intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ

Chia sẻ: Bi Bo | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:3

169
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

I. Mở đầu Một số loài giáp xác nước mặn và nước ngọt sau khi lột vỏ còn được gọi là giáp xác vỏ mềm hay lột vỏ, trong đó cua-tôm-ghẹ lột vỏ là những sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường thế giới vào những năm 90 của thế kỷ XX do thành phần dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng can-xi và phốt-pho dễ hấp thụ, có tác dụng phục hồi nhanh chóng tình trạng thiếu và mất can-xi ở trẻ em ...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ

  1. Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ I. Mở đầu Một số loài giáp xác nước mặn và nước ngọt sau khi lột vỏ còn được gọi là giáp xác vỏ mềm hay lột vỏ, trong đó cua-tôm-ghẹ lột vỏ là những sản phẩm được ưa chuộng trên thị trường thế giới vào những năm 90 của thế kỷ XX do thành phần dinh dưỡng cao, đặc biệt là hàm lượng can-xi và phốt-pho dễ hấp thụ, có tác dụng phục hồi nhanh chóng tình trạng thiếu và mất can-xi ở trẻ em và người cao tuổi. Nhằm nâng cao giá trị kinh tế của sản phẩm ghẹ thương phẩm, Bộ Thủy sản đã giao cho Trung tâm Nghiên cứu NTTS III Nha Trang (nay là Viện Nghiên cứu NTTS III) thực hiện đề tài Nghiên cứu phương pháp kích thích lột xác đồng loạt ghẹ xanh (Portunus pelagicus) thương phẩm nhằm mục đích tìm ra một số yếu tố như thức ăn, sinh lý, hoá học có thể kích thích sự lột vỏ đồng loạt ở ghẹ xanh thương phẩm với tỷ lệ lột vỏ đạt 50%. II. Phương pháp nghiên cứu 1. Thời gian và địa điểm Thời gian: Từ 4/2002 đến 12/2003 Ðịa điểm: Viện Nghiên cứu NTTS III Nha Trang và lồng nuôi trên biển tại Phước Lý Phú Yên 2. Bố trí thí nghiệm Ghẹ xanh (Portunus pelagicus) được chọn lọc từ khai thác tự nhiên và sản phẩm của nuôi thương phẩm từ con giống nhân tạo, với trọng lượng ban đầu từ 55-70 g/con. Các thí nghiệm được tiến hành trong các bể ximăng và lồng nuôi trên biển. Nghiên cứu nuôi ghẹ lột tiến hành nhiều thử nghiệm khác nhau về mức độ ảnh hưởng của các yếu tố gây sốc (yếu tố sinh thái: nhiệt độ, độ mặn; chất saponin), các chất kích thích (Chitoxan, hormon 20E (20-hydroxyecdyson), chất kích thích lột vỏ molt & grow) lên khả năng lột xác của 3 nhóm ghẹ không cắt mắt, cắt 1
  2. mắt, cắt 2 mắt. Ðồng thời các kết quả thu được được so sánh với lô đối chứng không sử dụng các yếu tố gây sốc (hoặc các chất kích thích) ở cả 3 nghiệm thức tương ứng. Số lượng ghẹ ở mỗi nghiệm thức là 45 con và 90 con (các nghiệm thức sử dụng chất kích thích). Tỷ lệ đực cái là 1:1. Các thí nghiệm tiến hành trên ghẹ tự nhiên và lập lại ở ghẹ nuôi hay ngược lại. Ngoài ra, ở một số thí nghiệm còn được thực hiện đồng thời ở 2 địa điểm. 3. Thu thập và xử lý số liệu Trong quá trình thí nghiệm chúng tôi thu thập các số liệu sau: Tỷ lệ sống, tỷ lệ lột xác, tỷ lệ đực/cái lột xác. Số liệu được xử lý thống kê bằng phần mềm Excel. III. Kết Quả Nghiên Cứu 1. Các yếu tố gây sốc Các biện pháp gây sốc trên ghẹ xanh đã không tạo ra sự kích thích lột vỏ, cũng có thể đây là ghẹ lột vỏ theo chu kỳ mà không phải do có sự tác động của gây sốc vì thời gian thí nghiệm kéo dài (50-70 ngày). Các số liệu trong bảng 1 cho thấy không có sự khác biệt các thông số thí nghiệm giữa ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên. ở nhóm đối chứng, thời gian thí nghiệm có thể kéo dài 60 ngày: ở nhóm thí nghiệm, với nhiệt độ nước 20 -150C trong thời gian thí nghiệm 7-12 ngày, tỷ lệ chết của ghẹ khoảng 80-93% và không có cá thể nào lột vỏ. Bảng 1: Kết quả gây sốc do nhiệt độ. Các nghiệm thức đối chứng nuôi ở điều kiện nhiệt độ bình thường (27-29oC) Kết quả gây sốc ghẹ bằng cách hạ độ mặn nước biển tự nhiên xuống độ mặn 10 và 200/00 tương tự như nhau ở ghẹ nuôi và ghẹ tự nhiên (bảng 2). Không có sự khác nhau rõ rệt về tỷ lệ lột vỏ giữa các nghiệm thức thí nghiệm. Những cá thể lột vỏ đa số là con cái, riêng ở lô ghẹ bị cắt 2 mắt có nhiều cá thể đực lột vỏ. Bảng 2: Kết quả gây sốc do độ mặn. Các nghiệm thức đối chứng nuôi ở điều kiện nước biển tự nhiên có độ mặn 32-330/00 Giữa các nghiệm thức sử dụng Saponin ở các nồng độ và nghiệm thức đối chứng cũng không có sự khác biệt nhau về tỷ lệ lột vỏ và tỷ lệ sống.
  3. 2. Sử dụng thức ăn tươi có trộn chất kích thích lột vỏ của giáp xác Thí nghiệm sử dụng chitoxan trộn vào thức ăn tươi và ngâm trong 1 giờ rồi cho ghẹ ăn 2 lần/ngày đã gợi mở một số vấn đề trong nghiên cứu. So sánh với việc sử dụng các biện pháp gây sốc để kích thích ghẹ lột vỏ thì sử dụng chitoxan trộn vào thức ăn đã rút ngắn được thời gian lột vỏ của ghẹ, nhưng tỷ lệ sống của ghẹ vẫn còn thấp. Vấn đề được đặt ra là nâng cao tỷ lệ sống của ghẹ sau cắt mắt. Bảng 3 : Kết quả sử dụng chitoxan trộn với thức ăn tươi trong điều kiện nước biển tự nhiên Số liệu ban đầu thu được khi sử dụng chitoxan trộn vào thức ăn cho ghẹ ăn đã đặt ra 3 vấn đề là: (1) chất kích thích nào phù hợp với ghẹ xanh và nó có ảnh hưởng đến tỷ lệ sống của ghẹ sau khi bị cắt 2 mắt không? (2) Chu kỳ lột vỏ của ghẹ có thể được rút ngắn lại khi sử dụng chất kích thích lột vỏ của giáp xác không? (3) Khả năng lột vỏ của ghẹ bị cắt 1 mắt so với ghẹ bị cắt 2 mắt? Ðể có thể hiểu rõ hơn các câu hỏi trên, hai chất kích thích khác đã được chọn để trộn vào thức ăn của ghẹ là hocmon 20E và bột molt & grow.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
4=>1