Luận văn: "Quản lý và kiểm soát hoạt động của thị trường chứng khoán"
1
LỜI MỞ ĐẦU
Với sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế của thế giới, sự vươn lên
không ngừng của các nước trong khu vực về tất cả các lĩnh vực mà đặc
biệt là sự phát triển như vũ bão về kinh tế, chính trị, xã hội. Điều đó đặt
nước ta vào một vị thế vô cùng quan trọng, bởi vì nước ta nằm ở vị trí
cực kỳ nhạy cảm, nhạy cảm cả về vị trí chiến lược quân sự cũng như
kinh tế trong khu vực. Chính vì thế mà Đảng và nhà nước đã nhận thấy
rõ công việc của mình là phải lãnh đạo, định hướng phát triển cho nền
kinh tế đất nước sao cho thật tốt, để tiến vào kỷ nguyên mới với thành
công mới rực rỡ. Để đạt được điều đó Đảng, nhà nước đã đưa ra nhiệm
vụ và mục tiêu phải tiến hành "Công nghiệp hoá và Hiện đại hoá đất
nước".
Để tiến hành công nghiệp hoá hiện đại hoá thành công, tăng trưởng
kinh tế bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu
vực cần phải có nguồn vốn lớn. Mà để có nguồn vốn lớn cần phát triển
thị trường chứng khoán. Tuy nhiên, việc phát triển thị trường chứng
khoán ở Việt Nam gặp không ít khó khăn về kinh tế nhưng cũng chính
nó lại có thể trở thành vật cản cho nền kinh tế ấy.
Chính vì thế, mà hơn bao giờ hết chúng ta cần phải chuẩn bị một
cách kỹ càng cả về kiến thức cơ bản và các kinh nghiệm của các nước
khác trên thế giới về cơ cấu quản lý và kiểm soát hoạt động của thị
trường chứng khoán. Có như vậy thì thị trường chứng khoán mới
không trở thành vật cản của nền kinh tế.
2
MỤC LỤC
PHẦN I. CHƯNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 1
I. KHÁI NIỆM 2
1. Khái niệm 3
2. Các loại chứng khoán 4
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 5
1. Cơ cấu 6
2. Chức năng của TTCK 7
3. Những mật tiêu cực & tích cực 9
4. Các đối tương tham gia thị trường chứng khoán 10
PHẦN II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 11
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI
VIỆT NAM 15
II. NHỮNG THUẬN LỢI & KHÓ KHĂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ
TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 16
1. Thuận lợi
2. Khó khăn
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
TẠI VIỆT NAM 18
A. CỔ PHÂN HÓA DOANH DIỆP 20
1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tôn tại về mặt nhận thức tư tưởng
2. Giải pháp cho các doanh nghiệp còn gặp khó khăn về tài chính & quản lý
3. Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong doanh nghiệp sau khi tiến hành CPH
4. Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh nghiệp
5. Một số giải pháp cho việc khuyến khích việc thu hút vốn đầu tư của các cổ đông
ngoài DN
B. ĐẨY MẠNH PHÁT HÀNH CÁC LOẠI TRÁI PHIẾU CHÍNH PHỦ
1. Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu
2. Chuẩn bị phát hành trái phiều thông qua bảo lãnh
C. ĐẨY MẠNH PHÁT HÀNH CÁC LOẠI TRÁI PHIẾU DOANH NGHIỆP
D. CƠ QUAN QUẢN LÝ THỊ TRƯƠNG CHƯNG KHOÁN
E. HÊ THỐNG PHÁP LÝ
F. VÊ SỰ THAM GIA CỦA NƯỚC NGOÀI
3
G. CÁC TỔ CHỨC TRUNG GIAN
KẾT LUẬN
PHẦN1: CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
I. CHỨNG KHOÁN
1. Khái niệm :
Chứng khoán là chứng chỉ thể hiện quyền của chủ sở hữu chứng
khoán đối với người phát hành. Chứng khoán bao gồm : chứng khoán nợ
(trái phiếu), chứng khoán vốn (cổ phiếu) và các chứng chỉ có nguồn gốc
chứng khoán (chứng quyền, chứng khế, chứng chỉ thụ hưởng ...).
Các chứng khoán do chính phủ, chính quyền địa phương và các
công ty phát hành với mức giá nhất định. Sau khi phát hành, các chứng
khoán có thể được mua đi bán lại nhiều lần trên thị trường chứng khoán
theo các mức giá khác nhau tuỳ thuộc vào cung và cầu trên thị trường.
2. Các loại chứng khoán :
2.1. Cổ phiếu :
Cổ phiếu là chứng khoán vốn, xác nhận quyền sở hữu một phần tài
sản công ty của cổ đông. Cổ phiếu gồm hai loại chính:
- Cổ phiếu thường: là cổ phiếu xác định quyền sở hữu của cổ đông
trong công ty. Cổ phiếu thường được đặc trưng bởi quyền quản lí, kiểm
soát công ty. Cổ đông sở hữu cổ phiếu thường được tham gia bầu hội
đồng quả trị, tham gia bỏ phiếu quyết định các vấn đề lớn của công ty.
Cổ tức của cổ phiếu thường được trả khi hội đồng quản trị công bố. Khi
4
công ty giải thể hoặc phá sản, cổ đông sở hữu cổ phiếu thường sẽ được
chia số tiền còn lại sau khi thanh toán các khoản nợ và thanh toán cho cổ
phiếu ưu đãi.
- Cổ phiếu ưu đãi: là cổ phiếu có cổ tức xác định được thể hiện
bằng số tiền xác định được in trên cổ phiếu hoặc theo tỉ lệ phần trăm cố
định so với mệnh giá cổ phiếu. Cổ phiếu ưu đãi thường được trả cổ tức
trước các cổ phiếu thường. Cổ đông sở hữu cổ phiếu ưu đãi không được
tham gia bỏ phiếu bầu ra hội đồng quản trị. Khi công ty giải thể hoặc phá
sản, cổ phiếu ưu đãi được ưu tiên thanh toán trước các cổ phiếu thường.
2.2. Trái phiếu :
Trái phiếu là chứng khoán nợ, người phát hành trái phiếu phải trả
lãi và hoàn trả gốc cho những người sở hữu trái phiếu vào lúc đáo hạn.
Trái phiếu có thể phân theo nhiều tiêu chí khác nhau:
- Căn cứ vào chủ thể phát hành, trái phiếu gồm hai loại chính là:
trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính quyền địa phương (do chính phủ và
chính quyền địa phương phát hành) và trái phiếu công ty (do công ty
phát hành).
- Căn cứ vào tính chất chuyển đổi, trái phiếu được chia thành loại
có khả năng chuyển đổi (chuyển đổi thành cổ phiếu) và loại không có
khả năng chuyển.
- Căn cứ vào cách thức trả lãi, trái phiếu được chia thành các loại
sau:
+ Trái phiếu có lãi suất cố định: là loại trái phiếu được thanh toán
cố định theo định kỳ.
5
+ Trái phiếu với lãi suất thả nổi: là loại trái phiếu mà khoản lãi thu
được thay đổi theo sự biến động của lãi suất thị trường hoặc bị chi phối
bởi biểu giá, chẳng hạn như giá bán lẻ.
+ Trái phiếu chiết khấu: là loại trái phiếu không trả thưởng và được
bán theo nguyên tắc chiết khấu. Tiền thưởng cho việc sở hữu trái phiếu
nằm dưới dạng lợi nhuận do vốn đem lại hơn là tiền thu nhập ( nó là
phần chênh lệch giữa giá trị danh nghĩa- mệnh giá trái phiếu và giá
mua).
- Trái phiếu có bảo đảm và trái phiếu không có bảo đảm.
