
MỤC LỤC
1. Lời giới thiệu………………………………………………………................. 1
2. Tên sáng kiến………………………………………………………………… 3
3. Tác giả sáng kiến……………………………………....................................... 3
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến……………………………………………….... 3
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến……………………………………………….....
3
6. Ngày sáng kiến được áp dụng……………………………………..................
3
7. Mô tả bản chất của sáng kiến………………………………………………..
3
7.1. Thực trạng……………………………………………………..............
3
7.2. Nội dung của sáng kiến…………………………………………..........
4
7.3. Về khả năng áp dụng của sáng kiến…………………………………...
29
8. Những thông tin cần được bảo mật………………………………................ 29
9. Các điều kiện cần thiết để áp dụng sáng kiến……………………………....
29
10. Đánh giá lợi ích thu được do áp dụng sáng kiến………………………..... 30
10.1. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tác giả………………………………..................... 30
10.2. Đánh giá lợi ích thu được hoặc dự kiến có thể thu được do áp dụng
sáng kiến theo ý kiến của tổ chức, cá nhân…………………………………..
32
11. Danh sách những cá nhân đã tham gia áp dụng sáng kiến………............ 32

DANH MỤC CHỮ CÁI VIẾT TẮT
Viết tắt Viết đầy đủ
GV Giáo viên
HS
H
ọ
c sinh
HĐ Hoạt động
PP Phương pháp
KT Kỹ thuật
NL Năng lực

1
BÁO CÁO KẾT QUẢ
NGHIÊN CỨU, ỨNG DỤNG SÁNG KIẾN
1. Lời giới thiệu
Văn học được coi là trò diễn bằng ngôn từ. Ngôn từ trong văn học được coi
là một thứ ngôn từ đặc biệt, được chưng cất từ hiện thực ngôn ngữ của toàn dân.
Đúng như Mai- a- cốp- xki từng viết:
Hãy luyện đến hàng ngàn quặng chữ
Mới thu về một chữ mà thôi.
Nhờ sự nung chảy, cô đúc, gọt giũa hiện thực mà ngôn ngữ văn học có được tính
hình tượng.
Sau đặc tính hình tượng- đặc điểm có tính tiền tiêu ấy, ngôn ngữ văn học
còn có tính chính xác và tính hệ thống (kiểu nghệ thuật), tính biểu cảm sinh động,
tính hàm súc đa nghĩa, tính cá thể hóa cao… Tuy nhiên, bằng ngôn ngữ, mỗi thể
loại lại xây dựng hình tượng theo đặc trưng riêng- thường là hình tượng cảm xúc
trong thơ ca và hình tượng nhân vật trong văn xuôi.
Như vậy, ngôn ngữ trong văn học vừa được sử dụng như những tín hiệu
thẩm mĩ, vừa là cái biểu đạt cho các tín hiệu thẩm mĩ. Đến lượt mình, tác phẩm
văn học cũng chính là một tín hiệu thẩm mĩ. Điều đó khiến chúng ta cần có một
cách nhìn mới về tác phẩm văn học, với tư cách là một hệ thống tín hiệu.
Một tác phẩm văn chương đích thực không phải chỉ đem tới thông tin mà
phải là một hệ thống tín hiệu, kích thích để bùng nổ thông tin. Ở đây cái lạ, cái
thật, cái ảo, cái thực trong thế giới hình tượng nghệ thuật gợi mở ra bao nhiêu
điều thú vị trong trường liên tưởng của người đọc. Tác phẩm chân chính đều là
gan ruột của người nghệ sĩ. Việc ra đời một tác phẩm có lẽ mới chỉ là sự khởi đầu
của mọi sự khởi đầu trong nghệ thuật. Bởi khi ra đời rồi mỗi một sáng tác còn có
một sức sống độc lập tương đối (nằm ngoài ý muốn chủ quan của người nghệ sĩ).
