
[1]
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc
THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI
PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC
HIỆN SÁNG KIẾN
1. Tên giải pháp:
DẠY HỌC THEO ĐỊNH HƯỚNG MỚI GẮN STEM VÀO CHƯƠNG 2 -
HÓA HỌC 12 NHẰM PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC VÀ HỨNG THÚ
HỌC TẬP CHO HỌC SINH
2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu : từ 28/9/2020 đến 22/10/2020
3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có):……………………………………
4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm
4.1. Nội dung Phương pháp dạy học theo giải pháp cũ thường làm.
Môn Hóa học được Bộ giáo dục và Đào tạo biên soạn trên tinh thần đổi
mới, đảm bảo tính phổ thông, cơ bản, hiện đại và phù hợp với thực tiễn Việt
Nam. Nó cùng với các môn học khác trong trường phổ thông góp phần quan
trọng vào việc tạo nền tảng ban đầu để đào tạo con người phát triển toàn diện
“Giáo dục phổ thông cơ sở nhằm giúp học sinh hoàn thiện học vấn phổ thông có
những hiểu biết thông thường về kỹ thuật và hướng nghiệp, có điều kiện
lựa chọn hướng phát triển và phát huy năng lực cá nhân, tiếp tục học trung học
phổ thông, học nghề”.
Thực tế hiện nay, việc đổi mới phương pháp dạy học môn Hóa học chưa
mang lại hiệu quả cao. Truyền thụ tri thức một chiều vẫn là phương pháp dạy
học chủ đạo của nhiều giáo viên.
Số giáo viên thường xuyên chủ động, sáng tạo trong việc phối hợp các
phương pháp dạy học cũng như sử dụng các phương pháp dạy học phát huy tính
tích cực, tự lực và sáng tạo của học sinh còn chưa nhiều. Dạy học vẫn còn nặng
về truyền thụ kiến thức lý thuyết.
Việc rèn luyện kỹ năng sống, kỹ năng giải quyết các tình huống thực tiễn
cho học sinh thông qua khả năng vận dụng tri thức tổng hợp chưa thực sự được
quan tâm. Việc ứng dụng công nghệ thông tin - truyền thông, sử dụng các
phương tiện dạy học chưa được thực hiện rộng rãi và hiệu quả trong các trường
phổ thông cơ sở.
Thực trạng trên đây dẫn đến hệ quả là nhiều học sinh còn thụ động trong
việc học tập môn Hóa học; khả năng sáng tạo và năng lực vận dụng tri thức đã
học để giải quyết các tình huống thực tiễn cuộc sống còn hạn chế như:
*Thứ nhất: Thiếu động cơ học tập

[2]
Chương trình bộ môn Hóa học còn nặng tính hàn lâm, chưa phù hợp với
mọi đối tượng, chưa đảm bảo được tính vùng miền. Tư tưởng nhiều HS coi môn
Hóa học là môn phụ nên học sinh không lo sợ kết quả, không có hứng thú học
tập. Chủ yếu học sinh tập trung vào các môn thi tốt nghiệp THPT nên đa số các
em không đầu tư nhiều thời gian cho bộ môn này. Công tác quản lý, theo dõi,
đánh giá chưa kích thích được tinh thần, khí thế của người dạy và người học,
chưa thúc đẩy được chất lượng, hiệu quả dạy học và cũng chưa kịp thời uốn nắn
được những lệch lạc xảy ra.
*Thứ hai: Hạn chế về giáo viên
Hiện nay, mặc dù khoa học và công nghệ đang từng ngày, từng giờ thay
đổi, các hiện tượng thực tế học sinh phải tiếp xúc rất phong phú, thế nhưng việc
cập nhật thông tin, đào tạo lại và bồi dưỡng giáo viên chưa được kịp thời. Vì vậy,
trong giảng dạy bộ môn, không ít giáo viên còn tỏ ra lúng túng, một số giáo viên
chưa đầu tư đúng mức hoặc chưa có điều kiện học tập nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ để đáp ứng được yêu cầu.