2.3. Các chứng chỉ có nguồn gốc chứng khoán:
- Chứng quyền: là giấy xác nhận quyền được mua cổ phiếu mới
phát hành tại mức giải tường bán ra của công ty. Các chứng quyền
thường được phát hành cho cổ đông cũ, sau đó chúng có thể được đem ra
giao dịch.
- Chứng khế: là các giấy tờ được phát hành kèm theo các trái phiếu,
trong đó xác nhận quyền được mua cổ phiếu theo những điều kiện nhất
định.
- Chứng chỉ thụ hưởng: là giấy xác nhận quyền lợi của khách hàng
là những nhà đầu tư cá nhân trong các quỹ đầu tư nhất định. Chứng chỉ
này có thể được mua bán, giao dịch trên thị trường chứng khoán như các
giấy tờ có giá trị khác. Chứng chỉ này do công ty tín thác đầu tư hay các
quỹ tương hỗ phát hành (là tổ chức chuyên nghiệp thực hiện đầu tư theo
sự uỷ nhiệm của khách hàng)...
6
II. THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các hoạt động mua bán
chứng khoán theo các nguyên tắc của thị trường (theo quan hệ cung
cầu):
1. Cơ cấu
Xét về sự lưu thông của CK trên thị trường,TTCK có hai loạI:thị
trường sơ cấp và thị trường thứ cấp.
Thị trường sơ cấp: Là thị trường phát hành. Đây là thị trường mua
bán các chứng khoán phát hành lần đầu giữa nhà phát hành (người bán)
và nhà đầu tư (người mua). Trên thị trường sơ cấp, chính phủ và các
công ty thực hiện huy động vốn thông qua việc phát hành- bán chứng
khoán của mình cho nhà đầu tư.
Vai trò của thị trường sơ cấp là tạo ra hàng hoá cho thị trường giao
dịch và làm tăng vốn đầu tư cho nền kinh tế.
Nhà phát hành là người huy động vốn trên thị trường sơ cấp, gồm
chính phủ, chính quyền địa phương, các công ty và các tổ chức tài
chính.
Nhà đầu tư trên thị trường sơ cấp bao gồm cá nhân, tổ chức đầu tư.
Tuy nhiên, không phải nhà phát hành nào cũng nắm được các kiến thức
và kinh nghiệm phát hành. Vì vậy, trên thị trường sơ cấp xuất hiện một
tổ chức trung gian giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, đó là nhà bảo lãnh
phát hành chứng khán. Nhà bảo lãnh phát hành chứng khoán giúp cho
nhà phát hành thực hiện việc phân phối chứng khoán mới phát hành và
nhận từ nhà phát hành một khoản hoa hồng bảo lãnh phát hành cho dịch
vụ này.
7
Thị trường thứ cấp: Là thị trường giao dịch.Đây là thị trường
mua bán các loạI chứng khoán đã được phát hành. Thị trường thứ cấp
thực hiện vai trò điều hoà, lưu thông các nguồn vốn, đảm bảo chuyển
hoá các nguồn vốn ngắn hạn thành dài hạn. Qua thị trường thứ cấp,
những người có vốn nhàn rỗi tạm thời có thể đầu tư vào chứng khoán,
khi cần tiền họ có thể bán lại chứng khoán cho nhà đầu tư khác. Nghĩa là
thị trường thứ cấp là nơi làm cho các chứng khoán trở nên ‘lỏng’ hơn.
Thị trường thứ cấp là nơi xác định giá của mỗi loại chứng khoán mà
công ty phát hành chứng khoán bán ở thị trường thứ cấp. Nhà đầu tư trên
thị trường sơ cấp chỉ mua cho công ty phát hành với giá mà họ cho rằng
thị trường thứ cấp sẽ chấp nhận cho chứng khoán này.
8
Nhà đầu tư
Thị trường
SGDCK
OTC
Nhà đầu tư có tổ
Công ty chứng khoán
Nhà đầu tư các
Thị trường
Hệ thống đăng ký, thanh toán, bù trừ và lưu ký
Thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp là hai bánh xe của một
chiếc xe. Thị trương sơ cấp là bánh động lực còn thị trường thứ cấp là
bánh cân bằng.Như vậy thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp có mối
quan hệ nội tại, trong đó thịtrường sơ cấp là tiền đề còn thị trường thứ
cấp là động lực.
Xét về phương diện tổ chức và giao dịch ,TTCK có ba loại:
Thị trường chứng khoán tập trung:là thị trường ở đó việc giao
dịch mua bán chứng khoán được thực hiện thông qua Sở giao dịch chứng
khoán.
Thị trường chứng khoán bán tập trung: là thị trường CK “bậc
cao”. Thị trường chứng khoán bán tập trung (OTC) không có trung tâm
giao dịch mà giao dịch mua bán chứng khoán thông qua mạng lưới điện
tín, điện thoại. Một điều rất quan trọng là các nhà đầu tư trên thị trường
OTC không trực tiếp gặp nhau để thoả thuận mua bán chứng khoán như
trong phòng giao dịch của SGDCK, thay vào đó họ thuê các công ty môi
giới giao dịch hộ thông qua hệ thống viễn thông.
9
Các công ty chứng khoán trên thị trường OTC có mặt ở khắp nơi
trên đất nước, mỗi công ty chuyên kinh doanh buôn bán một số loại
chứng khoán nhất định. Các công ty chứng khoán giao dịch mua bán
chứng khoán cho mình và cho khách hàng thông qua việc giao dịch với
các nhà tạo thị trường về các loại chứng khoán đó. Các công ty cũng
thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh chứng khoán như: giao dịch mua
bán cho chính mình, môi giới mua bán cho khách hàng, dịch vụ tư vấn
đầu tư chứng khoán, bảo lãnh phát hành. Các chứng khoán mua bán trên
thị trường OTC cũng phải được niêm yết công khai cho công chúng biết
để có quyết định đầu tư. Các chứng khoán được niêm yết trên thị trường
OTC tương đối dễ dàng, các điều kiện niêm yết không quá nghiêm ngặt.
Như vậy, hầu như tất cả các chứng khoán không được niêm yết trên
SGDCK đều được giao dịch ở đây. Các chứng khán buôn bán trên thị
trường OTC thường có mức độ tín nhiệm thấp hơn các chứng khoán
được niêm yết trên SGDCK. Song, do thị trường nằm rải rác ở khắp các
nơi nên độ lớn của thị trường khó có thể xác định chính xác được, thông
thường khối lượng buôn bán chứng khoán trên thị trường này là lớn hơn
SGDCK. Từ điều kiện niêm yết thông thoáng hơn mà chứng khoán của
các công ty được buôn bán trên thị trường này nhiều hơn, thậm chí một
số chứng khoán được niêm yết trên SGDCK cũng được mua bán ở thị
trường này.
Hoạt động giao dịch buôn bán chứng khán trên thị trường OTC
cũng diễn ra khá đơn giản. Khi một khách hàng muốn mua một số lượng
chứng khoán nhất định, anh ta sẽ đưa lệnh ra cho công ty chứng khoán
đang quản lý tài sản của mình yêu cầu thực hiện giao dịch hộ mình.
Thông qua hệ thống viễn thông, công ty môi giới- giao dịch sẽ liên hệ tới
tất cả các nhà tạo thị trường của loại chứng khoán này để biết được giá
chà bán thấp nhất của loại chứng khán đó. Sau đó công ty này sẽ thông
10
báo lại cho khách hàng của mình và nếu khách hàng chấp thuận, thì công
ty sẽ thực hiện lệnh này và giao dịch của khách hàng sẽ được thực hiện.
Thị trưòng chứng khoán phi tập trung: còn gọi là thị trường thứ
ba. Hoạt động mua bán chứng khoán được thực hiện tự do.