Về cấu trúc, tác phẩm văn học thường có nhiều tầng: tầng ngữ nghĩa, tầng
hình dung tưởng tượng, tầng ý. Thực tế, không ít người dạy văn quá coi trọng ý
của tác phẩm đến mức dạy thơ không cần thuộc, dạy truyện không cần kể mà chỉ
nêu ý chính. Như vậy, môn Ngữ văn trong nhà trường được coi là môn học nhiều
hơn là học một môn nghệ thuật đặc biệt. Quá trình dạy học văn dễ đi tới những
thao tác máy móc, khuôn mẫu: Kiểm tra bài cũ; Giáo viên giảng, trò nghe, ghi
chép; Củng cố, dặn dò. Hiệu quả một giờ học cuối cùng là có ý, đủ ý là được, một
giờ dạy được công thức hóa để tiện cho kiểm tra, thi và chấm điểm.
Khoa học hiện đại cho rằng: Đáp số của một bài toán là quan trọng. Nhưng
quan trọng hơn cả đáp số là những con đường đi tới đáp số. Để đi đến một sự
kích thích có hiệu quả, để người học có khát vọng đi tìm những con đường đi tới

2
đáp số, người dạy phải đặt được học sinh vào trong sự tương tác của những quy
luật xã hội và tự nhiên mà nó ra đời và đang tồn tại. Giáo dục nhà trường, đặc biệt
là đội ngũ thầy cô giáo ngữ văn qua nhiều thế hệ đào tạo đang tiếp tục bổ sung,
hoàn chỉnh để đáp ứng nhu cầu hiện đại hóa nhà trường, phù hợp với quy luật
phát triển của xã hội. Vấn đề tự thân vận động của mỗi học sinh trên cơ sở chủ
đạo của thầy phải có sự chủ động của trò. Vì vậy, việc thay đổi và phát triển các
phương pháp trong dạy học một ngành nghệ thuật ngôn từ như văn học là nhu cầu
cấp thiết và thường xuyên được đặt ra.
Hiện nay, Thi pháp học là bộ môn khoa học nghiên cứu văn học rất được
chú ý và vận dụng ở nước ta. Tuy nhiên, việc vận dụng thi pháp học trong giảng
dạy Ngữ văn ở nhà trường phổ thông lại ít được chú ý tới, nhiều khi bị bỏ qua.
Thi pháp văn học dân gian đã từng được nghiên cứu từ khá lâu và cũng đã
được các nhà nghiên cứu văn học dân gian đánh giá cao, định hướng cho người
dạy và học bộ phận văn học truyền miệng này dựa trên cơ sở đặc trưng thi pháp
riêng của nó. Nhưng tình trạng dạy và học văn học dân gian trong nhà trường phổ
thông cũng ít được chú trọng. Thực tế này dẫn đến một thực tế khác là hiểu sai
hoặc hiểu không hết giá trị thẩm mĩ của tác phẩm văn học dân gian đó.
Khi bàn về thi pháp văn học dân gian, tác giả Chu Xuân Diên đã khẳng
định: Thi pháp văn học dân gian là toàn bộ các đặc điểm về hình thức nghệ thuật,
về phương thức và thủ pháp nghệ thuật miêu tả, biểu hiện, về cách cấu tạo đề tài,
cốt truyện và phương pháp xây dựng hình tượng con người.
Do tác phẩm văn học dân gian luôn tồn tại với hình thức thể loại. Mỗi thể
loại văn học dân gian có cách phản ánh thực tại và thái độ đối với thực tế riêng.
Thể loại do đó trở thành đơn vị cơ sở của văn học dân gian và là điểm xuất phát
tất yếu của việc nghiên cứu văn học dân gian. Bởi vậy, khi vận dụng thi pháp văn
học dân gian vào nghiên cứu văn bản tác phẩm cần bám chắc vào đặc trưng thi
pháp của từng thể loại. Bởi vì ta chỉ có thể “giải mã” các tác phẩm văn học dân
gian khi đặt nó trên cái nền chung của thi pháp thể loại.
