
Trang 1
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƢỜNG THCS-THPT PHÚ TÂN
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
An Giang, ngày 20 tháng 1 năm 2019
BÁO CÁO
Kết quả thực hiện sáng kiến, cải tiến, giải pháp kỹ thuật, quản lý, tác nghiệp,
ứng dụng tiến bộ kỹ thuật hoặc nghiên cứu khoa học sƣ phạm ứng dụng
I- Sơ lƣợc lý lịch tác giả:
- Họ và tên: Nguyễn Phạm Tuân. Nam, nữ: nam
- Ngày tháng năm sinh: 1983
- Nơi thường trú: Phú Thọ - Phú Tân – An Giang
- Đơn vị công tác: THCS-THPT Phú Tân
- Chức vụ hiện nay: TTCM
- Trình độ chuyên môn: ĐHSP
- Lĩnh vực công tác:giảng dạy
II. Sơ lƣợc đặc điểm tình hình đơn vị:
1. Tóm tắt tình hình đơn vị
1.1. Thuận lợi
- Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sắc của BGH nhà trường
- Đầu vào lớp 10 được cải thiện: NV1 với điểm chuẩn 17 điểm, NV2 điểm sàn 19.5đ.
- Phòng bộ môn được trang bị khá đầy đủ cho khối THPT và đạt chuẩn 06/06P.
- Chất lượng ổn định và nâng dần, bước đầu tạo uy tín đối với PHHS và địa phương.
1.2. Khó khăn.
- Đầu vào của K6 vẫn tiếp tục có chất lượng thấp.
- Học sinh có sổ hộ nghèo, cận nghèo chiếm tỉ lệ cao. Trong số học sinh trên, học sinh
có hoàn cảnh, cha mẹ ly hôn, làm ăn xa gửi con cho ông, bà, người thân khá cao. Điều
này ảnh hưởng đến công tác phối hợp giáo dục giữa gia đình, nhà trường và xã hội.
- Tình hình về phòng học gặp khó khăn trong việc tổ chức dạy bồi dưỡng HSG, phụ
đạo học sinh yếu.
2. Tên sáng kiến/đề tài giải pháp: Giải pháp hướng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học
hiệu quả qua dự án “ Hệ thống nước nóng lạnh dùng ánh nắng mặt trời”.
- Lĩnh vực: chuyên môn
III. Mục đích yêu cầu của đề tài, sáng kiến:
1. Thực trạng ban đầu trƣớc khi áp dụng sáng kiến

Trang 2
Trong vài năm gần đây phong trào NCKH (nghiên cứu khoa học) ở trường
THCS và THPT Phú Tân được chú trọng. Số lượng và chất lượng các đề tài tham dự
cuộc thi ngày càng nhiều và chất lượng hơn. Kỹ năng học tập, làm việc nhóm, lập
luận, trình bày…của học sinh được cải thiện, góp phần thúc đẩy việc thay đổi phương
pháp dạy học theo hướng tích cực hiện nay; tạo sân chơi mới lý thú, bổ ích, hấp dẫn;
bồi dưỡng cho học sinh kể cả giáo viên kỹ năng phương pháp NCKH; hỗ trợ tích cực
cho hoạt động chuyên môn trong nhà trường, giúp học sinh biết vận dụng kiến thức
trong sách vở vào giải quyết các vấn đề thực tiễn cuộc sống, làm quen sớm với
NCKH.
Tuy nhiên, tôi nhận thấy rằng tỷ lệ học sinh tham gia những sân chơi sáng tạo,
nghiên cứu khoa học kỹ thuật ở trường còn khiêm tốn, hạn chế. Điển hình trong năm
học 2016-2017 có 3 dự án dự thi, năm học 2017-2018 có 4 dự án . Trong khi Sở GD
ĐT An giang qui định trường phổ thông được 6 dự án. Điều này cho thấy, kết quả đạt
được vẫn chưa thể hiện hết tầm vóc, sự thông minh, sáng tạo của học sinh. Sự phát
triển của phong trào NCKH chưa đều khắp giữa các môn, các lĩnh vực và chưa thật sự
bền vững.
