MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài 1.1 Campuchia và Việt Nam là hai nước có mối quan hệ lâu đời. Trải qua nhiều thời kỳ lịch sử, vận mệnh của hai quốc gia luôn gắn kết với nhau chặt chẽ, điều này đã được thực tế chứng minh: Nếu một giai đoạn nào đó, quan hệ hai nước trục trặc thì đều tổn hại đến lợi ích của cả Campuchia và Việt Nam. Ngược lại, nếu quan hệ giữa hai nước tốt đẹp thì tạo cơ hội và sự ổn định cho sự phát triển của hai bên. Mặt khác, sự gần gũi về mặt địa lý và sự gắn bó, tương đồng về lịch sử khiến cho nhân dân hai nước luôn có sự hiểu biết, thông cảm và chia sẻ, đồng thời là điều kiện thuận lợi để thúc đẩy quan hệ hai nước trong tình hình mới.

Trong suốt quá trình phát triển của quốc gia, dân tộc, đặc biệt trong thời kỳ hiện đại, Campuchia và Việt Nam luôn nhận thức sâu sắc về tầm quan trọng của hoà bình, ổn định và hợp tác phát triển ở khu vực Đông Nam Á. Khu vực này có ý nghĩa chiến lược đối với cả hai nước xét trên nhiều phương diện, là một bộ phận quan trọng trong chính sách đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ đối ngoại và “láng giềng hữu nghị” của mỗi nước. Vì vậy, việc củng cố, thúc đẩy các mối quan hệ song phương, nhất là quan hệ với các nước láng giềng, khu vực cũng như giữa hai nước có ý nghĩa cực kỳ quan trọng đối với sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập quốc tế của cả Campuchia và Việt Nam.

1.2 Từ khi Chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế đối thoại, hợp tác trở thành dòng mạch chủ đạo trong quan hệ quốc tế giữa các quốc gia trên thế giới. Điều này đã tạo ra cơ hội rất lớn cho hợp tác khu vực Đông Nam Á nói chung và quan hệ giữa ba nước Đông Dương nói riêng có bước phát triển tốt đẹp hơn. Trong bối cảnh mới đó, quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng được tăng cường và thúc đẩy theo hướng hợp tác tích cực. Năm 1993, tình hình đất nước Campuchia dần đi vào ổn định đã tạo điều kiện cho quan hệ hai nước ngày càng được củng cố và phát triển trên mọi lĩnh vực: chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh, khoa học - kỹ thuật, hợp tác trong đa phương.

Trong những năm gần đây, đứng trước những biến đổi sâu sắc, khó lường của tình hình thế giới và khu vực, vì nhu cầu phát triển của mỗi nước, của Tiểu v ng Mekong và cả khu vực Đông Nam Á, Campuchia và Việt Nam đều phải xác định một chiến lược phát triển quốc gia thích hợp. Trong đó, từng mối quan hệ song phương hay đa

phương đều có một vị trí, vai trò riêng và cần được xem trọng trong chính sách đối ngoại của mỗi nước. Quan hệ hợp tác hai nước hiện nay đang đứng trước những thuận lợi cơ bản cũng như những thách thức, khó khăn mới, nhưng nếu biết khai thác tốt thuận lợi và hạn chế một cách hiệu quả những thách thức, khó khăn, hợp tác Campuchia - Việt Nam sẽ có những bước phát triển có lợi cho mỗi nước, góp phần vì hòa bình, ổn định, hợp tác ở khu vực. Do đó, việc nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam ngày càng có ý nghĩa quan trọng.

1.3 Quan hệ Campuchia - Việt Nam không chỉ tồn tại và phát triển một cách thuận chiều mà còn trải qua nhiều biến động, thăng trầm của lịch sử. Những mâu thuẫn, tồn tại trong quan hệ hai nước cũng như sự tác động sâu sắc của nhân tố bên ngoài, nhất là sức ép từ phía các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc đã có ảnh hưởng rất lớn đến mối quan hệ này. Tính thiếu ổn định trong hệ thống chính trị và những mặt trái trong chính sách đối ngoại của Campuchia, hay nói cách khác tính đa diện trong chính sách đối ngoại và sự tranh giành ảnh hưởng, đấu tranh phe phái trong nội bộ Campuchia đã không ít lần gây tác động xấu đến quan hệ giữa hai nước. Đồng thời, những tác động trái chiều của các nhân tố bên ngoài, nhất là từ phía Trung Quốc đã ảnh hưởng trực tiếp lên đường lối đối ngoại của Campuchia và tác động sâu sắc tới mối quan hệ Campuchia - Việt Nam. Vì vậy, việc nghiên cứu đề tài còn nhằm góp phần hiểu thêm những biến động về chính trị, kinh tế và đường lối ngoại giao của Campuchia, qua đó có thể gợi mở cho Việt Nam những đối sách ph hợp trong quan hệ với nước láng giềng ở v ng biên giới Tây Nam của đất nước.

1.4. Đề tài quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) là đề tài mới chưa từng được công bố trước đó. Vì thế, qua nghiên cứu đề tài, chúng tôi mong muốn đóng góp một tài liệu tham khảo quan trọng cho công tác giảng dạy và nghiên cứu lịch sử (kể cả giảng dạy lịch sử quan hệ quốc tế) trong các trường đại học, cho các nhà hoạt động chính trị, ngoại giao, nhất là những người hiện nay đang trực tiếp quan hệ, giao dịch, tiếp xúc với Campuchia.

Từ thực tế nói trên, chúng tôi quyết định chọn vấn đề: “Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010)” làm đề tài luận án tiến sĩ với hy vọng góp phần nghiên cứu quan hệ quốc tế của nội bộ Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) nói chung và quan hệ Campuchia - Việt Nam nói riêng. 2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề

2.1. Việc nghiên cứu của các học giả Việt Nam Campuchia là một nước láng giềng thân thuộc đối với nhân dân Việt Nam, do vậy, từ lâu quan hệ hai nước đã nhận được sự quan tâm nghiên cứu của nhiều học giả, cơ quan nghiên cứu của Việt Nam. Đặc biệt, trong những năm gần đây, việc đẩy mạnh nghiên cứu về đất nước Campuchia và mối quan hệ Campuchia - Việt Nam được nhiều nhà nghiên cứu, nhà lãnh đạo, quản lý Việt Nam nhìn nhận, đánh giá trên nhiều phương diện, phản ánh sự phát triển không ngừng mối quan hệ giữa hai quốc gia, dân tộc. 2.1.1. Những công trình viết chung về lịch sử quan hệ giữa ba nước Đông Dương

Công trình “Về lịch sử văn hóa ba nước Đông Dương” (1983) do Phạm Nguyên Long, Đặng Bích Hà chủ biên là một tác phẩm được xuất bản khá sớm. Đây là công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học, trong đó, tác giả Nguyễn Hào H ng với bài viết “Lịch sử một thế kỷ liên minh đoàn kết chiến đấu và toàn thắng của nhân dân ba nước Đông Dương” đã dựng lại bức tranh toàn cảnh về mối quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia - Lào từ trong lịch sử đấu tranh cho đến đầu thập niên 80 của thế kỷ XX. Tác giả nhìn nhận mối quan hệ khăng khít của ba nước Đông Dương dựa trên nền tảng về văn hóa, lịch sử, xã hội từ thời kỳ thực dân Pháp xâm lược cho đến kết thúc thắng lợi hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tác giả đã đi sâu phân tích cơ sở hình thành mối quan hệ thiết thân giữa nhân dân ba nước Đông Dương, khẳng định đây không chỉ là mối quan hệ láng giềng truyền thống mà còn là mối quan hệ của các quốc gia c ng chung nguồn cội văn hóa, lịch sử và điều kiện phát triển trong một khu vực “thống nhất nhưng đa dạng”. Tuy không đề cập riêng về quan hệ Campuchia - Việt Nam, nhưng qua đó vẫn thấy được rất nhiều điểm tương đồng tạo nên nền tảng của mối quan hệ này.

Nguyễn Văn Cường trong luận văn thạc sĩ “Hợp tác kinh tế giữa Việt Nam với Lào và Campuchia (1991 - 2006)” (2007) trên cơ sở trình bày và phân tích những nhân tố tác động đến quan hệ ba nước đã đề cập đến quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực đầu tư, thương mại và giao thông vận tải cũng như dự báo triển vọng hợp tác giữa hai nước trong thời gian tới. Tuy nhiên, do đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài là ba chủ thể Việt Nam - Lào - Campuchia trong hợp tác kinh tế, nên công trình chưa đi sâu tìm

hiểu, khai thác và phân tích cụ thể mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực khác và chỉ dừng lại năm 2006.

Phạm Đức Thành và Vũ Công Quý trong công trình “Những khía cạnh dân tộc, tôn giáo, văn hóa trong Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia” (2009) đã đi vào nghiên cứu những điểm tương đồng nổi bật trên những khía cạnh dân tộc, tôn giáo và văn hóa. Các tác giả đã chỉ ra rằng Việt Nam với Campuchia và Lào đều có những điểm chung, tạo nền tảng vững chắc cho mối quan hệ trong lịch sử. Những điểm chung đó không chỉ giúp ba nước Đông Dương đoàn kết đánh thắng kẻ th chung mà còn tạo lập vị thế để cả ba quốc gia c ng vươn lên phát triển trong giai đoạn hiện nay.

Trong luận văn thạc sĩ “Hợp tác Việt Nam - Lào - Campuchia ở khu vực Tam giác Phát triển (1999 - 2009)” (2011), Nguyễn Duy H ng đã bước đầu nêu bật được những thành tựu hợp tác giữa Việt Nam, Campuchia và Lào ở v ng giáp ranh biên giới phía Tây. Tuy nhiên, do đối tượng và phạm vi nghiên cứu khá rộng nên tác giả chưa đi sâu phân tích quan hệ Campuchia - Việt Nam.

2.1.2. Những công trình nghiên cứu về Campuchia hoặc Việt Nam Phạm Đức Thành là người có nhiều công trình nghiên cứu về đất nước và con người Campuchia, cũng như mối quan hệ giữa Campuchia với Việt Nam trong nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau. Tác phẩm “Lịch sử Campuchia” (1995) của tác giả là một công trình biên soạn công phu, có tính khái quát về đất nước Khmer. Tuy nhiên, do phạm vi và đối tượng nghiên cứu quá rộng nên tác giả ít đề cập đến mối quan hệ Campuchia - Việt Nam và nếu có cũng chỉ dừng lại vào đầu những năm 90 của thế kỷ XX. Mặc d vậy, công trình này đã mô tả khái quát đất nước, con người, lịch sử, văn hóa Campuchia từ thời kỳ khởi nguyên đến trước năm 1995, qua đó cho thấy được những điểm tương đồng giữa hai quốc gia, dân tộc là cơ sở cho mối quan hệ Campuchia - Việt Nam ngày nay.

Lê Thị Ái Lâm trong đề tài nghiên cứu “Thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội Campuchia từ thập kỷ 90 đến nay” (2006) đã trình bày thực tiễn phát triển kinh tế - xã hội của Campuchia trong giai đoạn đầu cải cách và xây dựng kinh tế thị trường (1994 - 2004), với các nội dung liên quan đến tăng trưởng kinh tế, vấn đề dân số, nguồn nhân lực, thị trường lao động, các vấn đề xã hội… ít nhiều có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài.

Vũ Dương Huân (chủ biên) trong “Ngoại giao Việt Nam hiện đại vì sự nghiệp đổi mới (1975 - 2000)” (2002) đã khái quát chính sách đối ngoại của Việt Nam trong thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội với bối cảnh mới trong nước và thế giới. Do đối tượng nghiên cứu khá rộng, cho nên tác giả chỉ mới đề cập một vài nét cơ bản nhất của quan hệ Việt Nam - Campuchia về chính trị, ngoại giao, kinh tế, văn hóa - khoa học - kỹ thuật và một số vấn đề còn tồn tại trong quan hệ hai nước như vấn đề biên giới lãnh thổ, vấn đề người Việt tại Campuchia. 2.1.3. Những công trình đề cập chung đến quan hệ Campuchia - Việt Nam

Viện Nghiên cứu Đông Nam Á thuộc Viện Khoa học Xã hội Việt Nam là cơ quan chuyên trách nghiên cứu về các nước Đông Nam Á, cũng như quan hệ giữa Việt Nam với các quốc gia trong khu vực. Viện đã cho xuất bản nhiều tài liệu liên quan đến quan hệ Campuchia - Việt Nam, trong đó có nhiều bài nghiên cứu chuyên sâu đi vào phân tích, lý giải thực trạng cũng như xu hướng của mối quan hệ hai nước. Có thể dẫn ra một số công trình tiêu biểu như: Báo cáo chuyên đề “Quan hệ Việt Nam - Campuchia: thực trạng và triển vọng”; Đề tài cấp Viện “Quan hệ Việt Nam - Campuchia: Hiện trạng và giải pháp” (2006); Hội thảo Khoa học “Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong bối cảnh mới: Hợp tác toàn diện cùng phát triển” (2007) quy tụ các nhà khoa học, các chuyên gia có thâm niên nghiên cứu về quan hệ Campuchia - Việt Nam trong rất nhiều lĩnh vực: chính trị, kinh tế, giáo dục và đào tạo, du lịch, y tế… Mặc d góc độ nhìn nhận khác nhau, thể hiện trên nhiều lĩnh vực, song các học giả đều cho rằng quan hệ Campuchia - Việt Nam đã đạt được rất nhiều thành tựu lớn lao, ngày càng phát triển đi lên ph hợp với tình hình chung của khu vực và thế giới, cũng như nguyện vọng chính đáng của nhân dân hai nước. Tuy nhiên, nhiều tác giả cũng chỉ ra do nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan, quan hệ Campuchia - Việt Nam trên nhiều lĩnh vực chưa tương xứng với tiềm năng của hai nước, còn gặp nhiều khó khăn cần phải giải quyết, đồng thời cũng đưa ra một số dự báo khá lạc quan về xu hướng phát triển giữa hai quốc gia trong vài năm.

Công trình “Những vấn đề chính trị, kinh tế nổi bật của Campuchia giai đoạn 2011 - 2020 và tác động chủ yếu đến Việt Nam”, Đề tài cấp Bộ - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (2010) của Nguyễn Thế Hà và cộng sự đã có những phân tích sâu sắc về những biến động

của nội tình đất nước Campuchia trên phương diện kinh tế, chính trị. Qua việc biện giải một số vấn đề liên quan đến thể chế chính trị, tình hình kinh tế của Campuchia cũng như sự gia tăng ảnh hưởng của các nước lớn, đặc biệt là Trung Quốc và Mỹ đối với Campuchia, các tác giả đã cho thấy tính hai mặt (thuận và trái chiều) trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam và bước đầu đưa ra những giải pháp mang tính gợi mở cho mối quan hệ này. Tuy nhiên, do xuất phát từ đối tượng nghiên cứu nên các tác giả chưa chú trọng đến phân tích, đánh giá những thành tựu của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng như những tác động của vấn đề này đến hai chủ thể và khu vực.

Công trình “Một số giải pháp nhằm phát triển thương mại hàng hóa Việt Nam - Campuchia qua biên giới trên bộ thời kỳ đến năm 2005” (2002) do Doãn Kế Bôn làm chủ nhiệm cho rằng hoạt động thương mại hàng hóa qua biên giới trên bộ giữa Việt Nam với Campuchia đã có những diễn biến rất phức tạp và tuy đạt được những thành tựu nhất định, song trên thực tế còn nhiều điều bất cập, từ quản lý đến tổ chức vận hành… Trên cơ sở phân tích, đánh giá những số liệu, sự kiện, các tác giả đưa ra một số giải pháp nhằm phát triển tình hình thương mại giữa hai nước đến năm 2005.

Nguyễn Thanh Đức trong luận văn thạc sĩ “Nhân tố kinh tế trong phát triển quan hệ đối tác chiến lược với Campuchia” (2008) đã trình bày tổng quan về quan hệ kinh tế Việt Nam - Campuchia giai đoạn 1991 - 2008, trong đó tác giả đánh giá cao nhân tố kinh tế trong mối quan hệ hai nước, khẳng định đây là nhân tố góp phần rất lớn trong sự hình thành và phát triển đối tác chiến lược Việt Nam - Campuchia. Tác giả cũng nêu lên những triển vọng và kiến nghị phương hướng, giải pháp trong việc phát triển quan hệ hai nước dựa trên cơ sở thực tế đã phân tích, trong đó thấy được tiềm năng và quá trình phát triển đi lên của quan hệ Việt Nam - Campuchia là một tất yếu, đặc biệt là trong lĩnh vực kinh tế.

Lâm Ngọc Uyên Trân trong luận văn thạc sĩ “Hợp tác du lịch giữa Việt Nam và Campuchia: Thực trạng và giải pháp” (2008) nghiên cứu hợp tác du lịch giữa hai nước trong giai đoạn hiện nay, trên cơ sở đó tập trung đề xuất các giải pháp phát triển hợp tác du lịch giữa hai bên.

Nguyễn Sĩ Tuấn trong đề tài cấp Nhà nước “Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội và pháp lý của vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia và đề xuất giải pháp ổn định, phát triển vùng biên giới

hai nước” (2006) đã nhìn nhận vấn đề từ khía cạnh lịch sử, chính trị, xã hội và pháp luật trong quan hệ biên giới lãnh thổ Campuchia - Việt Nam. Trên cơ sở phân tích và biện dẫn những tài liệu khoa học, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nhằm phát triển v ng biên giới đất liền giữa hai nước.

Lê Thị Trường An trong luận văn thạc sĩ “Quan hệ Việt Nam - Campuchia trong giải quyết vấn đề biên giới lãnh thổ” (2006) khẳng định việc giải quyết biên giới Việt Nam - Campuchia đã có những bước tiến tốt đẹp trong xu thế quan hệ hai nước trên nhiều lĩnh vực ngày càng phát triển mạnh mẽ. Mặc d còn nhiều khó khăn, phức tạp do lịch sử để lại c ng với những biến động về chính trị, nội bộ của Campuchia, nhưng tác giả vẫn tin tưởng vào triển vọng tốt đẹp của việc giải quyết vấn đề này trong tương lai. Dưới góc độ Luật quốc tế, tác giả đã nhìn nhận, đánh giá quan hệ biên giới Việt Nam - Campuchia trên góc độ pháp lý, với những dẫn chứng cụ thể và xác thực để từ đó đi vào phân tích bản chất, triển vọng giải quyết vần đề này trong thời gian sắp tới. Tuy nhiên, do giới hạn nghiên cứu, tác giả chỉ mới đề cập đến hoạch định biên giới trên đất liền.

Kỷ yếu Hội thảo khoa học “Vùng biên giới đất liền Việt Nam - Campuchia: Cơ sở lịch sử, chính trị, xã hội, pháp lý và các giải pháp phát triển bền vững, hài hòa” (2009) của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á đã quy tụ nhiều bài nghiên cứu của các học giả uy tín trong nước. Nhìn chung, các tác giả đều đánh giá cao vai trò, vị thế của v ng biên giới Việt Nam - Campuchia. Trên cơ sở phân tích, lý giải những khía cạnh hợp tác, các tác giả tại hội thảo đã đề ra nhiều giải pháp phát triển bền vững khu vực biên giới hai nước dưới nhiều góc độ khác nhau.