2. Chức năng của TTCK
2.1.Chức năng thứ nhất :Huy động vốn cho nền kinh tế
Thị trường chứng khoán được xem như chiếc cầu vô hình nối liền
người thừa vốn với người thiếu vốn để họ giúp đỡ nhau thông qua việc
mua bán cổ phiếu và qua đó để huy động vón cho nền kinh tế, góp phần
phát triển sản xuất kinh doanh tạo công ăn việc làm cho người lao động,
giảm thất nghiệp, ổn định đời sống dân cư và thúc đẩy nền kinh tế phát
triển.Thông qua thị trường CK,chính phủ và chính quyền địa phương
cũng huy động các nguồn vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng.Thị
trường chứng khoán đóng vai trò tự động điều hoà vốn giữa nơi thừa
sang nơi thiếu vốn. Vì vậy, nó góp phần giao lưu và phát triển kinh tế.
Mức độ điều hoà này phụ thuộc vào quy mô hoạt động của từng thị
trường chứng khoán. Chẳng hạn, những TTCK lớn như Luân Đôn, Niu
óc , Paris, Tokyo,... thì phạm vi ảnh hưởng của nó vượt ra ngoài khuôn
khổ quốc gia vì đây là những TTCK từ lâu được xếp vào loại hoạt động
có tầm cơ quốc tế. Cho nên biến động của thị trường tác động mạnh mẽ
tới nền kinh tế của bản thân nước sở tại, mà còn ảnh hưởng đến thị
trường chứng khoán nước khác.
2.2. Chức năng thứ hai: thông tin
Thị trường chứng khoán bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời ( cho
các nhà đầu tư và các nhà kinh doanh chứng khoán ) về tình hình cung -
11
cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị
trường chứng khoán hữu quan.
2.3. Chức năng thứ ba: cung cấp khả năng thanh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển
đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản
bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động.
2.4 Chức năng thứ tư:đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơI đánh giá chính xác doanh nghiệp
thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích các doanh
nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn,kích thích áp dụng công ngệ mới.
2.5 chức năng thứ năm: tạo môI trường để chính phủ thực hiện
chính vĩ mô
Chính phủ có thẻ mua bán tráI phiếu chính phủ đẻ toạ ra nguồn thu
bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoàI ra chính có thể sử
dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định
hướng đầu tư.
3. Những mặt tích cực và tiêu cực
3.1. Những mặt tích cực:
3.1.1. Khuyến khích dân chúng tiết kiệm và sử dụng mọi nguồn vốn
nhàn rỗi vào công cuộc đầu tư:
Muốn phát triển thì phải đầu tư. Đầu tư, bất cứ một doanh nghiệp
nào, dù là khu vực Nhà nước hay khu vực tư nhân cùng đều có hai giải
pháp cơ bản:
12
Bản thân doanh nghiệp tự tích lũy để đầu tư qua phân bổ lợi nhuận.
Biện pháp này chỉ có thể thực hiện được ở những doanh nghiệp hiện
hữu, kinh doanh có hiệu quả, có lãi.
Biện pháp thứ hai là huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu bằng hai
nguồn vốn: vay tín dụng trung và dài hạn của các tổ chức tài chính, tín
dụng và phát hành cổ phiếu,trái phiếu. Biện pháp này chỉ có thể thực
hiện được khi dân chúng có nguồn tiết kiệm dồi dào, và ý thức cũng như
phong trào tiết kiệm trong dân chúng tốt.
Có thị trường chứng khoán số vốn nhàn rỗi trong xã hội sẽ được thu
hút vào công cuộc đầu tư. Vốn đầu tư sẽ sinh lời, càng kích thích ý thức
tiết kiệm trong dân chúng.
3.1.2. Giúp Nhà nước thực hiện chương trình phát triển kinh tế xã
hội
Nhà nước nào cũng có nhiệm vụ ổn định và phát triển kinh tế. Nền
kinh tế tăng trưởng hay suy thoái trước hết phụ thuộc vào chính sách và
các biện pháp can thiệp của Nhà nước. Bất cứ Nhà nước nào cũng phải
có ngân sánh. Ngân sánh Nhà nước càng lớn thì chương trình phát triển
kinh tế xã hội càng dễ dàng thành công.
Để có vốn cho chi tiêu, Nhà nước phải thực hiện chính sách thuế.
Thuế là biện pháp quan trọng nhất để tạo ngân sách Nhà nước. Nhưng,
thông thường thuế không đủ cho chi tiêu, do đó phải có một nguồn thu
khác, đó là trái phiếu kho bạc, trái phiếu chính phủ, trái phiếu chính
quyền địa phương. Một hình thức Nhà nước vay tiền của dân.
3.1.3. Thị trường chứng khoán là công cụ giảm áp lực lạm phát
3.1.4. Thu hút và kiểm soát vốn đầu tư nước ngoài
13
Vốn đầu tư từ nước ngoài có vai trò đặc biệt quan trọng đối với
những nước đang phát triển. Chúng ta ai cũng có thể nhận ra rằng vốn
đầu tư trong nước (dù có huy động tối đa nguồn tiết kiệm của dân chúng)
cũng chỉ có giới hạn. Do vậy phải có vốn đầu tư từ nước ngoài. Trong
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài có nhiều chính sách và biện pháp có
thể thực hiện ở nước ta.
3.1.5. Thị trường chứng khoán lưu động hóa mọi nguồn vốn trong
nước
Các cổ phiếu, trái phiếu tượng trưng cho một số vốn dầu tư được
mua đi bán lại trên TTCK như một thứ hàng hóa. Người có vốn (có cổ
phiếu, trái phiếu...) không sợ vốn của mình bị bất động tức là không sợ
bị “chôn” tại nơi mà mình không thể lấy ra được khi không vừa ý. Vì khi
cần, họ sẽ bán lại các cổ phiếu, trái phiếu trên TTCK để mua lại cổ
phiếu, trái phiếu khác. Nhờ vậy, sinh hoạt kinh tế thêm sôi động.
3.1.6. Thị trường chứng khoán là điều kiện tiên đề cho quá trình cổ
phần hóa.
Cổ phần hóa là quá trình chuyển từ doanh nghiệp Nhà nước sang
công ty cổ phần. Nó đòi hỏi phải có TTCK. Bởi vì TTCK và công ty cổ
phần như hình với bóng. Chỉ có thông qua TTCK thì Nhà nước mới có
thể thực hiện cổ phần hóa đối với bất cứ loại doanh nghiệp nào, dù
doanh nghiệp đang kinh doanh có lãi hay thua lỗ. Vì TTCK là nơi tập
trung được toàn bộ quan hệ cung cầu về vốn, là nơi tập trung các nhà
đầu tư. Do vậy, có thể nói TTCK là tiền đề vật chất cho quá trình cổ
phần hóa.
3.1.7. Thúc đẩy các doanh nghiệp làm ăn đàng hoàng hơn
14
Nhờ TTCK, các doanh nghiệp mới có thể đem bán, phát hành các
cổ phiếu, trái phiếu của họ. Với sự tự do lựa chọn của người mua cổ
phiếu, để bán được cổ phiếu, không có cách nào khác hơn là nhà quản lí
các doanh nghiệp phải tính toán, làm ăn đàng hoàng hơn và có hiệu quả
hơn.
3.2. Những mặt tiêu cực:
3.2.1.Yếu tố đầu cơ: Đầu cơ là một yếu tố có tính toán của những
người chấp nhận rủi ro. Yếu tố này dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm
cho cổ phiếu có thể tăng giá giả tạo.