Có nhiều nguyên nhân khách quan, chủ quan khác nhau nên phong trào NCKH
còn hạn chế. Một phần do ảnh hưởng của thực trạng nền giáo dục hiện tại quá đặt
năng việc học và thi cử, phần lớn các em tập trung việc học là chính. Chế độ chính
sách chưa đủ sức thu hút giáo viên, học sinh tham gia NCKH.
Bên cạnh đó, việc “nhóm lửa” phát huy khả năng khám phá, tư duy độc lập,
sáng tạo và NCKH ở học sinh phổ thông còn nhiều hạn chế, rào cản. Số lượng, chất
lượng các đề tài chưa phát huy tiềm năng trí tuệ, sáng tạo của học sinh, một số học
sinh chưa hứng thú với NCKH, thậm chí một số ít em được phỏng vấn vẫn còn chưa
biết đến sân chơi khoa học bổ ích này tạo ra là cho mình (cho rằng sân chơi này là của
đội học sinh giỏi và của giáo viên). Học sinh vẫn còn gặp khó khăn trong xác định ý
tưởng, lựa chọn đề tài và thời gian giành cho NCKH.
Ngoài ra, một số giáo viên còn hạn chế về kỹ năng, phương pháp NCKH từ đó
dẫn đến tâm lý ngại hướng dẫn NCKH cho học sinh, thiếu niềm tin vào công tác
NCKH của các em; Thiếu các cơ chế, chính sách tạo động lực và nguồn tài chính hỗ
trợ cho hoạt động NCKH của học sinh. Tâm lý một số phụ huynh không muốn cho
con em mình tham gia hoạt động NCKH vì e sợ sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập nên
thiếu sự ủng hộ và động viên khuyến khích.
2. Sự cần thiết phải áp dụng sáng kiến
Để hoạt động NCKH của học sinh trường THCS và THPT Phú Tân được nâng
cao và phát triển bền vững. Tôi nhận thấy giáo viên hướng dẫn đóng vai trò hết sức
quan trọng, quyết định đến sự thành bại của dự án. Khi giáo viên có phương pháp
đúng đắn, hiệu quả thì dự án NCKH của học sinh đạt kết quả cao trong các kì thi.
Bản thân hướng dẫn học sinh NCKH và có thể nói hiệu quả trong kì thi NCKH
cấp tỉnh. Với kinh nghiệm rút ra được từ bản thân và mong muốn giúp đồng nghiệp có

Trang 3
phương pháp hướng dẫn học sinh NCKH hiệu quả hơn, giúp phong trào NCKH của
trường nói chung của của tỉnh nhà nói riêng phát triển cả chất và lượng. Từ đó tôi
chọn sáng kiến “Giải pháp hƣớng dẫn học sinh nghiên cứu khoa học hiệu quả qua
dự án Hệ thống nƣớc nóng lạnh dùng ánh nắng mặt trời” .
3. Nội dung sáng kiến
3.1 Tiến trình thực hiện.
Ban đầu tôi phát động cuộc thi “ý tưởng khoa học” ở HKII năm học 2016-2017
các lớp mình day như: 11C1,2,4,5 và 12C1,3. Học sinh có 3 ý tưởng và bản thân chọn
ra được một ý tưởng “hệ thống nước nóng lành dùng ánh nắng mặt trời” tham dự cuộc
thi NCKH cấp trường đầu năm học 2017-2018. Hội đồng khoa học trường chọn 4 dự
án trong đó có dự án “hệ thống nước nóng lành dùng ánh nắng mặt trời” . Ban giám
hiệu ra quyết định phân công tôi hướng dẫn dự án “hệ thống nước nóng lành dùng
ánh nắng mặt trời” của hai em Trần Văn Đón và Lê Thị Kiều Oanh.