Công trình tập thể “Thực trạng việc phân định vùng biển giữa Việt Nam - Campuchia” của Viện Nghiên cứu Đông Nam Á (Mã TL1586) đã góp phần bổ sung cho những nghiên cứu đi trước. Các tác giả đã chỉ rõ, hiện nay vấn đề biên giới trên biển giữa hai nước còn gặp nhiều vướng mắc, chưa thể giải quyết, quan điểm hai bên còn trái chiều nhau. Các tác giả chỉ rõ “diện tích chồng lấn trong vùng biển giữa hai nước Việt Nam và Campuchia là không lớn nhưng do vị trí của vùng biển, yếu tố lịch sử và nguồn lợi hải sản nên đây là vấn đề mà hai bên rất khó giải quyết”.

Ngoài ra, một số tạp chí chuyên ngành như Nghiên cứu Đông Nam Á, Nghiên cứu quốc tế, Nghiên cứu lịch sử, Tạp chí Cộng sản… có những

bài viết đề cập đến quan hệ Campuchia - Việt Nam. Có thể kể đến như: B i Thị Thu Hà có bài “Cuộc khởi nghĩa N’Trang Lơng - một biểu tượng liên minh chiến đấu chống Pháp của nhân dân Việt Nam và Campuchia”, Phạm Đức Thành có bài “Campuchia với Hành lang kinh tế Đông - Tây”, Nguyễn Minh Ngọc có bài “Quan hệ Việt Nam - Campuchia và vấn đề phân định biên giới biển tại Vịnh Thái Lan”, Trần Văn T ng có bài “Quan hệ kinh tế biên giới Việt Nam - Campuchia”… đã đề cập đến một vài khía cạnh nào đó trong một giai đoạn lịch sử của quan hệ hai nước.

2.2. Việc nghiên cứu của các học giả Campuchia Các học giả người Campuchia luôn quan tâm, xem xét quan hệ Campuchia - Việt Nam trên nhiều lĩnh vực và đánh giá dưới nhiều góc độ.

Quốc vụ khanh Bộ Ngoại giao Campuchia Kao Kim Hourn là một trong những người có nhiều công trình nghiên cứu về Campuchia trong giai đoạn hiện nay trên nhiều lĩnh vực, nhất là quan hệ quốc tế của Campuchia với khu vực, thế giới, trong đó có Việt Nam, ông chú ý nêu lên những thách thức, triển vọng quan hệ Campuchia với các nước khác trong tương lai không xa. Có thể kể đến một số công trình như: Kao Kim Hourn (1998), “Cambodia - From Crisis to Promise: Building the future”. Kao Kim Hourn (2004), “Cambodia's ASEAN policy: Cambodia's contribution to Peace and Stability in region”… Những công trình của Kao Kim Hourn tuy chủ yếu đề cập quan hệ của Campuchia trong cộng đồng ASEAN, quá trình Campuchia trở thành thành viên chính thức của ASEAN vào năm 1999 và sự thay đổi chính sách đối ngoại trong quá trình thực thi quan hệ quốc tế của Campuchia nhưng đã góp phần phân tích những vấn đề liên quan đến quan hệ của Campuchia với các nước khác, trong đó có Việt Nam. Việc nhìn nhận lại con đường đi đầy gian khó của đất nước để tiến lên xây dựng một quốc gia phồn thịnh của các nhà lãnh đạo và nhân dân Campuchia, từ bỏ “khủng hoảng” để “xây dựng tương lai” chính là điều quan trọng nhất khi Campuchia trở thành thực thể mới trong cộng đồng Đông Nam Á.

Tác giả Camaphon trong “Cambodia - Vietnam Political Relations 1979 - 1989” (2003) đã cho thấy một giai đoạn khá phức tạp trong quan hệ hai nước. Đề tài tập trung vào “các mối quan hệ giữa hai nước vào thời điểm đó chỉ để phục hồi của nền kinh tế Campuchia, chính trị và tái thiết lập quan hệ Campuchia và Việt Nam một lần nữa, sau khi mối quan hệ này bị cắt đứt, trong năm

1975 - 1979” cũng như những vấn đề liên quan đến cuộc nội chiến tại Campuchia.

Roy Rasmey trong luận văn thạc sĩ “Mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị ở Campuchia: Tác động đối với quan hệ Campuchia - Việt Nam” (2005) đã trình bày một số vấn đề khó khăn, phức tạp do lịch sử để lại trong quan hệ hai nước như vấn đề biên giới lãnh thổ, vấn đề người Việt tại Campuchia… Roy Rasmey cũng nói rõ thực chất quan hệ Campuchia - Việt Nam theo xu hướng tốt đẹp hay xấu đi, một phần là do sự tranh giành nắm quyền lãnh đạo tại Campuchia, chính mâu thuẫn giữa các đảng phái, lực lượng chính trị trong nội bộ đất nước Campuchia đã gây ảnh hưởng sâu sắc đến tình hình biên giới giữa hai nước. Tuy nhiên, trên bình diện sâu rộng của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam, tác giả khẳng định “những mâu thuẫn và những tác động đó về lâu dài không thể làm thay đổi mối quan hệ truyền thống anh em giữa hai dân tộc Việt Nam - Campuchia được. Đó ngoài là một quy luật ra thì nó cũng có những hệ quả tích cực mà tất cả chúng ta cùng có thể cảm nhận được”.

Sok Dareth trong luận văn thạc sĩ “Chính sách của Vương quốc Campuchia đối với Việt Nam từ 1993 đến nay” (2008) đã cho thấy được chính sách đối ngoại của Campuchia đối với Việt Nam là nhằm đảm bảo quan hệ hòa bình, ổn định tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, hợp tác đôi bên c ng có lợi, đảm bảo an ninh và lợi ích của hai dân tộc. Do nhận thức được tầm quan trọng về vai trò của Việt Nam đối với môi trường hòa bình, thịnh vượng của đất nước cũng như của khu vực nên Campuchia đã luôn đặt Việt Nam trong ưu tiên chính sách đối ngoại của mình. Tác giả cũng đã nêu ra bốn nguyên tắc và ba phương châm trong quan hệ của Campuchia đối với Việt Nam. Trong đó, Sok Dareth khẳng định Việt Nam là một nước láng giềng vô c ng quan trọng, trải qua nhiều thăng trầm lịch sử nhưng phương châm của Campuchia đối với Việt Nam vẫn là “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”

Sun Sothiarat trong luận văn thạc sĩ “Đường lối phát triển quan hệ hữu nghị truyền thống Campuchia - Việt Nam từ 1998 đến nay” (2010) đã khái quát quan hệ Campuchia - Việt Nam (1991 - 1998) và phân tích sự phát triển của mối quan hệ hai nước từ năm 1998 đến nay. Qua đó đưa ra triển vọng hợp tác và kiến nghị, những định hướng, mục tiêu cụ thể của Campuchia và Việt Nam trong quan hệ song phương. Bên cạnh đó, Sun Sothiarat cũng chỉ ra quan hệ

Campuchia - Việt Nam còn những khó khăn thách thức cần phải vượt qua để thúc đẩy quan hệ hai nước ngày càng phát triển vững chắc hơn trong tương lai.

Trên bình diện rộng hơn, Kong Sokea trong phân tích, đánh giá “Chính sách đối ngoại Campuchia với ASEAN từ năm 1967 đến nay” (2005) đã cho thấy được chính sách ngoại giao tổng thể của Campuchia đối với khu vực Đông Nam Á, bao gồm cả Việt Nam. Theo tác giả, chính sách ngoại giao của Campuchia đã có nhiều tác động sâu sắc tới hòa bình, ổn định, hợp tác của khu vực cũng như quan hệ song phương Campuchia với mỗi nước trong khu vực, trong đó có Việt Nam vì Campuchia và Việt Nam là hai thực thể không tách rời của Đông Nam Á và đều là thành viên của ASEAN.

IM.Reachany trong luận văn thạc sĩ “Quan hệ Mỹ - Campuchia sau Chiến tranh lạnh” (2005) đã phân tích, đánh giá mối quan hệ Campuchia với các nước lớn, qua đó cho thấy sự tác động của Mỹ đối với Campuchia trong hầu hết các lĩnh vực, kể cả chính sách ngoại giao của Campuchia trong khoảng thời gian nói trên. Với góc nhìn này, tác giả đã cho thấy được sự phức tạp trong quan hệ quốc tế liên quan đến chính sách ngoại giao của Campuchia. Suy cho c ng, sự phụ thuộc vào kinh tế và viện trợ nước ngoài đã làm cho Chính phủ Campuchia phải có những đường hướng đối ngoại ph hợp, nhất là đối với các nước lớn như Mỹ, Trung Quốc... Bên cạnh đó, mâu thuẫn nội bộ, tranh giành quyền lực giữa các phe phái ở Campuchia đã làm sự lệ thuộc vào bên ngoài càng tăng lên, do nhiều lực lượng chính trị muốn dựa vào sức mạnh bên ngoài gia tăng sức ép lên chính phủ đối lập hiện thời. Điều này đã tác động không nhỏ đến quan hệ Campuchia với các nước khác, kể cả Việt Nam.

2.3. Nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam ở các nước khác Quan hệ giữa Campuchia và Việt Nam được nhiều học giả nước ngoài quan tâm nghiên cứu từ rất sớm với nhiều đánh giá nhìn nhận vấn đề khác nhau. Mối quan hệ này đã một thời là tâm điểm chú ý khai thác của những nhà nghiên cứu quan tâm đến cuộc chiến tại Đông Dương và quá trình hòa giải dân tộc ở Campuchia những năm 50 đến đầu thập niên 90 của thế kỷ XX.

Leiglton Marian Kirsh (1978) trong “Perspectives on the Vietnam - Cambodia border conflict”, Asian Survey Vol XVIII, No 5 (p.448 -

457). Lau Teik Soon (1982) “Asian and the Cambodia Problem”, Asian Survey Vol XXII, No 6 (p.548-561) và “Cambodia - Vietnamese Relations” (1986), Asian Survey Vol XXII, No 6 (p.440 - 451)… Những bài viết này đã tập trung đi sâu vào các sự kiện, trên cơ sở đó phân tích, đánh giá tình hình Campuchia từ thập niên 70 đến giữa thập niên 80 của thế kỷ XX. Các tác giả nhận định Vấn đề Campuchia là một vấn đề phức tạp khó khăn trong quan hệ quốc tế giai đoạn này. Đó là sự căng thẳng trong quan hệ giữa các nước ASEAN và ba nước Đông Dương về Vấn đề Campuchia, cũng như sự can thiệp của các thế lực bên ngoài. Các tác giả cũng đề cập đến quan hệ Campuchia - Việt Nam những năm cuối thập niên 70 đến giữa thập niên 80 với những thăng trầm trong từng thời kỳ lịch sử nhất định.

Năm 1989, Dike & Douglas trong bài “The Cambodia Peace Process: Summer of 1989”, Asian Survey, 1989, Vol XXIX, No 9 (p.842 - 852) khẳng định việc rút quân tình nguyện Việt Nam ra khỏi Campuchia đã mở đường cho bước ngoặt quan hệ trong khu vực, giữa ASEAN với ba nước Đông Dương, mở ra trang mới trong quan hệ Việt Nam - Campuchia. Tuy nhiên, do bị chi phối bởi hoàn cảnh lịch sử nên quan điểm đánh giá Vấn đề Campuchia và quan hệ Việt Nam - Campuchia, ASEAN - Đông Dương của tác giả có những điểm cần phải trao đổi, bàn luận thêm.

Bên cạnh đó, có thể kể đến Hal Kosut trong “Cambodia and the Vietnam war”, New York, 1971. Area Handbook Series, “Cambodia, A Country Study”, DA pam 550-50, Washington, 1987… Những công trình này chủ yếu tập trung xem xét mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong bối cảnh cuộc chiến tranh Đông Dương và nội chiến ở Campuchia.

Một số học giả lại tiếp cận về mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong bối cảnh lịch sử khu vực. Chang Pao Min trong công trình“Kampuchea between China and Viet Nam”, Singapore University Presses, 1987 đã đề cập đến một thời điểm nhạy cảm của lịch sử Campuchia và khu vực, qua đó cho thấy Campuchia trong quan hệ quốc tế luôn chịu sự tác động từ bên ngoài, đặc biệt là sự ảnh hưởng của Trung Quốc đối với chính sách ngoại giao của Campuchia.

Trên bình diện rộng hơn, tác giả Cunha, Derk da (ed) trong “Southeast Asian Perspectives on Security”, Insititute of Southeast Asian Studies, Singapore, 2000. Tan, Andrew T.H and Boutin, J.D

KenNeth (ed) trong “Non - Traditional Security Issues in Southeast Asia”, Institute of Defence and Strategic Studies, Singapore, 2001… chủ yếu đề cập đến sự hợp tác đa phương của các nước trong khu vực Đông Nam Á và ít nhiều có liên quan đến hướng nghiên cứu của đề tài. Qua việc trình bày tình hình nghiên cứu về mối quan hệ Campuchia - Việt Nam, có thể rút ra một số nhận xét sau:

- Thứ nhất, số lượng công trình, bài viết nghiên cứu về mối quan hệ hai nước khá phong phú, đa dạng. Tuy nhiên, do mục đích, góc độ và thời điểm nghiên cứu nên có thể thấy cho đến nay trong phạm vi Việt Nam vẫn chưa có một công trình chuyên sâu nghiên cứu hệ thống và toàn diện về quan hệ Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn 1993 - 2010 dưới góc độ sử học.

- Thứ hai, do bối cảnh khu vực Đông Nam Á và Campuchia trong hai thập niên cuối thế kỷ XX rất phức tạp nên có khá nhiều công trình, bài viết tập trung nghiên cứu về quan hệ chính trị, ngoại giao Campuchia - Việt Nam; các lĩnh vực quan hệ khác tuy có đề cập, nhất là trong những năm gần đây nhưng nhìn chung vẫn chưa nhiều, chưa tương xứng với thực tiễn quan hệ giữa hai nước.

- Thứ ba, do bị chi phối bởi điều kiện lịch sử cả trong và sau Chiến tranh lạnh nên các công trình nghiên cứu về quan hệ Campuchia - Việt Nam thể hiện rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí có phần khác biệt nên cần có sự phân tích, đánh giá thêm để đưa ra những kết luận khách quan, khoa học và toàn diện hơn.

Trên cơ sở tham khảo, kế thừa có chọn lọc những công trình, bài viết đi trước, trong việc thực hiện đề tài Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) chúng tôi mong muốn góp phần làm rõ hơn vấn đề này.

3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu 3.1. Mục tiêu nghiên cứu Đề tài sẽ tái hiện bức tranh toàn cảnh về quan hệ Campuchia - Việt Nam trong những năm 1993 - 2010 đi từ cơ sở hình thành, thực trạng quan hệ đến tác động của mối quan hệ này đối với hai chủ thể, khu vực và bước đầu dự báo xu hướng vận động của quan hệ Campuchia - Việt Nam trong thời gian tới.

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu Đề tài thực hiện những nhiệm vụ nghiên cứu cụ thể sau: - Trình bày những nhân tố tác động đến mối quan hệ Campuchia - Việt Nam, trong đó có cả những nhân tố khách quan và chủ quan.

- Tập trung nghiên cứu, phân tích quá trình phát triển quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) trên các mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh, khoa học - kỹ thuật, hợp tác trong khu vực Đông Nam Á. Tuy nhiên, để làm rõ quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010), chúng tôi có đề cập tới quan hệ này trước năm 1993, bởi đây là một trong những nhân tố ảnh hưởng tới quan hệ giữa hai nước giai đoạn sau đó.

- Rút ra những đặc điểm, tính chất của quan hệ Campuchia - Việt Nam cũng như phân tích, đánh giá tác động của mối quan hệ này đối với sự phát triển của mỗi nước và đối với hòa bình, ổn định, hợp tác và phát triển của khu vực. Qua đó, nhìn nhận, đánh giá về xu hướng vận động của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong thời gian sắp tới.

4. Phạm vi nghiên cứu và nguồn tư liệu 4.1. Phạm vi nghiên cứu - Về mặt không gian, đề tài nghiên cứu hai chủ thể chính trị ở khu vực Đông Nam Á là Campuchia và Việt Nam - hai quốc gia có nhiều điểm tương đồng về lịch sử, văn hóa, xã hội sau Chiến tranh lạnh. - Về mặt thời gian, đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam trong những năm 1993 - 2010. Đây là giai đoạn quan hệ hai nước có những chuyển biến to lớn, toàn diện và đã có những tác động lẫn nhau, nhất là sau khi Vương quốc Campuchia được tái lập vào năm 1993 và Chính phủ Liên hiệp dân tộc Campuchia đi vào hoạt động, đã mở ra giai đoạn phát triển mạnh mẽ của quan hệ hai nước. Năm 2010 được chúng tôi chọn làm giới hạn nghiên cứu vì đây là một đề tài sử học, do đó cần có một khoảng l i nhất định về thời gian trong việc nhìn nhận và đánh giá vấn đề.

Tuy nhiên, để đảm bảo tính logic của đề tài, các giai đoạn quan hệ giữa hai nước trước năm 1993 và từ sau năm 2010 cũng được đề cập ở mức độ nhất định.

- Về mặt nội dung, đề tài tập trung nghiên cứu quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực chủ yếu: chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh, khoa học - kỹ thuật, hợp tác trong khu vực Đông Nam Á.

4.2. Nguồn tài liệu Nguồn tư liệu chủ yếu được khai thác phục vụ cho đề tài này bao gồm: - Các văn kiện của Đảng, Nhà nước Việt Nam và của Nhà nước Campuchia, các bài viết và tác phẩm của các nhà lãnh đạo cấp cao hai nước, các báo cáo văn kiện, Hiệp định, Hiệp ước, Tuyên bố

chung, Nghị định thư… của các bộ, ban ngành có quan hệ hợp tác, các văn kiện liên quan của tổ chức ASEAN.

- Các công trình chuyên khảo, bài viết, báo cáo khoa học tại các cuộc hội thảo khoa học của các nhà nghiên cứu Campuchia và Việt Nam đã công bố. - Các công trình nghiên cứu của các học giả nước ngoài liên quan đến đề tài, chủ yếu bằng tiếng Anh. - Một số luận văn thạc sĩ và luận án tiến sĩ ở Campuchia hoặc Việt Nam.

- Báo chí Campuchia, Việt Nam và của Thông tấn xã Việt Nam, của Bộ Ngoại giao. Các thông tin khai thác có chọn lọc và xử lý các nguồn tư liệu cập nhật thường xuyên trên mạng Internet bằng tiếng Việt và tiếng nước ngoài.

5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu - Phương pháp luận: Quán triệt phương pháp luận sử học Mác-xít, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong nghiên cứu lịch sử quan hệ quốc tế và chính sách đối ngoại.