3.2.2. Mua bán nội gián: Một cá nhân nào đó lợi dụng việc nắm
được những thông tin nội bộ của một đơn vị kinh tế để mua hoặc bán cổ
phiếu của đơn vị đó một cách không bình thường nhằm thu lợi cho mình
ảnh hưởng đến giá của cổ phiếu đó trên thị trường.
3.2.3. Mua bán cổ phiếu ngoài thị trường chứng khoán: Luật về
TTCK cũng hạn chế những nhà môi giới mua bán cổ phiếu ngoài TTCK.
Vì nếu để việc mua bán này được tự do thực hiện sẽ gây hậu quả khôn
lường.
3.2.4. Tin đồn thất thiệt: Việc phao tin đồn không chính xác hay
thông tin lệch lạc về hoạt động của một đơn vị kinh tế sẽ gây hậu quả
xấu cho đơn vị. Đây là điều cấm trong hoạt động của TTCK.
3.2.5. Mua bán liên tục nhằm đầu cơ: Liên tục mua một loại cổ
phiếu nào đó ở giá cao và bán ra ở giá thấp với mục tiêu làm ảnh hưởng
đến giá cổ phiếu để đầu cơ.
4. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán
Các đối tượng tham gia thị trường CK chia thành các nhóm:nhà
phát hành,nhà đầu và các tổ chức có liên quan.
15
4.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị
trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa
phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
4.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư có thể chia làn hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu
tư có tổ chức.
4.2.1. Các nhà đầu tư các nhân
Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị
trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi
nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn.
Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với
mình.
4.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng
lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh
nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư
thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư
và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh
nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài
chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại
cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng
khoán cho mình.
16
4.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
4.3.1. Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát
hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư
chứng khoán.
4.3.2. Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng
khoán nhưng chỉ được trong giới hạn rất định để bảo vệ ngân hàng trước
những biến động của giá chứng khoán.
4.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
4.4.1. Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà
nước đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác
nhau tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB-
Securities Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao
dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở
Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán
(ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992
và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và
ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị
địng số 75/CP ngày 28/11/1996.
4.4.2. Sở giao dịch chứng khoán
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức SGDCK:
Thứ nhất: SGDCK được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini”
hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức SGDCK
17
có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của sgdck tự tổ
chức và tự quản lý SGDCK theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà
nước. Các thành viên của SGDCK bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và
hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: SGDCK được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có
cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. SGDCK tổ chức dưới hình
thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của
một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng chứng
khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: SGDCK được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần
nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ
chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần
nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ
ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành SGDCK do ủy
ban chứng khoán bổ nhiệm.
Thành viên của SGDCK có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng
khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành
viên của một SGDCK, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của
nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy
định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân
tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu
cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là
thành viên của hai hay nhiều SGDCK,nhưng khi đã là thành viên của
SGDCK (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên
của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại.
Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các
nhà đầu tư, SGDCK có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động
18
giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm
trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có
giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là
theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm
thì xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban
chứng khoán để điều tra xử lý.
4.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích
bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành
chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính
sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy
định pháp luật về chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng
khoán.
4.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu
giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ.
4.4.5. Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra
các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng
các hệ số tín nhiệm.
19
20
PHẦN HAI - THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I.
SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu
tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn
khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ.
Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một
phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình
CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong
năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm
cần 18,6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 -
9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2,2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ
USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 -
600 tỉ USD.
Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng
trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các
nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính
sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn
nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp
đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam
hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau:
- Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài
chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường
chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn
21
cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ
thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
- Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành,
những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị
trường vốn.
- Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự
báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước
hoạch định các chính sách thích hợp.
- Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng,
giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một
cách dễ dàng.
II NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN
THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
1. Thuận lợi
Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn
định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đnag phát triển với một tốc độ
khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết
sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân
cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh
tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh
doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện
cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
22
Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân
hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây
là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề
cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn
của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được
mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền
kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543,5 tỷ USD.
Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò
và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước
ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư
trực tiếp (FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị
trường chứng khoán.
Trong vòng 12 năm qua, giá vàng liên tục sụt giảm và yếu tố tâm lý
giữ vàng của nhân dân không còn như trước. Do vậy, người ta thường
dùng tiền để gửi tiền tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu...
2. Khó khăn
Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều,
và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình
thành TTCK ở Việt Nam. Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn
thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng
“làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay
trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn
định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về TTCK cho đến
nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có
liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng
khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu
thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị
23
trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh
nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với
yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần
lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hoá” cần thiết,
tranh thủ sự giúp đỡ của các nước, các tổ chức và các công ty chứng
khoán và có uy tín hàng đầu thế giới, chúng ta đã ban hành được 2 văn
bản pháp quy quan trọng là Nghị định 48/1998/NĐ-CP ngày 11/7/1998
và Quyết định 127/1998/QĐ-TTg ngày 11/7/1998 làm cơ sở pháp lý cho
hoạt động của TTCK, cũng như đào tạo được nhiều cán bộ dưới nhiều
hình thức khác nhau nhằm phục vụ cho sự ra đời và hoạt động của thị
trường chứng khoán Việt nam, tuy nhiên lượng cán bộ đã được đào tạo
vừa qua vẫn chưa đủ về số lượng và do chưa có TTCK nên chất lượng
chưa được kiểm chứng.
Từ thực trạng và những thuận lợi trên đòi hỏi chúng ta cần phải
chuẩn bị mọi mặt chu đáo hơn nữa, tạo ra những điều kiện tiền đề thật
hoàn chỉnh để sớm cho ra đời hoạt động của TTCK Việt nam. Đây là đòi
hỏi vô cùng bức xúc, khách quan cho công tác huy động nguồn lực về
vốn cho nền kinh tế đất nước, phục vụ cho chủ trương CNH-HĐH mà
Đảng, nhà nước đã đề ra.
III. CÁC GIẢI PHÁP ĐẨY MẠNH PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG
KHOÁN TẠI VIỆT NAM
A. Cổ phần hoá doanh nghiệp
1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận
thức tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực
lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành CPH ở bất cứ một DNNN nào.
24
Do đó, giải đáp những thắc mắc cho CBCNV trong DN cũng như những
người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần
làm, và nên làm trước khi công việc CPH được tiến hành.
Bởi vì chủ trương CPH ở nước ta hiên nay là ưu tiên cho CBCNV
trong DN cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ biến chính là họ.
Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt được những yêu
cầu tối thiểu sau:
- CBCNV trong DN phải ý thức một rõ ràng CPH là một yêu cầu tất
yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải thực hiện. Trong giai
đoạn này, tiến hành càng sớm thì DN càng được lợi do Nhà nước vẫn
còn dành rất nhiều ưu đãi cho các DNNN tiến hành CPH. Kinh nghiệm
của các DN đi trước đã được đúc kết tương đối đầy đủ. Hơn nữa CPH
sớm sẽ giúp cho DN có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức SXKD,
chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi chúng
ta tham gia AFTA. Trông chờ, ỷ lại lúc này chính là con đường ngắn
nhất dẫn đến chỗ phá sản.
- Họ cũng cần hiểu rằng, CPH trước hết là vì lợi ích của các DN,
của CBCNV của DN. Sau khi trở thành CTCP, họ sẽ được hoàn toàn độc
lập tự chủ trong SXKD, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống
đỡ với những cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều
không thể tránh khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có
thực lực, thực tài, những DN thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình.
Còn đối với những DN yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì
cũng phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn
lên hoàn thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo qui luật cạnh tranh
trong nền kinh tế thị trường.
