
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG PT HERMANN GMEINER VINH
LÊ XUÂN GIANG
ỨNG DỤNG MỘT SỐ KĨ THUẬT DẠY HỌC TÍCH CỰC
VÀO TRONG DẠY HỌC CHỦ ĐỀ GIÁO DỤC STEM
PHẦN SÓNG ÂM VẬT LÍ 12 THPT
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
NGHỆ AN - 2020

1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Thực trạng dạy và học vật lí ở trường phổ thông đang gặp nhiều khó khăn và
bất cập. Việc dạy và học đang còn quá nặng về nội dung và điểm số, hay nói cách
khác dạy để thi, học để thi chứ không phải chú trọng đến việc: HS làm được cái gì
trong và sau khi học. Trong giờ Vật lí, lượng thời gian để GV và HS liên hệ thực
tế, mở rộng, thực hiện các thí nghiệm, nâng cao kiến thức là rất hạn chế do lượng
kiến thức tương đối nhiều. Do đó, để hoàn thành tốt các yêu cầu trên là rất khó
khăn. Từ thực tế đó, với mong muốn thay đổi cách nhìn nhận của HS về môn học
này, muốn HS được trải nghiệm, muốn HS tự chiếm lĩnh kiến thức kĩ năng thông
qua các hoạt động chế tạo, thì giáo dục STEM cần phải được chú trọng hơn.
Giáo dục STEM đưa ra cho HS những vẫn đề thực tiễn trong cuộc sống hàng
ngày cần được giải quyết, đòi hỏi người thực hiện phải tìm hiểu thực tiễn, thu nhận
các tri thức khoa học và vận chúng để thiết kế, thực hiện giải quyết vấn đề được
giao trong một hoàn cảnh cụ thể. Chủ đề giáo dục STEM được xuất phát từ những
vấn đề mâu thuận trong thực tiễn đã được thiết kế thành các chủ đề STEM, GV tổ
chức hoạt động sẽ giúp cho học sình tìm ra được giải pháp đề giải quyết vấn đề đã
nêu ra. Giáo dục STEM sẽ góp phần cho chúng ta trả lời được câu hỏi: dạy cái gì?
Và phải dạy như thế nào để HS làm được gì trong thực tiễn.
Bên cạnh đó, thực trạng triển khai giáo dục STEM được tổ chức trong các
trường phổ thông hiện nay chủ yếu dưới các hình thức như: Dạy học tích hợp theo
định hướng giáo dục STEM, sinh hoạt câu lạc bộ STEM, các sự kiện STEM, ngày
hội STEM, các cuộc thi, các hoạt động trải nghiệm sáng tạo, phối hợp tổ chức các
hoạt động STEM giữa nhà trường và các tổ chức tư nhân. Qua đây cho thấy, giáo
dục STEM bước đầu đã mang lại những kết quả đáng kể, từ đó tạo tiền đề thuận lợi
cho bước triển khai tiếp theo mang tính đại trà và hiệu quả. Tuy nhiên, thực tế triển
khai vẫn còn nhiều khó khăn như: cần phải xây dựng được quy trình dạy học, tiêu
chí đánh giá của việc thực hiển chủ đề giáo dục STEM. Đặc biệt để nâng cao chất
lượng trong quá trình triển khai chúng ta cần phải đưa ra được một số kĩ thuật dạy
học tích cực mang tính cốt lõi.
Xuất phát từ những lí do đã nêu trên, tôi chọn đề tài nghiên cứu: “Ứng dụng
một số kĩ thuật dạy học tích cực vào trong dạy học chủ đề giáo dục STEM phần
sóng âm Vật lí 12 trung học phổ thông” làm đề tài nghiên cứu của tôi.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
2.1. Đối tượng nghiên cứu
+ Thí nghiệm về hiện tượng tượng sóng dừng.
+ Dạy học STEM

2
+ Quá trình dạy học Vật lí ở trường trung học phổ thông
2.2. Phạm vi nghiên cứu
+ Bài sóng dừng, bài các đặc trưng của âm chương sóng cơ và sóng âmVật lí
12 trung học phổ thông.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Nghiên cứu cơ sở lí luận về xây dựng và sử dụng chủ đề giáo dục STEM
dùng cho dạy học vật lí;
3.2. Tìm hiểu mục tiêu dạy học, nội dung dạy học phần sóng âm Vật lí 12
trung học phổ thông;
3.3. Xây dụng kế hoạch dạy học chủ đề giáo dục STEM dùng cho dạy học
phần “Sóng âm” vật lí 12 trung học phổ thông;
3.4. Thực nghiệm sư phạm.
4. Phương pháp nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu tài liệu.
+ Phương pháp thực nghiệm.
+ Phương pháp quan sát, điều tra.
+ Phương pháp hỏi ý kiến chuyên gia.
+ Phương pháp thực nghiệm sư phạm.
+ Phương pháp thống kê toán học.
5. Đóng góp của sáng kiến kinh nghiệm
5.1. Về lí luận
+ Đề xuất được quy trình xây dựng chủ đề giáo dục STEM
+ Đề xuất được một số kĩ thuật dạy học tích cực vào trong dạy học chủ đề giáo
dục STEM
5.2. Về ứng dụng
+ Xây dựng được 5 tiến trình dạy học chủ đề giáo dục STEM dùng cho dạy học
phần “Sóng âm” vật lí 12 trung học phổ thông.