Phương pháp dạy học mà giáo viên sử dụng vẫn chủ yếu là phương
pháp truyền thống: thầy giảng - trò nghe, thầy đọc - trò ghi, phương pháp này
mang tính chất thông báo, tái hiện. Hiện nay các phương pháp dạy học tích cực
đã và đang được nghiên cứu và vận dụng vào thực tiễn dạy học, thuật ngữ này
dần dần trở nên quen thuộc. Tuy nhiên, nhiều công trình nghiên cứu mới dừng
lại ở phạm vi lý luận, hoặc còn là chủ trương, chỉ thị,… chứ chưa thực sự đi vào
nhà trường, chưa trở thành nhu cầu bức thiết với từng giáo viên, học sinh, từng
môn học, bài học. Đại đa số giáo viên đều thấy đổi mới phương pháp dạy học là
cần thiết, nhưng đổi mới như thế nào, triển khai thực hiện ra sao đối với môn
học, bài học cụ thể vẫn còn lúng túng.
*Thứ ba: Thiếu sự hỗ trợ từ thiết bị
Cơ sở vật chất, thiết bị phục vụ dạy học còn hạn chế. Nội dung kiến thức
môn học đòi hỏi nhiều phương tiện trực quan như thực hành thí nghiệm, tranh
vẽ, vật thật,…nhưng thực tế hiện nay dạy “chay” vẫn phổ biến.
Như vậy phương pháp dạy học cũ không khắc sâu được kiến thức cho học
sinh và không tạo được hứng thú học tập cho các em. Chưa tạo được sự chủ
động chiếm lĩnh kiến thức của người học và học sinh khó áp dụng vào thực tiễn
đời sống.
4.2. Kết quả dạy học theo giải pháp cũ.
- Học sinh chưa hứng thú khi học tập đối với bộ môn được tiếp cận muộn
và kiến thức khá trừu tượng. Do đó, chưa định hướng phương pháp học tập hợp
lí để chiếm lĩnh tri thức một cách chủ động. Trong những năm gần đây các
trường THPT đã có những chuyển đổi tích cực trong việc đổi mới phương pháp
giảng dạy. Học sinh cũng đã chủ động nghiên cứu tìm tòi khám phá kiến thức

[3]
xong chỉ dừng lại ở việc rèn kỹ năng viết phương trình hóa học giải những bài tập
định tính và định lượng đơn giản.
- Đối với học sinh THPT nhất là các em không thi đại học khối A, B các
em đã có định hướng nghề nghiệp cho tương lai nên ý thức học tập các bộ môn
chưa cao, các em chỉ thích môn nào mình học có kết quả thi đại học
- Môn Hoá học trong trường THPT là một trong những môn học khó, nếu
không có những bài giảng và phương pháp hợp lý phù hợp dễ làm cho học sinh
thụ động trong việc tiếp thu. Đã có hiện tượng một số bộ phận học sinh không
muốn Học hoá học, ngày càng lạnh nhạt với giá trị thực tiễn của Hoá học.
- Vấn đề vận dụng kiến thức vào thực tiễn nhằm tăng khả năng tư duy của
học sinh sau khi học xong lí thuyết là hết sức khó khăn.
4.3. Đánh giá ưu, nhược điểm của giải pháp cũ
a. Ưu điểm của giải pháp cũ
*. Về không gian và thời gian:
Không gian giới hạn trong một phòng học chỉ với không quá 45 học sinh
theo sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT cho nên giáo viên dễ quan sát, dễ điều hành.
Giúp giáo viên có thể truyền đạt một khối lượng kiến thức lớn trong một khoảng
thời gian ngắn; Giáo viên hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình, không
gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học sinh
tiếp thu được nhiều kiến thức khi họ nhận được càng nhiều thông tin từ giáo
viên;
Thời gian được xác định là 45 phút trong một lớp, do đó giáo viên là
người hoàn toàn chủ động về thời gian và nội dung giảng dạy; Giảm bớt những
khó khăn, thời gian cho giáo viên trong việc chuẩn bị, chỉ cần chuẩn bị bài giảng
thuyết trình một lần người giáo viên có thể sử dụng để giảng dạy trong nhiều
lần. Còn các nhà trường cũng chủ động trong việc xây dựng kế hoạch dạy học.
