai mô hình
nghiên cứu các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn của người tiêu dùng tại TP. Đà
Nẵng. Nghiên cứu sẽ giúp bổ sung các lập luận, đồng thời là bằng chứng thực nghiệm góp phần giúp các
doanh nghiệp tìm ra hướng phát triển mới, nâng cao giải pháp giúp thu hút khách hàng sử dụng dịch vụ,
xây dựng chiến lược tiếp thị và phát triển hình thức giao nhận thức ăn trực tuyến của mình tại thành phố
này trong thời gian tới. Bên cạnh phần giới thiệu, các nội dụng còn lại của bài viết sẽ trình bày về: cơ sở lý
thuyết và mô hình nghiên cứu; phương pháp nghiên cứu; kết quả nghiên cứu; kết luận và hàm ý quản trị.
2. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ MÔ HÌNH NGHIÊN CỨU
2.1 Ứng dụng giao thức ăn
Trong xu thế hiện nay, cùng với sự tăng trưởng mạnh của công nghệ thông tin thì người tiêu dùng đã dần
có xu hướng chuyển sang sử dụng các thiết bị điện tử để phục vụ cho nhu cầu mua sắm, vui chơi giải trí,
trò chuyện cùng bạn bè nhiều hơn. Thương mại di động cũng từ đó mà phát triển một cách vượt trội chỉ
trong một khoảng thời gian ngắn. Các thiết bị di động không còn đơn thuần là một công cụ để liên lạc, nghe
nhạc, xem phim mà dần trở thành một phương tiện hỗ trợ người tiêu dùng trong việc mua sắm, đặt món ăn
trực tuyến thông qua việc sử dụng các ứng dụng tiện ích trên điện thoại. Và một trong số đó có thể kể đến
là ứng dụng giao thức ăn.
Theo Kimes và ctg (2011) [17] “Đặt món ăn trực tuyến là quá trình đặt hàng thông qua trang web (ứng
dụng di động) của nhà hàng hoặc thông qua trang web (ứng dụng) của nhiều nhà hàng. Một khách hàng có
thể chọn để giao đồ ăn hoặc nhận. Việc thanh toán cũng được quản lý thông qua ứng dụng (trang web) hoặc
bằng tiền mặt tại nhà hàng khi đi lấy hàng.” Bên cạnh đó He và ctg (2018) [14] cho rằng “Quá trình đặt
thức ăn trực tuyến bao gồm việc khách hàng chọn nhà hàng mà họ muốn, xem xét thực đơn, chọn món và
cuối cùng chọn để nhận hoặc giao hàng. Theo đó trang web (ứng dụng) thông báo cho khách hàng về chất
lượng thực phẩm, thời gian chuẩn bị thực phẩm, thời gian thực phẩm sẵn sàng để nhận hoặc thời gian cần
thiết để giao hàng.”
Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả thực hiện nghiên cứu ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn dựa trên
nền tảng điện thoại thông minh. Cụ thể, việc đặt món ăn trực tuyến là quá trình đặt hàng thông qua ứng
dụng di dộng giao thức ăn trực tuyến.
2.2 Ý định
Theo Ajzen (1991) [1] cho rằng “Ý định là một yếu tố tạo động lực, nó thúc đẩy một cá nhân sẵn sàng thực
hiện hành vi”. Đồng thời tác giả cũng chỉ ra rằng “Ý định bao gồm các yếu tố động cơ có ảnh hưởng đến
hành vi của mỗi cá nhân; các yếu tố này cho thấy mức độ sẵn sàng hoặc nỗ lực mà mỗi cá nhân sẽ bỏ ra để
thực hiện hành vi”

NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH SỬ DỤNG ỨNG DỤNG GIAO THỨC ĂN 57
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
Trong thuyết hành động hợp lý TRA (Theory of Reasoned Action) [10] được Ajzen & Fishbein xây dựng
từ cuối thập niên 60 của thế kỷ XX, được hiệu chỉnh mở rộng trong thập niên 70 đã chỉ ra rằng ý định là
yếu tố quan trọng nhất để dự đoán hành vi tiêu dùng (Actual Behavior) và ý định bị ảnh hưởng bởi hai yếu
tố: thái độ và chuẩn chủ quan. Bên cạnh đó mô hình chấp nhận công nghệ TAM (Technology Acceptance
Model) được phát triển bởi Davis (1985) [7] dựa trên cơ sở của lý thuyết TRA cho thấy ý định được xem
là tiền đề trực tiếp dẫn đến hành vi sử dụng công nghệ. Ngoài ra mối quan hệ giữa ý định và hành vi sử
dụng công nghệ cũng được kiểm định bởi Joongho Ahn và ctg (2001) [16], Hasslinger và ctg (2007) [13]
cùng với nghiên cứu của Hoàng Quốc Cường (2010) [6]. Chính vì thế trong nghiên cứu này, nhóm tác giả
sẽ thực hiện các phân tích cũng như tập trung xem xét những yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ứng
dụng giao thức ăn của người tiêu dùng tại khu vực TP.Đà Nẵng.