3
NỘI DUNG
Chương 1. Cơ sở lí luận xây dựng chủ đề giáo dục STEM dùng trong dạy học
trong trường trung học phổ thông.
Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn
(interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy bốn môn học
như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM được hiểu như một “tổ hợp đa lĩnh
vực” bao gồm: Khoa học (Science), Công nghệ (Technology), Kỹ thuật
(Engineering) và Toán học (Mathematics).
Hình 1.1: STEM là sự tích hợp liên môn
Một trong những phương pháp dạy và học mang lại hiệu quả cao nhất cho
giáo dục STEM là phương pháp “Học qua hành” (Learn by doing). Phương pháp
này giúp HS có được kinh nghiệm thực tiễn chứ không chỉ dừng lại ở lý thuyết
suông. HS sẽ được làm việc theo nhóm, tự thảo luận tìm tòi kiến thức, tự vận dụng
kiến thức vào các hoạt động thực hành rồi sau đó có thể truyền đạt lại kiến thức
cho người khác. Với cách học này, GV không còn là người truyền đạt kiến thức
nữa mà sẽ là người hướng dẫn để HS tự xây dựng kiến thức cho chính mình.
Chúng ta đang sống trong thời đại hòa nhập cao giữa các quốc gia có văn hóa
khác nhau, nhu cầu trao đổi công việc và nhân lực cũng ngày một cao. Bối cảnh đó
đòi hỏi ngành giáo dục cũng cần chuẩn bị cho HS những kỹ năng và kiến thức theo
chuẩn toàn cầu. Giáo dục STEM với nhiệm vụ cung cấp các kiến thức và kỹ năng
cần thiết cho HS thế kỷ 21 sẽ là mô hình giáo dục diện rộng trong tương lai gần
của thế giới. Phương pháp giáo dục STEM còn khá mới mẻ và có phương pháp

4
tiếp cận khác trong giảng dạy và học tập nên cần được sự quan tâm và nhận thức
của toàn xã hội. Những người hoạch định chính sách cần có phương pháp nâng cao
nhận thức của các tầng lớp xã hội về giáo dục STEM, từ các bậc cha mẹ, GV, nhà
trường, đến những nhà giáo dục các cấp. Cải cách giáo dục là điều tất yếu, triển
khai giáo dục STEM để đón đầu xu hướng phát triển giáo dục sẽ đặt nền móng
vững chắc cho sự phát triển của đất nước ta trong tương lai.
1.1. Kĩ thuật dạy học tích cực [Modun 2]
Kỹ thuật dạy học là những biện pháp, cách thức hành động của của GV và HS
trong các tình huống hành động nhỏ nhằm thực hiện và điều khiển quá trình dạy
học. Các kỹ thuật dạy học là những đơn vị nhỏ nhất của phương pháp dạy học. Có
những kỹ thuật dạy học chung, có những kỹ thuật đặc thù của từng phương pháp
dạy học, ví dụ kỹ thuật đặt câu hỏi trong đàm thoại. Ngày nay người ta chú trọng
phát triển và sử dụng các kỹ thuật dạy học phát huy tính tích cực, sáng tạo của
người học như “động não, công não” (Brainstorming), “khăn trải bàn”, KWL và
KWLH, Kipling (5W1H), bản đồ tư duy...
Các kỹ thuật dạy học tích cực là những kỹ thuật dạy học có ý nghĩa đặc biệt
trong việc phát huy sự tham gia tích cực của HS vào quá trình dạy học, kích thích
tư duy, sự sáng tạo và sự cộng tác làm việc của HS. Chính vì vậy, việc áp dụng
hợp lí, đúng lúc đúng chỗ, kết hợp sao cho nhuần nhuyễn các kĩ thuật này trong
quá trình dạy học với phương pháp giáo dục STEM ngày càng được chú trọng. Để
làm được điều đó, ta nẵm rõ được khái niệm, ưu nhược điểm của các kĩ thuật dạy
học trên.
1.1.1. Kĩ thuật động não, công não (Brainstorming)
Động não - Công não là một kĩ thuật dạy học nhằm huy động những tư tưởng
mới mẻ, độc đáo về một chủ đề của các thành viên trong thảo luận. Các thành viên
được cổ vũ tham gia một cách tích cực, không hạn chế các ý tưởng (nhằm tạo ra
“cơn lốc” các ý tưởng). Kĩ thuật động não do Alex Osborn (Mĩ) phát triển, dựa trên
một kĩ thuật truyền thống từ Ấn độ với quy tắc:
+ Không đánh giá và phê phán trong quá trình thu thập ý tưởng các thành
viên.
+ Liên hệ với những ý tưởng đã được trình bày.
+ Khuyến khích số lượng các ý tưởng.
+ Cho phép sự tưởng tượng và liên tưởng.
Động não thường được:
+ Dùng trong giai đoạn giới thiệu vào một chủ đề.
+ Sử dụng để tìm các phương án giải quyết vấn đề.