
Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) ở sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên
lượt xem 1
download

Cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) thuộc họ Cyprinidae, bộ Cypriniformes, là loài cá kinh tế, sắp nguy cấp, xếp bậc VU, số lượng giảm sút. Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 2/2024 đến 9/2024 ở sông Kỳ Lộ tỉnh Phú Yên, với mục tiêu nhằm bổ sung cơ sở dữ liệu về đặc tính dinh dưỡng phục vụ cho việc sinh sản nhân tạo và ươm nuôi cá thương phẩm.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) ở sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 RESEARCH ON NUTRITIONAL CHARACTERISTICS OF (Tor tambroides Bleeker, 1854 IN KY LO RIVER, PHU YEN PROVINCE Nguyen Minh Ty* Thu Dau Mot University, Binh Duong province ARTICLE INFO ABSTRACT Received: 10/10/2024 Tor tambroides Bleeker, 1854 is a species of the family Cyprinidae in the order Cypriniformes. This is an economic fish species, classified as Revised: 06/02/2025 Vulnerable in the IUCN red list (2018) that numbers are decreasing. Published: 07/02/2025 The research fish samples were collected from February 2024 to September 2024 in Ky Lo river Phu Yen province. The results analysis KEYWORDS of 107 samples showed that Tor tambroides was an omnivorous. Relative length of the gut (RLG) and standard length of fishes weighted Gray horse fish 115-175 grams was 1.194±0.263 and this coefficient increased from Tor tambroides 0.952±0.130 for fishes weighted 6.15–9.7 grams to 1.194±0.263 for fishes weighted 175 grams. The correlation between length and weight Nutritional characteristics of Tor tambroides was shown by the equation W = 0.000016L3.0312. The Ky Lo river food composition in the digestive tract of adult Tor tambroides included Phu Yen province 4 groups: Aquatic insects, nematodes, phytoplankton and plant seed. Among them, aquatic insects (55.27%) got the highest rate and it was the main food in the food spectrum. The results of the study are a great significance in providing information and necessary data for the exploration of artificial reproduction, farming and more effective management of this fish species. NGHIÊN CỨU ĐẶC TÍNH DINH DƯỠNG CÁ NGỰA XÁM (Tor tambroides Bleeker, 1854) Ở SÔNG KỲ LỘ, TỈNH PHÚ YÊN Nguyễn Minh Ty Trường Đại học Thủ Dầu Một, tỉnh Bình Dương THÔNG TIN BÀI BÁO TÓM TẮT Ngày nhận bài: 10/10/2024 Cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) thuộc họ Cyprinidae, bộ Cypriniformes, là loài cá kinh tế, sắp nguy cấp, xếp bậc VU, số Ngày hoàn thiện: 06/02/2025 lượng giảm sút. Nghiên cứu này được thực hiện từ tháng 2/2024 đến Ngày đăng: 07/02/2025 9/2024 ở sông Kỳ Lộ tỉnh Phú Yên, với mục tiêu nhằm bổ sung cơ sở dữ liệu về đặc tính dinh dưỡng phục vụ cho việc sinh sản nhân tạo và TỪ KHÓA ươm nuôi cá thương phẩm. Kết quả phân tích 107 mẫu cá cho thấy, cá ngựa xám là loài ăn tạp thiên về động vật với hệ số tương quan chiều Cá ngựa xám dài ruột và chiều dài chuẩn RLG (Relative length of the gut) là 1,194 Tor tambroides ±0,263. Nhóm cá có trọng lượng 6,15 - 9,7 g hệ số này là 0,952±0,130, nhóm cá có trọng lượng lớn hơn từ 22,85 - 30,3 g hệ số Đặc tính dinh dưỡng này đạt 1,080 ± 0,139 và khi trọng lượng cá tăng lên 175 g hệ số RLG Sông Kỳ Lộ là 1,194±0,263. Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa Tỉnh Phú Yên xám được thể hiện bởi phương trình W = 0,000016L3.0312. Thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám ghi nhận 4 nhóm là côn trùng thủy sinh, giun tròn, thực vật phù du và hạt thực vật. Trong đó, nhóm côn trùng thủy sinh chiếm tỷ lệ cao nhất trong phổ thức ăn của cá là 55,27%. Kết quả của nghiên cứu có ý nghĩa trong việc cung cấp thông tin, dữ liệu cần thiết cho việc thăm dò sinh sản nhân tạo, sản xuất giống, nuôi trồng và quản lý loài cá này hiệu quả hơn. DOI: https://doi.org/10.34238/tnu-jst.11269 Email: tynm@tdmu.edu.vn http://jst.tnu.edu.vn 279 Email: jst@tnu.edu.vn
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 1. Giới thiệu Họ cá chép ở Việt Nam có khoảng (308) loài thuộc (105) giống bao gồm các loài nhập nội và loài mới phát hiện, với 11 phân họ chiếm gần 40% số lượng các loài cá nước ngọt. Phân bố hầu hết các hệ thống sông, suối, hồ chứa, kênh rạch, ao, đồng ruộng, đầm, phá từ miền Bắc đến Nam Bộ và Tây Nguyên. Nhiều loài quí hiếm, đặc hữu và giá trị kinh tế, trong số đó được cho sinh sản nhân tạo, nuôi thương phẩm như: cá mương (Hemiculter leucisculus), cá dầy (Cyprinus centralus), cá diếc (Carassius carassius), cá chép (Cyprinus carpio), cá ngựa chấm (Hampala dispar), cá he vàng (Barbodes altus), cá duồng (Cosmochilus harmandi), cá trôi Việt (Cirrhinus molitorella), cá sỉnh (Onychostama laticeps), cá ngựa xám (Tor tambroides), cá mè lúi (Osteochilus hasselti), cá lúi (O. prosemion), cá bỗng (Spinibarbus denticulatus), cá sửu (Boesemania microlepis),... [1], [2]. Cá ngựa xám (Tor tambroides Bleeker, 1854) thuộc họ cyprinidae, bộ cypriniformes phân bố trong nước từ lưu vực sông Thu Bồn (Quảng Nam) đến sông Đồng Nai. Trên thế giới ghi nhận ở Lào, Thái Lan, Campuchia, Inđônêsia và Vân Nam Trung Quốc [3] - [5]. Cá ngựa xám thích nghi môi trường sống nơi nước chảy, nền đáy cát sỏi, đá cuội hoặc trong các hang, hốc đá ở thượng lưu các hệ thống sông, suối. Cá khai thác trong tự nhiên có trọng lượng tối đa khoảng 1000 g. Đây là loài bị đe dọa có nguy cơ tuyệt chủng cao trong tự nhiên, xếp vào loài sắp nguy cấp - bậc VU, có trong trong danh lục IUCN [6]. Những nghiên cứu gần đây về cá ngựa xám chưa nhiều, mới chỉ đề cập đến một số đặc tính sinh học [7], còn nghiên cứu về đặc tính dinh dưỡng, thành phần thức ăn, sinh trưởng và phát triển, sinh thái và phân bố chưa ghi nhận nhiều. Ở lưu vực sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên quần thể cá ngựa xám đang giảm sút về số lượng đáng kể do khai thác, đánh bắt làm thực phẩm. Nghiên cứu này không những cung cấp đầy đủ thông tin và cơ sở dữ liệu về đặc tính dinh dưỡng, hình thái phục vụ cho việc thăm dò sản xuất giống nhân tạo, ươm nuôi cá thương phẩm, phục hồi chủng quần cá ngựa xám trong tự nhiên, đồng thời bảo tồn nguồn gen và duy trì tính đa dạng sinh học về cá ở lưu vực sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên là cần thiết. 