25
- Phải làm rõ cho người lao động hiểu những lợi ích mà họ được
hưởng khi DN của họ tiến hành CPH. Song cũng đồng thời phải làm cho
họ hiểu rõ cả những trách nhiệm mà họ sẽ phải gánh vác, những rủi ro có
thể xảy ra để họ có cái nhìn đầy đủ toàn diện, làm cơ sở cho nỗ lực quyết
tâm của họ.
- Ngoài ra một vấn đề nữa cần lưu tâm giải thích là vấn đề phân
định rạch ròi giữa quyền của một cổ đông với quyền của một người lao
động trong DN, tránh để rơi vào tình trạng CBCNV mua cổ đông để giữ
vị trí, giữ công việc. Và cũng tránh để xảy ra những rắc rối khi DNCP
cần phải sắp xếp lại nhân sự sau này.
Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên thì đài, báo, vô tuyến
truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên để công tác
tuyên truyền thực sự đi sâu, đi sát với CBCNV thì cần phải có nhiều biện
pháp khác, sát sườn hơn. Ở đây chúng tôi xin đưa ra một số kinh
nghiệm mà nhiều DN đã áp dụng tốt. Đó là việc cung cấp cho CBCNV
trong DN những văn bản, có nội dung liên quan trực tiếp đến chủ trương
CPH. Sau đó tổ chức các buổi nói chuyện có mời các chuyên gia giỏi về
nhằm giải đáp những thắc mắc của họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho
họ được đóng góp ý kiến tham gia việc xây dựng đề án CPH... Ngoài ra,
để công tác phổ biến, tuyên truyền được đều đặn và kịp thời, theo chúng
tôi, các cơ quan có chức năng nên tổ chức các lớp tập huấn cho những
cán bộ chủ chốt trong DN như Giám đốc, lãnh đạo Đảng, lãnh đạo công
đoàn trong DN. Ngoài việc phát huy vai trò lãnh đạo tư tưởng của tổ
chức Đảng trong DN cần có một cơ quan thường trực bao gồm những
người có uy tín, nắm vững chủ trương của Đảng và Nhà nước để giải đáp
những thắc mắc cho CBCNV đồng thời tiếp thu những ý kiến của họ
26
phản ánh lên cơ quan cấp trên. Cơ quan này nên là một bộ phận của tổ
chức công đoàn tại DN.
Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài DN thì không có biện
pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại
chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và
truyền hình TW. Chương trình thời sự cũng như các bộ phim, những
câu chuyện truyền thanh là những chương trình mà theo chúng tôi thu
hút được rất nhiều khán thính giả. Việc đưa tin về các CTCP làm ăn có
hiệu quả, những buổi phỏng vấn trực tiếp trên đài truyền thanh, truyền
hình về chủ trương CPH; những bộ phim hay, thiết thực về CPH chắc
chắn sẽ đóng góp rất nhiều cho việc tuyên truyền cho đông đảo công
chúng các chủ trương đúng đắn của nhà nước nói chung, chủ trương
CPH nói riêng.
Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ
trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như
vậy vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ
sở đó tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của qui trình CPH
2. Giải pháp cho các DN còn gặp khó khăn về tài chính và quản lý
Theo tin từ ban CPH DNNN thì nhà nước đã có chủ trương phân
loại DNNN thành 4 nhóm.
- Nhóm DN làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm DN có khó khăn về tài chính.
- Nhóm DN có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
- Nhóm DN thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện CPH, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước
sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi CPH, đấu
27
thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì DN,
thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Những biện pháp nói trên có áp dụng cho nhóm 4 theo chúng tôi là
hợp lý. Tuy nhiên, nhiều biện pháp trong số đó như khoán kd, cho thuê
vẫn còn nhiều mới mẻ. Do đó cơ sở pháp lý cho chúng vẫn chưa hoàn
thiện. Song nếu các biện pháp khoán kd cho thuê mà thành công thì đây
sẽ được coi là những giải pháp quá độ có nhiều tác dụng thiết thực nhằm
nâng cao hiệu quả SXKD của các DNNN để tiến tới CPH.
Còn đối với các DNNN gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập
quỹ hỗ trợ CPH sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của
quỹ CPH không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các DN gặp khó khăn về
tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính cho các DN vẫn là một trong những
chức năng chính của quỹ này.
Nguồn vốn của quỹ có thể hình thành từ 3 nguồn chính.
- Tiền thu từ việc bán cổ phiếu thuộc vốn nhà nước tại DN.
- Vốn trợ cấp từ NSNN.
- Vốn tài trợ lần đầu của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước
(chủ yếu là vốn vay ưu đãi).
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong
DNNN khi tiến hành CPH.
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức
sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của DN.
- Cho DN vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ CPH
cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều DNNN hiện nay.
28
Sự hỗ trợ của quỹ CPH sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn
cho DN, từ đó giúp DN nâng cao hiệu quả SXKD, tiến tới làm ăn có lãi.
Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân
tố có tính quyết định cho sự thành công của việc CPH nhiều DN.
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả SXKD cũng chính là mục
tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các DN gặp khó khăn về quản
lý, giá thành sản xuất lên cao.
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy
cho cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý.
Người quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì
khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại,
không thể khắc phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng
SXKD hoặc tuyên bố phá sản. Những DN không có khả năng khắc phục
đã được xếp vào nhóm 4. Những DN có khả năng khắc phục nhưng do
quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm
chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong
ban quản lý DN. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc
dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó
phải lập được phương án SXKD có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của
máy móc, công nghệ, lao động của DN hiện tại. Một số tiêu chí nữa có
thể kể đến là uy tín của người đó đối với CBCNV trong DN, khả năng tổ
chức nhân sự.
Với biện pháp cải cách như trên chúng tối có nhiều tin tưởng là hiệu
quả SXKD của DN sẽ được nâng lên. Ở đây cũng xin lưu ý là chúng ta
phải có những ưu đãi, khuyến khích đối với các nhà quản lý, gắn trách
nhiệm của họ với quyền lợi, gắn lợi ích của họ với hiệu quả SXKD của
DN.
29
Chính phủ và Nhà nước nên sớm có chủ trương củng cố công tác
đào tạo trong ngành quản trị kinh doanh . Khi nền kinh tế phát triển,
công tác quản lý được chuyên môn hoá thì nhu cầu đối với các Giám đốc
giỏi sẽ không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kd hiện
nay xem ra vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nhất là yêu cầu về chất
lượng, vì rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về
kinh tế cho dù có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những
thiếu hụt về trình độ.
3. Giải pháp cho vấn đề lao động dôi dư trong DN sau khi tiến hành
CPH
Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển
chọn lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả SXKD
trong nhiều DNNN. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc tại
5.790 DNNN vào khoảng 1,8 triệu người. Song chất lượng lao động rất
thấp: Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10 - 12% số còn lại
chủ yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản ánh phần
nào những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư sau
khi tiến hành cải cách DNNN cũng như CPH. Bởi vì cùng với việc chú
trọng nâng cao hiệu quả SXKD thì việc làm tất yếu của các DN là phải
giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con số này quả là
không nhỏ trong nhiều DNNN hiện nay.
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có
tính xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh.
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải
quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là DN và
Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan.
Trong sự hợp tác đó thì DN là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra
30
hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải
các mâu thuẫn giữa DN với người lao động.
Về các giải pháp cụ thể, sau một quá trình nghiên cứu, tham khảo
tài liệu, chúng tôi nhận thấy những giải pháp mà tác giả Đặng Quyết
Tiến trong bài “Lao động dôi dư - những hướng giải quyết” ( Báo Tài
Chính) số tháng 10 năm 1998, 25) đưa ra là những giải pháp khá sâu sắc
và toàn diện. Nội dung của các giải pháp đó chúng tôi xin phép được
trình bày tóm tắt như sau:
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động
dôi dư trên cơ sở đề án SXKD của DN với một số nội dung chính là.