2.3 Mô hình và giả thuyết nghiên cứu
Qua tham khảo các nghiên cứu về ý định sử dụng và chấp nhận công nghệ của các tác giả cũng như mô
hình có liên quan, nghiên cứu đề xuất 6 nhân tố tác động đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn của
người tiêu dùng tại TP. Đà Nẵng. Trong đó nghiên cứu kế thừa các nhân tố từ 3 mô hình và 1 nghiên cứu:
Nhân tố chuẩn chủ quan từ mô hình TRA (Ajzen & Fishbein, 1975) [10]; Nhân tố nhận thức tính dễ sử
dụng từ mô hình TAM (Davis, 1985) [7]; Nhân tố nhận thức rủi ro khi sử dụng từ mô hình E-CAM (Joongho
Ahn và ctg, 2001) [16] và ba nhân tố mong đợi về giá, nhận thức sự thuận tiện và niềm tin từ nghiên cứu
của Hasslinger và ctg (2007) [13].
(1) Nhận thức tính dễ sử dụng:
Theo Davis (1985) [7] thì “Nhận thức tính dễ sử dụng là cấp độ mà một người tin rằng sử dụng một ứng
dụng đặc thù sẽ không cần nỗ lực”.Các nghiên cứu của Joongho Ahn và ctg (2001) [16], Matthew K O Lee
& Christy M K Cheung (2005) [4], Nguyễn Duy Thanh và ctg (2015) [20], Lê Ngọc Đức (2008) [8], Hoàng
Quốc Cường (2010) [6], Lee & ctg (2017) [18] và Elango & ctg (2018) [9] cũng chỉ ra rằng “Nhận thức
tính dễ sử dụng” có tác động tích cực lên ý định sử dụng. Trong nghiên cứu này, nhận thức tính dễ sử dụng
sẽ thể hiện ở chỗ người sử dụng ứng dụng giao thức ăn sẽ cảm thấy dễ dàng khi làm quen và dễ dàng thành
thạo trong việc sử dụng ứng dụng đặt hàng để đáp ứng nhu cầu của họ khi cần. Do đó, tác giả đưa ra giả
thuyết rằng:
Giả thuyết H1: Nhận thức tính dễ sử dụng có tác động tích cực (+) đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức
ăn của người tiêu dùng tại TP.Đà Nẵng
(2) Mong đợi về giá:
Hasslinger và ctg (2007) [13] đã đề cập đến việc khách hàng tin rằng mua hàng qua mạng sẽ giúp tiết kiệm
thời gian, tiền bạc và ở họ có sự so sánh về giá. Và các nghiên cứu của Nguyễn Duy Thanh và ctg (2015)
[20], Hoàng Quốc Cường (2010) [6] cũng chấp nhận rằng “Mong đợi về giá” có tác động tích cực lên ý
định sử dụng. Trong nghiên cứu này, mong đợi về giá của khách hàng về ứng dụng giao thức ăn được thể
hiện ở chỗ khách hàng tin rằng việc sử dụng ứng dụng sẽ giúp họ tiết kiệm được tiền sản phẩm và giao dịch
hơn so với dùng trực tiếp, thông qua các chương trình khuyến mãi. Do đó trong mô hình, tác giả đưa ra giả
thuyết:
Giả thuyết H2: Mong đợi về giá có tác động tích cực (+) đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn của
người tiêu dùng tại TP.Đà Nẵng
(3) Nhận thức sự thuận tiện:
Theo Hasslinger và ctg (2007) [13] đã đề cập đến việc người tiêu dùng nhận thấy rằng việc mua hàng qua
mạng hay sử dụng dịch vụ giao nhận thức ăn trực tuyến giúp họ tiết kiệm được thời gian, công sức và có