2. Phương pháp nghiên cứu 2.1. Ngoài thực địa Tiến hành thu thập mẫu cá tại lưu vực sông Kỳ Lộ, xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, tỉnh Phú Yên từ tháng 2/2024 đến tháng 9/2024 (Hình 1) cùng với người dân thả lưới, đặt lộp. Mẫu được chụp ảnh khi còn tươi, đo chiều dài (mm) bằng thước kẹp Scribing bạc 200mm/8, kim đánh dấu 0,05 và cân trọng lượng (g) bằng cân điện tử, sau đó bảo quản trong dung dịch formaline 8-10%. 2.2. Trong phòng thí nghiệm - Cá được mô tả và định loại bằng hình thái ngoài dựa vào tài liệu [1], [2], [8]-[10]. - Tương quan giữa chiều dài toàn thân (L) và trọng lượng (W) cá được xác định theo biểu thức sau [11]: W = a*Lb (1) - Hệ số tương quan giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) được xác định: 𝐿𝑖 RLG = 𝐿𝑠 (2) - Phương pháp nghiên cứu thức ăn của cá: Mổ cá kiểm tra độ no và xác định các loại thức ăn trong ống tiêu hóa theo phương pháp đếm - điểm kết hợp với tần số xuất hiện của Biswas [12]. - Thành phần thực vật phiêu sinh và động vật phiêu sinh được định danh theo các tài liệu [13]-[16]. - Độ no của cá được xác định dựa vào tài liệu của Lebedep [18]. 2.3. Phương pháp xử lý số liệu Số liệu đo đạc được thống kê và xử lý trên phần mềm SPSS phiên bản 2020. http://jst.tnu.edu.vn 280 Email: jst@tnu.edu.vn
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 Hình 1. Bản đồ vị trí thu mẫu cá ngựa xám tại xã Phú Mỡ sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên 3. Kết quả và bàn luận Trong năm 2024 từ tháng 2/2024 đến tháng 9/2024, tại xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên đã thu được 107 mẫu cá ngựa xám có chiều dài từ 89 mm đến 255 mm và tiến hành phân tích cho kết quả sau: 3.1. Mô tả Cá ngựa xám Tor tambroides Bleeker, 1854 Synonym: Labeobarbus tambroides Bleeker, 1854 (106), p. 92 (Padang Solok, pajakombo. Tor tambroides Smith, 1945, p. 137, fig. 137, fig. 16 (Siam) Tên tiếng Việt: Cá ngựa xám, cá phá; Địa điểm thu mẫu: xã Phú Mỡ, huyện Đồng Xuân, sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên. 3,5 L = 89 – 255 mm. D: IV, 9; A: III, 5; P: I, 15; V: I, 8; LI: 23. . H = 2,4h. Lo = 2,4 – 3,2H = 2,5 3,0 – 3,5T. T = 3,4 – 4,9O = 3,0 – 3,2OO = 2,8Ot (Hình 2). Hình 2. Cá ngựa xám Tor tambroides Bleeker, 1854 3.2. Thành phần các loại thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám http://jst.tnu.edu.vn 281 Email: jst@tnu.edu.vn
