
MỤC LỤC
Trang
1. Mở đầu
1
1.1. Lý do chọn đề tài
1
1.2. Mục đích nghiên cứu
2
1.3. Đối tượng nghiên cứu
2
1.4. Phương pháp nghiên cứu
2
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2
2.1. Cơ sở lý luận của SKKN
2
2.2. Thực trạng các vấn đề trước khi áp dụng SKKN
3
2.3. Các SKKN hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải quyết vấn đề
4
2.3.1. Nguyên tắc cần tuân thủ khi sử dụng phương pháp kể chuyện
lịch sử trong dạy học lịch sử
5
2.3.2. Một số phương pháp kể chuyện lịch sử trong chương trình lịch
sử Việt Nam lớp 11 ở Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng
5
2.4. Hiệu quả của SKKN đối với hoạt động giáo dục, với bản thân,
đồng nghiệp và nhà trường
15
3. Kết luận, kiến nghị
16
- Kết luận.
16
- Kiến nghị.
17
Tài liệu tham khảo.
18
Phụ lục.
19

1
1. Mở đầu
1.1. Lý do chọn đề tài
Lịch sử là một bộ môn khoa học nghiên cứu về quá khứ, đặc biệt là những sự
kiện liên quan đến con người. Lịch sử là quá khứ chứa đựng nhiều giá trị văn hoá
và nguồn dữ liệu quý giá để đánh giá sự phát triển ở hiện tại. Bất kì quốc gia nào
cũng đều học môn lịch sử bởi lịch sử có giá trị vô cùng quan trọng , sử học nuôi
dưỡng đạo đức con người, giáo dục con người tính cần cù, chăm chỉ, sáng tạo, yêu
thương, đoàn kết gia đình, yêu quê hương đất nước. Việc học lịch sử lại càng vô
cùng quan trọng trong xu thế toàn cầu hoá hiện nay.
Với tư cách là một môn khoa học, bộ môn lịch sử trong trường phổ thông có
vai trò quan trọng trong việc đào tạo giáo dục học sinh trở thành một con người
toàn diện, giáo dục đạo đức, thẩm mĩ, thế giới quan khoa học cho học sinh như giáo
dục lòng yêu nước, truyền thống dân tộc, lòng biết ơn...Lịch sử không chỉ dạy cho
học sinh tình cảm yêu ghét trong đấu tranh giai cấp mà còn bồi dưỡng cho các em
năng lực đối xử với mọi người xung quanh, biết yêu quý cái đẹp, yêu lao động, sự
căm thù quân cướp nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng. Khơi dậy ở học sinh sự
thông cảm sâu sắc và lòng kính yêu đối với quần chúng nhân dân. Bởi vì lịch sử
chính là “cô giáo của cuộc sống”, giúp các em có ý thức giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc và kế tục xứng đáng sự nghiệp cách mạng dân tộc của cha ông trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ tổ quốc hiện nay.
Tuy nhiên, hiện nay bộ môn lịch sử trong trường THPT chưa thực sự được
đề cao. Vị trí, vai trò của lịch sử bị một bộ phận không nhỏ phụ huynh và học sinh
thờ ơ xem nhẹ. Bên cạnh đó, trong các tiết dạy lịch sử đa số giáo viên chỉ nặng về
cung cấp kiến thức sự kiện, con số trong sách giáo khoa mà chưa chú ý sử dụng
những hình thức khác để bổ trợ làm cho tiết học thêm sinh động. Yêu cầu cấp thiết
đặt ra là phải đổi mới phương pháp dạy học nhằm nâng cao chất lượng, đáp ứng
nhu cầu đào tạo. Một biện pháp quan trọng trong đó là sử dụng tài liệu tham khảo
trong đó có sử dụng những mẫu chuyện lịch sử kết hợp hình ảnh nhằm gây hứng
thú học tập cho học sinh.
