
TNU Journal of Science and Technology
230(05): 279 - 285
http://jst.tnu.edu.vn 279 Email: jst@tnu.edu.vn
RESEARCH ON NUTRITIONAL CHARACTERISTICS OF
(Tor tambroides Bleeker, 1854 IN KY LO RIVER, PHU YEN PROVINCE
Nguyen Minh Ty*
Thu Dau Mot University, Binh Duong province
ARTICLE INFO
ABSTRACT
Received:
10/10/2024
Tor tambroides Bleeker, 1854 is a species of the family Cyprinidae in
the order Cypriniformes. This is an economic fish species, classified as
Vulnerable in the IUCN red list (2018) that numbers are decreasing.
The research fish samples were collected from February 2024 to
September 2024 in Ky Lo river Phu Yen province. The results analysis
of 107 samples showed that Tor tambroides was an omnivorous.
Relative length of the gut (RLG) and standard length of fishes weighted
115-175 grams was 1.194±0.263 and this coefficient increased from
0.952±0.130 for fishes weighted 6.15–9.7 grams to 1.194±0.263 for
fishes weighted 175 grams. The correlation between length and weight
of Tor tambroides was shown by the equation W = 0.000016L3.0312. The
food composition in the digestive tract of adult Tor tambroides included
4 groups: Aquatic insects, nematodes, phytoplankton and plant seed.
Among them, aquatic insects (55.27%) got the highest rate and it was
the main food in the food spectrum. The results of the study are a great
significance in providing information and necessary data for the
exploration of artificial reproduction, farming and more effective
management of this fish species.
Revised:
06/02/2025
Published:
07/02/2025
KEYWORDS
Gray horse fish
Tor tambroides
Nutritional characteristics
Ky Lo river
Phu Yen province
NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH DINH DƯỠNG CÁ NGỰA XÁM
(Tor tambroides Bleeker, 1854) Ở SÔNG KỲ LỘ, TỈNH PHÚ YÊN
Nguyễn Minh Ty
Trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương
THÔNG TIN BÀI BÁO
TÓM TẮT
Ngày nhận bài:
10/10/2024
Cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) thuộc họ Cyprinidae,
bộ Cypriniformes, là loài cá kinh tế, sắp nguy cấp, xếp bậc VU, số
lượng giảm sút. Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 2/2024 đến
9/2024 ở sông Kỳ Lộ tỉnh Phú Yên, với mục tiêu nhằm bổ sung cơ sở
dữ liệu về đặc tính dinh dưỡng phục vụ cho việc sinh sản nhân tạo và
ươm nuôi cá thương phẩm. Kết quả phân tích 107 mẫu cá cho thấy, cá
ngựa xám là loài ăn tạp thiên về động vật với hệ số tương quan chiều
dài ruột và chiều dài chuẩn RLG (Relative length of the gut) là 1,194
±0,263. Nhóm cá có trọng lượng 6,15 - 9,7 g hệ số này là
0,952±0,130, nhóm cá có trọng lượng lớn hơn từ 22,85 - 30,3 g hệ số
này đạt 1,080 ± 0,139 và khi trọng lượng cá tăng lên 175 g hệ số RLG
là 1,194±0,263. Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa
xám được thể hiện bởi phương trình W = 0,000016L3.0312. Thành phần
thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám ghi nhận 4 nhóm là côn
trùng thủy sinh, giun tròn, thực vật phù du và hạt thực vật. Trong đó,
nhóm côn trùng thủy sinh chiếm tỷ lệ cao nhất trong phổ thức ăn của
cá là 55,27%. Kết quả của nghiên cứu có ý nghĩa trong việc cung cấp
thông tin, dữ liệu cần thiết cho việc thăm dò sinh sản nhân tạo, sản
xuất giống, nuôi trồng và quản lý loài cá này hiệu quả hơn.