*. Phương tiện, thiết bị và đồ dùng dạy học:
Giáo viên đã tăng cường sử dụng tranh ảnh, lược đồ, phương tiện nghe
nhìn như máy chiếu, Tivi, đài và kênh hình vào trong giảng dạy. Hiện nay công
nghệ thông tin phát triển giáo viên và học sinh có thể tiếp cận với tranh ảnh, tư
liệu, tài liệu từ mạng Internet… để làm phong phú hơn cho bài giảng của mình.
Đối tượng: học sinh của một lớp với số lượng không quá 45 học sinh theo
sự chỉ đạo của Bộ GD&ĐT, chính vì vậy giáo viên có thể quản lí một cách dễ
dàng không vất vả, đồng thời hoàn toàn chủ động trong giờ giảng của mình,
không gặp khó khăn trở ngại đối với những vấn đề có thể nảy sinh trên lớp; học
sinh ít nên giờ học tập trung hơn, tiếp thu được nhiều kiến thức khi các em nhận
được càng nhiều thông tin từ giáo viên;
Mặc dù hiện nay việc sử dụng phương tiện, thiết bị và ứng dụng công
nghệ thông tin trong các nhà trường được đẩy mạnh song con đường của nó đến

[4]
với học sinh chủ yếu là phương pháp truyền thống, do vậy kết quả đạt được chưa
cao.
b. Hạn chế của giải pháp cũ
Không gian và thời gian có giới hạn thời gian chỉ có 45 phút cho một
tiết học và không gian bó hẹp, khép kín trong một phòng học cho nên học sinh
không có cơ hội và thời gian để quan sát, tìm hiểu, thu thập những tư liệu, tài
liệu từ thực tế để làm phong phú thêm cho bài học.
Đối tượng học là học sinh của một lớp với số lượng không quá 45 em
theo sự chỉ đạo của Bộ Giáo dục - Đào tạo. Với số học sinh tham gia có giới hạn
do đó các em ít được trao đổi, thảo luận, tương tác, khả năng hòa nhập cộng
đồng chưa có. Về phía giáo viên khi muốn truyền tải một nội dung kiến thức hay
một chủ đề nào đó cho học sinh trong cùng một khối lớp hoặc ở các khối lớp
khác nhau lại phải thực hiện nhiều lần, khiến cho giáo viên vất vả, hoạt động thì
lặp đi lặp lại nhưng hiệu quả thu được không cao.
Tư liệu và thiết bị dạy học ngoài sách giáo khoa, sách giáo viên tranh
ảnh, lược đồ, máy chiếu, loa đài, băng đĩa … giáo viên và học sinh còn có thể
thu thập tư liệu, tài liệu, tranh ảnh... trên mạng Internet nhưng việc sử dụng các
nguồn tư liệu, thiết bị và phương tiện dạy học còn mang tính hình thức chỉ nhằm
mục đích minh họa làm phong phú, sinh động hơn cho nội dung bài giảng của
thầy, học sinh phải học thuộc lòng các kiến thức Hóa học trừu tượng, nhớ các
kiến thức một cách máy móc, phải ghi chép nhiều, các em chưa được quan sát
thực tế, chưa có cơ hội thảo luận, hợp tác, phát huy tính tích cực, không được
hòa nhập vào cộng đồng, trải nghiệm thực tế, không chủ động trong việc lĩnh hội
kiến thức từ thực tế…Cụ Thể
1- Tiến trình giải quyết vấn đề tuân theo chiến lược giải quyết vấn đề trong
khoa học vật lý: logic, chặt chẽ, khoa học.. do giáo viên (SGK) áp đặt (Giáo viên
là trung tâm).
2- Nếu thành công có thể góp phần đạt tới mức nhiều mục tiêu của môn
học hiện nay: chiếm lĩnh kiến thức mới thông qua hoạt động, bồi dưỡng các
phương thưc tư duy khoa học và các phương pháp nhận thức khoa học: PP thực
nghiệm, PP tượng tự, PP mô hình, suy luận khoa học…)
3- Dạy theo từng bài riêng lẻ với một thời lượng cố định.