Lịch sử Việt Nam giai đoạn từ năm 1858 - 1918 có vị trí quan trọng trong
tiến trình lịch sử dân tộc. Nội dung chính của giai đoạn này là cuộc chiến tranh xâm
lược Việt Nam của thực dân Pháp và cuộc đấu tranh chống xâm lược, bảo vệ nền
độc lập và giải phóng dân tộc của nhân dân ta; trong đó, nội dung đấu tranh chống
xâm lược được coi là sợi chỉ đỏ xuyên suốt. Trong giai đoạn này gắn với mỗi bước
phát triển của lịch sử là những sự kiện, nhân vật - những mẩu chuyện lịch sử.
Những câu chuyện lịch sử kết hợp đồ dùng trực quan sẽ có tác dụng cụ thể hoá kiến
thức, giúp các em tái hiện quá khứ một cách chân thực nhất . Đồng thời có tác dụng
mạnh mẽ đến tư tưởng tình cảm của học sinh hình thành trong các em lý tưởng
sống cao đẹp, ý thức trách nhiệm đối với bản thân, gia đình, quê hương đất nước.
Xuất phát từ thực tế trên, với hơn 10 năm giảng dạy lịch sử ở Trung tâm
GDNN - GDTX Hoa Bằng tôi phải từng bước đổi mới phương pháp dạy học bộ

2
môn, để tìm ra phương pháp hay, cách dạy mới giúp học sinh có thể tiếp cận kiến
thức môn học một cách dễ dàng, gây hứng thú cho học sinh, để các em được sống
lại với quá khứ thăng trầm của lịch sử dân tộc Việt Nam và thế giới.
Để nâng cao hiệu quả bài học, nhằm gây hứng thú học tập cho học sinh tôi
xin trình bày đề tài: “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng
trình lịch sử Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử”. Với việc
nghiên cứu đề tài này, tôi mong muốn sẽ góp phần giúp giáo viên có một giờ dạy
học lịch sử có hiệu quả tốt hơn, học sinh lĩnh hội kiến thức tự giác, chủ động, ngày
càng yêu thích môn học.
1.2. Mục đích nghiên cứu
Nhằm đổi mới phương pháp dạy - học của giáo viên và học sinh khối 11 ở
Trung tâm GDNN – GDTX Hoa Bằng, giúp giáo viên có thêm một phương pháp
dạy mới, học sinh có một cách học mới để tiếp thu và lĩnh hội những tri thức lịch
sử hiệu quả, góp phần phát huy năng lực tư duy, tính tích cực, chủ động, sáng tạo
của học sinh.
1.3. Đối tƣợng nghiên cứu
Trong phạm vi sáng kiến kinh nghiệm này, tôi nghiên cứu và áp dụng cho đề tài
là học sinh khối 11 ở ba lớp tôi đang trực tiếp giảng dạy là 11B1, 11B2, 11B3 Trung
tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng năm học 2018 - 2019.
1.4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Để hoàn thành sáng kiến kinh nghiệm này, tôi đã thực hiện các bước cụ thể
sau đây:
- Nghiên cứu các tài liệu lí luận và vấn đề sử dụng các câu chuyện, giai thoại
trong dạy học lịch sử ở trường THPT.
- Nghiên cứu tìm hiểu SGK, sách giáo viên, sách bài tập, tài liệu chuẩn kiến
thức và kĩ năng, các tài liệu tham khảo kiến thức lịch sử lớp 11.
- Thông qua việc thao giảng, dự giờ đồng nghiệp để trao đổi rút kinh nghiệm,
đặc biệt là những tiết dạy học có sử dụng kể chuyện lịch sử.
- Cho học sinh làm bài kiểm tra, sử dụng phiếu trắc nghiệm khách quan sau
những tiết có sử dụng kể chuyện lịch sử để tổng kết kinh nghiệm sư phạm, đúc rút
kinh nghiệm kịp thời để điều chỉnh quá trình dạy - học cho phù hợp với đối tượng
học sinh.