- Phương pháp nghiên cứu: Vì đề tài thuộc về khoa học lịch sử nên việc sử dụng phương pháp lịch sử và phương pháp logic trong sự kết hợp được xem là phương pháp chủ đạo trong nghiên cứu đề tài. Mặt khác, trong chừng mực nhất định, tác giả luận án còn sử dụng các phương pháp khoa học liên ngành như phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh, thống kê, dự báo… trong từng nội dung cụ thể của đề tài.

6. Đóng góp của đề tài 6.1 Về phương diện khoa học - Trên cơ sở khái quát toàn bộ lịch sử quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1993, luận án khôi phục lại bức tranh toàn cảnh về quá trình phát triển của mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các mặt chính trị, ngoại giao, kinh tế, an ninh, khoa học kỹ thuật, hợp tác trong khu vực Đông Nam Á từ năm 1993 đến năm 2010.

- Phân tích, luận giải những vấn đề liên quan trong từng lĩnh vực quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010), từ đó đưa ra những nhận xét, đánh giá và kết luận mang tính độc lập.

- Luận án có thể là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng dạy về quan hệ quốc tế, lịch sử Campuchia và Việt Nam thời hiện đại. 6.2. Về phương diện thực tiễn

- Nghiên cứu đề tài giúp hiểu sâu sắc hơn mối quan hệ Campuchia - Việt Nam c ng những tác động nhiều chiều từ mối quan hệ này đối với chủ thể mỗi nước cũng như tình hình chung của khu vực.

- Dựa vào kết quả nghiên cứu của đề tài, tác giả mong muốn góp phần cung cấp thêm tài liệu tham khảo cho các nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam vận dụng vào lĩnh vực đối ngoại, nhất là trong quá trình mở rộng và phát triển quan hệ hợp tác với các nước ở khu vực Đông Nam Á.

7. Bố cục luận án Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Tài liệu tham khảo và Phụ lục,

luận án được kết cấu làm 3 chương: Chương 1. Những nhân tố tác động tới quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) Chương 2. Quan hệ Campuchia - Việt Nam trên các lĩnh vực (1993 - 2010) Chương 3. Nhận xét, đánh giá về quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010)

Chương 1 NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG TỚI QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM (1993 - 2010)

1.1. Nhân tố lịch sử, văn hóa và địa chiến lược 1.1.1. Khái quát quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1993 Thời kỳ trước năm 1975: Từ lâu trong lịch sử, Campuchia và Việt Nam đã có mối quan hệ với Việt Nam. Trong cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp xâm lược. Những năm 1930 – 1945 nhân dân hai nước c ng chống thực dân Pháp xâm lược dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương. Giai đoạn 1945 -1954, nhân dân hai nước thực hiện cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược.

Thời kỳ 1975 – 1993: Từ những năm 1975 – 1979 Việt Nam giúp nhân dân Campuchia xóa bỏ chế độ diệt chủng Pol Pot – Ieng Sary. Trong 10 năm (1979 -1989), Việt Nam giúp Campuchia khôi phục đất nước sau nội chiến. Giai đoạn 1989 – 1993, quan hệ Campuchia – Việt Nam chủ yếu xoay quanh việc giải quyết vấn đề hòa bình, hòa hợp dân tộc ở Campuchia. Đây cũng là giai đoạn cực kỳ khó khăn trong quan hệ hai nước.

1.1.2. Nhân tố địa văn hóa và địa chiến lược Sự gần gũi về mặt địa lý Nét tương đồng về văn hóa Tác động từ một số nước lớn (Trung Quốc và Mỹ) 1.2. Bối cảnh quốc tế và khu vực 1.3. Nhu cầu và chính sách đối ngoại của Campuchia và Việt Nam 1.3.1. Nhu cầu hợp tác của hai nước Nhu cầu quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam được hình thành trong lịch sử, nhất là trong các thời kỳ cả hai dân tộc bị ngoại bang xâm lược và cai trị, nhân dân nước đã chủ động liên minh trong chiến đấu bảo vệ độc lập, toàn vẹn lãnh thổ.

Ngày nay, trong công cuộc xây dựng và đổi mới đất nước, đứng trước những thuận lợi và khó khăn của tình hình khu vực và thế giới, nhu cầu hợp tác Campuchia - Việt Nam càng trở nên thiết thực hơn nhằm bảo vệ và phát huy những thành quả đã đạt được. Về phương diện kinh tế, là hai quốc gia có nền kinh tế đang phát triển, có vị trí địa lý liền kề, do đó, hợp tác kinh tế giữa hai nước đã đưa lại những lợi ích quan trọng. Về phương diện an ninh - chính trị, lịch sử đã chứng minh Campuchia và Việt Nam có lợi ích căn bản và sống còn trong việc duy trì và phát triển quan hệ với nhau. 1.3.2. Chính sách đối ngoại của Campuchia Đối với Việt Nam, quốc gia láng giềng lâu đời của Campuchia, đất nước đã từng giúp đỡ Campuchia thoát khỏi họa diệt chủng Khmer Đỏ, sau cuộc Tổng tuyển cử năm 1993, Nhà nước và nhân dân Campuchia luôn dành cho Việt Nam một vị trí quan trọng trong chính sách đối ngoại của mình. Phát huy tình đoàn kết cách mạng

trước đây, trong giai đoạn mới, Campuchia hết sức coi trọng quan hệ với nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa (XHCN) Việt Nam, coi đó là một phần tất yếu nhằm giữ vững ổn định và phát triển kinh tế xã hội của mỗi nước. Mục tiêu của Campuchia trong chính sách đối với Việt Nam là đảm bảo quan hệ hòa bình, ổn định tạo môi trường thuận lợi cho phát triển kinh tế, hợp tác hữu nghị đôi bên c ng có lợi, giữ vững an ninh quốc phòng vì lợi ích của mỗi nước và khu vực.

Mặc d còn nhiều khó khăn và thách thức, nhất là khuynh hướng chính trị hai bên khác nhau, đồng thời nhiều đảng phái tại Campuchia vẫn có thái độ th địch với Việt Nam, song vượt lên trên tất cả là chính sách nhất quán của lãnh đạo và nhân dân Campuchia dành cho Việt Nam luôn tốt đẹp, thân thiện.

Nhìn trên tổng thể, nền ngoại giao của Campuchia trong thời kỳ mới nói chung đều nhằm vào phục vụ mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội và giữ vững an ninh - quốc phòng, ổn định đất nước. Đối với Việt Nam, Campuchia luôn dành ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mình. Năm 2007, kỷ niệm 40 năm thiết lập quan hệ ngoại giao Campuchia - Việt Nam (1967 - 2007), Thủ tướng Campuchia S.Hunsen đã một lần nữa tái khẳng định “cùng nhau chúng ta sẽ hành động để thúc đẩy quan hệ giữa hai dân tộc lên mức cao hơn vì lợi ích của nhân dân hai nước cũng như của đại gia đình ASEAN nói chung”

1.3.3. Chính sách đối ngoại của Việt Nam Đối với Campuchia, Việt Nam thực hiện xây dựng mối quan hệ láng giềng thân thiện giữa hai nước trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không d ng vũ lực và đe dọa d ng vũ lực, giải quyết mọi vấn đề trong quan hệ hai nước bằng con đường hòa bình, hợp tác bình đẳng, c ng có lợi và c ng tồn tại hòa bình.

Trong chính sách “coi trọng các nước láng giềng” này, Campuchia có một vị trí rất quan trọng. Việt Nam và Campuchia c ng thuộc Đông Nam Á, nằm trong khu vực phát triển kinh tế năng động. Ngoài sự tương đồng về văn hóa, phong tục, tập quán… hai nước còn có những lợi thế so sánh có thể bổ sung cho nhau. Đặc biệt, sự giúp đỡ thân tình, đoàn kết gắn bó giữa Việt Nam và Campuchia đã có từ rất sớm, chính điều này là nền tảng quan trọng để hai nước tiếp tục nương tựa vào nhau c ng phát triển trong bối cảnh mới. Nhận thức rõ vai trò vị trí của Campuchia cũng như các quốc gia lân bang, Nghị quyết Trung ương VIII (7/2003) một lần nữa nhấn mạnh “ưu tiên hàng đầu cho việc củng cố quan hệ với các nước láng giềng”. Với Campuchia, chính sách ngoại giao tốt đẹp giữa hai nước được nâng lên thành 16 chữ vàng “láng giềng tốt đẹp, hữu nghị truyền thống, hợp tác toàn diện, bền vững lâu dài”. Đây chính là tâm điểm trong chính sách đối ngoại của Việt Nam đối với Campuchia trong giai đoạn hiện nay cũng như về lâu dài. Tiểu kết chương 1:

Quan hệ Campuchia - Việt Nam trước năm 1993 chưa thực sự toàn diện và còn thể hiện tính chất một chiều, tức Việt Nam là nước

hỗ trợ, còn Campuchia là nước nhận viện trợ. Cũng trong thời kỳ này, quan hệ hai nước tập trung chủ yếu vào lĩnh vực an ninh - chính trị, quan hệ kinh tế chưa có gì đáng kể, nếu không nói là đang còn nằm ở vạch xuất phát cho đến đầu những năm 1990. Tuy nhiên, không thể phủ nhận những thành quả đạt được trong quan hệ hai nước ở thời kỳ này đã có ý nghĩa hết sức quan trọng, đặt nền tảng cho quan hệ Campuchia - Việt Nam trong những giai đoạn kế tiếp.

Chương 2 QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM TRÊN CÁC LĨNH VỰC (1993 - 2010)

2.1. Trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao Quan hệ Campuchia - Việt Nam trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao trong giai đoạn 1993 - 2010 đạt được nhiều thành tựu và có phần khởi sắc trên nhiếu cấp độ.

Kênh ngoại giao Chính phủ: Trong những năm 1993 - 1996, nhiều đoàn lãnh đạo cấp cao Việt Nam đã sang thăm Campuchia, có thể kể đến đó là chuyến thăm Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Mạnh Cầm, Thủ tướng Võ Văn Kiệt, Chủ tịch nước Lê Đức Anh… Về phía Campuchia trong giai đoạn này đáng ghi nhận là chuyến thăm Việt Nam của Quốc vương N.Shihanuc (14-16/12/1996), đồng Thủ tướng Ung Huort và Hunsen…

Sự kiện được đánh giá làm thay đổi sâu sắc diện mạo quan hệ Campuchia - Việt Nam là chuyến thăm Việt Nam của Thủ tướng S.Hunsen vào ngày 13-14/12/1998. Việc lựa chọn Việt Nam làm điểm đến đầu tiên trên cương vị Thủ tướng Chính phủ Liên hiệp mới của S.Hunsen đã tạo ra triển vọng mới trong quan hệ hai nước vốn trước đó không mấy sáng sủa và tái khẳng định sự ưu tiên đối với Việt Nam trong chính sách ngoại giao của Campuchia.

Sự kiện Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu tới Campuchia là biểu hiện cơ bản nâng tầm quan hệ hợp tác ngoại giao giữa hai nước sau cuộc tổng tuyển cử tháng 7/1998 tại Campuchia. Trong Tuyên bố chung, hai bên khẳng định đưa quan hệ hai nước phát triển theo phương châm “Hợp tác láng giềng tốt đẹp, đoàn kết hữu nghị truyền thống, ổn định lâu dài”.

Trong tình hình nền chính trị đa đảng ở Campuchia, Việt Nam chủ trương duy trì, củng cố quan hệ Nhà nước, Chính phủ và với hai đảng cầm quyền là Đảng CPP và Đảng FUNCINPEC.

Kênh “ngoại giao nhân dân” Giao lưu hợp tác giữa các tổ chức hữu nghị của nhân dân hai nước cũng có những bước phát triển như sự ra đời của Liên minh xã hội dân sự vì an ninh con người, đoàn kết nhân dân hai nước vì sự phát triển của đất nước Campuchia… Đáng chú ý là những hoạt động tích cực của Hội

Hữu nghị Việt Nam - Campuchia đã góp phần tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa nhân dân hai nước và thúc đẩy sự gắn kết giữa hai dân tộc láng giềng. Các địa phương cũng đã tạo lập mối quan hệ gắn bó, nhất là những tỉnh, thành giáp biên giới giữa hai nước.

2.2. Trên lĩnh vực an ninh 2.2.1. Vấn đề biên giới lãnh thổ Campuchia và Việt Nam có chung đường biên giới trên đất liền dài 1.137 km đi qua 10 tỉnh biên giới của Việt Nam và 9 tỉnh biên giới của Campuchia, toàn tuyến biên giới có 10 cửa khẩu quốc tế, 12 cửa khẩu chính và nhiều cửa khẩu phụ khác tạo điều kiện cho việc thông thương hàng hóa, qua lại giữa nhân dân hai nước. Do đó, vấn đề biên giới luôn được hai bên quan tâm và tạo mọi điều kiện để giải quyết ổn thỏa, nhằm phát triển kinh tế - xã hội mỗi nước và của cả khu vực. Campuchia và Việt Nam đã ký nhiều Hiệp định, biên bản thỏa thuận về việc phân định biên giới trên bộ và trên biển:

Hiệp ước về nguyên tắc giải quyết vấn đề biên giới giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia và Hiệp định về quy chế biên giới. Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia giữa nước CHXHCN Việt Nam và nước CHND Campuchia. Hiệp ước giữa nước CHXHCN Việt Nam và Vương quốc Campuchia bổ sung Hiệp ước hoạch định biên giới quốc gia năm 1985. Hiệp định về vùng nước lịch sử giữa CHXHCN Việt Nam và CHND Campuchia được ký kết ngày 7/7/1982 tại thành phố Hồ Chí Minh…

Hoạch định và phân định biên giới giữa Campuchia và Việt Nam đã tiến một bước rất dài. Tuy nhiên, công việc còn lại vẫn không ít. Tình hình chính trị nội bộ của Campuchia vẫn tiếp tục đặt ra nhiều thách thức cho vấn đề hoạch định và phân định đường biên giới trên biển giữa hai nước. Trong bối cảnh hợp tác an ninh - chính trị giữa hai nước ngày càng đi vào chiều sâu, Campuchia và Việt Nam đang cố gắng giải quyết đầy đủ và hợp lý, công bằng và khách quan về vấn đề hoạch định và phân định đường biên giới, đặc biệt là phân định đường biên giới trên biển, trên cơ sở bình đẳng, hữu nghị, tôn trọng lẫn nhau, vì hòa bình và phát triển. 2.2.2. Hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống

Trong giai đoạn 1993 - 2010, Việt Nam và Campuchia đã có những hợp tác chặt chẽ nhằm đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống ngày càng xuất hiện nổi trội với những khái niệm an ninh toàn diện như an ninh kinh tế, an ninh lương thực, an ninh môi trường, an ninh con người, an ninh tiền tệ, an ninh thông tin... Hai

nước tiếp tục tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực trao đổi thông tin, kinh nghiệm, đào tạo phối hợp bảo vệ biên giới, ngăn chặn sự xâm nhập và phá hoại của các thế lực th địch, chống âm mưu diễn biến hoà bình, phòng chống tội phạm…

Có thể kể đến một số hợp tác như chống nạn buôn bán phụ nữ, trẻ em và buôn lậu qua biên giới, phòng chống tình trạng sản xuất, buôn bán, vận chuyển, lạm dụng ma tuý… và nhiều loại tội phạm khác làm ảnh hưởng nghiêm trọng đến sự ổn định an ninh - chính trị, kinh tế - xã hội, cũng như sự phát triển bền vững của từng quốc gia, dân tộc.

Hai nước cũng có nhiều hoạt động hợp tác an ninh thông qua các diễn đàn khu vực như ASEAN, ARF, GMS, Tam giác phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia… nhằm tạo điều kiện cho nhau phát triển, đặc biệt là việc thống nhất đẩy mạnh tuyên truyền và ngăn chặn những âm mưu phá hoại sự nghiệp xây dựng đất nước của mỗi bên, đập tan âm mưu “diễn biến hoà bình”, “bạo loạn lật đổ” của các thế lực th địch trong và ngoài nước.

Hợp tác đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống giữa Campuchia và Việt Nam trong khoảng hai thập niên qua kể từ khi đất nước Campuchia đi vào hòa hợp dân tộc đến nay đã đạt những thành tựu lớn lao, tạo điều kiện tiền đề vững chắc cho cả hai nước hợp tác sâu rộng hơn nữa trong thời gian tiếp theo vì mục tiêu phát triển hòa bình của hai nước và của cả khu vực.

2.3. Vấn đề người Việt Nam tại Campuchia Người Việt Nam sinh sống ở Campuchia từ rất sớm, nhất là trong thời kỳ thuộc Pháp và đã trở thành những công dân Campuchia thực sự, đóng góp tích cực vào xây dựng đất nước như bao nhiêu người dân Khmer khác. Tuy nhiên, hiện nay, ở một số nơi, trong một số trường hợp Việt kiều vẫn bị cấm đoán, chèn ép, là mục tiêu của một số phần tử có thái độ th hằn dân tộc và trở thành chủ đề “nóng bỏng” trong các cuộc mặc cả chính trị tại Campuchia. Mâu thuẫn giữa các đảng phái chính trị có ảnh hưởng không nhỏ đến cuộc sống của những người Việt Nam tại Campuchia và tác động rất lớn đến mối quan hệ toàn diện Campuchia - Việt Nam.

Trong những năm 1995 -1996, Việt Nam và Campuchia đã tiến hành ba vòng đàm phán cấp chuyên viên về vấn đề Việt kiều. Lần thứ nhất tại Phnom Penh (29-30/3/1995), lần thứ 2 tại Hà Nội (28- 29/7/1995), lần thứ 3 tại Phnom Penh (9-11/7/1996). Phía Việt Nam nhiều lần đề nghị hai bên ký Hiệp định về kiều dân nhưng phía Campuchia cho là không cần thiết. Cho đến thời điểm hiện nay, đa phần Việt kiều ở Campuchia có địa vị pháp lý rất bấp bênh (khoảng 5-10% có giấy tờ hợp pháp, chủ yếu sử dụng sổ tạm trú do chính quyền địa phương cấp hoặc Thẻ Ngoại kiều do Công an cấp).

Do tình hình phát triển của mỗi nước và quan hệ Campuchia - Việt Nam đang diễn ra một cách tốt đẹp, đặc biệt là sau những chuyến thăm viếng lẫn nhau của lãnh đạo cấp cao hai nước, cuộc sống của cộng đồng Việt kiều đã có nhiều thay đổi theo chiều hướng tích cực. Chính quyền Campuchia đã tạo nhiều điều kiện cho cộng đồng người Việt Nam. Người Việt Nam được tôn trọng, an ninh tuơng đối đảm bảo, những người Việt đã tìm được công ăn việc làm ở Campuchia và công việc chính đáng của đại đa số người Việt được chính quyền Campuchia thừa nhận và ủng hộ. Ngày 24/3/2003, Bộ Nội vụ Campuchia đã công nhận và cấp phép hoạt động cho Hội Việt kiều ở Campuchia, cho phép thành lập 19 chi hội tại 19/24 tỉnh thành trong cả nước.