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra
các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ
hưu ( người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưu)có
thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động
còn lại ( chiếm đa số), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi
đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại DN có
thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp
mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào
tạo của đơn vị (nếu có).
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ
gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp theo tác giả chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần
kinh phí cho DN. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ CPH
DNNN. Những hỗ trợ này nên nhằm vào việc đào tạo, đào tạo lại nghề
nghiệp cho người lao động:Hỗ trợ bổ sung cho người lao động nghèo tại
31
DN để họ có thể đảm bảo đời sống trong thời gian đầu bị mất việc (
khoảng từ 6 tháng đến một năm).
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối
với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê
đất, về thuế SXKD.
Trong các giải pháp nêu trên, cũng như tác giả của bài báo, chúng
tôi nhất trí rằng giải pháp khuyến khích lập nghiệp, tự tạo việc là là giải
pháp cần được nhân rộng. Đây là giải pháp có tác dụng kích thích sự
sáng tạo tự chủ của người lao động. Đã đến lúc người lao động phải chủ
động, sáng tạo vươn lên đối mặt với những khó khăn, thách thức để có
những bước phát triển vững vàng. Tư tưởng cầu an, ỷ lại vào Nhà nước
cần phải được khắc phục. Có như vậy nền kinh tế đất nước mới phát
triển.
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư
cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang
tính chiến lược. Thực tế CPH trong những năm qua đã cho thấy nhiều
DN CPH sau khi đi vào SXKD ổn định thì thường có nhu cầu tuyển
dụng thêm lao động. Song những lao động đó phải là người có tay nghề,
đã qua đào tạo .Về mặt lâu dài, khi kinh tế phát triển, sẽ có ngày cần
nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có tay nghề và trình độ chuyên
môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì e rằng tình trạng"
thừa việc ,thiếu người" trong nhiều DN, nhất là các DN có vốn đầu tư
nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm trọng thêm.
4. Giải pháp cho những tồn tại trong vốn để xác định giá trị doanh
nghiệp
Nghị định 44/CP ra đời với những qui định cụ thể, rõ ràng hơn đã
góp phần giải quyết nhiều vấn đề rất nan giải trong quá trình xác định
32
giá trị DN trước đây. Ví dụ như việc các tài sản DN không có nhu vầu sử
dụng bao gồm tài sản không cần dùng và tài sản không có khả năng phục
hồi cho quá trình SXKD đã được loại trừ ra khỏi giá trị DN khi tiến hành
CPH. Các tài sản hình thành từ quỹ phúc lợi khen thưởng cũng không
được tính vào giá trị DN và được bàn giao riêng cho CPH tiếp tục quản
lý sử dụng. Hay như vấn đề công nợ khó đòi cũng được qui định rất rõ
ràng. Với các khoản công nợ khó đòi nếu có chứng cứ hợp lệ cũng
không tính vào giá trị DN CPH.
Những quy định mới này đã góp phần đẩy mạnh công tác CPH
trong suốt giai đoạn từ nửa cuối năm 1998 đến nửa đầu năm 1999.
Tuy nhiên xung quanh vấn đề xác định giá trị DN vẫn còn một số tồn
tại.
Thứ nhất: Việc xác định còn phải thông qua nhiều khâu, nhiều nấc
chồng chéo, nhiều khi gây ra tình trạng phân công trách nhiệm không rõ
ràng, đã làm chậm quá trình này.
Để giải quyết tình trạng trên thì phân cấp trách nhiệm là rất cần
thiết. Theo đó, chỉ có DN TW mới do Bộ Tài Chính thẩm định giá trị và
Bộ tài chính giao cho Tổng cục quản lý vốn, còn địa phương thì giao cho
Cục Quản lý vốn.
Trong quá trình thẩm định, nếu giá trị tài sản cao hơn so với sổ sách
30% thì vẫn cho phép cấp dưới tiến hành mà không phải gửi lên trên.
Thứ hai: Trong thực tế, đối với tài sản cố định, đặc biệt là đối với
máy móc thiết bị tại DN sản xuất thường xuất hiện sự mâu thuẫn giữa
giá trị ghi trong số sách. Nguyên nhân là do nhiều trường hợp DN trước
đây đã mua về các thiết bị đã lỗi thời, hỏng hóc nhưng được tân trang,
làm mới với giá gốc khi mua cao hơn rất nhiều so với giá trị thực tế. Do
33
đó, nên chăng để tạo điều kiện tốt hơn cho DN, Ban thẩm định nên đánh
giá dựa trên giá trị sử dụng thực tế còn lại theo giá thị trường hiện tại.
Như thế, sẽ phản ánh đúng hơn giá trị của tài sản.
Thứ ba: Nhiều DN chuẩn bị không đầy đủ tài liệu, nhất là cơ sở
pháp lý về nhà cửa, đất đai, các biên bản kiểm tra quyết toán, quyết toán
thuế do đó đã làm chậm lại hoạt động của ban thẩm định. Nếu như các
DN CPH chuẩn bị tài liệu, hồ sơ đầy đủ thì việc xác định giá trị DN có
thể không quá 15 ngày kể từ ngày thành lập Hộ đồng xác định giá trị
DN.
Do vậy, Bộ Tài chính nên sớm có hướng dẫn những hồ sơ tài liệu
mà DN nhất thiết phải chuẩn bị đồng thời cũng cần có những biện pháp
xử lý đối với những cá nhân đã không hoàn thành công tác này. Về mặt
lâu dài thì việc yêu cầu các DN áp dụng nghiêm ngặt chế độ kế toán
thống kê, công khai tài chính sẽ là những giải pháp quan trọng một mặt
tạo điều kiện thuận lợi cho việc chuẩn bị sổ sách giấy tờ, mặt khác cũng
tạo giúp DN chuẩn bị tốt hơn cho quá trình gia nhập TTCK sau này.
5. Một số giải pháp cho việc khuyến khích việc thu hút vốn đầu tư
của các cổ đông ngoài DN
5.1. Thúc đẩy sự ra đời của TTCK
Ông Bùi Nguyên Hoàn - Vụ trưởng UBCKNN đã có một câu nói
rất hay: “Nếu ta coi đồng tiền như những giọt máu của nền kinh tế, thì
muốn cho hết thảy mọi đồng tiền trong xã hội đến được với các tế bào
kinh tế, một cơ thể nền kinh tế hoàn chỉnh phải có “hai con tim” “con
tim ngân hàng và con tim TTCK”. Quả thực là như vậy, TTCK chính là
nơi mà những người cần có vốn để kd và những người có vốn và muốn
kd (trực tiếp và gián tiếp). Sự gặp nhau qua TTCK trực tiếp hơn so với
việc thông qua Ngân hàng. Nó thường đem lại nhiều lợi ích hơn cho cả
34
DN lẫn nhà đầu tư. Sự phát triển của các TTCK trên thế giới hiện nay là
một minh chứng thực tế cho tính ưu việt của loại thị trường đặc biệt này.
Đối với tiến trình CPH ở nước ta sự ra đời của TTCK sẽ thực sự tạo ra
một lực đẩy mới đẩy nhanh quá trình này. Điều này đã được phân tích
nhiều ở các phần trước đặc biệt là phần bài học kinh nghiệm của Trung
Quốc. Ở đây chỉ xin nhắc lại một số tác dụng cơ bản.
Thứ nhất: TTCK góp phần làm tăng khả năng chuyển nhượng của
các TTCK, trong đó có cổ phiếu do đó sẽ làm tăng sức hấp dẫn của hình
thức đầu tư dưới dạng cổ phiếu.