4- Kiến thức thu được rời rạc, hoặc chỉ có mối liên hệ tuyến tính (một chiều
theo thiết kế chương trình học).
5- Trình độ nhận thức sau quá trình học tập thường theo trình tự và thường
dừng lại ở trình độ biết, hiểu và vận dụng (giải bài tập).
6- Kết thúc một chương học, học sinh không có một tổng thể kiến thức mới
mà có kiến thức từng phần riêng biệt hoặc có hệ thống kiến thức liên hệ tuyến
tính theo trật tự các bài học.

[5]
7- Kiến thức còn xa rời thực tiễn mà người học đang sống do sự chậm cập
nhật của nội dung sách giáo khoa.
8- Kiến thức thu được sau khi học thường là hạn hẹp trong chương trình, nội
dung học.
9- Không thể hướng tới nhiều mục tiêu nhân văn quan trọng như: rèn luyện
các kĩ năng sống và làm việc: giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành, ra quyết …
Do không khơi dậy được tình yêu, niềm say mê với môn học cho học sinh
nên chất lượng đại trà chưa cao. Việc lồng ghép, tích hợp kiến thức của nhiều
môn học với nội dung phù hợp cũng gặp nhiều khó khăn dẫn đến các tiết học trở
nên tẻ nhạt, không khắc sâu được kiến thức, học sinh thụ động tiếp nhận kiến
thức chay từ phía giáo viên mà chưa tạo được sự chủ động chiếm lĩnh kiến thức
của người học và học sinh khó áp dụng vào thực tiễn đời sống hàng ngày.
Không thể hướng tới nhiều mục tiêu nhân văn quan trọng như: rèn luyện các kĩ
năng sống và làm việc: Giao tiếp, hợp tác, quản lý, điều hành, ra quyết định. Do
đó không đạt được mục tiêu yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện về giáo dục
trong đó chú trọng đổi mới phương pháp, cách tiếp cận dạy theo định hướng
phát huy tính tích cực của học sinh hướng tới Ba phẩm chất, tám năng lực cho
học sinh.
Để khắc phục các khó khăn và tồn tại nói trên nhằm từng bước nâng cao
chất lượng dạy học, cần phải có những chủ trương, biện pháp đúng đắn, kịp thời.
Một trong những biện pháp có tính khả thi và sẽ mang lại hiệu quả cao là đổi
mới phương pháp và hình thức tổ chức dạy học theo hướng tích cực nhằm phát
triển năng lực của người học, có nghĩa là hình thành và phát triển tính tích cực
chủ động, độc lập và sáng tạo đặc biệt là khả năng vận dụng kiến thức đã học
vào giải quyết tình huống trong cuộc sống của người học. Về khía cạnh giáo
dục, STEM trang bị cho người học những kỹ năng về tư duy phản biện và giải
quyết vấn đề; kỹ năng làm việc theo nhóm; khả năng tư duy chiến lược và định
hướng mục tiêu; kỹ năng quản lý thời gian.
5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến
Đáp ứng mục tiêu giáo dục trong chiến lược phát triển giáo dục mới
chuyển từ chương trình giáo dục tiếp cận nội dung sang tiếp cận năng lực người
học, lấy người học là trung tâm, gắn lí thuyết với thực hành, tư duy và hành
động, nhà trường và xã hội, hướng đến sự hình thành, phát triển năng lực và khả
năng học tập suốt đời cho học sinh...
Từ đặc trưng của bộ môn Hóa học: là môn khoa học tự nhiên có nhiều
ứng dụng trong thực tiễn, ngoài ra còn có mối liên kết với nhiều môn học khác
như Sinh học, Địa lí, Công nghệ... Do đó việc ứng dụng kiến thức của môn Hóa
học kết hợp với các môn học khác trong cuộc sống rất phong phú, liên quan đến
nhiều vấn đề, nhiều ngành nghề trong xã hội.