
60
QUÁN TRIỆT QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG VỀ THÚC ĐẨY
XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP, HỌC TẬP SUỐT ĐỜI
TRONG BỐI CẢNH CHUYỂN ĐỔI SỐ HIỆN NAY
Nguyễn Quốc Duy1
Email: quocduynguyen57@gmail.com
Tóm tắt: Chuyển đổi số là xu thế tất yếu khách quan của thời đại, có sự quan tâm và
tham gia mạnh mẽ của các quốc gia trên thế giới nhằm nắm bắt những thuận lợi, thời cơ
của cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư để phát triển kinh tế xã hội và các lĩnh vực khác
trong đó có giáo dục. Việc vận dụng và kế thừa các thành tựu công nghệ vào giáo dục đang
được chú trọng, tạo ra vô số những phương thức giáo dục hiện đại mang lại hiệu quả đồng
thời tiết kiệm chi phí cho người học. Phạm vi bài viết, tác giả làm rõ quan điểm của Đảng
về thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay.
Từ khóa: Quan điểm của Đảng; xã hội học tập, học tập suốt đời; chuyển đổi số.
I. Đặt vấn đề
Xã hội học tập là một xã hội, trong đó, mọi người dân có nhu cầu học tập đều được
đáp ứng và đều có nghĩa vụ học tập. Xã hội tạo cơ hội và điều kiện để công dân nào cũng
được học tập. Trong xã hội học tập, ai cũng được học hành, học thường xuyên, học suốt đời,
trong đó ý thức tự học, học một cách tự giác là yếu tố quyết định nhất. Học tập suốt đời là
tất cả các hoạt động học tập có chủ đích xuyên suốt cuộc đời của mỗi cá nhân, từ khi chào
đời đến lúc rời xa cuộc sống; vừa là quyền lợi, vừa là trách nhiệm của công dân. Học tập
suốt đời và xã hội học tập có quan hệ chặt chẽ tác động qua lại lẫn nhau, thúc đẩy công dân
học tập suốt đời là căn cứ, là cơ sở để thúc đẩy xây dựng xã hội học tập; ngược lại, thúc đẩy
xây dựng xã hội học tập tạo ra tiền đề thuận lợi để công dân có điều kiện học tập suốt đời và
đạt được kết quả học tập tốt nhất. Giờ đây, trước Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư,
nhu cầu đó càng bức thiết hơn bao giờ hết. Việc phát huy thế mạnh chuyển đổi số để thúc
đẩy xã hội học tập, học tập suốt đời đã tạo ra các phương thức học mới, hiệu quả, tiết kiệm,
thuận tiện. Chuyển đổi số tạo cơ hội học tập ở mọi lúc, mọi nơi, cá nhân hóa việc học, góp
phần tạo ra xã hội học tập và tạo động lực học tập suốt đời.
II. Cơ sở lý thuyết
2.1. Thực hiện giáo dục cho mọi người, xây dựng xã hội học tập là quan điểm xuyên suốt
nhất quán của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh
1 Học viện Chính trị, Bộ Quốc phòng

61
Tư tưởng và tấm gương của Chủ tịch Hồ Chí Minh về học tập suốt đời, lấy tự học
làm cốt có ý nghĩa to lớn đối với nhiệm vụ xây dựng xã hội học tập ở Việt Nam hiện nay.
Ngay sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, ngày 08/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã ký sắc lệnh thành lập Nha Bình dân học vụ và kêu gọi toàn dân tham gia phong trào xóa
nạn mù chữ. Bình dân học vụ đã được lan rộng, ăn sâu vào các thôn xóm, làng bản, người
người học chữ, nhà nhà học chữ. Chủ tịch Hồ Chí Minh yêu cầu: Những người biết nhiều
chữ dạy cho những người biết ít chữ, những người biết ít chữ dạy cho những người không
biết chữ. Đâu đâu cũng có thể là trường học, lớp học. Sau gần một năm phát động, cả nước
đã tổ chức được 75.000 lớp học, hơn 95.000 giáo viên, 2.500.000 người biết đọc thông viết
thạo. Đây chính là khởi đầu của việc xây dựng một xã hội học tập. Tư tưởng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh cách đây nhiều thập kỷ đã hòa nhịp với xu thế thời đại hiện nay, Người đã sớm
tiên đoán được yêu cầu của sự phát triển chỉ có bằng con đường học tập. Tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh về giáo dục đào tạo, về học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập đã chỉ
đường cho chúng ta đi trong suốt thời gian qua.