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 Thành phần các loại thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám ghi nhận có 4 nhóm được trình bày trong Bảng 1. Bảng 1. Thành phần các loại thức ăn trong ống tiêu hóa của cá ngựa xám Nhóm thức ăn Loại thức ăn Phytoplankton Gồm các loài tảo thuộc lớp Bacillariopyceae như: tảo silic (Navicula sp, Nitzschia (Thực vật phù du) sp, Diatoma sp), Amphora sp, Pinularia sp, Cymbella sp, Fragilaria sp, Gomphonema sp, Gyrosigma sp, Melosira sp), Tảo lam (Frustulia sp, Synedra sp, Achnanthes sp), Tảo lục (Closterium sp, Cosmarium sp). Aquatic insects Gồm các loài thuộc bộ: Bộ cánh màng (Hymenoptera), Bộ hai cánh (Diptera), Bộ (Côn trùng thủy sinh) Ephemeroptera, Bộ cảnh vẩy (Lepidoptera), Giáp xác chân chèo (Copepoda). Nematoda Giun tròn (Ngành giun tròn) Thực vật Hạt thực vật Kết quả mổ kiểm tra dạ dày và ruột cá, xác định được 4 nhóm thức ăn: côn trùng thủy sinh, giun tròn, thực vật phù du và hạt thực vật. Trong đó, thực vật phù du gồm có 15 loài nằm trong lớp Bacillariopyceae, tiếp theo là côn trùng thủy sinh gồm có 5 bộ, giun thuộc ngành giun tròn Nemotada và hạt thực vật (Bảng 1). 3.3. Độ no cá ngựa xám theo nhóm chiều dài Độ no của cá ngựa xám theo nhóm chiều dài xác định theo 5 bậc từ (0 đến 4) được phân tích trong Bảng 2. Bảng 2. Độ no của cá ngựa xám ở 5 bậc theo nhóm chiều dài (mm) Nhóm Độ no (theo bậc) chiều dài 0 1 2 3 4 N % (mm) n % n % n % n % n % 89-102 2 1,87 5 4,67 6 5,61 4 3,74 0 0,00 17 15,88 107-130 1 0,93 6 5,61 11 10,28 5 4,67 1 0,93 24 22,43 133-145 1 0,93 4 3,74 5 4,67 2 1,87 1 0,93 13 12,15 146-180 0 0,00 6 5,61 8 7,48 6 5,61 2 1,87 22 20,56 185-220 0 0,00 7 6,54 9 8,41 3 2,80 1 0,93 20 18,69 221-255 0 0,00 5 4,67 4 3,74 2 1,87 0 0,00 11 10,28 Tổng 4 3,73 33 30,84 43 40,19 22 20,56 5 4,66 107 100 Số liệu phân tích Bảng 2 cho thấy, độ no của cá ngựa xám có sự thay đổi theo nhóm chiều dài. Độ no của cá ở bậc 0 qua phân tích trong dạ dày không có hoặc rất ít thức ăn, chiếm tỷ lệ từ 0,937% - 1,87% ở nhóm cá có chiều dài 89-102 mm và tăng lên ở bậc 1 là 3,74% - 6,54%, bậc 2 là 3,74% - 10,28%. Tỷ lệ này giảm dần ở bậc 3 và 4, cụ thể ở bậc 3 tỷ lệ này chiếm 1,87% - 5,61% và bậc 4 là 0,93% - 1,87%, vì ở bậc này dạ dày cá chứa rất nhiều thức ăn, phình to, vách dạ dày căng, số lượng mẫu phân tích ghi nhận rất ít, chiếm tỷ lệ thấp. Trong 107 mẫu cá được phân tích thì độ no thường rơi vào bậc 1 và 2 chiếm tỷ lệ cao nhất, trung bình từ 5,14% - 6,70%. 3.4. Tương quan giữa chiều dài (L) và trọng lượng (W) cá ngựa xám Trong điều kiện môi trường ở thủy vực sông, suối nước chảy vùng đầu nguồn luôn có sự xáo trộn và thay đổi về các yếu tố môi trường (nhiệt độ, độ pH, hàm lượng oxy hòa tan), tác động đến nguồn thức ăn và tập tính bắt mồi, do vậy mà quần thể cá ngựa xám không những có kích thước và trọng lượng tương đồng theo từng nhóm cá thể mà còn khác nhau ở từng giai đoạn phát triển phù hợp nguồn thức ăn trong thủy vực. Kết quả nghiên cứu cho thấy, tương quan giữa chiều dài và trọng lượng của cá ngựa xám biến thiên theo hàm số mũ dưới dạng phương trình: W = 0,000016L3.0312. Đồ thị tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa xám biểu thị dạng đường cong hàm mũ (Hình 3), cho thấy sự gia tăng giữa chiều dài và trọng lượng cá theo tỷ lệ thuận. http://jst.tnu.edu.vn 282 Email: jst@tnu.edu.vn
