Riềng ôn trung giảm đau
Củ riềng còn gọi là Cao lương khương (khương là
gừng, còn Cao Lương tức là gừng mọc ở đất Cao
Lương -Trung Quốc nên có tên này) hay quả hột
riềng, phong khương, tiểu lương khương, có khá
(Thái), kìm sung (Dao).
Là loại cây mọc hoang và được trồng ở khắp nơi và
một số nước nhiệt đới ở châu Á. Riềng ưa ẩm, râm,
song không chịu được úng. Là thức được dùng làm
gia vị, còn dùng làm thuốc trị bệnh.
Cây riềng có tên khoa học là: Languas officinarump
thuộc họ Gừng: Zingiberaceae, là loại cây nhỏ, thân
rễ mọc bò ngang, dài. Cụm hoa mặt trong màu trắng,
mép hơi mỏng, kèm hai lá bắc hình mo, một màu
xanh, một màu trắng. Lá không cuống, có bẹ, hình
mác dài.
Có tác dụng dược lí như gây giãn mạch trên mạch
máu cô lập và chống co thắt cơ trên ruột, có thể làm
lành các vết loét, có thể thay đổi một số thành phần
trong thải lọc máu.
Đông y cho rằng riềng có vị cay tính ấm, thơm, đi
vào hai kinh tỳ và vị, có tác dụng ôn trung, giảm đau,
làm ấm bụng, làm thuốc kích thích tiêu hóa, giúp ăn
ngon, chữa đầy hơi,dùng chữa nôn mửa nấc, chống
khí lạnh tiêu thức ăn chữa đau bụng do lạnh, phong
thấp, sốt rét do hàn hoặc sốt rét sốt nóng, đau răng,
các chứng trúng gió, làm ấm tỳ kể cả đi lỵ lâu ngày,
thổ tả, chuột rút, hắc lào hoặc lang ben... đặc biệt
riềng bánh tẻ dùng ngậm chữa viêm thanh quản (khàn
tiếng) rất tốt.
Bộ phận dùng làm thuốc là rễ (củ) phơi khô. Cách
bào chế đơn giản. Người ta đào rễ, rửa sạch đất, cắt
bỏ rễ con rồi cắt thành từng đoạn 2 – 3cm, phơi khô.
Riềng được dùng cả trong y học hiện đại và y học cổ
truyền.
Các kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy riềng có
thành phần hóa học là tinh dầu vào khoảng 1%, có
mùi thơm của long não, chủ yếu có chất xineola và
metylxinnamat. Ngoài ra, còn có chất dầu vị cay gọi
là galangola được dùng để làm thuốc kích thích tiêu
hóa, chữa đầy hơi...Để tham khảo và áp dụng dưới
đây xin nêu những cách trị liệu bệnh từ củ riềng như
sau.
* Chữa đau bụng lạnh, nôn mửa, tiêu chảy. Củ riềng
và củ gấu có lượng bằng nhau, tán nhỏ. Mỗi lần uống
6g, ngày uống 3 lần.
* Chữa tiêu chảy.
- Riềng, Củ gấu, gừng khô, sa nhân, trần bì, lượng
bằng nhau, tán nhỏ. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 6g.
- Riềng: 200g, quế:120g, hậu phác: 80g, tán khô. Sắc
uống mỗi lần 12g.
- Riềng: 20g, nụ sim: 80 g, vỏ gối: 60g. Dùng dạng
bột hoặc viên ngày uống 3 lần, mỗi lần 5g.
* Chữa sốt rét cơn, ăn không tiêu, buồn nôn hoặc đau
bụng thổ tả: Hạt riềng tán nhỏ, uống 6 – 10g ngày.
* Chữa sốt rét kém ăn: Cao lương khương tẩm dầu
vừng sao 40g, can khương nướng 40g, hai vị tán nhỏ
dùng trừ đảm hòa vào rồi viên to bằng hạt ngô. Ngày
uống 15 – 20 viên. Hoặc chữa cảm sốt, sốt rét kém
ăn: Lấy quả riềng tán nhỏ, uống ngày 6 – 10g.