Đồng thời, hưởng ứng lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Hồ Chủ tịch, quyết tử
để Tổ quốc quyết sinh, cuộc đời đẹp nhất trên trận tuyến đánh quân thù, trên toàn lãnh thổ
Việt Nam là một chiến trường đánh đuổi thực dân Pháp và đế quốc Mỹ; cả nước nô nức thi
đua giết giặc lập công, người người thi đua, nhà nhà thi đua; người người học tập, nhà nhà
học tập, cả xã hội Việt Nam là một xã hội học tập, làm chủ vũ khí trang bị, làm chủ chiến
trường, mỗi người dân là một người lính, nhằm thẳng quân thù mà bắn, mỗi viên đạn tiêu
diệt một tên xâm lược, thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người, xẻ dọc trường
sơn đi đánh Mỹ, mà lòng phơi phới dậy tương lai, cả dân tộc đồng lòng tạo nên sức mạnh vô
địch của tinh thần đại đoàn kết toàn dân, đạp bằng mọi trở ngại, gian khổ, hy sinh, lập nên
những chiến công hiển hách: lừng lẫy Năm Châu, chấn động địa cầu năm 1954; đại thắng
mùa xuân năm 1975, hoàn thành xuất sắc lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến và lời hiệu triệu
“Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy nhào” của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Hòa bình lập lại, đất nước thống nhất đi lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng và Nhà
nước ta luôn coi giáo dục và đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu tư cho giáo dục và đào tạo
là đầu tư cho phát triển.Đại hội IX của Đảng xác định chủ trương:”Thực hiện giáo dục cho
mọi người, cả nước trở thành một xã hội học tập” [1]. Nghị quyết Trung ương 8 khóa XI đã
xác định: “Hoàn thiện hệ thống giáo dục quốc dân theo hướng hệ thống giáo dục mở, học
tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập” [2]. Nghị quyết số 29/NQ-TU đánh dấu một bước
tiến lớn trong nhận thức, theo đó xã hội học tập phải bám rễ trong hệ thống giáo dục quốc
dân, nhưng đó phải là một hệ thống giáo dục mở, tức là một hệ thống trong đó các rào cản
trên con đường người học đến với giáo dục dần dần được dỡ bỏ. Kế thừa nghị quyết các kỳ
Đại hội IX, X, XI, XII, Nghị quyết Đại hội XIII của Đảng tiếp tục khẳng định chủ trương
xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Học tập suốt đời là chìa khóa của sự phát triển
bền vững. Xây dựng xã hội học tập là xây dựng một nền giáo dục phục vụ cho xã hội học tập

62
suốt đời của mọi người dân. Điều này càng quan trọng hơn khi chúng ta đang sống trong kỷ
nguyên số với nhiều thay đổi nhanh chóng. Mỗi người không thể đáp ứng được thách thức của
cuộc sống nếu như không biết học suốt đời, và xã hội cũng không thể phát triển bền vững nếu
không trở thành một xã hội học tập. Mỗi công dân Việt Nam phải trở thành “Công dân học
tập”, đáp ứng yêu cầu phát triển đất nước theo các mục tiêu Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
XIII đề ra.
2.2. Chuyển đổi số và chuyển đổi số trong giáo dục
Mặc dù đã xuất hiện từ lâu trên thế giới, song đến khi cuộc Cách mạng công nghiệp
lần thứ tư bùng nổ, chuyển đổi số (Digital transformation) mới xuất hiện và trở nên phổ biến
trong thời gian gần đây. Hiện nay, chưa có khái niệm chung thống nhất về chuyển đổi số.
Tùy theo góc độ nghiên cứu mà các nhà khoa học đã đưa ra những quan điểm khác nhau về
chuyển đổi số. Theo Garner, “Chuyển đổi số là việc sử dụng các công nghệ số để thay đổi
mô hình kinh doanh, tạo ra những cơ hội, doanh thu và giá trị mới”... Theo Microsoft thì
“Chuyến đổi số là việc tư duy lại cách thức các tổ chức tập hợp mọi người, dữ liệu và quy
trình đế tạo những giá trị mới'”'. Có tác giả quan niệm “Chuyến đổi số dùng đế chỉ quá trình,
chiến lược sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông đế thay đổi cách thức tổ chức, hoạt
động, văn hóa, cách phục vụ khách hàng của doanh nghiệp, cơ quan, trường học nhằm mang
lại hiệu quả tốt hơn trong thời đại kỹ thuật số”.
Có thể hiểu một cách khái quát, chuyển đổi số là quá trình chuyển từ mô hình truyền
thống sang mô hình số, bằng cách ứng dụng các công nghệ mới như dữ liệu lớn (Big Data),
điện toán đám mây (Cloud Computing), Internet vạn vật (IoT), trí tuệ nhân tạo (Artificial
intelligence) ... các phần mềm công nghệ để thay đổi cách thức điều hành, quy trình làm
việc, văn hóa của các tổ chức, cơ quan, doanh nghiệp; chuyển các hoạt động từ thế giới thực
sang thế giới ảo ở trên môi trường mạng.