- Phương pháp thực nghiệm: tiến hành soạn và thực nghiệm các tiết dạy cụ thể
để khẳng định tính khả thi, hiệu quả của việc sử dụng kể chuyện lịch sử trong dạy
học lịch sử.
2. Nội dung sáng kiến kinh nghiệm
2.1. Cơ sở lý luận của sáng kiến kinh nghiệm
Lịch sử là khoa học nghiên cứu xã hội và con người trong sự phát triển của
nó, nghiên cứu quá khứ cuộc sống của nhân loại một cách toàn diện với những quy
luật chung và tính cụ thể. Khoa học lịch sử vì thế có những đặc trưng riêng:

3
Thứ nhất: tri thức lịch sử mang tính khái quát. Đó là những sự kiện lịch sử đã
xảy ra, người ta không thể quan sát trực tiếp được lịch sử quá khứ mà chỉ nhận thức
chúng một cách gián tiếp thông qua các nguồn tài liệu.
Thứ hai: Tính không lặp lại. Mỗi sự kiện, hiện tượng chỉ xảy ra trong một
thời gian không gian nhất định.
Thứ ba: Tính cụ thể. Mỗi sự kiện lịch sử bao giờ cũng diễn ra trong một hoàn
cảnh cụ thể về không gian, thời gian nhất định. Đặc điểm này đòi hỏi khi trình bày
các sự kiện, hiện tượng lịch sử càng cụ thể, sinh động, có hình ảnh bao nhiêu thì
càng hấp dẫn hứng thú bấy nhiêu.
Thứ tư: Tính hệ thống. Sự vận động từ quá khứ tới hiện tại, từ hiện tại tới
tương lai trong hiện thực lịch sử luôn là quá trình phát triển hợp quy luật.
Từ đặc trưng trên của bộ môn cho ta thấy trong giảng dạy lịch sử ngoài sách
giáo khoa là tài liệu cơ bản thì việc sử dụng tài liệu tham khảo trong đó các mẩu
chuyện lịch sử cũng là một nguồn kiến thức quan trọng giúp học sinh hiểu sâu sắc
kiến thức lịch sử, mà lịch sử là một câu chuyện dài, rất hay và ý nghĩa. Người thầy
có nhiệm vụ khơi gợi cho học sinh cảm nhận cái hay của câu chuyện.
Sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong giai đoạn lịch sử Việt nam từ 1858
-1918 gắn với biết bao sự kiện, nhân vật sẽ giúp các em hiểu rõ quá trình xâm lược
Việt Nam của thực dân Pháp và quá trình kháng chiến chống thực dân Pháp của
nhân dân ta. Nhờ đó, từng sự kiện, biến cố lịch sử quan trọng sẽ hiện lên với đầy đủ
tính cụ thể, gợi cảm và đầy kịch tính của nó, đem đến cho học sinh những cảm xúc
mạnh mẽ không thể nào quên.
2.2. Thực trạng vấn đề trƣớc khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm
2.2.1. Thực trạng chung của Trung tâm
Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng những năm qua, mặc dù còn gặp nhiều
khó khăn cả về cơ sở vật chất và con người nhưng với sự nỗ lực cố gắng của tập thể
Trung tâm đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong việc nâng cao chất lượng dạy
- học, đặc biệt là tỉ lệ học sinh giỏi và học sinh thi đậu tốt nghiệp, các trường trung
cấp, cao đẳng, đại học. Một thực tế vẫn tồn tại là qua nhiều năm Trung tâm vẫn
chưa khắc phục được là chất lượng “đại trà” còn thấp, tỉ lệ học sinh yếu kém còn
nhiều, trong đó môn lịch sử chiếm một số lượng tương đối .
2.2.2. Về phía giáo viên
* Ƣu điểm:
Tổ văn hoá của Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng hiện nay có 13 giáo
viên trẻ, tuổi đời, tuổi nghề đang bước vào độ chín, được đào tạo chính quy, có
năng lực chuyên môn vững vàng, nhiệt tình, yêu nghề, cầu tiến, có tinh thần trách
nhiệm cao trong công tác chuyên môn, ham học hỏi, tìm tòi và sáng tạo.