2.4. Trên lĩnh vực kinh tế 2.4.1. Quan hệ thương mại * Về tình hình xuất nhập khẩu, Từ năm 1993 đến nay, kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Campuchia và Việt Nam phát triển rất nhanh, nhìn chung tốc độ tăng trưởng bình quân của những năm sau cao hơn những năm trước và mang lại hiệu quả tích cực cho cả hai phía.

Những nỗ lực của Campuchia và Việt Nam đã tạo điều kiện thuận lợi cho việc đẩy mạnh hợp tác thương mại giữa hai nước ngày càng phát triển và đạt hiệu quả cao hơn. Hoạt động xuất nhập khẩu giữa hai nước đã có nhiều chuyển biến tích cực, mang lại kết quả khả quan cho nền kinh tế mỗi quốc gia. Theo Hội đồng Phát triển Vương quốc Campuchia, hiện nay Campuchia là thị trường xuất khẩu lớn thứ 16 của Việt Nam và Việt Nam là nước xuất khẩu lớn thứ 4 vào Campuchia sau Trung Quốc, Thái Lan, Hồng Kông. Ngược lại, Campuchia là nước xuất khẩu lớn thứ 25 vào Việt Nam và Việt Nam là thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Campuchia sau Hoa Kỳ và EU. * Về cán cân thương mại, theo thống kê của Tổng Cục Hải quan Việt Nam và số liệu chính thức của Phòng Thương mại Campuchia (CCC) công bố. Từ năm 1993 đến năm 2010, trao đổi thương mại hàng hóa giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng tăng, trong đó Việt Nam luôn đứng ở thế xuất siêu với giá trị thặng dư thương mại ngày càng lớn.

*Về cơ cấu hàng hóa xuất nhập khẩu, so với các quốc gia trong khu vực, Campuchia và Việt Nam là hai nước có sức sản xuất và tiêu thụ ở mức tương đối. Tuy nhiên, trong phạm vi có thể, Campuchia và Việt Nam vẫn luôn tìm mọi biện pháp đẩy mạnh quá trình trao đổi hàng hóa giữa hai bên được thuận lợi.

Hàng xuất khẩu Việt Nam sang Campuchia rất đa dạng về chủng loại, đủ các loại sản phẩm như nhóm hàng lương thực, thực phẩm, vật liệu xây dựng, xăng dầu, dược phẩm, rau hoa quả tươi, mãy móc thiết bị, sản phẩm dệt may, vật liệu dụng cụ ngành tẩy rửa, phân bón,

giống cây trồng, dụng cụ ngành giáo dục… Mặt hàng của Việt Nam nhập khẩu chủ yếu là gỗ nguyên liệu đã chế biến, cao su, hạt nông sản như thóc gạo, mè, đậu, điều… Đặc biệt, mặt hàng thép và sản phẩm sắt thép có kim ngạch xuất khẩu sang Campuchia lớn nhất, sau đó là các mặt hàng vải sợi các loại, vật liệu xây dựng, mì ăn liền. Đây là những mặt hàng truyền thống mà Việt Nam có thế mạnh và Campuchia đang rất cần để xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà cửa, tiêu d ng hàng ngày, ph hợp với thị hiếu và giá cả phải chăng nên dễ dàng thâm nhập vào thị trường Campuchia trong thời gian qua.

2.4.2. Hợp tác đầu tư Quan hệ hợp tác đầu tư giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng có dấu hiệu khởi sắc, đóng góp quan trọng vào phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước, cũng như tăng cường hơn nữa mối quan hệ truyền thống hai nước trong thời kỳ hội nhập. Trong giai đoạn hiện nay, nhất là khi đất nước Campuchia dần đi vào thế ổn định sau cuộc bầu cử Quốc hội năm 1993 và Vương quốc Campuchia được thành lập thì quan hệ đầu tư giữa hai nước được gia tăng mạnh mẽ.

Trong những năm gần đây, Campuchia và Việt Nam đã hiện có hiệu quả chiến lược đầu tư, kể cả ngắn hạn và dài hạn của các tập đoàn kinh tế, các doanh nghiệp thuộc nhà nước lẫn tư nhân.

Trong giai đoạn 1999 - 2010, nhiều dự án đầu tư của các tập đoàn, doanh nghiệp nhà nước cũng như tư nhân Việt Nam tại Campuchia tăng nhanh cả về số lượng lẫn quy mô. Hiện nay, có rất nhiều doanh nghiệp mang quốc tịch Việt Nam đã mạnh dạn thành lập công ty, mở chi nhánh hoặc văn phòng đại diện và đi sâu tìm hiểu để tiến tới hiện thực hóa việc đầu tư tại đất nước 14 triệu dân này.

Ngoài nguồn vốn FDI, Việt Nam còn tăng cường hợp tác đầu tư với Campuchia bằng vốn viện trợ chính thức (ODA) và vốn tín dụng ưu đãi của Chính phủ Việt Nam dành cho Chính phủ Campuchia. Mặc d số vốn của hai chương trình đầu tư này không lớn nhưng cũng góp phần giúp Campuchia thực hiện một số dự án cơ bản, đồng thời nâng cao uy tín và hình ảnh tốt đẹp về Việt Nam trong lòng nhân dân Campuchia.

Về phía Campuchia, mặc d còn nhiều khó khăn, hạn chế về tiềm lực kinh tế, song Chính phủ và các doanh nghiệp Campuchia vẫn có những nỗ lực xúc tiến đầu tư một số dự án tại Việt Nam, nhất là trong những năm gần đây số dự án và vốn đầu tư có sự gia tăng đáng kể. Tính đến tháng 4/2006, Campuchia là nước có vốn đầu tư vào Việt Nam đứng thứ 58 trong tất cả các quốc gia, v ng lãnh thổ có vốn đầu tư vào Việt Nam với 4 dự án đang hoạt động và tổng số vốn đăng ký 4 triệu USD. 2.4.3. Hợp tác giao thông vận tải

Về đường bộ: Ngày 1/6/1998, Hiệp định vận tải đường bộ giữa Chính phủ CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia đã được ký kết là cơ sở đánh dấu bước phát triển mới trong hợp tác giao thông vận tải của hai nước. Một số dự án tiêu biểu trong hợp tác giao thông vận tải giữa hai nước: Dự án nâng cấp, cải tạo Quốc lộ 78 của Campuchia, triển khai đầu tư xây dựng cầu Long Bình - Chrey Thom dưới dạng Hiệp định cho vay ưu đãi...

Về đường hàng không: hợp tác giữa hai nước không ngừng mở rộng và thu được những tín hiệu khả quan. Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Vương quốc Campuchia về vận tải hàng không ký ngày 19/4/1996 tại Hà Nội đã mở ra cơ hội hợp tác trong lĩnh vực hàng không dân dụng

Đặc biệt, ngày 26/7/2009 Hiệp định thành lập hãng Hàng không Quốc gia Campuchia (Cambodia Angkor Air) giữa Việt Nam và Campuchia được ký kết. Theo những thỏa thuận đạt được, Vietnam Airlines sẽ hợp tác toàn diện và hỗ trợ tối đa cho Cambodia Angkor Air trong quá trình triển khai hoạt động, mở rộng và phát triển, trong đó, Vietnam Airlines nắm giữ tỷ lệ 49% vốn điều lệ ban đầu

Về hợp tác giao thông đường thủy: Campuchia và Việt Nam đã ký Hiệp định vận tải đường thủy đầu tiên vào năm 1998. Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập và phát triển giữa hai nước, ngày 17/12/2009 Hiệp định giữa Chính phủ nước CHXHCN Việt Nam và Chính phủ Hoàng gia Campuchia về vận tải đường thủy được ký kết thay thế cho Hiệp định năm 1998, với 5 chương gồm 39 điều khoản quy định. Hiệp định là văn bản pháp quy cao nhất giữa hai nước về hợp tác giao thông vận tải bằng đường thủy trong thời kỳ mới, tạo điều kiện thuận lợi hơn cho quá trình đi lại, giao lưu của các phương tiện và nhân dân hai bên, nhất là sự di chuyển trên dòng sông Mekong nối liền biên giới hai quốc gia. 2.5. Trên một số lĩnh vực khác 2.5.1. Hợp tác về giáo dục và đào tạo Giáo dục và đào tạo là một trong những lĩnh vực quan trọng không chỉ đối với Campuchia và Việt Nam mà còn đối với tất cả các quốc gia trên thế giới. Do đó, từ rất sớm hai nước đã có những hợp tác trên lĩnh vực đặc biệt này nhằm đào tạo và phát triển nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đổi mới đất nước. Trong bối cảnh hội nhập quốc tế, khu vực c ng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ hiện nay, hợp tác giáo dục và đào tạo giữa Campuchia và Việt Nam càng được tạo điều kiện quan tâm và đẩy mạnh nhằm đáp ứng ngày càng cao công cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước, cũng như tăng cường mối quan hệ truyền thống giữa hai dân tộc.

Về phía Việt Nam: Việt Nam đã giúp đào tạo cho Campuchia hàng ngàn học sinh, cán bộ bậc cao đẳng, đại học, nghiên cứu sinh trong hầu hết các ngành kinh tế, văn hóa, khoa học - kỹ thuật, y tế… Kể từ năm 1998, trung bình hàng năm Việt Nam nhận đào tạo cho Campuchia 100 LHS, trong đó có 20 LHS sau đại học.

Theo báo cáo của Bộ Giáo dục và Đào tạo Việt Nam trong 10 năm (1994 - 2003), Campuchia đã gửi sang Việt Nam đào tạo 2.091 LHS, trong đó tốt nghiệp 1.667; và 136 nghiên cứu sinh, trong đó tốt nghiệp 50 nghiên cứu sinh.

Về phía Campuchia: mặc d còn nhiều khó khăn hơn so với Việt Nam nhưng Chính phủ Campuchia vẫn ưu tiên nhiều suất học bổng dành cho LHS Việt Nam sang học tại Campuchia theo diện Hiệp định, Nghị định thư đã ký kết giữa hai Chính phủ. Từ năm 1992 Việt Nam đã bắt đầu gửi LHS sang tại Campuchia, chủ yếu để đào tạo ngôn ngữ Khmer và văn hóa, xã hội Campuchia nhằm phục vụ công tác đối ngoại, mở rộng quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai nước. Trong giai đoạn 1992 - 2005 có khoảng 80 LHS Việt Nam được đào tạo tại Campuchia.

2.5.2. Hợp tác về du lịch Campuchia và Việt Nam được biết đến là những quốc gia có nhiều di sản văn hóa và thiên nhiên hấp dẫn, đặc biệt có nhiều di sản lớn được UNESCO công nhận. Trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Campuchia và Việt Nam đều chú trọng đến hiệu quả và lợi ích mà ngành du lịch mang lại, vì vậy hợp tác du lịch giữa hai nước cũng được đẩy mạnh trên nhiều phương diện từ hợp tác về khai thác, quảng bá các các sản phẩm du lịch đến hợp tác hỗ trợ đào tạo và huấn luyện nhân lực, đáp ứng yêu cầu phát triển đổi mới của mỗi nước. Đặc biệt, việc quan hệ hợp tác chặt chẽ trong lĩnh vực này nhằm khai thác triệt để lợi thế so sánh ngành, nhất là lợi thế về mặt địa lý gần kề, mở rộng giao lưu kết nối văn hóa, phục vụ sự nghiệp bảo vệ an ninh, ổn định chính trị mỗi nước, của khu vực cũng được hai nước đặc biệt chú ý. Số lượng khác khách du lịch qua lại giữa Campuchia và Việt Nam ngày càng tăng lên. Du lịch hai nước còn mở rộng hợp tác với các nước và khu vực.

2.5.3. Hợp tác về y tế Hợp tác y tế giữa Campuchia và Việt Nam là một trong những lĩnh vực quan trọng, được Chính phủ và nhân dân hai nước đặc biệt quan tâm, nhất là giai đoạn hiện nay.

Đặc biệt, Việt Nam luôn tạo mọi điều kiện giúp đỡ Campuchia trong lĩnh vực y tế, việc tiếp nhận thường xuyên và khám chữa bệnh cho người dân Campuchia tại các trung tâm y tế tuyến huyện, tỉnh giáp biên giới và bệnh viện trung ương của Việt Nam là minh chứng thiết thực cho quá trình hợp tác này.

Việt Nam đã hỗ trợ giúp Campuchia xây dựng một số cơ sở hạ tấng y tế quan trọng. Trong năm 2004, thành phố Hồ Chí Minh đã tài trợ kinh phí xây dựng một bệnh viện tại Phnom Penh trị giá 20 triệu USD. Đặc biệt, năm 2010, dự án Bệnh viện Chợ Rẫy - Phnom Penh được khởi công là một trong những công trình quan trọng nhất có ý nghĩa xã hội rất to lớn, tạo điều kiện thuận lợi phục vụ khám chữa bệnh cho nhân dân Phnom Penh nói riêng và nhân dân Campuchia nói chung, góp phần to lớn thúc đẩy mối quan hệ láng giềng hữu nghị giữa hai quốc gia.

Chính phủ Việt Nam và các cơ quan liên quan còn tích cực giúp đỡ Campuchia bằng cách tổ chức các đợt khám chữa bệnh và phẫu thuật miễn phí cho bệnh nhân nghèo ở các tỉnh v ng biên giới Campuchia, đặc biệt là mổ thủy tinh thể, phẫu thuật môi hở hàm ếch… 2.6. Trong khuôn khổ hợp tác đa phương 2.6.1. Trong tổ chức ASEAN Về phương diện kinh tế, những hợp tác giữa Campuchia và Việt Nam đã tạo điều kiện cho hợp tác kinh tế nội khối diễn ra theo hướng tích cực. Đặc biệt, với mục tiêu biến ASEAN thành một khu vực sản xuất cạnh tranh trên thị trường thế giới, Khu vực Mậu dịch tự do ASEAN (AFTA) đã chính thức được thành lập tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ IV (1992). Là những nước gia nhập ASEAN muộn hơn, Campuchia và Việt Nam đã có những nỗ lực c ng với các nước thành viên khác đẩy nhanh quá trình thực hiện AFTA, cụ thể Việt Nam kết thúc lộ trình vào năm 2006 và Campuchia vào năm 2010.

Về phương diện an ninh, sự thúc đẩy hợp tác giữa Campuchia và Việt Nam là điều kiện quan trọng góp phần c ng các nước thành viên ASEAN tạo dựng khu vực hòa bình, ổn định và phát triển. Trước hết là việc tham gia đầy đủ của hai nước vào kế hoạch triển khai chiến lược xây dựng Cộng đồng an ninh ASEAN (ASC) vào năm 2015.

Về phương diện văn hóa - xã hội, Campuchia và Việt Nam đã có những đóng góp đáng kể trong việc thúc đẩy quá trình phát triển hợp tác trong lĩnh vực văn hóa - xã hội giữa các nước thành viên ASEAN. Tại Hội nghị Thượng đỉnh ASEAN lần thứ 10 (11/2004) tại Viêng Chăn, c ng với các quốc gia thành viên, Campuchia và Việt Nam đã nhất trí thông qua Chương trình hành động về văn hóa - xã hội ASEAN. 2.6.2. Trong sự phát triển kinh tế - xã hội của khu vực Tam giác Việt Nam - Lào - Campuchia

Được thành lập từ năm 1999 theo sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ Hoàng Gia Campuchia S.Hunsen, Tam giác phát triển chỉ mới hơn 10 năm, thời gian chưa dài nhưng đã thể hiện được vai trò và vị trí đối với quá trình phát triển của mỗi nước cũng như của các địa phương nằm trong chương trình. Tại cuộc họp cấp cao lần thứ hai giữa thủ tướng ba nước tại Thành phố Hồ Chí Minh (1/2002) đã

thống nhất xác định vị trí địa lý của Tam giác phát triển gồm 7 tỉnh: Ratanakiri và Stung Treng của Campuchia, Attapeu và Sekong của Lào, Kon Tum, Gia Lai, Đăk Lăk của Việt Nam. Cuộc họp lần thứ ba tại Siem Reap (7/2004) tiếp tục xác định khu vực Tam giác phát triển gồm 8 tỉnh, trong đó các tỉnh của nước bạn Lào và Campuchia giữ nguyên, riêng Việt Nam có tỉnh Đăk Lăk chia thành hai tỉnh là Đăk Lăk và Đăk Nông. Như vậy, riêng Campuchia và Việt Nam có đến 6 tỉnh nằm trong khu vực Tam giác phát triển về phía Tây Nam, đây là cơ sở để hai nước thúc đẩy quan hệ hợp tác hai bên cũng như ba bên với nước bạn Lào.

Trải qua 6 lần Hội nghị cấp cao ba nước, bắt đầu từ năm 1999 đến năm 2010, Tam giác Phát triển Việt Nam - Lào - Campuchia từng bước được hình thành, củng cố và phát triển, đưa lại lợi ích to lớn cho cả ba quốc gia trong quá trình hợp tác và hội nhập. Trong những Hội nghị này, Campuchia và Việt Nam đã có nhiều đóng góp thiết thực nhằm thúc đẩy tiến trình xây dựng tổng thể chiến lược kinh tế - xã hội của Tam giác Phát triển, c ng với Lào khẳng định quyết tâm đưa mối quan hệ hợp tác lên cao hơn dựa trên mối quan hệ truyền thống và tình hữu nghị, hợp tác toàn diện, hiểu biết và tin tưởng lẫn nhau.

5.6.3. Trong sự phát triển Tiểu vùng sông Mekong Campuchia và Việt Nam là hai nước nằm ở v ng hạ lưu sông Mekong, do đó lợi ích cũng như những khó khăn, thách thức mà sông Mekong mang lại là rất lớn. Trong quá trình hội nhập và phát triển, cả hai nước đều tích cực tham gia vào tổ chức GMS với nhiều kỳ vọng về một chương trình hợp tác “nhiều quốc gia - một điểm đến”, vì lợi ích phát triển kinh tế - xã hội của mỗi nước và góp phần vào hòa bình, ổn định trong khu vực.

Hợp tác Campuchia - Việt Nam trong GMS trước hết phải kể đến là việc liên kết đa phương và song phương trong các dự án phát triển các hành lang kinh tế, nhất là ba hành lang kinh tế lớn hiện nay: Hành lang kinh tế Đông - Tây (EWEC), Hành lang kinh tế Bắc - Nam (NSEC) và Hành lang kinh tế phía Nam (SEC). Ngoài ra, hai nước còn phối hợp với nhau trong việc bảo vệ và phát triển bền vững môi trường sinh thái của khu vực sông Mekong… Tiểu kết chương 2:

Nhìn chung, quan hệ Campuchia - Việt Nam sau hơn 15 năm kể từ khi Vương quốc Campuchia được thành lập (1993 - 2010) đã phát triển một cách toàn diện trên tất cả lĩnh vực, tăng cả về quy mô lẫn chất lượng hợp tác.