thể sử dụng dịch vụ bất cứ lúc nào khi có nhu cầu. Trong nghiên cứu này, nhân tố “ Nhận thức sự thuận
tiện” được tác giả nhìn nhận sẽ thể hiện qua việc ứng dụng giao thức ăn sẽ bổ trợ tích cực cho việc đặt hàng
thức ăn của người tiêu dùng, giúp họ có thể đặt hàng với mức chi phí thấp, tiết kiệm thời gian. Do đó tác
giả đề xuất giả thuyết H3 như sau:
Giả thuyết H3: Nhận thức sự thuận tiện có tác động tích cực (+) đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn
của người tiêu dùng tại TP.Đà Nẵng
(4) Nhận thức rủi ro khi sử dụng:
Trong mô hình chấp nhận thương mại điện tử E-CAM (Joongho Ahn và ctg, 2001) [16] và thuyết nhận thức
rủi ro TPR (Bauer, 1960) [3] cho rằng “ Nhận thức rủi ro liên quan đến sản phẩm dịch vụ phản ánh sự lo
lắng của người tiêu dùng về thông tin cá nhân khi sử dụng dịch vụ trực tuyến. Các rủi ro khi sử dụng có thể

58 NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH SỬ DỤNG ỨNG DỤNG GIAO THỨC ĂN
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
bao gồm: Lộ thông tin cá nhân, mất tài khoản, sản phẩm được nhận không đúng hoặc ảnh hưởng đến sức
khỏe và vệ sinh an toàn thực phẩm”. Trong nghiên cứu này, nhận thức rủi ro khi sử dụng sẽ thể hiện qua
việc “ Người dùng ứng dụng trực tuyến càng nhận thức được rủi ro cao thì họ sẽ càng không sử dụng, hoặc
không có ý định sử dụng”. Từ đó, tác giả đưa ra giả thuyết rằng:
Giả thuyết H4: Nhận thức rủi ro khi sử dụng có tác động tiêu cực (-) đến ý định sử dụng ứng dụng giao
thức ăn của người tiêu dùng tại TP.Đà Nẵng
(5) Niềm tin:
Nghiên cứu của Hasslinger và ctg (2007) [13] cho rằng niềm tin tác động tích cực đến ý định sử dụng của
khách hàng. Đồng thời nhiều nghiên cứu cũng đã chấp nhận rằng niềm tin có vai trò lớn trong việc tác động
đến ý định sử dụng của người tiêu dùng. Và theo nhận định của tác giả thì niềm tin của khách hàng thể hiện
qua việc họ mong muốn sản phẩm nhận được phải đúng với những gì đã được mô tả. Do đó tác giả đề xuất
giả thuyết:
Giả thuyết H5: Niềm tin có tác động tích cực (+) đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn của người tiêu
dùng tại TP.Đà Nẵng
(6) Chuẩn chủ quan:
Theo Ajzen & Fishbein (1975) [10] cho rằng “Chuẩn chủ quan hay ảnh hưởng từ xã hội là nhận thức của
con người về áp lực xã hội để thể hiện hay không thể hiện hành vi. Các áp lực xã hội này xuất phát từ gia
đình, bạn bè, đồng nghiệp, phương tiện truyền thông.” Đồng thời kết quả nghiên cứu của Ajzen (1991) [1],
Lê Ngọc Đức (2008) [8], Nguyễn Duy Thanh và ctg (2015) [20], Elango & ctg (2018) [9] cũng chỉ ra rằng