Ngày hoàn thiện:
06/02/2025
Ngày đăng:
07/02/2025
TỪ KHÓA
Cá ngựa xám
Tor tambroides
Đặc tính dinh dưỡng
Sông Kỳ Lộ
Tỉnh Phú Yên
DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.11269
Email: tynm@tdmu.edu.vn

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 279 - 285
http://jst.tnu.edu.vn 280 Email: jst@tnu.edu.vn
1. Giới thiệu
Họ cá chép ở Việt Nam có khoảng (308) loài thuộc (105) giống bao gồm các loài nhập nội và
loài mới phát hiện, với 11 phân họ chiếm gần 40% số lượng các loài cá nước ngọt. Phân bố hầu
hết các hệ thống sông, suối, hồ chứa, kênh rạch, ao, đồng ruộng, đầm, phá từ miền Bắc đến Nam
Bộ và Tây Nguyên. Nhiều loài quí hiếm, đặc hữu và giá trị kinh tế, trong số đó được cho sinh sản
nhân tạo, nuôi thương phẩm như: cá mương (Hemiculter leucisculus), cá dầy (Cyprinus
centralus), cá diếc (Carassius carassius), cá chép (Cyprinus carpio), cá ngựa chấm (Hampala
dispar), cá he vàng (Barbodes altus), cá duồng (Cosmochilus harmandi), cá trôi Việt (Cirrhinus
molitorella), cá sỉnh (Onychostama laticeps), cá ngựa xám (Tor tambroides), cá mè lúi
(Osteochilus hasselti), cá lúi (O. prosemion), cá bỗng (Spinibarbus denticulatus), cá sửu
(Boesemania microlepis),... [1], [2]. Cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) thuộc họ
cyprinidae, bộ cypriniformes phân bố trong nước từ lưu vực sông Thu Bồn (Quảng Nam) đến
sông Đồng Nai. Trên thế giới ghi nhận ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Inđônêsia và Vân Nam
Trung Quốc [3] - [5]. Cá ngựa xám thích nghi môi trường sống nơi nước chảy, nền đáy cát sỏi, đá
cuội hoặc trong các hang, hốc đá ở thượng lưu các hệ thống sông, suối. Cá khai thác trong tự
nhiên có trọng lượng tối đa khoảng 1000 g. Đây là loài bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng cao
trong tự nhiên, xếp vào loài sắp nguy cấp - bậc VU, có trong trong danh lục IUCN [6]. Những
nghiên cứu gần đây về cá ngựa xám chưa nhiều, mới chỉ đề cập đến một số đặc tính sinh học [7],
còn nghiên cứu về đặc tính dinh dưỡng, thành phần thức ăn, sinh trưởng và phát triển, sinh thái
và phân bố chưa ghi nhận nhiều. Ở lưu vực sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên quần thể cá ngựa xám
đang giảm sút về số lượng đáng kể do khai thác, đánh bắt làm thực phẩm. Nghiên cứu này không
những cung cấp đầy đủ thông tin và cơ sở dữ liệu về đặc tính dinh dưỡng, hình thái phục vụ cho
việc thăm dò sản xuất giống nhân tạo, ươm nuôi cá thương phẩm, phục hồi chủng quần cá ngựa
xám trong tự nhiên, đồng thời bảo tồn nguồn gen và duy trì tính đa dạng sinh học về cá ở lưu vực
sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên là cần thiết.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Ngoài thực địa
Tiến hành thu thập mẫu cá tại lưu vực sông Kỳ Lộ, xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú
Yên từ tháng 2/2024 đến tháng 9/2024 (Hình 1) cùng với người dân thả lưới, đặt lộp. Mẫu được
chụp ảnh khi còn tươi, đo chiều dài (mm) bằng thước kẹp Scribing bạc 200mm/8, kim đánh dấu
0,05 và cân trọng lượng (g) bằng cân điện tử, sau đó bảo quản trong dung dịch formaline 8-10%.
2.2. Trong phòng thí nghiệm
- Cá được mô tả và định loại bằng hình thái ngoài dựa vào tài liệu [1], [2], [8]-[10].
- Tương quan giữa chiều dài toàn thân (L) và trọng lượng (W) cá được xác định theo biểu thức
sau [11]:
W = a*Lb (1)
- Hệ số tương quan giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) được xác định:
RLG = 𝐿𝑖
𝐿𝑠 (2)
- Phương pháp nghiên cứu thức ăn của cá: Mổ cá kiểm tra độ no và xác định các loại thức ăn trong
ống tiêu hóa theo phương pháp đếm - điểm kết hợp với tần số xuất hiện của Biswas [12].
- Thành phần thực vật phiêu sinh và động vật phiêu sinh được định danh theo các tài liệu [13]-[16].
- Độ no của cá được xác định dựa vào tài liệu của Lebedep [18].
2.3. Phương pháp xử lý số liệu
Số liệu đo đạc được thống kê và xử lý trên phần mềm SPSS phiên bản 2020.

