
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TỈNH HÒA BÌNH
TRƯỜNG CĐSP HÒA BÌNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
Tác giả: Thạc sĩ Nguyễn Vũ A Sa
TÍCH HỢP GIÁO DỤC GIỚI TÍNH VÀ SỨC KHỎE SINH SẢN
VỊ THÀNH NIÊN TRONG CHƯƠNG TRÌNH SINH HỌC LỚP 8
TẠI TRƯỜNG PT THỰC HÀNH CHẤT LƯỢNG CAO NGUYỄN TẤT THÀNH
Năm học 2019-2020

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
GV Giáo viên
HS Học sinh
GDGT Giáo dục giới tính
SKSS Sức khỏe sinh sản
VTN Vị thành niên

Chương 1. TỔNG QUAN
1.1. Lí do viết sáng kiến.
Lứa tuổi vị thành niên là giai đoạn chuyển tiếp giữa trẻ nhỏ và người trưởng
thành. Tuy chỉ diễn ra trong vài năm nhưng giai đoạn này ảnh hưởng rất lớn đến
sự phát triển toàn diện của cuộc đời mỗi con người. Giai đoạn này được thể hiện
bằng sự phát triên nhanh chóng về cả thể chất lẫn trí tuệ, tâm sinh lý, các mối
quan hệ xã hội và phát triển cả về mặt tinh thần.
Học sinh trung học cơ sở đang ở độ tuổi vị thành niên nên còn nhiều bỡ
ngỡ trước sự thay đổi của bản thân khi bước vào tuổi dậy thì và có nhiều tò mò,
thắc mắc về vấn đề giới tính nhưng không được giải đáp thỏa đáng. Mặt khác,
hiện nay sự phát triển nhanh chong các mặt của đời sống xã hội, sự bùng nổ một
cách ồ ạt của các hệ thống truyền tải thông tin như internet, điện thoại di động…
đã làm ảnh hưởng đến quan điểm, nhận thức về quan hệ tình dục, tình yêu, hôn
nhân ở thanh thiến niên. Nhiều thanh thiếu niên đã bắt đầu quan hệ tình dục trong
khi chưa hiểu biết đúng dắn về sức khỏe sinh sản. Sự thiếu hiểu biết này có thể
dẫn đến những hậu quả nghiêm trọng như: mang thai ngoài ý muốn dẫ đến nạo
phá thai ở độ tuổi vị thành niên; sinh con và nuôi con khi độ tuổi còn quá trẻ, làm
lỡ dở việc học tập; mắc các bệnh lây nhiễm qua đường tình dục ảnh hưởng lớn
đến sức khỏe và đời sống tinh thần sau này.
Cung cấp thông tin về giới tính, giáo dục sức khỏe sinh sản cho vị thành
niên là việc làm cần thiết nhưng một số người vẫn coi đây là vấn đề tế nhị, có thái
độ lảng tránh. Bên cạnh đó, ở nhà trường, công tác giáo dục giới tính vẫn còn bỏ
ngỏ, chưa có giáo viên chuyên trách về vấn đề này. Ở gia đình, một số phụ huynh
còn e dè hoặc thiếu quan tâm đến vấn đè này, một số khác có quan tâm nhưng
không đủ kiến thức để giải đáp hết các thắc mắc của con em mình về vấn đề này.
Xuất phát từ những lí do trên, tôi xin đưa ra sáng kiến: “Tích hợp giáo dục
giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên trong chương trình Sinh học
lớp 8 tại trường Phổ thông thực hành chất lượng cao Nguyễn Tất Thành”
nhằm cung cấp cho học sinh một phần thông tin về giới tính và các vấn đề về giáo
dục sức khỏe giới tính, đồng thời chia sẻ cùng đồng nghiệp một số kinh nghiệm
trong vấn đề tích hợp giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản cho học sinh.
1.2. Cơ sở lý luận của vấn đề nghiên cứu
1.2.1. Khái niệm tích hợp
Trong tiếng Anh, tích hợp (intergration) là “toàn bộ, toàn thể”, nghĩa là sự
phối hợp các hoạt động khác nhau, các thành phần khác nhau của một hệ thống
nhằm đảm bảo sự hài hòa giữa chức năng và mục tiêu hoạt động của hệ thống.
Theo từ điển Tiếng Việt: tích hợp là “sự hợp nhất, sự hòa nhập, sự kết hợp”