Thứ hai: TTCK cho phép các nhà đầu tư có nhiều thông tin hơn về
các DN thông qua sự biến động của các chỉ số trên thị trường này. Nó
tạo ra sự giám sát công khai, khách quan đối với DN do đó làm tăng
niềm tin của các nhà đâù tư, nhất là những người ở ngoài DN.
Thứ ba: Nó làm tăng khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư nước
ngoài của các DN CPH, do đó sẽ đem lại nhiều động lực thúc đẩy DN
tiến hành CPH.
Với những ưu điểm cơ bản nêu trên có thể thấy sự ra đời của TTCK
ở nước ta sẽ là một sự hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy mạnh CPH trong thời
gian tới. Điều này đã được chứng minh qua thực tế CPH ở Trung Quốc.
Vấn đề trước mắt cần làm là Nhà nước nên sớm xây dựng khuôn
khổ pháp lý cho hoạt động giao dịch cổ phiêú của các CTCP qua TTCK,
hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các DN làm quen với chế
độ công khai tài chính trên TTCK qua đó làm cho hoạt động của TTCK
được diễn ra một cách suôn sẻ, thực sự phát huy được những tác dụng
tích cực của mình.
5.2. Thành lập các quỹ đầu tư
35
Quỹ đầu tư là một loại định chế tài chính trung gian trên thị trường
vốn do công ty đầu tư lập ra, huy động tiền của nhiều nhà đầu tư bằng
cách bán cổ phiếu của Quỹ cho các cổ đông rồi dùng khoản tiền đó mua
trái phiếu hoặc cổ phiếu của nhiều hạng mục đầu tư để sinh lợi và bảo
toàn vốn. Cổ đông của Quỹ có thể bán cổ phần của Quỹ bất kỳ lúc nào
tại TTCK hoặc bán lại cho Quỹ tuỳ hình thức hoạt động Quỹ.
Mỗi quỹ có một nhà quản lý chuyên nghiệp, và một đội ngũ chuyên
viên phụ tá, có trách nhiệm phân tích lựa chọn danh mục đầu tư, theo dõi
tình hình hoạt động của các công ty nằm trong danh mục đầu tư và đưa
ra những quyết sách khi có biến động ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư của
quỹ. Quỹ được tiếp thị rộng rãi đến nhà đầu tư bằng cách quảng cáo, thư
mời hay qua các trung gian khác.
Đầu tư vào các quỹ đầu tư là một hình thức đầu tư có nhiều ưu điểm
hơn so với đầu tư mua cổ phiếu trực tiếp của các công ty nhất là trong
điều kiện TTCK chưa ra đời và phát triển. Các nhà đầu tư cá biệt thường
khó có khả năng và điều kiện tìm hiểu vì hoạt động của các công ty, do
đó thường gặp khó khăn khi ra quyết định đầu tư. Vì vậy họ thường phải
đầu tư thông qua các tổ chức hoặc cá nhân môi giới trung gian mà quỹ
đầu tư là một trong số đó. Với đội ngũ chuyên viên có trình độ, lại có
nhiều điều kiện thuận lợi, quỹ đầu tư sẽ giúp các cổ đông của mình giảm
bớt rủi ro khi ra quyết định đầu tư mà vẫn có khả năng thu được lãi suất
khá cao.
Hơn nữa, đầu tư vào các quỹ đầu tư còn giúp các nhà đầu tư phân
tán rủi ro. Nếu đầu tư với tư cách là một nhà đầu tư cá biệt thì các nhà
đầu tư thường khó có khả năng đầu tư vào nhiều công ty mà nếu có đầu
tư được thì cũng rất khó có thể theo dõi hoạt động của các công ty đó để
cho ra các đối sách phù hợp. Khi đầu tư vào quỹ số vốn của các cổ đông
36
cá biệt sẽ được tập hợp lại và đem đầu tư vào nhiều công ty khác mà vẫn
đảm bảo khả năng theo dõi tốt hoạt động của các công ty đó. Hơn nữa,
với việc tập hợp cổ phiếu của nhiều cổ đông, các quỹ đầu tư sẽ có khả
năng bảo vệ tốt hơn lợi ích của các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nhỏ
tại DN.
Một nhân tố rất quan trọng làm cho đầu tư vào các quỹ đầu tư trở
nên hấp dẫn hơn, nhất là đối với người dân Việt Nam hiện nay trong
điều kiện chưa có TTCK là khả năng hoàn vốn. Tâm lý lo sợ đầu tư dài
hạn vẫn là tâm lý chung của phần đông người dân Việt Nam. Trong khi
đó, đầu tư vào các CTCP trong điều kiện TTCK chưa ra đời thì các cổ
đông với khả năng chuyển nhượng thấp, thường chỉ nhận lại vốn khi
công ty phá sản hoặc giải thể. Như vậy thì rủi ro quá lớn . Nhưng nếu
đầu tư vào quỹ đầu tư thì nhà đầu tư có thể bán lại cho quỹ sau một thời
hạn nhất định (có những loại quỹ không mua lại, nhưng trong điều kiện
Việt Nam hiện nay, theo chúng tôi nên khuyến khích thành lập các quỹ
có hoàn vốn). Thời hạn hoàn vốn phù hợp (theo nghiên cứu của nhiều
chuyên gia) nên là 3 năm vì như vậy đảm bảo .
- Ngang với thời gian huy động vốn trung hạn ở ngân hàng .
- Đủ thời gian cho các DNNN được CPH phát huy những tiềm năng
hiện nay.
- Người dân không sợ bị chôn vốn quá lâu.
Công ty đầu tư sẽ lần lượt thành lập các quỹ đầu tư sau 3 năm khi
quỹ đầu tư trước ra đời. Quỹ đầu tư sau sẽ có thể tái đâù tư vào những
DNNN được CPH mà công ty đã được đầu tư trước đó và đầu tư vào các
DNNN CPH sau này. Người đầu tư của quỹ trước có thể tái đầu tư vào
quỹ đầu tư sau. Do đó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho những nhà đầu tư
37
trung, dài hạn. Các DNNN được CPH phát triển vẫn luôn được công ty
đầu tư giữ cổ phần của họ.
Với những ưu điểm trên, quỹ đầu tư thường có ưu thế hơn các DN
trong việc thu hút vốn đầu tư của các cổ đông đặc biệt là các cổ đông
nhỏ nhất là trong điều kiện TTCK chưa phát triển. Sau đó các quỹ sẽ
tiến hành đầu tư mua cổ phần ở các DNNN tiến hành CPH. Từ đó có thể
thấy rằng, phát triển hình thức công ty đầu tư, quỹ đầu tư sẽ là một giải
pháp hữu ích có tác dụng đẩy nhanh quá trình CPH ở nước ta trong giai
đoạn hiện nay, cũng như tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động của các
CTCP sau này.
Những giải pháp nêu trên có thể chưa phải là những giải pháp tốt
nhất, song hy vọng chúng cũng giúp ích được một chút gì đó cho việc
đẩy mạnh tiến trình CPH DNNN ở nước ta trong thời gian tới.
B. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Chính phủ.
1. Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu
Từ năm năm nay, Sở Giao dịch, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam
làm đại lý cho Bộ Tài chính trong việc đấu thầu trái phiếu kho bạc loại
kỳ hạn dưới một năm. Khách hàng thương mại và các công ty bảo hiểm.