Tuy nhiên, quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) cũng phải đối diện với nhiều khó khăn bắt nguồn từ những vấn đề do lịch sử để lại giữa hai nước như vấn đề biên giới, Việt kiều… và những

nảy sinh trong quá trình mở rộng quan hệ hợp tác giữa hai bên, nhất là sự khác biệt về thể chế chính trị cũng như tính thiếu ổn định trong nội bộ Campuchia đã kéo theo nhiều hệ lụy phức tạp. Bên cạnh đó, những nguy cơ do sự biến đổi khó lường của thế giới và khu vực c ng với sự cạnh tranh gay gắt của các cường quốc tại khu vực Đông Nam Á cũng góp phần làm gia tăng những thách thức với mỗi nước và tác động trực tiếp lên quan hệ hai nước. Mặc d vậy, vượt lên trên tất cả những khó khăn trở ngại, quan hệ Campuchia - Việt Nam vẫn tiếp tục phát triển và không ngừng mang lại những lợi ích thiết thực cho nhân dân hai nước, góp phần nâng caovai trò, vị thế của mỗi nước trong khu vực và trên trường quốc

Chương 3 NHỮNG NHẬN XÉT, ĐÁNH GIÁ VỀ QUAN HỆ CAMPUCHIA - VIỆT NAM (1993 - 2010) 3.1. Tổng quan về thành tựu và hạn chế trong quan hệ hai nước Trong hầu hết các lĩnh vực hợp tác, Campuchia và Việt Nam đã tiến hành hàng loạt cuộc gặp các cấp, từ trung ương đến địa phương với nhiều chính sách, biện pháp và cách thức hết sức đa dạng, phong phú và linh hoạt. Đa dạng thể hiện qua rất nhiều chuyến thăm lãnh đạo từ cấp Trung ương đến địa phương, các cuộc trao đổi giao lưu giữa các tổ chức hữu nghị của nhân dân hai nước được thực hiện hàng năm. Phong phú bởi vì những lĩnh vực hợp tác được đề cập giải quyết, thực hiện trong quan hệ hai nước bao gồm hầu hết các lĩnh vực của đời sống xã hội như: chính trị, ngoại giao, kinh tế (thương mại, đầu tư); an ninh (biên giới lãnh thổ, những thách thức an ninh phi truyền thống,...); trên các lĩnh vực khác (giáo dục đào tạo, du lịch, năng lượng điện, y tế…); trong khuôn khổ hợp tác đa phương (ở cấp khu vực và tiểu khu vực). Linh hoạt thể hiện ở việc tổ chức và thực hiện các cuộc trao đổi, gặp gỡ thường xuyên để giải quyết các vấn đề nảy sinh đột xuất, hay tổ chức nhiều cuộc hội nghị, hội thảo và đặc biệt nhiều Hiệp định, Nghị định thư, Tuyên bố chung, Biên bản ghi nhớ, Thông cáo báo chí… đã được ký kết giữa hai bên. Tất cả những điều đó đã minh chứng cho sự hợp tác hữu nghị và phát triển của mối quan hệ này. Về vấn đề người Việt tại Campuchia cũng được tiến hành thảo luận trên tinh thần cố gắng giải quyết những trường hợp cụ thể ph hợp với luật pháp của nước sở tại.

Thế nhưng, nhìn ở khía cạnh ngược lại, quan hệ Campuchia - Việt Nam trên lĩnh vực chính trị, ngoại giao và an ninh thực tế vẫn còn rất nhiều hạn chế, khó khăn và thậm chí còn tồn tại những mâu thuẫn chưa thể giải quyết. Quan hệ chính trị, an ninh giữa hai nước giai đoạn 1993 - 2010 đạt được nhiều thành tựu nhưng đi kèm với nó là những vấn đề mà hai bên khó có thể giải quyết trong vòng vài năm tới. Đặc biệt, sự phụ thuộc quá nhiều vào nhân tố bên ngoài cũng như tính thiếu ổn định của nền chính trị Campuchia sẽ tạo ra nguy cơ cao và ẩn chứa yếu tố khó lường trong quan hệ hai nước. Mặc d CPP vẫn nắm quyền chi phối Quốc hội và lãnh đạo đất nước, nhưng tính độc đoán và thực dụng của CPP có thể gây nên những xáo trộn trong quan hệ với các nước, kể cả với Việt Nam. Trong khi đó, CNRP - đảng đối lập lớn nhất tại Campuchia đang ngày càng giành được vị trí cao hơn trong Quốc hội và nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ của tầng lớp thanh niên, tri thức và thị dân và cũng có thể là dấu hiệu của một cục diện mới xuất hiện trong nền chính trị Campuchia. Và như vậy, nếu CNRP thắng thế trong bầu cử hay giành được một số lượng ghế

khá lớn trong Quốc hội trong những năm sắp tới cũng sẽ làm cho quan hệ Campuchia - Việt Nam bị tác động sâu sắc và chắc chắn sẽ đi theo chiều hướng xấu hơn. 3.2. Một vài đặc điểm trong quan hệ Campuchia - Việt Nam giai đoạn 1993 - 2010

Thứ nhất, quan hệ Campuchia - Việt Nam trải qua nhiều thăng trầm và tính ổn định chưa cao, mối quan hệ này chịu sự tác động mạnh mẽ của tình hình chính trị tại Campuchia và những nhân tố bên ngoài, nhất là từ phía Trung Quốc. Thứ hai, quan hệ Campuchia - Việt Nam có tính bổ sung cho nhau không cao và còn nhiều hạn chế.

Thứ ba, nếu như trước năm 1993 quan hệ Campuchia - Việt Nam chủ yếu tập trung vào lĩnh vực an ninh - chính trị và quân sự thì giai đoạn 1993 - 2010, đã chứng kiến sự chuyển biến mạnh mẽ trong quan hệ hai nước, trong đó hợp tác kinh tế nổi lên và trở thành tâm điểm chú ý của cả hai bên và quan hệ hai nước ngày càng mang tính toàn diện hơn. Thứ tư, quan hệ Campuchia - Việt Nam là quan hệ rất phức tạp và chứa đựng nhiều yếu tố khó lường. 3.3. Những tác động của quan hệ Campuchia - Việt Nam đến

chủ thể hai nước và khu vực 3.3.1. Đối với Campuchia Vốn là một trong những nước kém phát triển nhất khu vực, tình hình chính trị xã hội lại bất ổn trong nhiều năm liền, do đó, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững an ninh - chính trị luôn được các nhà lãnh đạo Campuchia đặt lên hàng đầu. Trong bối cảnh liên kết quốc gia, khu vực đang trở thành trào lưu không thể cưỡng lại, Campuchia đã từng bước thực hiện chính sách ngoại giao mở cửa, tăng cường hợp tác quốc tế nhằm đưa đất nước thoát khỏi đói nghèo và khẳng định vị thế của mình trên trường quốc tế. Trong đó, đẩy mạnh quan hệ hợp tác với Việt Nam - một quốc gia láng giềng lâu đời không chỉ mang lại những lợi ích thiết thân cho Campuchia mà còn tạo ra nền tảng hòa bình vững chắc đối với mỗi nước cũng như toàn khu vực.

Thứ nhất, về an ninh - chính trị, hợp tác với Việt Nam, Campuchia đã tự tạo lập cho mình một môi trường an ninh vững chắc trong bối cảnh hội nhập và phát triển khu vực.

Thứ hai, hợp tác với Việt Nam, Campuchia đã và đang tạo ra cho mình những lợi thế nhất định để phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Thứ ba, hợp tác với Việt Nam đã góp phần giúp Campuchia thoát ra khỏi tình trạng bị cô lập, từng bước hội nhập vào đời sống khu vực và thế giới trên tất cả các lĩnh vực.

Thứ tư, hợp tác với Việt Nam, Campuchia đã và đang đi đúng hướng trong chiến lược ngoại giao quốc gia, đó là việc cân bằng sức mạnh chiến lược của các bên có lợi ích tại Campuchia.

3.3.2 Đối với Việt Nam Thứ nhất, về mặt kinh tế - xã hội, việc tăng cường quan hệ với Campuchia đã mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích thiết thực, nhất là trong lĩnh vực thương mại xuất nhập khẩu.

Thứ hai, mở rộng quan hệ hợp tác với Campuchia và các quốc gia Đông Nam Á, Việt Nam đã từng bước khẳng định được vai trò vị trí của mình tại khu vực, duy trì và phát triển quan hệ đối ngoại rộng mở ra bên ngoài.

Thứ ba, về an ninh - chính trị, việc hợp tác chặt chẽ với Campuchia đã góp phần không nhỏ giúp Việt Nam giữ vững ổn định an ninh - chính trị trong nước, nhất là tại khu vực biên giới phía Tây còn nhiều vấn đề phức tạp và nhạy cảm.

3.3.3 Đối với khu vực Thứ nhất, có thể khẳng định những thành quả đạt được trong quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) đã có sự tác động tích cực đến sự phát triển hòa bình và thịnh vượng chung của cả khu vực Đông Nam Á trên hầu hết các lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến an ninh, quốc phòng, văn hóa, giáo dục, …trên cơ sở đó góp phần vào việc phát triển kinh tế, xã hội của khu vực, nâng cao đời sống nhân dân, từng bước thu hẹp khoảng cách phát triển giữa các nước (kể cả Campuchia và Việt Nam) với các quốc gia trong khu vực.

Thứ hai, sự phát triển quan hệ Campuchia - Việt Nam góp phần tạo nên một khu Đông Nam Á hòa bình, ổn định và c ng phát triển bền vững. Thứ ba, những thành tựu đạt được trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn này đã góp phần c ng với các quốc gia trong khu vực tạo ra môi trường ổn định và phát triển chung, từng bước đưa Đông Nam Á trở thành “mái nhà chung” với đầy đủ ý nghĩa của nó.

3.4. Triển vọng của quan hệ Campuchia - Việt Nam 3.4.1. Những thuận lợi Trước hết, Campuchia và Việt Nam là hai nước láng giềng có mối quan hệ lâu đời, có những điểm gần gũi, tương đồng về địa lý, lịch sử, văn hóa, xã hội, đặc biệt nhân dân hai nước có truyền thống hợp tác chặt chẽ và lâu dài trong lịch sử. Thứ hai, hiện nay, Campuchia và Việt Nam đều có độc lập, chủ quyền, xây dựng và phát triển đất nước trong điều kiện hòa bình.

Thứ ba, lãnh đạo nhân dân hai nước đều hiểu và thấy rõ tầm quan trọng của việc tăng cường và củng cố mối quan hệ hữu nghị và hợp

tác giữa Campuchia và Việt Nam vì mục tiêu chung là xây dựng và phát triển đất nước hòa bình, phồn vinh.

Thứ tư, môi trường quốc tế và khu vực có những khó khăn và phức tạp về sự diễn biến và tương quan lực lượng so sánh; song xu thế hòa bình, hợp tác vẫn là xu thế chủ đạo và ngày càng được phát huy. Chính môi trường hợp tác thân thiện đã tạo điều kiện rất tốt cho phát triển quan hệ Campuchia - Việt Nam. 3.4.2. Những khó khăn, thách thức Thứ nhất, Campuchia và Việt Nam bắt tay xây dựng đất nước trong điều kiện thiếu thốn về nhiều mặt, cả hai nước đều là những nền kinh tế nghèo nàn lạc hậu, cơ sở hạ tầng, dịch vụ còn nhiều yếu kém, nhất là phía Campuchia.

Thứ hai, sự khác biệt về một số yếu tố văn hóa c ng những vấn đề do lịch sử để lại giữa hai nước vẫn có thể là trở ngại cho sự phát triển quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam.

Thứ ba, dựa vào những đặc điểm về vị trí địa lý, v ng biên giới giữa hai nước có sự phức tạp khó khăn, những người xấu đã d ng để hoạt động, hành động trái pháp luật và dựa vào đó để thực hiện chiến lược biến đổi chế độ, lật đổ chính quyền ở Việt Nam, kích động làm bất ổn tình hình nội bộ Campuchia.

Thứ tư, sự tranh giành ảnh hưởng, lợi ích của các nước lớn trong khu vực bên cạnh mặt tích cực đối với mỗi nước cũng có thể là nhân tố tiêu cực, phá hoại quan hệ tốt đẹp vốn có giữa Campuchia và Việt Nam.

3.4.3. Dự báo triển vọng quan hệ Kịch bản thứ nhất: Quan hệ hai nước sẽ xấu đi trong thời gian tới, dẫn tới không thể duy trì quan hệ hữu nghị vốn có hoặc những hợp tác giữa hai bên sẽ gặp khó khăn, trở ngại và chậm phát triển. Kịch bản này trên thực tế khó xảy ra nhưng cũng không thể loại bỏ.

Kịch bản thứ hai: Quan hệ hai nước tiếp tục phát triển tốt đẹp, từng bước trở thành đối tác hợp tác toàn diện. Khả năng này chiếm ưu thế và có thể trở thành hiện thực trong nền tảng quan hệ hợp tác Campuchia - Việt Nam. Tiểu kết chương 3: Lịch sử đã chứng minh mối quan hệ Campuchia - Việt Nam d trải qua những thăng trầm vẫn phát triển theo chiều hướng tốt đẹp. Những kết quả hợp tác đạt được giữa hai nước trong giai đoạn 1993 - 2010 đã cho thấy tính cần thiết và cần có của mối quan hệ láng giềng hữu nghị này. Thế giới và khu vực còn nhiều biến đổi trái chiều trong tương lai, quan hệ quốc tế có thể nảy sinh những vấn đề khó khăn, thách thức. Nhưng có thể khẳng định trong những năm sắp tới, quan hệ hợp tác toàn diện Campuchia - Việt Nam vẫn đi theo xu hướng tích cực, ngày càng xích lại gần nhau và đạt được nhiều thành tựu hơn nữa.

KẾT LUẬN

1. Dưới tác động thuận chiều của những nhân tố quốc tế và khu vực sau Chiến tranh lạnh và tình hình hòa bình, ổn định tại khu vực Đông Nam Á sau Hiệp định Paris về giải quyết vấn đề Campuchia (23/10/1991) đã đưa quan hệ Campuchia - Việt Nam bước sang một trang mới trong lịch sử quan hệ hai nước. Nếu như trước đây, quan hệ Campuchia - Việt Nam gặp rất nhiều khó khăn, thách thức bởi ảnh hưởng của những yếu tố chủ quan và khách quan, thì sau năm 1993, quan hệ Campuchia - Việt Nam diễn tiến theo chiều hướng tích cực và được xây dựng trên tinh thần hợp tác hữu nghị, tôn trọng độc lập chủ quyền toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau. Mối quan hệ này nhìn chung là tốt đẹp, hai nước luôn dành cho nhau một vị trí xứng đáng trong chính sách đối ngoại của mỗi nước, thường dành nhiều điều kiện ưu đãi cho nhau và mang tính chiến lược.

2. Quan hệ Campuchia - Việt Nam (1993 - 2010) phát triển trên cơ sở kế thừa những thành tựu của thời kỳ đi trước nhưng thay vì trước đây chủ yếu quan hệ hợp tác trên lĩnh vực an ninh - chính trị, thì từ những năm 1993 - 2010 đã phát triển toàn diện, khởi sắc và đổi mới trên nhiều mặt cả về bề rộng lẫn chiều sâu. Trong quan hệ hai nước đều tuân thủ theo những thông lệ quốc tế. Giữ gìn và đổi mới quan hệ quý báu sẵn đó không có nghĩa là xóa bỏ hay hạ thấp mối quan hệ ấy. Trái lại, về nội dung vẫn được giữ vững và nâng lên một tầm cao hơn nhằm đảm bảo yêu cầu mới, nhưng thể hiện nó đúng nguyên tắc quan hệ truyền thống giữa hai quốc gia. Tuy nhiên, trong các vấn đề quan hệ cụ thể, ngoài việc vận dụng các thể thức phổ biến trong quan hệ quốc tế, hai nước có chiếu cố hoàn cảnh của nhau nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc tự nguyện, bình đẳng.

3. Trong quan hệ Campuchia với Việt Nam, an ninh - chính trị là cốt lõi, là trục quan hệ chủ đạo, còn kinh tế là động, là trục thúc đẩy hơn nữa mối quan hệ này phát triển một cách toàn diện, đa dạng trên các lĩnh vực khác. Đặc biệt, trong thời kỳ hội nhập khu vực và quốc tế thì mối quan hệ an ninh - chính trị vừa phải có tác dụng gắn kết, vừa phải làm đòn bẩy cho sự phát triển kinh tế - xã hội và phát triển con người, là cơ sở tiền đề vững chắc cho mối quan hệ truyền thống giữa hai dân tộc. Mặc d còn nhiều khác biệt nhưng hai nước đã biết khai thác có hiệu quả lợi thế so sánh của hai bên, tận dụng hợp tác trong đa phương để tạo điều kiện cho nhau hội nhập quốc tế thành công.

4. Quan hệ Campuchia - Việt Nam bên cạnh những yếu tố tích cực còn có một số hạn chế, khó khăn nhất định. Tích cực nằm ở chỗ hai nước đã biết hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau để c ng phát triển, nhất là viêc dành cho nhau vị trí ưu tiên trong chính sách đối ngoại của mỗi nước.

Bên cạnh đó, xu thế hòa bình, ổn định và hợp tác phát triển đang trở thành xu thế chủ đạo ở khu vực cũng như trên toàn thế giới, cũng là nhân tố tích cực góp phần thúc đẩy quan hệ hai nước trong thời gian tới. Tuy nhiên, những vấn đề do lịch sử để lại, đặc biệt là vấn đề biên giới, Việt kiều đã thực sự gây nhiều trở ngại trong mối quan hệ Campuchia - Việt Nam. Trong bối cảnh tình hình thế giới có nhiều biến động phức tạp, mặc d xu thế hòa bình và ổn định đóng vai trò chủ đạo nhưng vẫn xuất hiện ngày càng nhiều những cuộc chiến tranh cục bộ, nhiều quốc gia, khu vực đang rơi vào vòng xoáy khủng hoảng chưa có lối thoát. Sự hiện diện của các cường quốc với những mưu đồ và tham vọng tại khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã kéo theo nhiều vấn đề an ninh - chính trị cực kỳ phức tạp. Tất cả những điều này đã trực tiếp hay gián tiếp tác động sâu sắc đến sự phát triển của mỗi nước cũng như mối quan hệ Campuchia - Việt Nam.

5. Trong quan hệ giữa hai nước hiện nay, Campuchia và Việt Nam đã và đang thực thi một chính sách ngoại giao đúng đắn, biết tận dụng và khai thác lợi thế của nhau nhằm đưa lại vị thế ngày một tăng của mỗi nước trong khu vực và trên trường quốc tế. Sự phát triển mạnh mẽ toàn diện và những thành tựu đạt được trên mọi lĩnh vực của quan hệ Campuchia - Việt Nam hơn 15 năm qua (1993 - 2010) cũng đã chứng minh cho điều đó. Tuy nhiên, mối quan hệ này vẫn chịu nhiều tác động sâu sắc của những nhân tố ở trong nước lẫn ngoài nước và có thể còn chứa đựng những ẩn số nhất định mà cả hai bên phải phòng ngừa. D sao đi nữa, Campuchia và Việt Nam đều cần phải nỗ lực nhiều hơn để phát huy hết tiềm lực vốn có của mỗi nước, đồng thời hạn chế đến mức thấp nhất những tác động tiêu cực nhằm đưa lại lợi ích tối đa cho mỗi dân tộc.