* Hạn chế:
Trong qúa trình giảng dạy, phần lớn giáo viên chỉ dựa vào sách giáo khoa mà
chưa chú trọng vào việc mở rộng nguồn nhận thức, hình thức tổ chức dạy học. Đặc
biệt là chưa có phương pháp sử dụng tài liệu tham khảo khi dạy học, nếu có thì

4
cũng rất hình thức như giới thiệu vắn tắt nội dung của tài liệu, trích đọc một đoạn
tài liệu để minh hoạ, nhắc đến một nhân vật nào đó thì học sinh sẽ quên ngay sau
tiết học. Ít giáo viên sử dụng những mẩu chuyện lịch sử trong bài giảng của mình.
Bên cạnh đó mặc dù đã cải cách chương trình giảng dạy nhưng vẫn còn một số bài
quá dàn trải dẫn đến tình trạng “quá tải” kiến thức đối với cả giáo viên truyền thụ
lẫn việc lĩnh hội kiến thức của học sinh.
2.2.3. Về phía học sinh
* Ƣu điểm
Trung tâm GDNN - GDTX Hoa Bằng là một trường miền núi, học sinh
người dân tộc thiểu số chiếm một tỉ lệ tương đối lớn. Hầu hết các em đều xuất thân
từ gia đình thuần nông nên ngoan ngoãn, chịu khó. Trong giờ học lịch sử các em
lắng nghe giáo viên giảng bài, tập trung theo dõi SGK, làm bài tập theo yêu cầu của
giáo viên, có ý thức vươn lên trong cuộc sống.
* ạn chế
Về phía học sinh: Là học sinh một huyện miền núi, nhiều em ở vùng sâu
vùng xa đi lại khó khăn, gia đình hoàn cảnh, ảnh hưởng rất lớn đến việc học tập. Đa
số các em vẫn còn thói quen học vẹt, không nắm sâu được kiến thức vì vậy sẽ mau
quên kiến thức cũ, hoặc có nhớ thì cũng không thực sự chính xác các sự kiện
lịch sử.
- 2019
Bản thân tôi trong học kì I vừa qua đã đảm nhận việc giảng dạy ba lớp khối:
11B1, 11B2, 11B3. Kết quả đạt được trong học kì I như sau:
Lớp
SLHS
Giỏi
Khá
TB
Yếu
Kém
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
SL
%
11B1
35
0
7
20
18
51.45
9
25.7
1
2.85
11B2
29
0
3
10.3
20
69
5
17.3
1
3.4
11B3
30
0
3
10
22
73.3
3
10
2
6.7
Trong quá trình giảng dạy, với ý thức vừa nghiên cứu đặc điểm tình hình học
tập bộ môn của học sinh, vừa tiến hành rút kinh nghiệm qua mỗi tiết dạy, tôi thiết
nghĩ phải từng bước điều chỉnh phương pháp dạy học của mình cho phù hợp với
đối tượng học sinh khối 11 nhằm nâng cao chất lượng dạy - học bộ môn. Tôi đã
thực hiện “Nâng cao hứng thú học tập của học sinh trong chƣơng trình lịch sử
Việt Nam lớp 11 bằng phƣơng pháp kể chuyện lịch sử”. Với việc thực hiện
phương pháp này, tôi từng bước điều chỉnh cách học của học sinh nhằm phát huy
tính tích cực, chủ động, tự giác cho người học trong quá trình tiếp thu, lĩnh hội và
vận dụng kiến thức đã học để làm bài kiểm tra đạt được kết quả cao hơn, gây hứng
thú cho các em trong mỗi giờ lịch sử.
2.3. Các sáng kiến kinh nghiệm hoặc các giải pháp đã sử dụng để giải
quyết vấn đề