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 Hình 3. Đồ thị về tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa xám 3.5. Tương quan giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) Hệ số tương quan (RLG) giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) của cá ngựa xám thay đổi và tăng dần theo các nhóm trọng lượng được thống kê và phân tích ở Bảng 3. Bảng 3. Tương quan giữa chiều dài ruột (Li) và chiều dài chuẩn (Ls) theo nhóm trọng lượng Nhóm trọng lượng (g) Lmin (mm) Lmax (mm) LTB (mm) RLG n 6,15 - 9,7 89 102 94,406±3,429 0,952±0,130 17 9,8 - 22,8 107 130 116,817±7,849 0,970±0,312 24 22,85 - 30,3 132 145 138,013±4,988 1,080±0,139 13 30,4 - 58 146 180 160,722±10,969 1,156±0,250 22 59 - 110 185 220 203,526±11,012 1,182±0,220 20 115 - 175 221 255 237,500±12,522 1,194±0,263 11 Tương quan giữa chiều dài ruột và chiều dài chuẩn của 107 mẫu cá được phân tích, cá ngựa xám trưởng thành có trọng lượng 175 g, hệ số RLG là 1,194±0,263. Theo Smith [17], chiều dài ruột của cá thay đổi theo độ tuổi, giai đoạn sinh trưởng và nguồn thức ăn trong thủy vực. Ở giai đoạn cá con thì RLG thấp và tăng dần ở giai đoạn cá trưởng thành [19]. Trong quá trình sinh trưởng của cá, chiều dài ruột tăng theo sự gia tăng tỷ lệ các loại thức ăn trong khẩu phần ăn của cá và chiều dài thân dẫn đến RLG thay đổi. Ở nhóm cá có trọng lượng 6,15–9,7 g, có hệ số RLG là 0,952±0,130 và tăng dần ở nhóm cá có trọng lượng 22,85–30,3 g là 1,080±0,139, nhóm cá có trọng lượng lớn hơn từ 59-100 g, hệ số RLG đạt 1,182±0,220 và nhóm cá có trọng lượng từ 115- 175, hệ số RLG là 1,194±0,263 (Bảng 3). Vậy, giá trị RLG tỷ lệ thuận với chiều dài và trọng lượng cơ thể cá. Theo Nikolski [15] các loài cá thiên về ăn động vật thì hệ số RLG ≤ 1, với RLG > 1 (1,194) cá ngựa xám được xếp vào loài ăn tạp thiên về động vật. 3.6. Khảo sát các loại thức ăn trong ống tiêu hóa cá ngựa xám 3.6.1. Phân tích thành phần thức ăn theo phương pháp điểm Phần trăm điểm số các loại thức ăn trong ống tiêu hóa cá ngựa xám ở 4 nhóm thức ăn được thể hiện trong Hình 4. Hình 4. Tỷ lệ phần trăm các loại thức ăn trong ống Hình 5. Biểu đồ về tần số xuất hiện các loại thức ăn tiêu hóa cá ngựa xám trong ống tiêu hóa cá ngựa xám http://jst.tnu.edu.vn 283 Email: jst@tnu.edu.vn
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 Kết quả mổ và phân tích mẫu cá, trong ống tiêu hóa cá ngựa xám sự xuất hiện các loại thức ăn trong dạ dày và ruột cá cho thấy rằng, phần trăm điểm số của 4 nhóm thức ăn có sự khác biệt. Nhóm côn trùng thủy sinh là loại thức ăn chính chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,27%, tiếp đến là thực vật phù du chiếm tỷ lệ trung bình 28,04%, đứng thứ ba là giun tròn chiếm tỷ lệ 16,09% và hạt thực vật chiếm 0,60% (Hình 4). 