DANH MỤC NHỮNG CÔNG TRÌNH LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Trần Xuân Hiệp (2010), “Quan hệ an ninh - chính trị Việt Nam với Lào và Campuchia giai đoạn 1991 đến nay”, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, số 6 (410). 2. Hoàng Thị Minh Hoa, Trần Xuân Hiệp (2011), “Quan hệ Việt Nam - Campuchia (1993 - 2008)”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế Quan hệ Việt Nam - Asean - Taiwan. Đại học Huế - Đại học Chinan (Đài Loan) - Đại học Khoa học Huế - Viện nghiên cứu Đông Nam Á. 3. Trần Xuân Hiệp (2011), Quan hệ an ninh - chính trị, kinh tế giữa Việt Nam với Campuchia (1993 - 2007), Đề tài cấp cơ sở, Đại học Duy Tân, Đà Nẵng. 4. Trần Xuân Hiệp (2011), “Hợp tác thương mại và đầu tư Việt Nam - Campuchia (1998 - 2010)”, Kỷ yếu Hội thảo Quốc tế: Hội nhập: Hợp tác và cạnh tranh, Nxb Thống Kê. 5. Trần Xuân Hiệp (2012), “Vietnam - Cambodia cooperation in Greater Mekong Sub-Region”, The Fifth SNRU International Conference on Cooperation for Development on the East - West for Sustainable Economic Corridor: Cooperation Networks Development towards ASEAN Community, Sakon Nakhon Rajabhat University, Thailand. 6. Hoàng Thị Minh Hoa, Trần Xuân Hiệp (2012), “Việt Nam với hợp tác, liên kết trong Tam giác phát triển”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 10 (151). 7. Trần Xuân Hiệp (2012), “Hợp tác an ninh - quốc phòng Việt Nam - Campuchia đầu thế kỷ XXI”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 3 (3). 8. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác Giao thông vận tải Việt Nam - Campuchia trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nhân lực Khoa học xã hội, Học viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 1 (2). 9. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác du lịch Campuchia - Việt Nam trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Nghiên cứu Đông Nam Á, số 2 (155). 10. Trần Xuân Hiệp (2013), “Mĩ - Cambodia - Trung Quốc và những tác động từ mối quan hệ này”, Tạp chí Khoa học Đại học Sư phạm TP. Hồ Chí Minh, số 46 (80). 11. Trần Xuân Hiệp (2013), “Campuchia trong quan hệ với Mỹ và Trung Quốc”, Tạp chí Nghiên cứu Ấn Độ và châu Á, số 5(6). 12. Hiep Xuan Tran (2013), “Education and training cooperation Vietnam - Cambodia in the current period”, The Journal of

Interdisciplinary Networks, Volume 2 (Special Issue), No.1, The Royal Institute of Thailand. 13. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác Việt Nam - Campuchia trong tiểu v ng sông Mekong mở rộng”, Tạp chí Khoa học và Giáo dục Đại học Sư phạm Đà Nẵng, số 8(03). 14. Trần Xuân Hiệp (2013), “Hợp tác giáo dục và đào tạo Việt Nam - Campuchia (1993 - 2010)”, Tạp chí Đại học Sài Gòn, số 17 (11/2013).

MINISTRY OF EDUCATION AND TRAINING

HUE UNIVERSITY

TRAN XUAN HIEP

RELATIONSHIP OF CAMBODIA - VIETNAM

(1993 - 2010)

Major: History of the World Code: : 62 22 03 11

PHD THESIS SUMMARY HISTORY

Hue – 2013

INTRODUCTION

1. Why choose topics 1.1 Vietnam and Cambodia are two neighboring countries have long-standing. Over the period of history, the fate of the two nations are bound together. The geographical closeness and attachment, which parallels the history of the two peoples always have the knowledge, understanding and sharing, as well as favorable conditions to promote bilateral relations in new situation.

During the development of national, ethnic, especially in the modern era, Cambodia and Vietnam are acutely aware of the importance of peace, stability and development cooperation in Southeast Asia. This area is of strategic significance for both countries consider the many ways that an important part of multilateral policy, diversification of foreign relations and "good neighborliness" of each country. Therefore, the consolidation and promotion of bilateral relations, especially relations with its neighbors, as well as the area between the two countries is extremely important significance for the industrialization and modernization of the country and international integration of both Cambodia and Vietnam.

1.2 Since the Cold War ended, the trend of dialogue and cooperation become the mainstream circuit line in international relations between countries in the world. This has created huge opportunities for regional cooperation in Southeast Asia in general and relations between the three countries of Indochina in particular is developing a better place. In this new context, the relationship between Cambodia - Vietnam also strengthen and promote cooperation in a positive direction. In 1993, the situation of Cambodia has gradually stabilized to facilitate relations between the two countries increasingly consolidated and developed in all fields: political, diplomatic, economic, security, defense, scientific - technical cooperation in multilateral.

In recent years, facing profound changes, the uncertainty of world and regional development needs of each country, the Mekong sub-area and all areas in Southeast Asia, Cambodia and Vietnam must be determined as a national development strategy appropriate. In particular, a bilateral, multilateral have a position, role to play and should be taken seriously in the foreign policy of the country. The cooperation the two countries currently facing major advantages as well as challenges, new problems, but if you know better exploit advantages and limitations

38

effectively the challenges and difficulties, cooperation Cambodia - Vietnam will be the new development is beneficial to the development of each country, contributing to peace, stability and cooperation in the region. Therefore, the study of the relationship Cambodia - Vietnam increasingly significant both theoretical and practical.

In addition, understanding the relationship Cambodia - Vietnam is not a new topic, but in Vietnam is currently no research work to a systematic way on this issue. Therefore, by studying the subject, we would like to contribute a significant reference for the teaching and study of history (including the history of teaching international relations), in universities , for political activists, diplomats, especially those who are now direct relationship, transaction exposure Cambodia.

From the above fact, we decided on the issue: "The relationship Cambodia - Vietnam (1993 - 2010)" as a doctoral thesis in the hope of contributing to the study of international relations internally Association Southeast Asian nations (ASEAN) and the general relations of Cambodia - Vietnam in particular. 2. History of studying 2.1. In Vietnam 2.1.1. The piece of research on the history of relations between the three countries of Indochina

Works "On the cultural history of the three countries of Indochina" (1983) by Pham Nguyen Long, Dang Bich Ha editor is a work to be published very soon. This is the work of many scientists, including the author Nguyen Hao Hung with the article "History of a century of alliance solidarity fights and won all of the people three countries of Indochina" (62 pages) were reconstructed picture of the relationship between Vietnam - Cambodia - Laos historical struggle until the early '80s of the twentieth century. The authors acknowledge the close relationship of the three Indochinese countries based on culture, history, society from the colonial period to the invading French victory ended two wars against the French and U.S. imperialism. The author went on to analyze the basis of forming relationships intimately between the people three countries of Indochina, said that this is not just relationships neighboring traditions but also the relationship of the country with General sources roots of the culture, history and development conditions in an area "unified but diverse."

Nguyen Van Cuong in the master thesis "Economic cooperation between Vietnam and Laos and Cambodia (1991 - 2006)" (2007) on the

39

basis of presentation and analysis of the factors affecting the three countries mentioned system partnership to Cambodia - Vietnam in the fields of investment, trade and transportation, as well as the prospects of cooperation between the two countries in the future.

Pham Duc Thanh and Vu Cong Quy in the "Aspects ethnicity, religion, culture and the Vietnam Development Triangle - Laos - Cambodia" (2009) went on to study the striking similarities in the aspects of ethnicity, religion and culture. The authors pointed out that Vietnam and Cambodia and Laos all have in common, creating a solid foundation for the relationship in history.

2.1.2. The research projects about Cambodia or Vietnam Pham Duc Thanh is more research about the country and people of Cambodia, as well as the relationship between Cambodia with Vietnam in many different historical periods. Work "History of Cambodia" (1995) is the author of a meticulous editor, with an overview of the Khmer country. However, due to the scope and objects too large to study at the author mentions the relationship Cambodia - Vietnam and if there would only go back to the early 90s of the twentieth century.

Le Thi Ai Lin in the research project "The practice of economic development - Cambodian society from the 90s to the present" (2006) presented practical socio - economic development of Cambodia in the early reform and building a market economy (1994-2004), with content related to economic growth, population issues, human resources, labor market, social issues ... more or less relevant the direction of research topics.

Yang Huan Wu (eds.) in "Modern Foreign Affairs of Vietnam for the innovation (1975-2000)" (2002) outlined the foreign policy of Vietnam during the period of building socialism with a senior new situation in the country and the world. The author also mentioned the most basic definition of the Vietnam - Cambodia's political, diplomatic, economic, cultural - scientific - technical, indicating problems exist in relations between the two countries as territorial boundary issues, the problems in Vietnam Cambodia. 2.1.3. The works mentioned general relations of Cambodia - Vietnam

Institute of Southeast Asian Studies has published a number of documents relating to the relations of Cambodia - Vietnam such as: Monograph "Relations Vietnam - Cambodia: current situation and prospects"; aid theme "Relations Vietnam - Cambodia: Status and

40

together scientists, the Experts have long studied Solutions "(2006) Scientific Conference" Relations Vietnam - Cambodia in a new context: Comprehensive Cooperation and Development "(2007) brought the relationship Cambodia - Vietnam in many fields: politics

Nguyen Thanh Duc in the master thesis "economic factor in the development of strategic partnerships with Cambodia" (2008) presented an overview of economic relations Vietnam - Cambodia period 1991- 2008, which authors appreciate the economic factors in the relationship between the two countries, said that this is a huge contributing factor in the formation and development of strategic partners Vietnam - Cambodia.

Lam Ngoc Uyen Tran in the master thesis "tourism cooperation between Vietnam and Cambodia: Status and Solutions" (2008) study tourism cooperation between the two countries in this period, on the basis of which focus propose solutions to develop tourism cooperation between the two sides.

issues" (2006) confirmed territorial

Le Thi Truong An in master thesis "Relations Vietnam - Cambodia border settle the settlement boundary Vietnam - Cambodia has made good progress in the trend bilateral relations in various fields growing strong.

Collective work "situation between the sea delimitation Vietnam - Cambodia" by the Institute of Southeast Asian Studies (Code TL1586) contributed additional research to go ahead.

In addition, a number of professional journals such as Southeast Asian Studies, International Studies, Historical Studies, Journal of Communist ... have articles referring to relations of Cambodia - Vietnam.

2.2. In Cambodia Cambodian scholars who are interested, consider relations Cambodia - Vietnam in many fields and from many different angles assessment.

These include a number of works such as Kao Kim Hourn (1998), "Cambodia - From Crisis to Promise: Building the future". Kao Kim Hourn (2004), "Cambodia's ASEAN policy: Cambodia's contribution to Peace and Stability in region" ... The work of Kao Kim Hourn but mainly refers relations of Cambodia in the ASEAN community, the Cambodian membership ASEAN official in 1999 and the change in foreign policy implementation process of international relations of

41

Cambodia, but has contributed to the analysis of issues related to Cambodia's relations with other countries, including Vietnam.

Camaphon author of "Cambodia - Vietnam Political Relations, 1979 - 1989" (2003) has shown a rather complex phase in bilateral relations.

Roy Rasmey the master thesis "The conflict between the political parties in Cambodia: Implications for relationship Cambodia - Vietnam" (2005) has presented a number of difficult issues, complicated due to historical in bilateral relations as territorial boundary issues, the Vietnam issue in Cambodia ...

economic development, environment for Sok Dareth the master thesis "The policy of the Kingdom of Cambodia to Vietnam from 1993" (2008) showed that the foreign policy of Cambodia to Vietnam relations is to ensure peace, stability to create a favorable economic cooperation of mutual benefit, security and interests of the two peoples.

Sun Sothiarat the master thesis "The way to develop the traditional friendly relations Cambodia - Vietnam since 1998" (2010) generalized relations Cambodia - Vietnam (1991-1998) and analysis of the development the relationship of the two countries from 1998 to present.

2.3. In other countries Some British scholars such as Marian Leiglton Kirsh (1978) in "Perspectives on the Vietnam - Cambodia border conflict," Asian Survey, Vol XVIII, No. 5 (p.448 - 457). Lau Teik Soon (1982), "Cambodia and the Asian Problem", Asian Survey, Vol XXII, No. 6 (p.548-561) and "Cambodian - Vietnamese Relations" (1986), Asian Survey, Vol XXII, No. 6 (p.440 - 451) ... These articles have focused going into the event, on the basis of that analysis, assessment of Cambodia from the 70s to mid-80s of XX century. 1989, Dike & Douglas in "The Cambodian Peace Process: Summer of 1989", Asian Survey, 1989, Vol XXIX, No. 9 (p.842 - 852) confirmed the withdrawal volunteer Vietnam from Cambodia opened way for landmark relations in the region, between ASEAN and the three countries of Indochina, opens a new page in relations Vietnam - Cambodia.

The American scholar has many research projects related to relations of Cambodia - Vietnam. Typical Hal Kosut not to mention the "Cambodia and the Vietnam War", New York, 1971. Area Handbook Series, "Cambodia, A Country Study", DA PAM 550-50, Washington,

42

1987 ... The work is mainly focused look at the relationship Cambodia - Vietnam in the context of the Indochina war and civil war Cambodia.

Some scholars approaching Singapore relationship Cambodia - Vietnam in the context of regional history. Pao Chang Min in the "Kampuchea between China and Viet Nam." Author Cunha, Derk skin (ed) in the "Southeast Asian Perspectives on Security", Insititute of Southeast Asian Studies, Singapore, 2000. Tan, Andrew TH and Boutin, JD Kenneth (ed) in the "Non - Traditional Security Issues in Southeast Asia", Institute of Defence and Strategic Studies, Singapore, 2001 ... Through the present situation of research on the relationship Cambodia - Vietnam, can draw some comments below:

- First, the number of works and research papers on the relationship the two countries are quite rich and diverse. However, the purpose, perspective and study time should be able to see so far within Vietnam still does not have an in-depth research projects and comprehensive system of relations of Cambodia - Vietnam during period 1993 - 2010 from the perspective of history.

- Second, due to the context of Southeast Asia and Cambodia in the last two decades of the twentieth century are complex should have plenty of work, the article focuses on the study of political, diplomatic Cambodia - Vietnam , the other areas but relations have mentioned, especially in recent years, but generally not more, not corresponding to reality relations between the two countries.

- Third, by being governed by historical conditions both during and after the Cold War, so the research on the relationship Cambodia - Vietnam expressed many different views, even the difference should be the analysis, further evaluation to make objective conclusions, science and more comprehensive.

On the basis of reference, inherited the works selected, preceded article, in relation to the subject of Cambodia - Vietnam (1993 - 2010) we hope to contribute to clarify this issue.

3. Objectives and tasks 3.1. Objectives of the study

By combining specialized approach to interdisciplinary approaches, topics will reappear panorama relations Cambodia - Vietnam in the years 1993 - 2010 from the base shape, relation to reality effects of this relationship for the two subjects, and initial regional trend forecasting relations campaign of Cambodia - Vietnam in the coming time.

43

3.2. Research Tasks Thread perform specific tasks following research: - Presentation of generalized relations Cambodia - Vietnam before 1993 - an evolution phase relationship is very complex and full of ups and downs between the two countries, especially in the time from 1975 to 1991. Thereby helping the reader can have an overview and understanding of the system when the system Cambodia - Vietnam from 1993 to 2010.

- Focus on research and development analyst relations Cambodia - Vietnam (1993 - 2010) on the political, diplomatic, economic, security, defense, scientific - technical cooperation Southeast Asia.

- Draw the characteristics and nature of the relations of Cambodia - Vietnam and analysis, assessing the impact of this relationship on the development of each country and for peace, stability, cooperation and development of the region. Thereby, view and assess trends of relationship Cambodia - Vietnam in the coming time.

4. The scope of research and resource of documentations. 4.1. Scope of Research - In terms of space, research two political entities in Southeast Asia, Cambodia and Vietnam - two countries have many similarities in history, culture and society after the Cold War.

- In terms of time, focusing on topics related Cambodia - Vietnam in the years 1993-2010. This is the phase relationship between the two countries with large changes, there have been comprehensive and interact, first look from Cambodia (the Kingdom of Cambodia was officially established on 24.09.1993 by Constitutional monarchy). However, to ensure that the logic of the subject, the phase relationship between the two countries before 1993 and after 2010 also mentioned certain extent.

- In terms of content, focus on research topics related Cambodia - Vietnam on key areas: political, diplomatic, economic, security, defense, science and technology, regional cooperation Southeast Asia.

4.2. Resource of Documentations Resources are mainly exploited for this topic include: - The documents of the Party of the State of Vietnam and Cambodia, the articles and writings of the leaders of the two countries, the report documents, the Agreement, the Agreement, the Joint Declaration, Resolution Protocol ... of ministries, departments partnership, the relevant documents of the ASEAN organization.

44

- Works monographs, articles, scientific reports at scientific conferences of researchers Cambodia and Vietnam have announced.

- The work of foreign scholars related topics, mainly in English. - A number of thesis students, masters and doctoral theses Cambodia and Vietnam in Vietnam.

- Journalism Cambodia, Vietnam and the reference of the Vietnam News Agency, the Ministry of Foreign Affairs. Information extraction and selective processing resources updated regularly on the Internet by Vietnamese and foreign languages.

5. Methodology and Methods of studying - Methodology: Grasping methodology Marxist historian, thoughts of Ho Chi Minh and the Communist Party of Vietnam in the study of the history of international relations and foreign policy.

- Methods of studying: Since the subject of the history of science to the use of historical methods and methods in combination logic is considered the leading method in the study subjects. On the other hand, in certain extent, the thesis author also uses the scientific method as the interdisciplinary analysis, synthesis, comparison, comparison, statistics, forecasts ... the specific content of each subject resources.

6. Contributions of the topic 6.1 In science - On general grounds the entire history of relations Cambodia - Vietnam before 1993, thesis restore panorama of the development of the relationship Cambodia - Vietnam on political, diplomatic economic, security, defense, science and technology, cooperation in Southeast Asia from 1993 to 2010.