“Chuẩn chủ quan” có tác động tích cực lên ý định sử dụng. Do đó trong nghiên cứu này, tác giả nhìn nhận
rằng, chuẩn chủ quan sẽ tác động lớn đến ý định sử dụng của khách hàng, hay nói cách khác tác động chuẩn
chủ quan càng lớn thì khách hàng càng mong muốn sử dụng ứng dụng
Giả thuyết H6: Chuẩn chủ quan có tác động tích cực (+) đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn của
người tiêu dùng tại TP.Đà Nẵng
Hình 1. Mô hình đề xuất các yếu tố ảnh hưởng đến ý định sử dụng ứng dụng giao thức ăn của người tiêu
dùng tại TP. Đà Nẵng
Nguồn: Tác giả
3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
Nghiên cứu được thực hiện thông qua hai phương pháp chính là nghiên cứu định tính và nghiên cứu định
lượng. Nghiên cứu định tính được thực hiện thông qua hình thức phỏng vấn sơ bộ các cá nhân và chuyên
gia bằng dàn bài phỏng vấn nhằm hiệu chỉnh thang đo. Nghiên cứu định lượng được tiến hành thông qua
bảng câu hỏi khảo sát chính thức và tiến hành phân tích dữ liệu thu thập. Trong đó, đối tượng khảo sát là
những người tiêu dùng đang sinh sống và làm việc tối thiểu 1 năm tại TP.Đà Nẵng với điều kiện những
người tiêu dùng có sử dụng Internet và các thiết bị di động kết nối mạng không dây, đã từng biết đến ứng
dụng giao thức ăn nhưng chưa từng sử dụng qua. Họ là những người tiêu dùng có nhu cầu đặt mua thực
phẩm ngành hàng tiêu dùng nhanh và mong muốn sử dụng dịch vụ giao nhận tại nhà. Nhóm tác giả lựa
Nhận thức tính dễ sử dụng
Nhận thức rủi ro khi sử dụng
Niềm tin
Ý định sử dụng
Mong đợi về giá
Nhận thức sự thuận tiện
Chuẩn chủ quan

NGHIÊN CỨU CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH SỬ DỤNG ỨNG DỤNG GIAO THỨC ĂN 59
CỦA NGƯỜI TIÊU DÙNG TẠI THÀNH PHỐ ĐÀ NẴNG
© 2021 Trường Đại học Công nghiệp thành phố Hồ Chí Minh
chọn phương pháp lấy mẫu phi xác xuất, thuận tiện, cùng với việc tính toán kích thức mẫu dựa theo các
tiêu chí sau: Kích cỡ mẫu phù hợp với kỹ thuật phân tích nhân tố EFA và tỉ lệ quan sát/biến đo lường là 5:1
(5x27=135) (Hair & ctg, 2006) [12]. Trong nghiên cứu này, nhóm tác giả chọn kích thước mẫu là 350 nhằm
đảm bảo độ tin cậy cao cũng như đề phòng các tác nhân làm giảm kích thước mẫu khi tiến hành khảo sát
thực tế. Theo đó nghiên cứu đã tiến hành thu thập số liệu từ 350 người tiêu dùng, sau khi sàn lọc còn lại
326 trường hợp phù hợp để tiếp tục phân tích. Như vậy, số liệu được thu thập đảm bảo thực hiện tốt mô
hình nghiên cứu, đồng thời để đo lường các khái niệm nghiên cứu trong mô hình, nhóm tác giả sử dụng
thang đo Likert 5 mức độ từ 1 (Hoàn toàn không đồng ý) đến 5 (Hoàn toàn đồng ý). Dữ liệu sau khi được
thu thập sẽ được xử lí và phân tích bằng phần mềm SPSS 20.0.
4. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
4.1 Tóm thông tin mẫu khảo sát
Nghiên cứu đã tiến hành điều tra 350 người tiêu dùng, sau khi sàng lọc còn lại 326 phiếu khảo sát phù hợp
để tiếp tục phân tích. Thống kê dữ liệu cho thấy phần lớn các đối tượng khảo sát thường có thời gian sử
dụng Internet trung bình/ ngày rơi vào khoảng trên 4 giờ chiếm phần lớn với 155 người trả lời (47,5% trên
tổng số đáp viên), chỉ có 8 người có thời gian sử dụng Internet dưới 30 phút/ ngày (chiếm 2,5% trên tổng
số đáp viên). Nhóm tuổi chủ yếu của người khảo sát rơi vào khoảng từ 18 đến 35 tuổi chiếm tổng 69% trên
số đáp viên. Trình độ học vấn Đại học-Cao Đẳng chiếm phần lớn với 199 người trả lời (chiếm 61,1%), thấp
nhất là số người có trình độ trên đại học với 19 người (5,8%). Về nghề nghiệp, người tham gia khảo sát
đang là nhân viên văn phòng chiếm đa số (46,9%), học sinh sinh viên có 97 người (chiếm 29,8%) và nhóm
cán bộ-Công viên chức có tỉ lệ đáp viên thấp nhất là 3,1%. Tỉ lệ giữa nam và nữ trong cuộc khảo sát không
có sự chênh lệch quá lớn (40,8% đối với nam và 59,2% đối với nữ). Mức thu nhập của người tham gia khảo
sát giao động từ 4 triệu trở lên với số người trả lời lần lượt là 99 người cho mức thu nhập từ 4 đến dưới 7
triệu (30,4%) và 93 người cho mức thu nhập trên 7 triệu (28,5%).
4.2 Kết quả phân tích
4.2.1 Kiểm định độ tin cậy thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha
Kiểm định độ tin cậy thang đo (Cronbach’s Alpha) được thực hiện đối với 7 nhân tố lần lượt như sau: Nhận
thức tính dễ sử dụng, mong đợi về giá, nhận thức sự thuận tiện, nhận thức rủi ro khi sử dụng, niềm tin,
chuẩn chủ quan và ý định sử dụng. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha cho thấy rằng tất cả các biến quan
sát trong mỗi nhân tố đều có hệ số tương quan biến tổng lớn hơn 0,3 và 7 nhân tố của mô hình đều có hệ số
Cronbach’s Alpha lớn hơn 0,6 (Theo Nunnally & Bernstein, 1994) [19]. Do đó có thể kết luận rằng tất cả
các biến quan sát trong mỗi nhóm nhân tố đều đủ độ tin cậy để thực hiện các bước tiếp theo (xem bảng 1).
Bảng 1. Kết quả kiểm định Cronbach’s Alpha
Thang đo
Tổng
số
biến
Biến thành phần
Hệ số
Cronbach’s
Alpha
Nhận thức tính dễ sử dụng
4
DDSD1, DDSD2, DDSD3, DDSD4.
0,694
Mong đợi về giá
4
MDVG1, MDVG2, MDVG3, MDVG4.
0,771
Nhận thức sự thuận tiện
4
TT1, TT2, TT3, TT4.
0,818
Nhận thức rủi ro khi sử dụng
4
RR1, RR2, RR3, RR4.
0,807
Niềm tin
3
NT1, NT2, NT3
0,803
Chuẩn chủ quan
4
CCQ1, CCQ2, CCQ3, CCQ4
0,767
Ý định sử dụng
4
YDSD1, YDSD2, YDSD3, YDSD4
0,881
Nguồn: Kết quả xử lý
4.2.2 Phân tích nhân tố khám phá – EFA
Sau khi thực hiện kiểm định độ tin cậy thang đo với hệ số Cronbach’s Alpha, tất cả các biến độc lập (23
biến) tiếp tục được đưa vào để phân tích nhân tố khám phá EFA. Kết quả sau lần phân tích nhân tố khám
phá EFA đầu tiên thì có 1 biến quan sát bị loại là NT3 vì có hệ số tải nhân tố = 0,465 < 0,5 ( Hair & ctg,
1998, 2006) [11] [12]. Nhóm tác giả tiến hành loại biến quan sát NT3 và thực hiện phân tích lần thứ hai với
các biến độc lập còn lại (22 biến). Kết quả sau lần phân tích thứ hai được trình bày và tóm lượt thông qua
bảng 2.