Thầy và trò lên kế hoạch mua vật tư, thiết bị, thiết kế dự án, hoàn thành dự án
và các hồ sơ cần thiết đầu tháng 12 tham gửi lên trường học kết nối. Ngày 12-
14/12/2017 tham dự cuộc thi NCKH cấp tỉnh.
Dự án được giải nhì cuộc thi NCKH cấp tỉnh năm học 2018-2019. Đạt được kết
quả đó tôi đã thực hiện các giải pháp hướng dẫn học sinh NCKH hiệu quả. Đúc kết từ kinh
nghiệm bản thân và kiến thức học tập được viết thành sáng kiến kinh nghiệm này.
3.2. Thời gian thực hiện.
Bản thân thực hiện sáng kiến từ HKII năm học 2016-2017 đến HKI năm học
2017-2018.
3.3. Biện pháp thực hiện
3.3.1.Cơ sở lý luận
Một dự án khoa học kĩ thuật là một nghiên cứu độc lập của một cá nhân hoặc
một nhóm về một chủ đề khoa học nào đó và đem lại những kết quả nhất định trong
khoa học hoặc ứng dụng trong thực tiễn. Thực hiện một dự án khoa học kĩ thuật sẽ
trang bị cho học sinh những kĩ năng của một nhà khoa học thực sự và cơ hội tích lũy
kiến thức khoa học của nhân loại. Các dự án kỹ thuật thường khác với hầu hết các dự
án khoa học. Mục tiêu của dự án kĩ thuật là xây dựng một thiết bị hoặc thiết kế một hệ
thống để giải quyết một vấn đề.
Các bước thực hiện đối với dự án khoa học và dự án kĩ thuật
* Đối với một dự án khoa học
Bước 1: Xác định câu hỏi nghiên cứu

Trang 4
- Lựa chọn một chủ đề. Thu hẹp chủ đề bằng cách xem xét những
trường hợp đặc biệt.
- Tiến hành nghiên cứu tổng quan và viết dự thảo đề cương nghiên cứu.
-Nêu một giả thuyết khoa học hoặc nêu mục đích nghiên cứu.
Bước 2: Kế hoạch và phương pháp nghiên cứu
-Xây dựng kế hoạch nghiên cứu/thiết kế thí nghiệm.
- Yêu cầu phê duyệt dự án (điền các mẫu phiếu và xin chữ ký phê
duyệt).
- Viết báo cáo nghiên cứu tổng quan.
Bước 3: Thực hiện kế hoạch nghiên cứu
- Thu thập tài liệu và thiết bị thí nghiệm; xây dựng thời gian biểu trong
phòng thí nghiệm.
- Tiến hành thí nghiệm. Ghi lại các dữ liệu định lượng và định tính.
- Phân tích dữ liệu, áp dụng các phương pháp thống kê thích hợp.
- Lặp lại thí nghiệm, khi cần thiết, nhằm triệt để khám phá những vấn
đề.
- Đưa ra một kết luận.
- Viết báo cáo thí nghiệm.
- Viết tóm tắt báo cáo.
Bước 4: Trình bày kết quả nghiên cứu
- Ghi lại các hình ảnh để giới thiệu dự án.
- Làm bài thuyết trình về dự án trước giáo viên và/hoặc các bạn cùng
lớp.
- Thiết kế poster để giới thiệu dự án tại cuộc thi khoa học kĩ thuật.
* Đối với một dự án kĩ thuật.
Bước 1: Xác định vấn đề nghiên cứu
- Xác định nhu cầu hoặc tiếp nhận yêu cầu.
Bước 2: Thiết kế và phương pháp
- Phát triển các tiêu chuẩn thiết kế.
- Thực hiện việc tìm kiếm tài liệu và nghiên cứu tổng quan.
- Chuẩn bị thiết kế sơ bộ hoặc thuật toán dưới dạng sơ đồ khối.