* Chữa sốt rét: Bột riềng 300g, bột quế khô, bột thảo
quả mỗi thứ 100g, tất cả đem trộn với mật làm viên to
bằng hạt ngô. Mỗi ngày dùng 15 viên trước khi lên
cơn. Hoặc riềng tẩm dầu vừng sao 40g, gừng khô
nướng 35g tán nhỏ, hòa mật lợn làm hoàn thành viên
bằng hạt ngô, uống ngày 15 – 20 viên.
* Chữa ho viêm họng, tiêu hóa kém: Củ riềng thái lát
mỏng, muối chua. Mỗi khi sử dụng ngâm với vài hạt
muối rồi nhai nuốt dần.
* Chữa đau tức xối lên tim, toát mồ hôi lạnh, xuyến
thở: Dùng riềng, ô dược (ngâm rửa với rượu một đêm
sao khô), tiểu hối hương, thanh bì lượng bằng nhau,
uống ngày 2 lần, mỗi lần 4g.
* Chữa hắc lào, lang ben: Củ riềng già 100g, giã nát
ngâm trong 200ml rượu hoặc cồn 70 độ, chiết ra lấy
dung dịch này bôi vào nơi hắc lào, ngày bôi vài lần..
Hay Củ riềng thật già, thái lát, ngâm với rượu 90 độ,
càng lâu càng tốt, bôi ngày vài lần. Hoặc: Củ riềng
già, chuối xanh và một chút vôi bột, bôi trị hắc lào
cũng rất hay.
* Chữa lang ben: Củ riềng 100g, lá và củ chút chít
100g, chanh một quả, hai thứ giã nát rồi vắt nước
chanh, đun nóng. Khi dùng lấy bông y tế thấm dịch
thuốc bôi đều lên vùng tổn thương, ngày bôi 2 lần.
Dùng trong 5 – 7 ngày.
* Chữa đau bụng do lạnh: Củ riềng 20g, nụ sim 8g,
búp ổi 60g, tất cả sấy khô, tán bột. Ngày uống 3 lần
sau ăn, mỗi lần 5g với nước sôi để nguội. Hoặc củ
riềng 200g, quế 120g, hậu phác 80g, sấy khô. Sắc
uống mỗi lần 12g với 200ml nước, còn 50ml uống
trong ngày. Dùng trong 2 – 4ngày.
* Chữa đau bụng do lạnh, nôn mửa: Cao lương
khương 8g, đại táo 5g. Sắc với 300ml còn 100ml,
chia 2-3 lần uống trong ngày.
* Chữa phong thấp: Riềng, vỏ quýt, hạt tía tô mỗi vị
60g, sấy khô, tán nhỏ, mỗi lần dùng 4g, có thể pha
với một chén nước sôi để nguội hoặc rượu, uống
ngày 2 lần. Dùng trong 5 – 7 ngày.
* Trị chứng đầy bụng, khó tiêu: Riềng thái lát mỏng,
đem muối chua, khi dùng có thể ngậm với vài hạt
muối hoặc nhai nuốt dần. Ngày dùng 2 – 3 lần.
* Chữa đau dạ dày do hư hàn (Đau có thời gian nhất
định, gặp lạnh hay đói đau nhiều, đầy bụng, nôn nước
trong, đại tiện lỏng, ăn uống không ngon, sợ lạnh,
lưỡi nhạt, rêu lưỡi trắng, mạch trầm): Củ riềng,
hương phụ mỗi vị 8g, bách hợp, đan sâm mỗi vị 30g,
ô dược 10g, đinh hương 7g, sa nhân 4g. Sắc với 3 bát
nước còn 1 bát, chia 2 lần uống trong ngày. Dùng
trong 5 ngày.
Chữa đau dạ dày cấp: Đau đớn khó chịu, nôn oẹ, ăn
uống kém. Dùng các vị sau: cao lương khương (chế
với đại hoàng), thanh bì, trần bì, mộc hương, thạch
xương bồ mỗi vị 6g; đinh hương 4g; sơn tra 15g. Sắc
uống ngày một thang.
* Chữa chứng đau dạ dày: Đau dữ dội, trằn trọc
không yên, chân tay lạnh, môi tái, bụng trướng. Dùng
thang gia vị thược dược cam thảo: Bạch thược sao
30g, cam thảo chích 10g, cao lương khương 10g, tô
mộc 10g, bạch chỉ 15g. Tán bột, uống với nước lã
đun sôi, hoặc sắc uống ngày một thang.