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 279 - 285
http://jst.tnu.edu.vn 281 Email: jst@tnu.edu.vn
Hình 1. Bản đồ vị trí thu mẫu cá ngựa xám tại xã Phú Mỡ sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên
3. Kết quả và bàn luận
Trong năm 2024 từ tháng 2/2024 đến tháng 9/2024, tại xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, sông
Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên đã thu được 107 mẫu cá ngựa xám có chiều dài từ 89 mm đến 255 mm và
tiến hành phân tích cho kết quả sau:
3.1. Mô tả
Cá ngựa xám Tor tambroides Bleeker, 1854
Synonym:
Labeobarbus tambroides Bleeker, 1854 (106), p. 92 (Padang Solok, pajakombo.
Tor tambroides Smith, 1945, p. 137, fig. 137, fig. 16 (Siam)
Tên tiếng Việt: Cá ngựa xám, cá phá; Địa điểm thu mẫu: xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, sông
Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên.
L = 89 – 255 mm. D: IV, 9; A: III, 5; P: I, 15; V: I, 8; LI: 23.
5,2 5,3
. H = 2,4h. Lo = 2,4 – 3,2H =
3,0 – 3,5T. T = 3,4 – 4,9O = 3,0 – 3,2OO = 2,8Ot (Hình 2).
Hình 2. Cá ngựa xám Tor tambroides Bleeker, 1854
3.2. Thành phần các loại thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 279 - 285
http://jst.tnu.edu.vn 282 Email: jst@tnu.edu.vn
Thành phần các loại thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám ghi nhận có 4 nhóm được
trình bày trong Bảng 1.
Bảng 1. Thành phần các loại thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám
Nhóm thức ăn
Loại thức ăn
Phytoplankton
(Thực vật phù du)
Gồm các loài tảo thuộc lớp Bacillariopyceae như: tảo silic (Navicula sp, Nitzschia
sp, Diatoma sp), Amphora sp, Pinularia sp, Cymbella sp, Fragilaria sp,
Gomphonema sp, Gyrosigma sp, Melosira sp), Tảo lam (Frustulia sp, Synedra sp,
Achnanthes sp), Tảo lục (Closterium sp, Cosmarium sp).
Aquatic insects
(Côn trùng thủy sinh)
Gồm các loài thuộc bộ: Bộ cánh màng (Hymenoptera), Bộ hai cánh (Diptera), Bộ
Ephemeroptera, Bộ cảnh vẩy (Lepidoptera), Giáp xác chân chèo (Copepoda).
Nematoda
(Ngành giun tròn)
Giun tròn
Thực vật
Hạt thực vật
Kết quả mổ kiểm tra dạ dày và ruột cá, xác định được 4 nhóm thức ăn: côn trùng thủy sinh,
giun tròn, thực vật phù du và hạt thực vật. Trong đó, thực vật phù du gồm có 15 loài nằm trong
lớp Bacillariopyceae, tiếp theo là côn trùng thủy sinh gồm có 5 bộ, giun thuộc ngành giun tròn
Nemotada và hạt thực vật (Bảng 1).
3.3. Độ no cá ngựa xám theo nhóm chiều dài
Độ no của cá ngựa xám theo nhóm chiều dài xác định theo 5 bậc từ (0 đến 4) được phân tích
trong Bảng 2.
Bảng 2. Độ no của cá ngựa xám ở 5 bậc theo nhóm chiều dài (mm)
Nhóm
chiều dài
(mm)
Độ no (theo bậc)
0
1
2
3
4
N
%
n
%
n
%
n
%
n
%
n
%
89-102
2
1,87
5
4,67
6
5,61
4
3,74
0
0,00
17
15,88
107-130
1
0,93
6
5,61
11
10,28
5
4,67
1
0,93
24
22,43
133-145
1
0,93
4
3,74
5
4,67
2
1,87
1
0,93
13
12,15
146-180
0
0,00
6
5,61
8
7,48
6
5,61
2
1,87
22
20,56
185-220
0
0,00
7
6,54
9
8,41
3
2,80
1
0,93
20
18,69
221-255
0
0,00
5
4,67
4
3,74
2
1,87
0
0,00
11
10,28
Tổng
4
3,73
33
30,84
43
40,19
22
20,56
5
4,66
107
100
Số liệu phân tích Bảng 2 cho thấy, độ no của cá ngựa xám có sự thay đổi theo nhóm chiều dài.
Độ no của cá ở bậc 0 qua phân tích trong dạ dày không có hoặc rất ít thức ăn, chiếm tỷ lệ từ
0,937% - 1,87% ở nhóm cá có chiều dài 89-102 mm và tăng lên ở bậc 1 là 3,74% - 6,54%, bậc 2
là 3,74% - 10,28%. Tỷ lệ này giảm dần ở bậc 3 và 4, cụ thể ở bậc 3 tỷ lệ này chiếm 1,87% -
5,61% và bậc 4 là 0,93% - 1,87%, vì ở bậc này dạ dày cá chứa rất nhiều thức ăn, phình to, vách
dạ dày căng, số lượng mẫu phân tích ghi nhận rất ít, chiếm tỷ lệ thấp. Trong 107 mẫu cá được
phân tích thì độ no thường rơi vào bậc 1 và 2 chiếm tỷ lệ cao nhất, trung bình từ 5,14% - 6,70%.