Hiện nay, hầu hết các quốc gia trên thế giới đã và đang tích cực triển khai và xây
dựng chiến lược quốc gia về chuyển đổi số với nội dung rất đa dạng, phong phú. Trong đó,
cơ bản nội dung lĩnh vực chuyển đổi số đều hướng tới: Chính phủ số (như dịch vụ công trực
tuyến, dữ liệu mở); kinh tế số (như tài chính số, thương mại điện tử, phát triển các doanh
nghiệp số); xã hội số (như giáo dục, y tế, văn hóa, an toàn xã hội) và chuyển đổi số trong các
ngành kinh tế trọng điểm của đất nước (điện lực, giao thông, du lịch, nông nghiệp).
Trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, chuyển đổi số là việc nhà trường ứng dụng công
nghệ thông tin, đổi mới mô hình, phương pháp, hình thức tổ chức các hoạt động quản lý,
giảng dạy, học tập và nghiên cứu khoa học nhằm đáp ứng nhu cầu giảng dạy, học tập của
giảng viên và sinh viên, giúp họ phát huy được năng lực tư duy, tính sáng tạo, tích cực, chủ
động trong hoạt động dạy và học. Nói cách khác, khi thực hiện chuyển đổi số, việc tổ chức
các hoạt động giáo dục và đào tạo của các cơ sở giáo dục sẽ thay đổi. Có thể hiểu chuyển
đổi số trong giáo dục là một thay đổi trong đó có áp dụng công nghệ thông tin hiện đại nhằm

63
đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng tăng của học sinh sinh viên, giảng viên và các trường
học; tạo ra một môi trường học tập nơi mà mọi thứ được kết nối. Đây là một hệ sinh thái kết
hợp công nghệ, dịch vụ và bảo mật để thu hẹp khoảng cách kỹ thuật số; tạo ra trải nghiệm
học tập hợp tác, tương tác và cá nhân hóa. Chuyển đổi số trong giáo dục và đào tạo được thể
hiện ở hai nội dung chủ yếu: Chuyển đổi số trong quản lý giáo dục; chuyển đổi số trong các
hoạt động dạy và học, nghiên cứu khoa học. Chuyển đổi số trong quản lý giáo dục bao gồm
các nội dung: Số hóa thông tin quản lý, tạo ra hệ thống cơ sở dữ liệu lớn, triển khai các dịch
vụ công trực tuyến, ứng dụng các thành tựu của cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư (AI,
blockchain, phân tích dữ liệu) để điều hành, quản lý, định hướng, dự báo trong lĩnh vực giáo
dục và đào tạo chính xác, khoa học, nhanh chóng. Trong hoạt động dạy và học, nghiên cứu
khoa học bao gồm: số hóa học liệu (sách giáo trình, bài giảng điện tử, ngân hàng câu hỏi trắc
nghiệm, học liệu số đa phương tiện, phần mềm mô phỏng và các học
2.3. Quán triệt quan điểm của Đảng về thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời
2.3.1. Về cơ sở khoa học của quan điểm
Thứ nhất, xuất phát từ vị trí, vai trò của xã hội học tập, học tập suốt đời đối với sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới.
Yêu cầu nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong tình hình mới,đòi hỏi phải đột
phá đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học
tập suốt đời. Xã hội học tập và học tập suốt đời cần đượcđầu tư nghiên cứu và triển khai thực
hiện mạnh mẽ, quyết liệt, đồng bộ, sâu rộng ở tất cả các cấp, các ngành, các đối tượng trong
cả nước, nhằm đào tạo đủ nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao cho
nhu cầu phát triển của đất nước. Thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời, chính
là tập trung các nguồn lực thúc đẩy công dân học tập (người người học tập), gia đình (nhà
nhà học tập), dòng họ học tập; chi bộ, đảng bộ, thôn/ bản/ ấp/ xóm, xã/ phường/ thị trấn,
huyện, tỉnh, thành phố thành đơn vị học tập; công nhân, nông dân, cán bộ, công chức, viên
chức, đảng viên, lãnh đạo, nhân sĩ trí thức; người trẻ, người già, người đang công tác, người
đã nghỉ hưu… học tập suốt đời. Cuộc cách mạng công nghiệp lần thứ tư đã và đang làm thay
đổi vị thế của công tác giáo dục và đào tạo. Sự bùng nổ của nền tảng công nghệ đang hình
thành nên hạ tầng giáo dục số, tạo cơ hội cho mọi người học tập mọi lúc, mọi nơi, cá nhân
hóa việc học, góp phần thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời. Con người đang
đối diện với lượng tri thức phong phú đa chiều của thời đại số hóa, mỗi người cần phải học
tập suốt đời để có đủ năng lực tư duy, tư duy sáng tạo, tính nhạy bén trước nguồn thông tin
đồ sộ luôn thay đổi, thực tiễn cuộc sống đang đòi hỏi phải đổi mới mạnh mẽ, tạo đột phá
trong đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo, thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học
tập suốt đời.
