ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ
TRƯỜNG TRUNG HỌC CƠ SỞ VẠN PHÚC
SÁNG KIN KINH NGHIM
RÈN KĨ NĂNG LÀM BÀI PHN
ĐỌC - HIU NG LIỆU NGOÀI VĂN BẢN
CHO HC SINH LP 9
Lĩnh vực/ Môn: Ngữ văn
Cấp học: THCS
Tên tác giả : Lã Thúy Hạnh
Đơn vị công tác: Trường THCS Vạn Phúc
Chức vụ: Giáo viên
Năm học: 2020- 2021
2
PHẦN A: DẶT VẤN ĐỀ
I. Lí do chọn đề tài
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã từng cho rằng: “Văn học, một hình thái
ý thức đặc biệt của hội, nghệ thuật vận dụng ngôn ngữ một cách tài tình
và sáng tạo để nhận thức và phản ánh đời sống xã hội, để biểu hiện tâm tư con
người. Văn học đã trở thành công cụ để giáo dục con người, cải tạo hội rất
mạnh mẽ, nó là thứ vũ khí tư tưởng rất sắc bén có tác dụng to lớn, sâu rộng và
bền bỉ lịch sử loài người ttrước đến nay đã xác nhận”. Môn văn ngoài
“dạy sống, dạy người, dạy mở mang trí tuệ”, còn nhiệm vcung cấp cho
học sinh những hiểu biết một cách hệ thống về tri thức văn học. Đây
những tri thức khái quát rất quan trọng bởi lẽ dạy văn không chỉ dừng lại
chỗ giúp người học cảm thụ được vẻ đẹp của từng tác phẩm văn chương cụ
thể, mặt khác góp phần trang bị cho các em những kiến thức công cụ để
thể tự mình tiếp nhận văn học một cách luận, tiếp nhận văn học một
cách văn học. Dạy học không phải rót kiến thức vào cái bình chứa, hay
nhồi nhét cho HS một mớ kiến thức hỗn độn điều quan trọng phải làm
sao trang bị cho các em phương pháp nghiên cứu, học tập, phương pháp giải
quyết các vấn đề. Đ đọc hiểu tác phẩm văn chương, đòi hỏi người đọc
không chỉ trực cảm thẩm mĩ, thưởng thức rung cảm còn khả năng
phân tích, giải, đánh giá qua hệ thống ngôn ngữ. Trong dạy học tác phẩm,
không thể đối lập giữa cảm hiểu, giữa khả năng cảm thụ thẩm tri
thức lí luận văn học.
Muốn vậy, “không thể không trang cho HS một vốn liếng luận cần
thiết”. Tri thức luận văn học tri thức công cụ, tri thức phương pháp,
kiến thức siêu kiến thức, giúp cho việc đọc văn phương pháp, phù hợp
với bản chất đặc trưng của văn học, đồng thời giúp phân tích, giải tác
phẩm văn chương một cách đầy đủ sâu sắc. Nếu không, những kiến thức
học sinh được cũng chỉ những kiến thức vụn vặt, cảm tính, mang
tính liệu. Mục đích cuối cùng cao nhất của dạy học trong Nhà trường
hiện đại phát triển năng lực người học một cách toàn diện. Mục đích của
dạy đọc hiểu văn bản là rèn luyện và phát triển khả năng tự học, tự đọc và tạo
lập văn bản ở các em.
Để làm được điều đó, tôi đã mạnh dạn nghiên cứu các biện pháp để “Rèn kỹ
năng làm bài phần đọc hiểu ngữ liệu ngoài văn bản cho học sinh lớp 9”
II. Giới hạn đề tài:
Trong sáng kiến này tôi chỉ đề cập đến một số giải pháp giúp học sinh
khai thác ngữ liệu ngoài văn bản mà tôi đã áp dụng cho học sinh 9 với một số
dạng câu hỏi cụ thể
3
III. Mục đích nghiên cứu:
Với vai trò nghề giáo tôi luôn tâm niệm làm sao cho các em học sinh
hiểu bài làm bài nhanh nhất, tốt nhất. Học sinh năng học ôn thi
được vào phổ thông trung học là điều tôi mong muốn, hi vọng.
IV. Đối tượng nghiên cứu
Học sinh lớp 9 trường Trung học sở khi đọc hiểu văn bản ngoài
chương trình.
PHẦN B: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở lí luận:
Đọc - hiểu là một năng lực tiếp nhận văn bản, thông qua hoạt động của con
người đọc chữ, xem các hiệu bảng biểu, hình ảnh trong nhiều loại văn bản
khác nhau, nhằm xthông tin trong văn bản để phục vụ những mục đích cụ
thể trong học tập hoặc giải quyết các nhiệm vụ thực tiễn của cuộc sống.