3.4. Tương quan giữa chiều dài (L) và trọng lượng (W) cá ngựa xám
Trong điều kiện môi trường ở thủy vực sông, suối nước chảy vùng đầu nguồn luôn có sự xáo
trộn và thay đổi về các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ pH, hàm lượng oxy hòa tan), tác động đến
nguồn thức ăn và tập tính bắt mồi, do vậy mà quần thể cá ngựa xám không những có kích thước
và trọng lượng tương đồng theo từng nhóm cá thể mà còn khác nhau ở từng giai đoạn phát triển
phù hợp nguồn thức ăn trong thủy vực. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tương quan giữa chiều dài
và trọng lượng của cá ngựa xám biến thiên theo hàm số mũ dưới dạng phương trình:
W = 0,000016L3.0312.
Đồ thị tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa xám biểu thị dạng đường cong hàm
mũ (Hình 3), cho thấy sự gia tăng giữa chiều dài và trọng lượng cá theo tỷ lệ thuận.

TNU Journal of Science and Technology
230(05): 279 - 285
http://jst.tnu.edu.vn 283 Email: jst@tnu.edu.vn
Hình 3. Đồ thị về tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa xám
3.5. Tương quan giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls)
Hệ số tương quan (RLG) giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) của cá ngựa xám
thay đổi và tăng dần theo các nhóm trọng lượng được thống kê và phân tích ở Bảng 3.
Bảng 3. Tương quan giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) theo nhóm trọng lượng
Nhóm trọng lượng (g)
Lmin (mm)
Lmax (mm)
LTB (mm)
RLG
n
6,15 - 9,7
89
102
94,406±3,429
0,952±0,130
17
9,8 - 22,8
107
130
116,817±7,849
0,970±0,312
24
22,85 - 30,3
132
145
138,013±4,988
1,080±0,139
13
30,4 - 58
146
180
160,722±10,969
1,156±0,250
22
59 - 110
185
220
203,526±11,012
1,182±0,220
20
115 - 175
221
255
237,500±12,522
1,194±0,263
11
Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài chuẩn của 107 mẫu cá được phân tích, cá ngựa
xám trưởng thành có trọng lượng 175 g, hệ số RLG là 1,194±0,263. Theo Smith [17], chiều dài
ruột của cá thay đổi theo độ tuổi, giai đoạn sinh trưởng và nguồn thức ăn trong thủy vực. Ở giai
đoạn cá con thì RLG thấp và tăng dần ở giai đoạn cá trưởng thành [19]. Trong quá trình sinh
trưởng của cá, chiều dài ruột tăng theo sự gia tăng tỷ lệ các loại thức ăn trong khẩu phần ăn của
cá và chiều dài thân dẫn đến RLG thay đổi. Ở nhóm cá có trọng lượng 6,15–9,7 g, có hệ số RLG
là 0,952±0,130 và tăng dần ở nhóm cá có trọng lượng 22,85–30,3 g là 1,080±0,139, nhóm cá có
trọng lượng lớn hơn từ 59-100 g, hệ số RLG đạt 1,182±0,220 và nhóm cá có trọng lượng từ 115-
175, hệ số RLG là 1,194±0,263 (Bảng 3). Vậy, giá trị RLG tỷ lệ thuận với chiều dài và trọng
lượng cơ thể cá. Theo Nikolski [15] các loài cá thiên về ăn động vật thì hệ số RLG ≤ 1, với RLG
> 1 (1,194) cá ngựa xám được xếp vào loài ăn tạp thiên về động vật.
3.6. Khảo sát các loại thức ăn trong ống tiêu hóa cá ngựa xám
3.6.1. Phân tích thành phần thức ăn theo phương pháp điểm
Phần trăm điểm số các loại thức ăn trong ống tiêu hóa cá ngựa xám ở 4 nhóm thức ăn được
thể hiện trong Hình 4.
Hình 4. Tỷ lệ phần trăm các loại thức ăn trong ống
tiêu hóa cá ngựa xám
Hình 5. Biểu đồ về tần số xuất hiện các loại thức ăn
trong ống tiêu hóa cá ngựa xám