- Analysis and interpretation of issues in each sector partnerships Cambodia - Vietnam (1993 - 2010), thereby making the comment, evaluation and conclusion of independence. - The thesis can be references for research, teaching international relations, the history of Cambodia and Vietnam modern times.

the multidimensional impact of

6.2. In practical - Research topics helps understand more deeply the relationship Cambodia - Vietnam and this relationship for each subject as well as the overall situation in the region. - Based on the results of the research topic, the author would like to contribute more to provide references for the strategic planning of Vietnam into the field of application of foreign affairs, especially in the

45

process of expanding and developing partnerships with countries in Southeast Asia. 7. Layout In addition to the Introduction, Conclusion, References, and Appendices, the thesis is structured into 3 chapters: Chapter 1: The premise of the Cambodian - Vietnam relationship (1993-2010) Chapter 2: Cambodia - Vietnam relationship in some fields (1993- 2010) Chapter 3:The comments and assessments of the Cambodia - Vietnam relationship (1993-2010)

Chapter 1 THE PREMISES OF THE CAMBODIA - VIETNAM

RELATIONSHIP (1993 - 2010)

1.1. Historical factors, cultural and geostrategic 1.1.1. A review of Cambodia – Vietnam relation before

1993.

The period before 1975: a long history, Cambodia and Vietnam have had relations with Vietnam. In the struggle against the French invasion. The years 1930 - 1945 the two peoples together against the French invasion under the leadership of the Communist Party of Indochina. Period 1945 - 1954, the two countries made war against the French colonialists and American imperialists invaded.

The period 1975 - 1993: From the years 1975 - 1979 Vietnam helps Cambodian people remove genocidal Pol Pot - Ieng Sary. In 10 years (1979 -1989), Vietnam helped Cambodia restore the country after the civil war. Period 1989 - 1993, Cambodian relations - Vietnam mainly revolves around solving problems of peace, national reconciliation in Cambodia. It is also extremely difficult period in relations between the two countries.

1.1.2. Cultural factors and geostrategic The geographical proximity Cultural similarities The impact of large countries (China and U.S.)

46

1.2. The situation of international and regional 1.3. Needs and foreign policies of Cambodia and Vietnam 1.3.1. Needs for cooperation of two countries Demand partnership Cambodia - Vietnam was formed in history, especially during periods of both peoples and invading alien rule, people are actively fighting alliance of independent protection up, and territorial integrity.

Today, in the construction and renovation of the country, standing in front of the advantages and disadvantages of the regional situation and the world needs cooperation of Cambodia - Vietnam becomes more practical to protect and promote build on the results achieved. On the economic front, the two countries have growing economies, is located adjacent geographically, so economic cooperation between the two countries has brought important benefits. In terms of security - political, history has proven Cambodia and Vietnam with the fundamental interests and vital in maintaining and developing relationships with each other.

1.3.2. Cambodia's Foreign Policy For Vietnam, the country's oldest neighboring Cambodia, the country has been helping Cambodia escape from the Khmer Rouge genocide, after the 1993 general election, the State and the people of Cambodia for Vietnam is always a important role in its foreign policy. Promoting solidarity previous revolution, the new phase, Cambodia attaches much importance to the Republic of socialism (socialist) Vietnam, which is considered an essential part to maintain stability and development socio-economic development of each country. The objective of Cambodia to Vietnam policy is to ensure peaceful relations, stable environment conducive to economic development, the friendly cooperation of mutual benefit, to maintain national security for the sake interests of each country and region.

Despite many difficulties and challenges, especially in political orientation are two different parties, and more parties in Cambodia still hostile to Vietnam, but beyond all that consistent policy of Cambodian leaders and people of Vietnam for good always friendly.

Looking at the overall diplomacy of Cambodia in the new era are generally aimed at the objective of economic development - social and maintain security - defense and national stability. For Vietnam, Cambodia always give priority in its foreign policy. In 2007, the 40th anniversary of establishing diplomatic relations between Cambodia -

47

Vietnam (1967-2007), Prime Minister of Cambodia S.Hunsen has again reaffirmed “Together we will work to promote relations between two nations to a higher level for the benefit of the people of the two countries as well as general family ASEAN”.

13.3. Vietnam’s Foreign Policy For Cambodia, Vietnam to build the relationship between the two friendly neighboring countries on the principles of respect for independence, sovereignty, territorial integrity, non-use of force and threat of force, the decide all issues in bilateral relations in the path of peace, equal cooperation and mutual benefit and peaceful coexistence.

In the policy "seriously neighbors" this, Cambodia has a very important position. Vietnam and Cambodia and South East Asia, located in the dynamic economic development. In addition to the similarities of culture, customs, habits ... the two countries have a comparative advantage can complement each other. In particular, the help of intimacy, solidarity between Vietnam and Cambodia have very early, this is the crucial foundation for the two countries continue to rely on each other to develop new context. Recognizing the role of Cambodia's position as well as the neighboring countries, the Central Resolution VIII (7/2003) again emphasized "the top priority for strengthening relations with neighboring countries." With Cambodia, good foreign policy between the two countries was raised to 16 gold letters "good neighborliness, traditional friendship, comprehensive cooperation, long- term sustainability." This is the heart of the foreign policy of Vietnam to Cambodia in the current period as well as in the long run.

State to Chapter 1: Relations Cambodia - Vietnam before 1993 are not really comprehensive nature and also represents a way, that Vietnam is supported, Cambodia is also a recipient country. Also during this period, relations between the two countries focused mainly on the field of security - political, economic ties, nothing substantial, if not that is also located at the starting line until the early 1990s . However, one can not deny the achievements of bilateral relations in this period was very important sense, laying the foundation for the relationship Cambodia - Vietnam in the next phase.

48

Chapter 2 CAMBODIA – VIETNAM RELATIONSHIP IN SOME

FIELDS (1993 - 2010)

2.1. In the field of politics, diplomacy Relations Cambodia - Vietnam on political, diplomatic period 1993 - 2010 to achieve more success and prosperity on the part of many levels.

Diplomatic channel to the Government: In the years 1993 - 1996, many senior leadership team visited Cambodia, Vietnam, which may include a visit to Foreign Minister Nguyen Manh Cam, Prime Minister Vo Van Kiet, President Le Duc Anh ... About Cambodia during this period is remarkable visit to Vietnam by King N.Shihanuc (14-16/12/1996), and Prime Minister Hun Sen and Ung Huort ...

The event evaluated profoundly alter relations aspect Cambodia - Vietnam is Vietnam visit by Prime Minister S.Hunsen on 13- 14/12/1998. The selection of Vietnam as the first destination on the position of the Prime Minister's new Union S.Hunsen created new prospects for bilateral relations which previously lackluster and reaffirming the priority with Vietnam in Cambodia's foreign policy.

Events General Secretary Le Kha Adventure Cambodia to raise the level of expression of the diplomatic relations between the two countries after the general election 7/1998 in Cambodia. In the joint statement, the two sides affirmed to develop relations between the two countries under the motto "good neighborly cooperation, uniting traditional friendship, long-term stability."

In the following years, leaders of the two countries have many mutual visits and signed many important documents, contributing to promoting the Vietnam - Cambodia flourished.

In the context of multi-party politics in Cambodia, Vietnam advocates maintain, consolidate State relations, the government and the ruling party is the party two CPP and Funcinpec Party.

Channel "public diplomacy" Exchanges and cooperation between organizations friendship of the two countries also have developments such as the introduction of a civil society alliance for human security, united the two countries for the development of land Cambodia ... It is noteworthy that the positive activities of the Board of the Vietnam - Cambodia has contributed to 49

enhancing mutual understanding between the two peoples and promote coherence between the two neighboring nations. The local also has established close relationships, especially the provinces bordering the two countries.

2.2. In the field of security and defense 2.2.1. The issue of territorial boundaries Cambodia and Vietnam are bordering 1,137 km long land border passing through 10 provinces of Vietnam and nine border provinces of Cambodia, the whole border has 10 international gates, the gate 12 and gate Other side border to facilitate trade in goods between the two countries. Therefore, the border issue has always been the two interested parties and create conditions for settled, to economic development - society of each country and region.

Cambodia and Vietnam have signed a number of agreements, memorandum of understanding on border demarcation on land and sea:

Agreement in principle solve the border issue between the Socialist Republic of Vietnam and Cambodia, the People's Republic and the Agreement on border regulations. Treaty national border between the Socialist Republic of Vietnam and Cambodia, the People's Republic. Agreement between the Socialist Republic of Vietnam and Cambodia Treaty supplement national borders in 1985.

Agreement on historical waters between the Socialist Republic of Vietnam and Cambodia, People's Republic was signed on 07.07.1982 in Ho Chi Minh City ...

Planning and border demarcation between Cambodia and Vietnam has come a long way. However, the remaining work is not less. Internal political situation in Cambodia continues to pose challenges for problem determination and delimitation of the maritime boundary between the two countries. In the context of security cooperation - bilateral political increasingly deepened, Cambodia and Vietnam are trying to solve and reasonably full, fair and objective of planning issues and border demarcation world, especially in the border demarcation at sea, on the basis of equality, friendship and mutual respect, peace and development.

2.2.2. The issue of Vietnamese in Cambodia People living in Cambodia, Vietnam very soon, especially in the French colonial period and has become a real Cambodian citizens, to contribute positively to nation building as many other Khmer people.

50

But now, in some places, in some cases, overseas Vietnamese still banned, suppressed, is the target of a number of elements hostile peoples attitudes and the subject was "hot" in the Cambodian political bargaining. Conflicts between political parties have affected the lives of people in Cambodia and Vietnam greatly impact overall relationship Cambodia - Vietnam.

In the years 1995 -1996, Vietnam and Cambodia have conducted three rounds of expert-level talks on the issue of overseas Vietnamese. First time in Phnom Penh (29-30/3/1995), 2nd in Hanoi (28-29/7/1995), 3rd in Phnom Penh (9-11/7/1996). The Vietnam repeatedly proposed that the two sides signed an agreement on the Cambodian diaspora but is not necessary. Until now, most Vietnamese residents in Cambodia have legal status is uncertain (about 5-10% are undocumented, mostly temporary window used by the local government level or Alien Card by the Public Security).

Due to the development of each country and relations Cambodia - Vietnam is going in a good way, especially after the mutual visits by leaders of the two countries, the lives of overseas Vietnamese community has much has changed in a positive direction. Cambodian government has created more favorable conditions for the Vietnam community. The Vietnam are respected, guaranteed relative security, the Vietnamese people have found employment in Cambodia and the legitimacy of the majority of Vietnamese and Cambodian government acknowledges support. On 24.03.2003, the Ministry of Interior of Cambodia has recognized and licensed for Overseas Vietnamese Association in Cambodia, for the establishment of 19 chapters in 19/24 provinces and cities nationwide. 2.2.3. Cooperation to deal with the non-traditional

security challenges

In the period 1993 - 2010, Vietnam and Cambodia have close cooperation to cope with the challenges non-traditional security appear increasingly prominent with the concept of comprehensive security such as economic security, food security, environmental security, human security, monetary security, information security ... The two countries continue to strengthen cooperation in the field of exchange of information, experience, training and coordinating border protection, intrusion prevention and destruction of enemy forces, anti-air plot developments average, crime prevention ...

51

These include a number of cooperation against trafficking in women and children and smuggling across the border, preventing conditions of production, trade, transport, drug abuse ... and many other crimes seriously affect the stability and security - political, economic - social, as well as the sustainable development of each country, nation.

The two countries also have active security cooperation through regional forums such as ASEAN, ARF, GMS, Vietnam Development Triangle - Laos - Cambodia ... to create different conditions for development, especially for systems best promote propaganda and conspiracy to prevent the destruction of the country's construction industry each side, smashed conspiracy "peaceful evolution", "violent overthrow" of the hostile forces at home and abroad .

On defense cooperation, Cambodia and Vietnam has made important cooperation agreement to strengthen the implementation of the joint patrol, sea control, anti-terror cooperation, to prevent people crossing illegally the basis of trust, equality and respect for the independence, sovereignty, territorial integrity, and to protect the security interests of both countries.

Cooperation to deal with the challenges non-traditional security between Cambodia and Vietnam in the last two decades since the country went into Cambodia to national reconciliation has achieved great achievements, facilitate money solid foundation for the two countries deeper cooperation in next time for the purpose of peaceful development of the two countries and the whole region.

2.3. In the field of economy 2.3.1. Trade relations Trade relations Cambodia - Vietnam plays an especially important role, on the one hand contribute to economic development - economic development of each country, on the other hand create a step further improve the lives of the people of both countries. In the context of global economic integration, and comes from renewal requirements and nation building, both Cambodia and Vietnam will focus seriously and prioritize the development of economic relations in order to bring benefits body for each nation, to strengthen the long-term relationship between the two countries. Moreover, Cambodia and Vietnam is located in Southeast Asia - a regional economic development speed fast and dynamic world, the other two countries, there are many potential trade that have and

investment. The factors investment cooperation

52

contributed greatly to the trade situation between Cambodia and Vietnam took place frequently and increasingly powerful.

* Regarding the import and export, since 1993, export turnover between Vietnam and Cambodia is developing rapidly, generally the average rate of growth was higher from the previous year and brings positive results for both sides.

The efforts of Cambodia and Vietnam has created favorable conditions for boosting trade cooperation between the two countries is growing and more efficient. Import and export activities between the two countries have many positive changes, bring positive results for each national economy. According to the Cambodian Development Council, now Cambodia's second largest export market of Vietnam 16 Vietnam and is the 4th largest exporter after China in Cambodia, Thailand, Hong Kong. Conversely, Cambodia is the 25th largest exporter to Vietnam and Vietnam's second largest export market after the U.S. 3 of Cambodia and the EU [34, 2-3].

* Regarding the trade balance, according to statistics from the General Department of Vietnam Customs and official data of the Cambodian Chamber of Commerce (CCC) announced. From 1993 to 2010, merchandise trade between Cambodia and Vietnam is increasing, which Vietnam has always stood in the value of trade with its trade surplus is growing.

* In terms of import and export goods, from countries in the region, Cambodia and Vietnam are two countries with energy production and consumption levels relative. However, to the extent possible, Cambodia and Vietnam will always find ways and means to promote the exchange of goods between the two sides was favorable.

Exports from Vietnam to Cambodia are diverse in type, all kinds of products such as food groups, food, construction materials, petroleum, pharmaceuticals, fresh fruits and vegetables, machinery and equipment, real textiles and materials sectors instrument cleaners, fertilizers, plant varieties, educational tools ... Vietnam's goods imports mainly processed timber, rubber, agricultural products such as rice grains rice, sesame, beans, things ... Especially, steel products and iron and steel products with exports to Cambodia's largest, then the kinds of textiles, building materials, instant noodles. These are the traditional products that are strengths Vietnam and Cambodia needed to build infrastructure, housing, daily consumption, in line with the tastes and affordable so easily infiltrated Cambodian market in recent years.

53

2.3.2. Cooperation in the field of investment Investor

relations between Cambodia and Vietnam are increasingly positive signs, a significant contribution to economic development - economic development of each country, as well as to further strengthen the traditional relationship of the two countries integration period. In this stage, especially as Cambodia slowly into the stable after the National Assembly elections in 1993 and established the Kingdom of Cambodia, the investment relations between the two countries is rising sharply.

In recent years, Cambodia and Vietnam have effectively implement investment strategies, including short-term and long-term economic corporations, state-owned enterprises and private.

In the period 1999 - 2010, many investment projects of corporations, state enterprises and private sector in Vietnam in Cambodia increased both in number and scale. Currently, there are many businesses nationality Vietnam has strongly established company, opening a branch or representative office and an insight towards the realization of the investment in the country's 14 million people .

Apart from FDI, Vietnam also strengthen investment cooperation with Cambodia in official aid (ODA) and preferential credit of the Government of Vietnam for the Cambodian government. Although the capital's two investment programs are not large, but also contribute to Cambodia to make some basic projects, and enhance the reputation and good image of Vietnam in the heart of the Cambodian people.

On the Cambodian side, despite many difficulties, limited economic potential, but the government and Cambodian businesses still efforts to promote investment projects in Vietnam, especially in recent years these projects and capital investment is increasing dramatically. As of May 4/2006, Cambodia is the country invested into Vietnam ranks 58th in all states and territories have invested in Vietnam with 4 active projects and a total registered capital 4 million.

2.3.3. Cooperation in the field of transportation For economic development - social

integration associated conditions, transportation Cambodia and Vietnam are both interested in the construction. Currently, transportation cooperation the two countries have made positive achievements, contributing to the benefit of reform, innovation in each country. In recent years, Cambodia and Vietnam have increasingly close cooperation in the field of road transport, water and air, in which road traffic is especially important.

54

On the road: On 06/01/1998, Road Transport Agreement between the Government of the Socialist Republic of Vietnam and the Royal Government of Cambodia has signed a facility marks a new development in transport cooperation of the two countries. Some typical projects in transport cooperation between the two countries: The project to upgrade and renovate Cambodia's National Road No. 78, implementing the construction of the Long Binh - Chrey Thom form of preferential loans Agreement ...

On air: cooperation between the two countries continues to expand and gain a positive sign. Agreement between the Government of the Socialist Republic of Vietnam and the Government of the Kingdom of Cambodia on air transport signed on 19.04.1996 in Hanoi has opened opportunities for cooperation in the field of civil aviation

In particular, the Agreement dated 07.26.2009 established the National Airline of Cambodia (Cambodia Angkor Air) between Vietnam and Cambodia was signed. According to the agreements achieved, Vietnam Airlines will cooperate fully and maximum support for Cambodia Angkor Air during deployment operations, expansion and development, in which Vietnam Airlines holds 49% capital ratio initial rate

In cooperation waterway: Cambodia and Vietnam signed an agreement first waterway in 1998. However, to meet the requirements of integration and development between the two countries, on 17/12/2009 Agreement between the Government of the Socialist Republic of Vietnam and the Royal Government of Cambodia on waterway transport instead signed for United of 1998, with 5 chapters are 39 provisions. Agreement was highest legal documents between the two countries on cooperation in transportation by water in the new era, creating more favorable conditions for the movement and exchange of media and the people of both sides , is the movement on the Mekong River connecting the two border states.

2.4. In a number of other fields. 2.4.1. Cooperation in education and training Education and training is one of the important areas not only for Cambodia and Vietnam, but also for all countries in the world. Thus, from the very early two countries have cooperation in this particular field to train and develop human resources for the industrialization and modernization and renovation of the country. In the context of international integration, the region with the strong development of

55

increasingly interested

science and technology today, cooperation in education and training between Cambodia and Vietnam are in facilitating and promoting to meet increasing the capacity to build and defend the country, as well as strengthen the traditional ties between the two nations.

Toward Vietnam: Vietnam to Cambodia helped train thousands of students, higher staff college, university, graduate students in almost all sectors of economy, culture, science - engineering, medical ... Since 1998, the average annual Vietnam Cambodia received training for LHS 100, which is 20 LHS graduate.

As reported by the Ministry of Education and Training in Vietnam for 10 years (1994-2003), was sent to Vietnam, Cambodia, training LHS 2091, which graduated in 1667, and 136 graduate students, including 50 graduate research graduate students.

On the Cambodian side: although more difficult than Vietnam but still preferred the Cambodian government scholarships for study at LHS Vietnam to Cambodia by an Agreement, the Protocol signed between the two governments . Since 1992 Vietnam has begun to send LHS in Cambodia, mainly to train the Khmer language and culture, Cambodian society in order to serve foreign affairs, expand comprehensive cooperation between the two countries. In the period 1992 - 2005 has about 80 trained LHS Vietnam Cambodia.