Bước 3: Thực hiện: Xây dựng và kiểm tra
- Sản xuất mẫu hoặc viết chương trình máy tính
- Kiểm tra các mẫu/chương trình máy tính - Thiết kế lại, khi cần thiết.
Bước 4: Trình bày kết quả nghiên cứu
- Ghi lại các hình ảnh để giới thiệu dự án.
- Làm bài thuyết trình về dự án trước giáo viên và/hoặc các bạn cùng
lớp.
- Thiết kế poster để giới thiệu dự án tại cuộc thi khoa học kĩ thuật.
3.3.2. Giải quyết vấn đề.
Trong năm học 2017-2018 tôi được phân công hướng dẫn học sinh NCKH dự
án “Hệ thống nước nóng lạnh dùng ánh nắng mặt trời”Bản thực hiện giải pháp sau và
có hiệu quả:

Trang 5
- Thứ nhất: Phát động cuộc thi “ý tưởng khoa học”
Nếu trường chưa tổ chức được cuộc thi “ý tưởng khoa học”. Giáo viên phải
biết phát động cuộc thi “ý tưởng khoa học ” ở các lớp mình dạy, bởi vì chỉ các em
mới có ý tưởng phong phú. Ý tưởng phải xuất phát từ chính bản thân học sinh trong
quá trình học tập, trong đời sống hàng ngày và nhu cầu vận dụng kiến thức, kỹ năng
đã biết vào giải quyết các vấn đề của thực tiễn đời sống. Từ đó học sinh hiện thực hóa
ý tưởng một cách tự nguyện, đam mê và nghiêm túc kiên trì thực hiện để chọn ra ý
tưởng hay, có thể thực hiện được. Giáo viên không nên đưa ra ý tưởng rồi áp đặt học
sinh, giáo viên có thể lâm vào tình trạng cạn kiệt ý tưởng và dự án thực hiện rất dễ bị
thất bại sau này.
Để học sinh có nhiều ý tưởng hay, thực tế. Giáo viên phải chia sẻ với các em về
hoạt động NCKH mà các em có thể thực hiện được như sau:
Giới thiệu cho HS về các sản phẩm đã tham dự cuộc thi NCKH và đạt giải cấp
tỉnh trong những năm gần đây. Chia sẽ cho học sinh về các ý tưởng mà các em có thể
gặp từ cuộc sống hàng ngày, những ý tưởng đơn giản từ việc cải tiến sản phẩm hiện có
trong cuộc sống quanh em. Qua đó chọn các ý tưởng hay tư vấn, hỗ trợ các em thực
hiện để tham dự cuộc thi NCKH cấp trường để chấm chọn các dự án gửi thi cấp tỉnh.
Tốt nhất tham mưu với nhà trường tổ chức được cuộc thi “ý tưởng khoa học”
cấp trường. Khi đó các ý tưởng nhiều hơn, phong phú hơn, tạo ra phong trào NCKH
sôi nổi lan rộng và phát triển.
Cuộc thi “ý tưởng khoa học” diễn ra đúng thời điểm khống sớm quá , cũng
không trễ quá. Nên thực hiện ở HKII của năm học trước của kì thi NCKH cấp tỉnh.
Ví dụ: Để dự án của học sinh tham dự cuộc khi NCKH cấp tỉnh năm 2017-2018. Do
trường chưa tổ chức cuộc thi “ý tưởng khoa học”. Bản thân đã phát động cuộc thi “ý
tưởng khoa học” ở HKII năm học 2016-2017 ở các lớp như 11C1,2,4,5 và 12C1,3.
Chọn ra được một ý tưởng “hệ thống nước nóng lành dùng ánh nắng mặt trời” tham
dự cuộc thi NCKH cấp trường đầu năm học 2017-2018. Tiếp đó tham dự cuộc thi
cấp tỉnh.
- Thứ hai: Xác định tính khả thi của dự án.