Theo từ điểm Giáo dục học: tích hợp là “hành động liên kết các đối tượng
nghiên cứu, giảng dạy, học tập của cùng một lĩnh vực hoặc vài lĩnh vực khác nhau
trong cùng một kế hoạch giảng dạy”.
Như vậy, tích hợp kiến thức là sự kết hợp, lồng ghép, liên kết tri thức của
các khoa học khác nhau thành một tập hợp kiến thức toàn vẹn, thống nhất.
1.2.2. Khái niệm dạy học tích hợp
Theo UNESCO, dạy học tích hợp các khoa học được định nghĩa là “một
cách trình bày các khái niệm và nguyên lý khoa học cho phép diễn đạt sự thống
nhất cơ bản của tư tưởng khoa học, tránh nhấn quá mạnh sự sai khác giữa các
lĩnh vực khoa học khác nhau”.
Theo PGS.TS Nguyễn Văn Khải: “dạy học tích hợp là tạo ra các tình huống
liên kết tri thức các môn học, đó là cơ hội phát triển các năng lực học sinh. Khi xây
dựng các tình huống vận dụng kiến thức, học sinh sẽ phát huy được năng lực tự
lực, phát triển tư duy sáng tạo”.
Trong dạy học, tích hợp có thể được coi là sự liên kết tri thức của các đối
tượng giảng dạy – học tập trong cùng một kế hoạch hoạt động nhằm đảm bảo sự
thống nhất, hài hòa, trọn vẹn của hệ thống dạy học nhằm đạt mục tiêu dạy học tốt
nhất. Qua đó người học không chỉ lĩnh hội được các tri thức khoa học của môn
chính mà cả tri thức khoa học được tích hợp, từ đó hình thành cho người học cái
nhìn khái quát, logic, biện chứng đối với các tri thức có cùng đối tượng nghiên
cứu.
Tích hợp Giáo dục giới tính và sức khỏe sinh sản vị thành niên trong dạy
học Sinh học là kết hợp một cách có hệ thống các kiến thức Sinh học với vấn đề
giới tính và sức khỏe sinh sản, làm cho chúng hòa quyện với nhau hợp thành một
thể thống nhất.
1.2.3. Khái niệm về giáo dục giới tính
Giới tính là tập hợp các đặc điểm riêng biệt, tạo nên sự khác nhau giữa
nam và nữ.
Giới là sự khác biệt về mặt xã hội giữa nam giới và phụ nữ như vai trò, thá
độ, hành vi ứng xử và các giá trị. Vai trò của giới được biết đến thông qua quá
trinh học tập và khác nhau theo nền văn hóa và thời gian, do vậy giới có thể thay
đổi được.
Giáo dục giới tính cho học sinh là hình thành ở họ nhưng chuẩn mực đạo
đức của hành vi liên quan đến những lĩnh vực riêng tư, thần kín nhất của đời sống
con người, hình thành những quan hệ đạo đức lành mạnh giữa nam và nữ.
Giáo dục giới tính có ý nghĩa xã hội quan trọng:
- Sự hiểu biết của học sinh về những kiến thức liên quan đến giới, giới tính
và những vấn đề tình dục, hôn nhân, gia đình có tác dụng định hướng cho các em

trong trong quan hệ với các bạn khác giới, các vấn đề về hôn nhân, gia đình sau
này.
- Sự hiểu biết của học sinh về những vấn đề liên quan đến tuổi dậy thì, đến
sinh hoạt tình dục và các bệnh lây lan qua đường tình dục sẽ định hướng cho họ
những vấn đề về sinh sản được an toàn, đảm bảo con cái khỏe mạnh.
- GDGT là vũ khí quan trọng trong vấn đề kiểm soát dân số, bảo vệ sức
khỏe và phát triển con người, giúp cho xã hội bớt đi những gánh nặng không đáng
có.
1.2.4. Khái niệm về sức khỏe sinh sản
Theo tổ chức Y tế Thế Giới (WHO): Sức khoẻ là một trạng thái hoàn hảo cả
về mặt thể chất, tinh thần và xã hội, chứ không chỉ là không có bệnh tật hoặc tàn
phế.
Sức khoẻ sinh sản là trạng thái khoẻ mạnh, hoàn hảo về thể chất, tinh thần
và xã hội trong tất cả mọi khía cạnh liên quan đến hệ thống sinh sản, chức năng
sinh sản và quá trình sinh sản chứ không phải chỉ là không có bệnh tật hay tổn
thương ở bộ máy sinh sản.
Sức khoẻ sinh sản bao gồm nhiều khía cạnh, trong đó có cả khía cạnh liên
quan đến sức khoẻ tình dục, hệ thống sinh sản, chức năng sinh sản và quá trình
sinh sản của con người được hình thành, phát triển, và tồn tại trong suốt cuộc đời.
Sức khoẻ sinh sản có tầm quan trọng đặc biệt đối với cả nam giới và nữ giới. Quá
trình sinh sản và tình dục là một quá trình tương tác giữa hai cá thể, nó bao hàm
sự tự nguyện, tinh thần trách nhiệm và sự bình đẳng.
Sức khỏe sinh sản vị thành niên (SKSS VTN): “Là tình trạng khỏe mạnh về
thể chất, tinh thần và xã hội của tất cả những gì liên quan đến cấu tạo và hoạt
động của bộ máy sinh sản ở tuổi VTN, chứ không chỉ là không có bệnh hay khuyết
tật của bộ máy đó”.
1. 3. Phương pháp tiếp cận để tạo ra sáng kiến
1.3.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu về chủ chương, đường lối của Đảng, chính sách
pháp luật của nhà nước về công tác giáo dục.
Nghiên cứu các bài báo, tập san, luận văn liên quan đến đề tài nghiên cứu.
1.3.2. Phương pháp phỏng vấn
Trò chuyện, tiếp xúc với học sinh trong trường Phổ thông Thực hành chất
lượng cao Nguyễn Tất Thành để nắm bắt những nhu cầu, nguyện vong được tìm
hiểu về vấn đề giới tính, và sức khỏe sinh sản vị thành niên.
1.3.3. Phương pháp trao đổi với chuyên gia
Gặp gỡ, trao đổi với các chuyên gia tâm lý, các bác sĩ sản khoa và đồng
nghiệp có kinh nghiệm.