Trong chương trình Ngữ văn lớp 10 (Tập 1), những tác phẩm văn học dân
gian Việt Nam thuộc nhiều thể loại được đưa vào giảng dạy. Vì thế, vận dụng thi
pháp văn học dân gian vào phân tích tác phẩm nhằm hiểu đúng văn bản văn học
dân gian là một việc làm cần thiết. Trên cơ sở đó, tôi đã chọn đề tài (Chuyên đề):
Đổi mới phương pháp đọc- hiểu ca dao Việt Nam (Chương trình Ngữ văn lớp
10- Tập 1) theo đặc trưng thể loại và định hướng phát triển năng lực.
2. Tên sáng kiến: Đổi mới phương pháp đọc- hiểu ca dao Việt Nam (Chương
trình Ngữ văn lớp 10- Tập 1) theo đặc trưng thể loại và định hướng phát triển
năng lực.

3
3. Tác giả sáng kiến
- Họ và tên: Nguyễn Thị Hương Xa
- Địa chỉ tác giả sáng kiến: Giáo viên trường THPT Nguyễn Thị Giang
- Số điện thoại: 0977672332, E_mail: huongxa115@gmail.com
4. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: Nguyễn Thị Hương Xa
5. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giảng dạy môn Ngữ văn ở trường THPT, đặc
biệt là ở phần văn học dân gian lớp 10.
6. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 01/ 10/ 2018
7. Mô tả bản chất của sáng kiến
7.1. Thực trạng
* Sách giáo khoa và chương trình ngữ văn THPT hiện hành
Hiện nay, trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, tập 1 có văn bản: Ca dao than
thân, yêu thương tình nghĩa (6 bài) và văn bản ca dao hài hước (4 bài). Các văn
bản này đang được dạy độc lập. Thời lượng dạy học đọc hiểu các văn bản như
sau:
- 2 tiết (Tiết 25, 26) cho bài ca dao than thân, yêu thương tình nghĩa (Bài 1, 4, 6).
- 2 tiết (Tiết 28, 29) cho bài ca dao hài hước (Chỉ dạy bài 1, 2); Đọc thêm: Lời
tiễn dặn (Trích Tiễn dặn người yêu).
* Tình hình dạy học ca dao trong nhà trường hiện nay
- Phía người dạy
+ Bệnh công thức như: chủ đề, chia đoạn, phân tích ý 1, ý 2… tổng kết.
+ Khi phân tích quá thiên về nội dung, hoặc quá thiên về ngôn ngữ mà ít
chú ý tới khoái cảm nghệ thuật.
+ Không chú ý tới tình huống cảm thụ nghệ thuật.
+ Người dạy nói nhiều, giảng nhiều, đưa câu hỏi tháo gỡ phát hiện nhiều
hơn câu hỏi cảm thụ, chưa chú ý đến phát triển năng lực đọc hiểu ca dao theo đặc
trưng thể loại cho HS.
- Phía người học
+ Chưa biết cách để phân tích, cảm nhận.
+ Sa đà vào học thuộc lòng, học vẹt, học theo những gì được hướng dẫn.
+ Thiếu sự sáng tạo, ít liên tưởng, tưởng tượng và rất kém khả năng liên hệ
thực tế, bản thân nên khi thoát li những bài học trong sách giáo khoa thì khó có
thể phân tích và hiểu thấu đáo bài ca dao khác.
- Ngữ liệu để kiểm tra đánh giá sau các bài học này vẫn là những văn bản học sinh
đã được học chính trong sách giáo khoa… Điều này khiến cho việc dạy học của
giáo viên khá vất vả và việc học của học sinh bị gián đoạn, đặc biệt sau khi học
xong nhiều học sinh vẫn chưa hình thành được kĩ năng đọc hiểu văn bản ca dao.
* Khắc phục
Để khắc phục tình trạng này, chúng tôi đề xuất nhóm các văn bản ca dao
thành một chuyên đề dạy học, góp phần hình thành kĩ năng đọc hiểu ca dao nói