Đọc hiểu hoạt động bản của con người để chiếm lĩnh văn hóa. Khái
niệm đọc hiểu (comprehension reading) nội hàm khoa học phong phú
nhiều cấp độ gắn liền với luận dạy học văn, thuyết tiếp nhận tâm học
nghệ thuật, lí thuyết giao tiếp thi pháp học, tường giải học văn bản học …
Đọc một hoạt động của con người, dùng mắt để nhận biết các hiệu
chữ viết, dùng trí óc đduy lưu giữ những nội dung mà mình đã đọc
sử dụng bộ máy phát âm phát ra âm thanh nhằm truyền đạt đến người nghe.
Hiểu phát hiện nắm vững mối liên hệ của sự vật, hiện tượng, đối tượng
nào đó ý nghĩa của mối quan hệ đó. Hiểu còn sbao quát hết nội dung
và có thể vận dụng vào đời sống. Hiểu là phải trả lời được các câu hỏi Cái gì?
Như thế nào? Làm thế nào?
Đọc hiểu đọc kết hợp với sự hình thành năng lực giải thích, phân tích, khái
quát, biện luận đúng- sai về logic, nghĩa kết hợp với năng lực, duy
biểu đạt. Mục đích trong tác phẩm văn chương, đọc hiểu phải thấy được:
Nội dung của văn bản; mối quan hệ ý nghĩa của văn bản do tác giả tổ chức và
xây dựng; ý đồ, mục đích.
Thấy được tưởng của tác giả gửi gắm trong tác phẩm; giá trị đặc sắc của
các yếu tố nghệ thuật; ý nghĩa của từ ngữ được dùng trong cấu trúc văn bản;
thể loại của văn bản, hình tượng nghệ thuật…
Như vậy, đọc hiểu hoạt động đọc giải mã các tầng ý nghĩa của văn bản
thông qua khả năng tiếp nhận của học sinh. Đọc hiểu tiếp xúc với văn bản,
hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông
hiểu các thông điệp tưởng, tình cảm của người viết và giá trị tự thân của
hình tượng nghệ thuật.
Với quan điểm phát huy vai trò chủ thể của học sinh, xuất phát từ đặc thù của
văn chương (nghệ thuật ngôn từ), mà vấn đề đọc hiểu văn bản ngày càng
được quan tâm.
II. Cơ sở thực tiễn
4
Như trong phần đặt vấn đề đã nói: dạng bài đọc hiểu một tác phẩm ngoài
chương trình một trong những nội dung khá mới song rất quan trọng
ý nghĩa đối với học sinh. Trên thực tế, việc dạy văn học văn chưa thực sự
đạt được hiệu quả như mong muốn. Thực tế giảng dạy và ôn tập chưa làm cho
học sinh hứng thú khi học bộ môn này. Nhất đối với các em học sinh lớp 9
- áp lực thi cử khiến các em nhiều khi mệt mỏi. Cùng với đó, cách dạy biến
học sinh trong quá trình ôn tập diễn ra một cách thụ động với học sinh qua
công thức: Nghe- chép- học thuộc- tái hiện những gì thầy cô đã dạy. Chính vì
lẽ đó, học sinh bị chai sạn cảm xúc, không tâm thế hứng thú m hiểu,
khai thác, chiếm lĩnh bộ môn vốn cực kỳ giàu chất ngôn ngữ và nhân văn
này. Tất cả các bài học, thông điệp, nội dung tư tưởng, cái hay, cái đẹp của tác
phẩm đã phần nào bị chìm lấp bởi các thao tác lặp đi lặp lại đến nhàm chán
đó. Tác phẩm trong chương trình đã vậy, ngoài chương trình hay chưa lần nào
bắt gặp các em còn sợ hơn, lung túng hơn. Tuy hiện tượng này không phải
tất cả nhưng rất phổ biến.
Đối với học sinh khối 9 trường THCS Vạn Phúc cũng không phải là ngoại
lệ. Mặc dù đa phần các em ngoan ngoãn, có ý thức song vẫn không tránh khỏi
tình trạng như tôi vừa nêu trên, nhất qua kì thi tuyển sinh vào lớp 10 THPT
2019 2020, lần đầu tiên trong đề thi kiểu bài dạng bài đọc hiểu một tác
phẩm ngoài chương trình- ngữ liệu trong bài tiếng Việt nên các em đã tỏ ra
khá lúng túng. Năng lực cảm thụ, năng lực đọc hiểu văn bản của học sinh còn
rất hạn chế.