3.6.2. Phương pháp xác định tần số xuất hiện các loại thức ăn Tần số xuất hiện các loại thức ăn trong ống tiêu hóa cá ngựa xám qua mổ khảo sát ghi nhận 4 nhóm thức ăn: Côn trùng thủy sinh, giun, thực vật phù du và hạt thực vật. Trong đó, côn trùng thủy sinh có tần số xuất hiện cao nhất chiếm tỷ lệ 83,17%, tiếp đến là giun chiếm 71,03%, thực vật phù du chiếm tỷ lệ 61,17% và hạt thực vật chiếm tỷ lệ là 11,21% (Hình 5). 3.7. Một số đặc điểm hình thái về cá ngựa xám ở sông Kỳ Lộ, tỉnh Phú Yên Các chỉ số động vật về đặc điểm hình thái liên quan đến tập tính ăn của cá ngựa xám được mô tả và phân tích trong Bảng 4. Bảng 4. Đặc điểm về hình thái của cá ngựa xám liên quan đến tập tính ăn. Chiều dài Trọng lượng Tỷ lệ trung bình của Tỷ lệ trung bình của Tỷ lệ trung bình của trung bình trung bình đường kính mắt chiều rộng miệng chiều dài ruột tương (mm) (g) tương đối (%) tương đối (%) đối (%) 154,81±38,32 53,792±29,07 34,68±0,02 56,02±4,19 183,80±13,66 Kết quả số liệu Bảng 4 cho thấy rằng, trên cơ sở các đặc điểm hình thái về tỷ lệ trung bình của đường kính mắt, chiều rộng miệng và chiều dài ruột tương đối được mô tả dùng làm chỉ số để xác định các loại thức ăn và tập tính bắt mồi của cá ngựa xám, với đường kính mắt tương đối trung bình là 34,68% và chiều rộng miệng tương đối trung bình là 56,02%. Trong khi chiều dài ruột tương đối trung bình là 183,80% gấp 1,19 lần so với chiều dài thân. Theo Lars Schmitz và cs [19], những loài cá hoạt động về đêm thường có kích thước mắt lớn hơn nhiều so với các loài hoạt động về ban ngày. Kích thước mắt lớn có thể làm tăng lượng ánh sáng truyền qua và độ sáng của hình ảnh võng mạc, điều này dẫn đến tầm nhìn trong tối tốt hơn. Ngoài ra, đường kính của mắt càng lớn sẽ giúp cho cá dễ dàng tìm thấy thức ăn trong vùng nước chảy xiết và có độ đục vẫn cao [20]. Theo kết quả nghiên cứu của Rumondang và cs [21], [22], các loài trong giống Tor hoạt kiếm ăn vào ban ngày tích cực từ 6h00 sáng cho đến khi lượng thức ăn tiêu hóa hoàn toàn vào lúc 17h00 chiều. Với đường kính mắt tương đối của cá ngựa xám là 34,68% gần giống với cá rô phi (34%), điều này có thể thấy rằng cá ngựa xám hoạt động vào ban ngày tích cực hơn về đêm. Chiều rộng mở miệng của cá ngựa xám là 56,02%. Giá trị này gần giống với loài cá (Telmatherina sarasinorum) là 55,59% thiên về ăn thịt [23] và rất khác so với cá ăn thực vật như cá mú xương chiều rộng mở miệng là 34,23% và cá ăn thịt hoàn toàn như cá chình thuộc giống Anguilla là 80,60%. Với tỷ lệ chiều rộng miệng 56,02%, cá ngựa xám là loài thiên về ăn động vật. 4. Kết luận Hệ số tương quan (RLG) của cá ngựa xám là 1,194 ± 0,263, được xếp vào nhóm cá ăn tạp thiên về ăn động vật. Hệ số này thay đổi theo sự thay đổi về chiều dài và trọng lượng của cá. Tương quan giữa chiều dài và trọng lượng cá ngựa xám thể hiện bởi phương trình: W = 0,000016L3.0312. Thành phần thức ăn trong ống tiêu hóa cá ngựa xám xác định 