Ai trong số các khách hàng bỏ thầu với lãi suất thấp nhất, số lượng trái
phiếu mua cao nhất thì sẽ trúng thầu. Tuy nhiên, quá trình đấu thầu lại có
những điểm không hợp lý. Bộ Tài chính là cơ quan phát hành đáng lẽ
phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân hàng và công ty
bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất. Nhưng đấu thầu đã được làm ngược lại: các
khách hàng tuyên bố lãi suất và số lượng trái phiếu họ muốn mua, sau đó
Bộ Tài chính mới công bố lãi suất trái phiếu phát hành. Lãi suất của
khách hàng nào sát cận với lãi suất của Bộ Tài chính thì sẽ trúng thầu.
38
Với phương thức đấu thầu như trên, Nhà nước khó huy động được
nguồn vốn với lãi suất thị trường phù hợp. Không ít thời điểm lãi suất
tiền gửi và lãi suất cho vay của ngân hàng đã được hạ thấp, nhưng lãi
suất trái phiếu kho bạc vẫn cao. Chưa kể trong trường hợp ngân sách nhà
nước cần tiền gấp để đầu tư cho một công trình, dự án nào đó, phải phát
hành trái phiếu, nhưng khách hàng "cấu kết" với nhau, bỏ thầu lãi suất
cao, thì các phiên đấu thầu sẽ thất bại. Và trên thực tế đã có những lần
đấu thầu mà không có một trái phiếu nào được phát hành.
Tóm lại, ta phải cải cách lại hình thức đấu thầu : Bộ Tài chính là cơ
quan phát hành phải công bố lãi suất trái phiếu trước, sau đó các ngân
hàng và công ty bảo hiểm sẽ bỏ thầu lãi suất và số lượng.
2. Chuẩn bị phát hành trái phiếu thông qua bảo lãnh
Từ đầu năm 2000, để chuẩn bị hàng hoá cho thị trường chứng
khoán tương lai (một trong những điều kiện để trái phiếu có thể lưu hành
trên thị trường chứng khoán là phải dài hạn). Theo dự kiến, tổng trị giá
trái phiếu Chính phủ phát hành trong năm 2000 là 14.000 tỷ đồng. Đối
với trái phiếu kỳ hạn từ một năm trở lên, có ba hình thức phát hành: Đấu
thầu qua Trung tâm Giao dịch Chứng khoán; qua các công ty bảo lãnh và
bán lẻ qua kho bạc. Tuy nhiên, từ đầu năm đến nay, việc bán lẻ trái
phiếu kho bạc chưa được thực hiện, Trung tâm giao dịch chứng khoán
chưa ra đời, nên Bộ Tài chính mới chỉ chuẩn bị phát hành trái phiếu
thông qua các công ty bảo lãnh. Kho bạc Nhà nước, cho biết công ty
chứng khoán của ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam (Vietinde
bank) và Bảo Việt là hai đơn vị đã đăng ký xin được bảo lãnh phát hành
trái phiếu. Nếu được chọn, những công ty Bảo lãnh sẽ ký hợp đồng với
Bộ Tài chính và họ sẽ nhận được một khoản phí "hoa hồng". Trong
39
trường hợp không phát hành hết, các công ty bảo lãnh sẽ phải bỏ tiền ra
mua hết số trái phiếu đã nhận.
Vấn đề còn lại đang được Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước, Bộ Tài
chính và các bộ, ngành liên quan thảo luận là lãi suất của trái phiếu hợp
lý không những huy động được nguồn lực tài chính trong dân cư, doanh
nghiệp, mà còn tạo điều kiện để các nhà hoạch định chính sách nghiên
cứu, chuẩn bị cho việc phát hành trái phiếu Chính phủ trên thị trường
quốc tế sau này.
C. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Doanh nghiệp.
Giải pháp để đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu của Doanh
nghiệp là Nhà nước phải có văn bản luật cụ thể về vấn đề phát hành trái
phiếu Doanh nghiệp. Các DN có đủ điều kiện phát hành trái phiếu đều
được phát hành thông qua một cơ quan phát hành trái phiếu như các
công ty chứng khoán. Hiện nay mới có hai công ty chứng khoán, và 6
công ty chứng khoán khác đang được xem xét cho phép hoạt động. Vấn
đề phát hành trái phiếu doanh nghiệp sẽ trở nên vô cùng đơn giản khi
phát hành thông qua các công ty chứng khoán, mà hiện nay và sắp tới, số
lượng các công ty chứng khoán sẽ tăng lên đáng kể.
D. Cơ quan quản lý thị trường chứng khoán
Qua thực tiễn các nước cho thấy cơ quan quản lý độc lập. Đối với
Việt Nam về việc thành lập Uỷ ban chứng khoán nhà nước độc lập là
một bước đi đúng đắn và để hỗ trợ cho sự hoạt động của Uỷ ban chứng
khoán, nhà nước cần có sự tài trợ về ngân sách, đồng thời giải quyết thoả
đáng chế độ lương bổng cho cán bộ uỷ ban trong thời gian đầu.
40
E. Hệ thống pháp lý
Trong thời gian qua, những đạo luật cơ bản cho hoạt động của thị
trường chứng khoán đã được ban hành nhưng vẫn còn rất nhiều xun đột
mâu thuẫn giữa các văn bản. Do vậy, các nhà làm luật phải tìm ra một
khung pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán đảm bảo tính
linh hoạt tối đa và nx bước phát triển đồng bộ.
F. Về sự tham gia của nước ngoài
Chúng ta cần có sự mở cửa thị trường một cách thích hợp nhằm thu
hút vốn và công nghệ nước ngoài, cho phép nước ngoài được phép sở
hữu một tỷ lệ phần trăm nhất định và các công ty chứng khoán nước
ngoài được liên doanh với các công ty chứng khoán Việt Nam.
G. Các tổ chức trung gian
Việt Nam nên cho phép các công ty chứng khoán Việt Nam phát
triển các hình thức hoạt động kinh doanh: bảo lãnh phát hành, môi giới,
tự doanh, tư vấn đầu tư chứng khoán, quản lý danh mục đầu tư. Riêng
hình thức quản lý danh mục đầu tư phải hoạt động tách rời dưới hình
thức công ty con nahừm bảo vệ lợi ích của quỹ.
KẾT LUẬN
Trên đây là những kiến thức sơ lược về chứng khoán và thị trường
chứng khoán, thị trường chứng khoán tại Việt nam (ưu, nhược điểm... ),
giải pháp nhằm thúc đẩy thị trường chứng khoán Việt nam. Việc phát
triển và ngày càng hoan thiện thị trường chứng khoán ở Việt Nam là hết
sức cần thiết để thực hiện các mục tiêu đã đề ra cho sự nghiệp công
nghiệp hoá - hiện đại hoá ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc tiến hành vẫn còn
41
gặp rất nhiều khó khăn. Đăc biệt là môi trường để phát triển và hoàn
thiện thị trường chứng khoán ở Việt nam. Chính vì thế Đảng và nhà
nước cần có những giải pháp hỗ trợ tích cực trong điều kiện và khuôn
khổ cho phép cũng như sự góp sức của tất cả các ngành, các cấp cũng
như sự ủng hộ của nhân dân.
Các chính sách, giải pháp cần phải được thực hiện một cách đồng
bộ và linh hoạt. Song điều quan trọng hơn cả là chúng ta cần phải lựa
chọn được một mô hình thị trường chứng khoán thích hợp với Việt Nam
trong hoàn cảnh hiện nay.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Chứng khoán và thị trường chứng khoán - Uỷ ban chứng khoán nhà
nước
2. Những kiến thức cơ bản về chứng khoán và thị trường chứng khoán -
Uỷ ban chứng khoán nhà nước
42
3. Tạp chí tài chính
4. Báo đầu tư chứng khoán
5. Thời báo kinh tế Việt Nam
6. Phân tích đầu tư - Uỷ ban chứng khoán nhà nước
7. Tạp chí Kinh tế và Dự báo