2.4.2. Cooperation in tourism Cambodia and Vietnam is known as the country with many cultural heritage and natural attractions, especially many large heritage by UNESCO. In the era of international integration, Vietnam and Cambodia are focused on efficiency and benefits that tourism brings, so tourism cooperation between the two countries has been strengthened in many ways from the open collaboration mining, promote tourism products to support collaborative education and workforce training to meet the development requirements of each country's innovation. In particular, the close cooperation in this field in order to fully exploit the comparative advantage in the sector, especially the advantage of proximity geographically, expand cultural exchanges connectivity, security service career security and political stability, a country's water sector are also two special attention.

Different number of tourists between Cambodia and Vietnam is increasing. Travel two countries to expand cooperation with other countries and regions.

56

2.4.3. Cooperation in health Medical Cooperation between Cambodia and Vietnam is one of the important areas, the Government and people of the two countries' special attention, especially in the current period.

In particular, Vietnam has always created favorable conditions to help Cambodia in the medical field, and receiving regular medical care for people of Cambodia in the medical center district, bordering provinces and central hospitals Vietnam is the practical evidence for this collaborative process.

Vietnam helps Cambodia helped build an infrastructure of medical importance. In 2004, Ho Chi Minh City has funding to build a hospital in Phnom Penh worth $ 20 million. Specifically, in 2010, Cho Ray Hospital project - Phnom Penh was started as one of the most important works mean enormous social, creating favorable conditions for health care for the people of Phnom particular Penh and the Cambodian people in general, greatly contribute to promoting relations between the two friendly neighboring countries. Vietnam Government and the relevant authorities are actively helping Cambodia by organizing medical missions and free surgery for poor patients in the border provinces of Cambodia, especially cataract surgery, cleft surgery...

2.5. In the framework of multilateral cooperation 2.5.1. In the ASEAN Cambodia and Vietnam are members of ASEAN institutions, the bilateral or multilateral cooperation in the region has many implications to each country. Therefore, the two countries have worked together actively in the internal issues in order to create favorable conditions for the consolidation and development of bilateral relations as well as within ASEAN.

In terms of economy, the cooperation between Cambodia and Vietnam to facilitate intra-regional economic cooperation took place in a positive direction. Especially, with the goal to make ASEAN a competitive manufacturing sector on the world market, Free Trade Area (AFTA) was officially established at the ASEAN Summit Fourth (1992) . As the country joined ASEAN later, Cambodia and Vietnam have made efforts with other member states to accelerate the implementation of AFTA, Vietnam finished concrete roadmap in 2006 and Cambodia in 2010.

57

In terms of security, the cooperation between Cambodia and Vietnam are important conditions contributing to the ASEAN member countries to create regional peace, stability and development. First of all is the full participation of both countries in implementing strategic plans to build the ASEAN Security Community (ASC) in 2015.

In terms of culture - social, Cambodia and Vietnam has made significant contributions in promoting the development of cooperation in the field of culture - society among ASEAN member countries. At the first ASEAN Summit 10 (11/2004) in Vientiane, along with the member countries, Cambodia and Vietnam have agreed program of action through culture - ASEAN society.

2.5.2. In economic- social development of “triangle”

Vietnam - Laos - Cambodia

Along with the achievements of multilateral relations, especially within the framework of ASEAN, Cambodia and Vietnam also increased cooperation in economic development - social Triangle Vietnam - Laos - Cambodia . This is an important program, boosted cooperation between the three countries of Indochina in general and relations between the two countries Cambodia - Vietnam in particular.

Founded in 1999 on the initiative of the Prime Minister of the Royal Government of Cambodia S.Hunsen, Triangle just over 10 years, not a long time but have shown the role and position of the process of development of each country as well as in the local program. At the high-level meeting between the prime minister a second time in three countries, Ho Chi Minh City (1/2002) agreed to determine the geographical location of the Development Triangle of 7 provinces of Ratanakiri and Stung Treng, Cambodia, Attapeu Laos and Sekong, Kon Tum, Gia Lai, Dak Lak province of Vietnam. The third meeting in Siem Reap (7/2004) further identify Triangle area of 8 provinces, including the province of Laos and Cambodia remain, particularly in Dak Lak Vietnam is divided into two province of Dak Lak and Dak Nong is. Thus, Cambodia and Vietnam separately in 6 provinces in the Triangle area to the southwest, which is the basis for the two countries to boost cooperation between the two parties as well as third parties with Laos.

Over 6 times the third Summit of the country, starting from 1999 to 2010, the Vietnam Development Triangle - Laos - Cambodia is gradually formed, strengthened and developed, bringing enormous benefits to both three countries in the process of cooperation and integration. In this conference, Cambodia and Vietnam has many

58

traditional ties and practical contributions to the promotion of the overall strategy to build economic - social development of the Triangle, along with Laos reaffirmed their determination to relationships higher cooperation based friendship, comprehensive cooperation, on understanding and mutual trust.

Cooperation, sub-regional links are Cambodia, Vietnam and Laos and emphasis placed top priority in foreign policy, including the development triangle always receive the attention directing deep and government the three water sectors. With these achievements in efforts to build and develop the three countries of Indochina Triangle, regular coordination between Cambodia and Vietnam is increasingly clear effectiveness, the integration actively in the organization the region, plays an important role promoting solidarity friendly neighboring Cambodia - Vietnam - Laos is growing.

5.2.3. In the development of the Mekong sub-region Cambodia and Vietnam are two countries located in the Mekong River Basin, as well as the benefits that the difficulties and challenges that bring the Mekong River is very large. In the process of integration and development, both countries are actively involved in organizing GMS with an ambitious program of cooperation "countries - one destination" for the sake of economic development - social Assembly of each country and contribute to peace and stability in the region.

Cooperation of Cambodia - Vietnam in GMS must first mention that the link multilateral and bilateral development projects in the economic corridors, especially the big three economic corridors today: Eastern Economic Corridor - West (EWEC), Northern economic corridor - South (NSEC) and Southern Economic corridor (SEC).

In addition, the two countries are working together in the protection and sustainable development of the ecological environment of the Mekong region ...

State to Chapter 2: In general, the relationship between Cambodia - Vietnam after more than 15 years since the establishment of the Kingdom of Cambodia (1993-2010) developed a holistic way across all sectors, increasing both the scale and quality of cooperation .

However, the relationship between Cambodia - Vietnam (1993 - 2010) also faced difficulties stem from problems due to the history between the two countries such as the border issue, Vietnamese ... and those that arise in process of expanding cooperation between the two

59

sides, especially the differences in political institutions as well as the lack of internal stability in Cambodia has led to more complex implications. Besides, the risk due to the unpredictable changes of the world and the region with the stiff competition of powers in Southeast Asia also contributed to increased challenges for each country and the directly affect bilateral relations. However, beyond all the difficulties, relationship Cambodia - Vietnam continues to develop and constantly bring practical benefits to the two peoples, contributing to caovai role and position of each country in the region and on the world stage

Chapter 3 60

THE COMMENTS AND ASSESSMENTS OF CAMBODIA - VIETNAM RELATIONSHIP (1993 -

2010)

the ties (1967-2010),

Relations Cambodia - Vietnam, located in the general context of the relationship ligament cross, interdependence between countries in the region and the world in general. Nearly 45 years to strengthen two countries have expanded traditional cooperation, relationship building and the development of friendship and regard it as an important factor contributing to peace and stability not only for both countries but also the region and the world. The great progress in relations between Cambodia and Vietnam in all fields in that period testifies to that. However, since the establishment of the Kingdom of Cambodia (1993), a new relationship between the two countries really go into depth. Looking across the landscape of bilateral relations phase 1993 - 2010, we can draw some remarks, following assessment.

3.1. Overview of achievements and constraints

in

relationship two countries

3.2. A few characteristics in relation Cambodia -

Vietnam period 1993 – 2010

First, the relationship Cambodia - Vietnam experienced many ups and downs and stability is not high, this relationship strongly influenced by the political situation in Cambodia and the external factors, particularly in the Middle China. Second, the relationship Cambodia - Vietnam complementary to each other and are limited height.

Third, if such relations before 1993 Cambodia - Vietnam mainly focused on the field of security - political and military, the period 1993- 2010, has seen a strong shift in relations between the two countries, including economic cooperation to emerge and become the focus of attention of both parties and the two countries are increasingly more comprehensive. Fourth, the relationship Cambodia - Vietnam relations are complex and contain many uncertain factors.

3.3. The impact of the Cambodia - Vietnam relationship

to two countries and area 3.3.1. For Cambodia Capital is one of the least developed regions, the situation of political instability in the society for many years, so the task of

61

economic development - social, security maintenance - has always been the political Cambodian leaders at the forefront. In the national context links, the area is becoming irresistible trend, Cambodia has gradually made open diplomacy, international cooperation in order to bring the country out of poverty and assert its position in the international arena. In particular, strengthen cooperation with Vietnam - a long-standing neighbors not only bring benefits to Cambodia itself but also creates a solid foundation of peace for each country and region .

First, security - political cooperation with Vietnam, Cambodia had its own creation for a stable security environment in the context of regional integration and development.

Second, cooperation with Vietnam, Cambodia and are creating their own advantages for certain economic development - economic development of the country.

Third, cooperation with Vietnam helped Cambodia escape isolation, gradually integrate into the life and world regions all over the field.

Fourth, cooperation with Vietnam, Cambodia, and is on track for national diplomatic strategy, which is to balance the power of the strategic stakeholders in Cambodia. 3.3.2 For Vietnam First, the economic - social, strengthening ties with Cambodia to Vietnam has brought many practical benefits, especially in the field of import and export trade.

Second, expand cooperation with Cambodia and other Southeast Asian countries, Vietnam has gradually asserted its role in the location of the region, maintaining and developing relations of openness to the outside.

Third, security - political, the close cooperation with Cambodia contributed to Vietnam to help maintain security and stability - domestic politics, especially in the western border area there are several issues complex and sensitive. 3.3.3 For area First, can confirm the results obtained in relation Cambodia - Vietnam (1993 - 2010) had a positive impact on the development of peace and prosperity of the whole Southeast Asia in the most all areas of economic, political, security, defense, culture, education, ... on the basis of which contribute to the economic development, social sector, improve

62

people's lives, gradually narrow the gap between developed countries (including Cambodia and Vietnam) countries in the region.

Second, the development of relations of Cambodia - Vietnam contributed to the Southeast Asian region of peace, stability and sustainable development together.

Third, the achievements in relation Cambodia - Vietnam over this period contributed to the country in the region to create a stable environment and development, step by step to become Southeast Asia "roof" with the full meaning of it.

3.4 Prospects of the Cambodia - Vietnam relation 3.4.1 The Advantages First, Cambodia and Vietnam are the two neighbors have a long

relationship with the points close similarities in geography, history, culture, society, particularly the two countries have a tradition of long- term and close cooperation in history.

Second, at present, Cambodia and Vietnam are independent, sovereign, construction and development of the country in peaceful conditions.

Third, leaders of the two countries understand and see the importance of enhancing and strengthening relations of friendship and cooperation between Vietnam and Cambodia for the common goal is to develop harmony and national development peace, prosperity. Fourth, the international environment and the area is difficult and

complex movements of forces and relative comparison, the trend of peace, cooperation is still the mainstream and increasingly promoted. The collaborative environment friendly conditions were very good for the development of relations of Cambodia - Vietnam.

3.4.2 Difficulties and challenges First, Cambodia and Vietnam shook hands in building the country poor conditions in many ways, both countries are poor economy backward infrastructure, services is still weak, especially Cambodia.

Second, a number of differences in cultural factors and the problems left over by history between the two countries can still be an obstacle to the development of partnerships Cambodia - Vietnam.

Third, based on the characteristics of the geographical location, the border between the two countries have complex difficulties who used to act bad, and the unlawful act on which to make strategic regime change, to overthrow the government in Vietnam, to incite unrest Cambodia's internal situation.

63

Fourth, the competition for influence and interests of the major powers in the region next to the positive side of each country would be a negative factor, undermining the inherent good relations between Cambodia and Vietnam.

3.4.3. The prospect forecast Scenario: bilateral relations will deteriorate in the future, can not lead to maintain friendly relations inherent or cooperation between the two sides will meet difficulties, obstacles and delays. This scenario is unlikely to happen in practice but can not be removed.

The second scenario: bilateral relations continued to develop well, gradually become the comprehensive cooperative partnership. This capability can dominate and become a reality in partnership platform Cambodia - Vietnam.

State to Chapter 3: History has demonstrated the relationship Cambodia - Vietnam despite the ups and downs experienced developers still good direction. These results achieve cooperation between two countries in the period 1993 - 2010 showed the necessity and need of the neighboring relationship is friendship. World and many other areas opposite change in the future, international relations may arise the problems and challenges. But can confirm in the coming years, a comprehensive partnership Cambodia - Vietnam has followed a positive trend, growing closer together and achieve much more success.

CONCLUSION 1. Under the same positive impact of international factors and the region after the Cold War and the situation of peace and stability in Southeast Asia after the Paris Agreement on Cambodia to solve the problem (10/23/1991) has ties to Cambodia - Vietnam turned a new page in the history of bilateral relations. Whereas before, the relationship between Cambodia - Vietnam faced many difficulties and challenges because of the influence of subjective factors and objective, then after 1993, relations Cambodia - Vietnam unfolding in a positive direction and built in the spirit of friendship and cooperation, respect the independence, sovereignty and territorial integrity, non-interference in each other's internal affairs. This relationship is generally good, the two countries for each other is always a worthy place in the foreign policy of

64

every country, often for many different conditions and incentives for strategic.

2. Relations Cambodia - Vietnam (1993 - 2010) developed on the basis of inheriting the achievements ahead of time, but instead mainly former partnership in the field of security - political, then from the five 1993 - 2010 was a comprehensive development, and innovation flourishes on many fronts both in breadth and depth. In relations between the two countries are complying with the international practices. Maintaining and renewing relationships that are not available valuable means to remove or lower that relationship. In contrast, the content is still maintained and raised to a higher order to ensure the new requirements, but it shows the principle traditional ties between the two countries. However, in the specific relationship problems, in addition to the application of common knowledge in international relations, the two countries have different circumstances under arrest while ensuring the principles of voluntariness, equality.

3. In Cambodia's relations with Vietnam and security - is the core political, the dominant axis relations, and the economy is, the axis furthering this relationship to develop a comprehensive, diverse other areas. In particular, the integration of regional and international security, the relationship - political moderate binding effect, moderate leverage for economic development - social and human development, premise is solid basis for the traditional relationship between the two nations. Despite many differences, but the two countries have exploited efficiently comparative advantages of the two parties, leveraging multilateral cooperation in order to create different conditions for successful international integration.

4. Relations Cambodia - Vietnam besides the positive factors, there are some limitations, certain difficulties. Positive is that the two countries that support and assist each other to jointly develop, especially in the position for each priority in the foreign policy of every country. Besides, the trend of peace, stability and development cooperation is becoming mainstream in the region and worldwide, as well as positive factors contributing to promoting bilateral relations during to. However, the problems left over by history, especially border issues, overseas Vietnamese have actually caused more problems in the relationship Cambodia - Vietnam. In the context of the world situation is more complicated changes, although the trend of peace and stability play a major role but appeared more localized wars, many countries, the region

65

is falling the vortex can not escape the crisis. The presence of these powers to the intrigues and ambitions in the Asia - Pacific region has led to many security issues - politics is extremely complex. All these have direct or indirect profound impact on the development of each country as well as the relationship of Cambodia - Vietnam.

5. In relations between the two countries at present, Cambodia and Vietnam has implemented a foreign policy right, that take advantage of and exploit the advantages of each in order to make the position of each country on the rise in area and in the international arena. The development of robust and comprehensive achievements in all fields of Cambodia relations - Vietnam over the past 15 years (1993-2010) also testifies to that. However, this relationship has suffered profound impact of these factors in the country and abroad, and may also contain certain unknowns that prevent both right. Anyway, Cambodia and Vietnam needs to make more efforts to promote the inherent potential of each country, while the lowest limit to the negative impact to bring the maximum benefit for each nation.

LIST OF WORKS RELATING TO THE THESIS 1. Tran Xuan Hiep (2010), "Security Relations - Political Vietnam with Laos and Cambodia from 1991 to date", Journal of Historical Research, 6 (410).

2. Hoang Thi Minh Hoa, Tran Xuan Hiep (2011), "Relations Vietnam - Cambodia (1993-2008)", Proceedings of the International Conference Relations Vietnam - Asean - Taiwan. Hue University - Chinan University (Taiwan) - Hue University of Sciences - Institute of Southeast Asian Studies.

3. Tran Xuan Hiep (2011), Security relations - political, economic, between Vietnam and Cambodia (1993-2007), grassroots theme, Duy Tan University in Da Nang.

4. Tran Xuan Hiep (2011), "Cooperation and Investment Trade Vietnam - Cambodia (1998-2010)", Proceedings of the International Conference: Integration: Cooperation and competition Statistics Publishing House.

66

5. Tran Xuan Hiep (2012), "Vietnam - Cambodia Cooperation in the Greater Mekong Sub-Region", SNRU The Fifth International Conference on Cooperation for Development on the East - West for Sustainable Development Economic Corridor: Networks Cooperation Towards the ASEAN Community, Sakon Nakhon Rajabhat University , Thailand.

6. Hoang Thi Minh Hoa, Tran Xuan Hiep (2012), "Vietnam for cooperation links in the Development Triangle", Journal of Southeast Asian Studies, No. 10 (151).

7. Tran Xuan Hiep (2012), "Security Cooperation - Defense Vietnam - Cambodia early twenty-first century", Journal of Research of India and Asia, 3 (3).

8. Tran Xuan Hiep (2013), "Transport Cooperation Vietnam - Cambodia during this period", Journal of Human and Social Sciences, Institute of Social Sciences of Vietnam, 1 (2).

9. Tran Xuan Hiep (2013), "Cooperation of Cambodia tour - Vietnam in this period", Journal of Southeast Asian Studies, No. 2 (155). 10. Tran Xuan Hiep (2013), "U.S. - Cambodia - China and the impact of this relationship", Journal of Science Teacher's University City. Ho Chi Minh, 46 (80). 11. Tran Xuan Hiep (2013), "Cambodia's relations with the U.S. and China", Journal of Research of India and Asia, 5 (6).

in

12. Hiep Xuan Tran (2013), “Education and training cooperation Vietnam - Cambodia the current period”, The Journal of Interdisciplinary Networks, Volume 2 (Special Issue), No.1, The Royal Institute of Thailand.

13. Tran Xuan Hiep (2013), “Vietnam - Cambodia Cooperation in the Greater Mekong Sub-region”, Journal of Science and Education, No. 8 (03).

14. Tran Xuan Hiep (2013), “Education and training cooperation Vietnam - Cambodia (1993-2010)”, Journal of Saigon University, No. 17 (11/2013).

67