4 nhóm: Côn trùng thủy sinh, thực vật phù du, giun tròn và hạt thực vật. Trong đó, côn trùng thủy sinh là thức ăn chính chiếm tỷ lệ cao nhất là 55,27%. Kết quả nghiên cứu tương quan chiều dài và trọng lượng về đặc tính dinh dưỡng và một số đặc điểm hình thái của cá ngựa xám có ý nghĩa quan trọng giúp cho việc xác định giới tính, sự tăng trưởng và đặc điểm sinh sản. Dựa trên mối quan hệ giữa chiều dài và trọng lượng của cá giúp cho việc nghiên cứu và quản lý loài này tại khu vực hiệu quả hơn, đồng thời xác định thời điểm đánh bắt thích hợp trong mùa khô và mùa mưa, cũng như các khu vực đánh bắt tối ưu ở các lưu vực sông và hồ chứa một cách bền vững. http://jst.tnu.edu.vn 284 Email: jst@tnu.edu.vn
- TNU Journal of Science and Technology 230(05): 279 - 285 Lời cám ơn Tác giả xin chân thành cám ơn sự hỗ trợ của trường Đại học Thủ Dầu Một trong quá trình thực hiện nghiên cứu này. TÀI LIỆU THAM KHẢO/ REFERENCES [1] V. H. Nguyen, Vietnamese freshwater fish: Volume 3, interoder of the osteichthyes. Agriculture Publisher, Hanoi, p. 758, 2005. [2] W. J. Rainboth, Fishes of the Cambodian Mekong. Food and Agriculture Organization of the United nations, Rome, p. 263, 1996. [3] M. T. Nguyen and D. D. Hoang, “Research on fish fauna of Ba river system," Journal of Agriculture and Rural Development, vol. 9, no. 150, pp. 63-74, 2010. [4] M. T. Nguyen, “Distribution characteristics and economic significance of the Ba river carp family," Journal of Ecological Economics, no. 35, pp. 3-9, 2010. [5] T. P. A. Vu and T. M. D. Duong, “Preliminlary data of fish species in Ban Thach river Phu Yen province,” The 6th National Scientific conference on Ecology and Biological resources, 2015, pp. 475-481. [6] X. D. Nguyen and X. Q. Ngo, “Divesity of fish species of cyprinformes order in lower Sai Gon-Dong Nai river system,” Journal of Biotechnology, vol. 13, no. 4A, pp. 1231-1239, 2015. [7] D. P. Phan and T. P. Duong, “Study on some biological characteristics of (Tor tambroides Bleeker, 1854) in the central Highlands,” Journal of Agriculture and Rural Development, no. 20, pp. 87-94, 2014. [8] M. Kottelat, Freshwater fishes of the Northern Vietnam, Environment and Social Development, Sector Unit East Asia and Pacific Region, The World Bank, 2001, pp. 1-123. [9] W. T. Eschmeyer, Catalogue of life, Pulished by Calofornia Academy of Sciences, San Francisco, 2005. [10] The California Academy of Sciences, Eschmeyer’s catalog of fishes 2020, Species of Fishes by Family/Subfamily, Update of from Nov.2, 2020. [11] D. Pauly, “Length-converted catch curves and the seasonal growth of fishes,” Fishbyte, vol. 8, no. 3, pp. 33-38, 1990. [12] S. P. Biswas, Manual of Methodl in Fish Biology, South Asian Publisher, Pvt. Ltd., New Delhi, International Book Co., Abseco Hilands, N. J. India, p. 157, 1993. [13] N. T. Dang and T. H. Ho, Aquatic basis. Natural Science and Technology Publisher, Hanoi, p. 399, 