Thứ hai, xuất phát từ thực trạng giáo dục và đào tạo nói chung, thực trạng xây dựng
xã hội học tập, học tập suốt đời ở nước ta nói riêng, đòi hỏi phải đẩy mạnh hơn nữa, thúc

64
đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời.
Đại hội XIII của Đảng đã chỉ ra những hạn chế, khuyết điểm của giáo dục và đào tạo
ở nước ta đó là: “Đổi mới tư duy, hoạt động giáo dục và đào tạo còn chậm, chưa quyết liệt,
chưa đáp ứng yêu cầu đặt ra; một số nhiệm vụ, giải pháp đổi mới còn thiếu hệ thống, chưa ổn
định. Chất lượng, hiệu quả giáo dục và đào tạo chưa cao. Hệ thống giáo dục và đào tạo chưa
bảo đảm tính đồng bộ và liên thông giữa các trình độ, các phương thức giáo dục và đào tạo….
Đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển kinh tế xã
hội….Nguy cơ tái mù chữ có xu hướng tăng ở miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số” [3].
Những năm vừa qua, nước ta đã triển khai thực hiện hai Ðề án về xây dựng xã hội
học tập, học tập suốt đời (giai đoạn 2005 - 2010) và (giai đoạn 2012 - 2020). Tuy vậy, trong
nhận thức về xã hội học tập vẫn chỉ ở mức độ là một hình ảnh chung nhất. Việc thể chế hóa
chủ trương học tập suốt đời, xây dựng xã hội học tập vẫn chỉ mới ở giai đoạn đầu, nặng về
thiện chí hơn là dựa trên cơ sở nghiên cứu khoa học. Tư tưởng chủ đạo trong xây dựng thể
chế học tập suốt đời vẫn là tư tưởng của mô hình học tập truyền thống. Nhiệm vụ xây dựng
xã hội học tập dường như vẫn chỉ là công việc của ngành giáo dục. Quan hệ phối hợp giữa
các bộ, ngành còn rất hạn chế. Quan hệ hợp tác giữa ngành giáo dục với khu vực sử dụng
lao động còn là khâu yếu. Hệ thống giáo dục vẫn cứng nhắc, nặng về truyền thụ kiến thức
và hướng tới thi cử. Giáo dục chính quy dường như đứng ngoài cuộc, gánh nặng xây dựng
xã hội học tập đặt lên vai giáo dục thường xuyên. Trong khi đó, giáo dục thường xuyên
hướng tới học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập vấp phải các rào cản tài chính như tỷ
lệ chi ngân sách thấp, chưa huy động tốt mọi nguồn lực trong xã hội, hợp tác quốc tế chưa
được coi trọng. Tính hình thức về học tập suốt đời và xây dựng xã hội học tập còn khá phổ
biến, còn nặng về bằng cấp, nhiều bộ, ngành, địa phương nặng về hô hào trên văn bản và
nửa vời trong tổ chức thực hiện.
2.3.2. Một số giải pháp cơ bản thúc đẩy xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời theo quan
điểm của Đảng trong bối cảnh chuyển đổi số hiện nay
Một là, tiếp tục hoàn thiện cơ chế chính sách, khung khổ pháp lý trong hoạt động
giáo dục thích ứng với chuyển đổi số, tạo thuận lợi và thúc đẩy các mô hình trong quản lý,
điều hành trong lĩnh vực giáo dục theo hướng bứt phá, đổi mới, sáng tạo, song vẫn chú trọng
tới công tác đảm bảo an ninh mạng và bảo vệ quyền lợi người học nhằm hạn chế những rủi
ro, thách thức do tác động của công cuộc chuyển đổi số hiện nay. Bộ Giáo dục và Đào tạo
cần đẩy mạnh phát triển hệ thống dữ liệu toàn quốc về giáo dục và đào tạo, phát triển hệ
thống học liệu và môi trường học tập số... Đồng thời, nâng cao chất lượng cán bộ quản lý
giáo dục và đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu chuyển đổi số. Đội ngũ cán bộ quản lý giáo
dục và nhà giáo là động lực, nhân tố đảm bảo cho giáo dục đại học nước ta hội nhập với nền
giáo dục tiên tiến trong khu vực và trên thế giới. Suy đến cùng, chất lượng giáo dục đại học
như thế nào phần lớn phụ thuộc vào chất lượng đội ngũ cán bộ quản lý giáo dục và giảng