Do không năng lực đọc hiểu, nên khi tiếp cận với một văn bản mới
ngoài sách giáo khoa sẽ mất rất nhiều thời gian để đọc hiểu văn bản, dẫn
đến không còn đủ thời gian để làm các phần còn lại. Điều đó ảnh hưởng
không nhỏ đến kết quả làm bài của các em.
Những học sinh trung bình và yếu, lười học, lười đọc, ngại suy nghĩ, m
việc rập khuôn, khi giao bài tập về nhà thường không tự mình đọc văn bản,
suy nghĩ để làm bài các em thường tìm kiếm câu trả lời trên mạng, hoặc
chép bài của bạn. Chính vì vậy, kĩ năng làm bài của các em rất hạn chế, nhiều
em chưa nắm vững kiến thức nên khó vận dụng để làm bài tập, đặc biệt đây
lại một dạng bài tập khó, đòi hỏi sự vận dụng linh hoạt các kiến thức,
năng, phân tích tổng hợp, tư duy
Với thực trạng như vậy nên khi đến với một dạng bài tập khá mới mẻ
phải phát huy hết khả năng tích cực, chủ động, sáng tạo của bản thân dạng bài
đọc hiểu một tác phẩm ngoài chương trình thì học sinh hầu hết sẽ thấy bỡ ngỡ
khó khăn. Vấn đề đặt ra với người giáo viên dạy văn làm để khắc
phục tình trạng đó? một câu nói như thế này: Người thầy giáo bình
thường chỉ biết nói. Người thầy giáo giỏi biết phân tích. Người thầy giáo xuất
sắc biết tạo tình huống. Còn người thầy giáo đại biết truyền cảm xúc.”
Đúng như vậy, chỉ khi nào giáo viên truyền được cảm xúc tới học sinh, gợi
lên trong các em khao khát chiếm lĩnh tác phẩm tkhi đó người giáo viên
mới thực sự thành công, trở thành người thầy giáo đại. Sự “vĩ đại” đây
5
không phải được đo bằng các giải thưởng, bằng khen hay huân chương cao
quý “vĩ đại”, đơn giản là đã giúp học sinh chạm được đến cái hay, cái đẹp
của tác phẩm. Đấy là sự đại khi người thầy chỗ đứng vững chắc trong
tâm hồn, trái tim học trò.
III. Nội dung và giải pháp cụ thể
Từ các nguyên nhân, thực trạng trên, tôi đã cố gắng tìm hiểu cấu trúc, phạm
vi, yêu cầu của dạng bài này để giúp các em nắm được. Sau đó, củng cố lại
những kiến thức cần đthực hiện việc đọc hiểu văn bản. Hướng dẫn các
em các bước khi làm dạng bài này. Tìm tòi các bài tập, sắp xếp bài tập theo
các mức độ (nhận biết, thông hiểu, vận dụng thấp và vận dụng cao), quy về
các dạng bài cụ thể, mỗi mức độ, mỗi dạng bài cụ thể hướng dẫn học sinh
cách làm dụ minh họa. Sau mỗi dạng, tôi đưa ra bài tập củng cố để học
sinh tự rèn luyện.
1. Giải pháp 1: Khảo sát, phân loại đối tượng
1.1. Nội dung: Để làm được một bài tập đọc- hiểu học sinh phải nắm chắc
một số kiến thức nền bản như nghĩa của từ, biện pháp tu từ, phương tiện
liên kết, các kiểu đoạn văn... ngoài ra còn phải độ nhanh nhạy của việc tiếp
xúc với câu hỏi. Muốn vậy giáo viên cần khảo sát để phân loại đối tượng, để
tùy từng đối tượng xem xét có phương pháp dạy học cụ thể
1.2. Cách tiến hành
- Khảo sát đầu năm học lớp 9 hoặc thể cuối năm lớp 8 bằng một đvăn cụ
thể
1.3. Minh họa
Đọc đoạn thơ sau và tr li câu hi:
Con ong làm mt, yêu hoa
Con cá bơi, yêu c; con chim ca, yêu tri
Con người mun sống, con ơi!
Phải yêu đồng chí, yêu người anh em.
Mt ngôi sao chẳng sáng đêm
Mt thân lúa chín, chng nên mùa vàng
Một người- đâu phải nhân gian
Sống chăng, một đốm la tàn mà thôi!
(Trích Tiếng ru- T Hu.
In trong tp Gió lộng; NXB Văn học- 1961)
Câu 1. Nêu phương thức biểu đạt chính của đoạn thơ?