2007. [14] V. K. Nguyen, Copepoda subclass, Vietnam Northern Gulf. Science and Technology Publisher, Hanoi, p. 198, 1994. [15] G. V. Nikolski, Ecology of fishes, Acedemic press, London, p. 352, 1963. [16] A. Shirota, The plankton of South Vietnam- Fresh water and Marine Plankto. Overseas Technical Cooperation Agency, Japan, p. 462, 1966. [17] L. S. Smith, Introduction to fish physiology. Argent laboratories, p. 352, 1991. [18] I. F. Pravdin, Fish research guide. Rural Science and Technology Publisher, Hanoi, p. 260, 1973. [19] L. Schmitz and P. C. Wainwright, “Nocturnality constrains morphological and functional diversity in the eyes of reef fishes,” BMC Evolutionary Biology, vol. 11, p. 338, 2011. [20] L. Schmitz, R. Motan, C. Eoufiero, C. H. Martin, M. D. M. C. Gee, A. R. Gamarra, Johama, J. Lee, and P. C. Wainwright, “Allometry indicates gaint eyes of gaint squid are not exceptional,” BMC Evolutionary Biology, vol. 13, p. 45, 2013. [21] A. S. Batubara, Z. A. Muchlisin, D. Efizon, R. Elvyra, and M. Irham, “Length-Weight relationship and condition factors of the naleh fish, Barbonymus gonionotus (Pisces, Cyprinidae) harvested from Nagan Raya waters, Indonesia,” Vestnik Zoologii, vol. 53, no. 1, pp. 75-82, 2019. [22] S. A. Chadijah, G. S. Haryani, R. Affandi, and A. Mashar, “Characteristic of Habitat Opudi fish (Telmatherina prognatha Kottelat, 1991) in Lake Matano, South Sulawesi, Indonesia,” Oseanologi dan Limnologi di Indonesia, vol. 7, no. 2, pp. 65-74, 2022. [23] M. K. Mohammad, M. W. Dudi, B. Tatag, O. S. Agus, I. W. Ronny, A. Ridwan, and N. Mala, “Biometric and biochemical characteristics of glass eels (Anguilla spp.) collected from Cimandiri Estuary, Sukabumi Regency, Indonesia,” Journal of Natural Resources and Environmental Management, vo.13, no.4, p.634-643, 2023. http://jst.tnu.edu.vn 285 Email: jst@tnu.edu.vn

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Kích thích cam ra hoa và kinh nghiệm cho hoa trái vụ
4 p |
287 |
42
-
Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ
3 p |
174 |
25
-
Nghiên cứu sản xuất giống cá lăng chấm Hemibagrus guttatus (Lacépède, 1803)
6 p |
81 |
8
-
Hạch toán kinh tế nuôi tôm càng xanh đơn tính
2 p |
112 |
5
-
Ảnh hưởng của độ cứng đến một số chỉ tiêu sinh sản của cá chép (Cyprinus carpio Linnaeus, 1758)
7 p |
6 |
3
-
Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng Cá hồng chấm đen (Lutjanus russellii Bleeker, 1849) ở cửa sông Ba, tỉnh Phú Yên
8 p |
3 |
1
-
Nghiên cứu đặc tính dinh dưỡng cá he vàng ở sông Sài Gòn thuộc thành phố Thủ Dầu Một
6 p |
2 |
1
-
Hình thái ống tiêu hóa và chỉ số sinh trắc ruột của cá Phèn vàng Polynemus melanochir Valenciennes, 1831 ở Cái Răng, Cần Thơ và Long Phú, Sóc Trăng
8 p |
17 |
1
-
Nghiên cứu tác động các yếu tố dinh dưỡng đất tới sự phân bố của cây Bò khai (Erythropalum scandens Blume) tại huyện Võ Nhai, tỉnh Thái Nguyên
9 p |
9 |
1


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
