Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
TÍCH HỢP KIẾN THỨC LỊCH SỬ VÀO GIẢNG DẠY TÁC
PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI LỚP 11
I. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI:
Trong những năm gần đây, việc đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo được cả xã hội quan tâm. Theo tinh thần Nghị quyết 29 - NQ/TƯ về việc việc đối mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo thì phương pháp dạy học văn cũng cần phải thay đổi để theo kịp yêu cầu của thực tiễn. Dạy học theo hướng “tích hợp, liên môn” là một trong những vấn đề ưu tiên hiện nay.
Thêm nữa, nghị quyết Hội nghị trung ương 8 khóa XI có nêu rõ về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo như sau: “Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến thức, kỹ năng của người học; khắc phục lối truyền thụ áp đặt một chiều, ghi nhớ máy móc. Tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển năng lực”. Theo quan điểm chỉ đạo đổi mới giáo dục trung học trên thì phát triển năng lực của người học được coi là mục tiêu quan trọng và được cần được coi trọng.Mặt khác, khái niệm năng lực ở đây được hiểu là sự kết nối tri thức, hiểu biết, khả năng và mong muốn của người học. Như vậy, việc liên hệ kiến thức lịch sử vào việc đọc hiểu tác phẩm văn học cũng là biện pháp cần thiết, đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới giáo dục, đặc biệt đối với bộ môn Ngữ văn.
Văn học cũng như mỗi tác phẩm văn chương luôn luôn được ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể, những yếu tố đó thẩm thấu, chắt lọc thông qua lăng kính của nhà văn để đi vào tác phẩm. Cho nên, không phải ngẫu nhiên mà muốn nghiên cứu một tác phẩm văn chương cụ thể chúng ta lại tìm đến bối cảnh mà nó ra đời. Trong phương pháp dạy học văn gọi đó là “quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh hay là sự vận động một cách thích hợp những hiểu biết ngoài văn bản để cắt nghĩa tác phẩm”.
Bên cạnh đó, đặt trong giai đoạn đất nước như hiện nay, khi mà những giá trị sống của con người đều bị “lung lay” trong “cơn bão” của quá trình hội nhập, nhiệm vụ giáo dục qua môn Ngữ văn lại càng được quan tâm hơn bao giờ hết. Đó có thể là giáo dục đạo đức, lối sống; giáo dục pháp luật; giáo dục chủ quyền quốc gia về biên giới, biển, đảo; giáo dục sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả, bảo vệ môi trường, an toàn giao thông…và hơn thế nữa bồi dưỡng cho HS tình yêu đối với lịch sử dân tộc.
GV: Lê Thị Thu Phương
1
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Nhìn lại thực tế dạy học tác phẩm văn học trung đại lớp 11 thì thấy rằng cả GV và HS – cả người định hướng và người chủ động khám phá kiến thức đều hiểu biết chưa nhiều về lịch sử phát sinh của tác phẩm văn học trung đại hoặc ít nhiều chưa nhận thức một cách sâu sắc tầm quan trọng của nó đối với quá trình tìm hiểu, khám phá kiến thức mới. Cộng thêm việc thiếu những hình ảnh trực quan cũng như những thước phim tư liệu liên quan đến nội dung bài học đã là những nguyên nhân và là rào cản để cả người dạy và người học có thể hiểu sâu sắc giá trị nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm văn học trung đại – những tác phẩm có khoảng cách khá xa với chúng ta về thời gian lịch sử.
Từ những nhu cầu đổi mới giáo dục cấp thiết cùng thực tế dạy học với những đòi hòi khách quan và chủ quan ấy đã thôi thúc tôi thực hiện đề tài: “Tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11”.
II. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN:
1. Cơ sở lí luận:
1.1 Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường:
Trước khi tìm hiểu một tác phẩm văn học bất kì cũng cần xác định phương pháp, quan điểm tiếp cận đồng bộ, rõ ràng và đúng đắn. Đặc biệt đối với những tác phẩm thuộc bộ phận văn học trung đại Việt Nam được coi là khó dạy hay và xa lạ với tâm lí tiếp nhận của người học. Hiện nay, quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương trong nhà trường là một xu hướng tiến bộ. Nó vừa đảm bảo được phương pháp lịch sử phát sinh, vừa chú trọng được tác giả, tác phẩm, đồng thời chú trọng đến vai trò tích cực của người học. Một trong những đặc điểm chính của quan niệm tiếp cận đồng bộ là quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh và sự vận dụng một cách thích hợp những hiểu biết ngoài văn bản (XH, văn hoá, nhà văn...) để cắt nghĩa tác phẩm.
1.1.1 Quan điểm tiếp cận lịch sử phát sinh:
Theo quan điểm này, mỗi nhà văn đều được sinh ra trong một hoàn cảnh lịch sử và đều chịu sự tác động trở lại hoàn cảnh lịch sử. Mỗinhà văn đều có khuynhhướng khẳng định tài năng và nhân cách riêng, khẳng định vị thếcuả mình trong dòng chảy văn học. Do vậy, việc nghiên cứu văn học phải dựa vào lịch sử là một tất yếu. Ví dụ, tác phẩm Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi phải đặt trong hoàn cảnh chống giặc Minh xâm lược hay khi tiếp nhận tác phẩm Bạch Đằng giang phú của Trương Hán Siêu phải đặt trong hoàn cảnh chống quân Mông- Nguyên sôi sục của quân dân đời Trần thì mới hiểu sâu sắc giá trị của tác phẩm và đồng cảm với tác giả, hiểu được hào khí của thời đại và thế đứng của dân tộc. Nỗi niềm băn khoăn, hoài nghi, bất bình của Cao Bá Quát, nỗi uất nghẹn sôi trào của
GV: Lê Thị Thu Phương
2
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Nguyễn Đình Chiểu, nỗi suy tư sâu lắng của Nguyễn Khuyến đều có nguồn gốc sâu xa từ bối cảnh văn hóa, lịch sử của thời đại.
1.1.2 Quan điểm tiếp cận hướng vào đáp ứng của học sinh:
Theo phương pháp dạy học văn hiện đại, HS là một chủ thể sáng tạo đa dạng, phong phú. Để chủ thể ấy phát huy được tối đa khả năng tiếp cận, lĩnh hội văn bản văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng thì cần có một kênh thông tin, một cây cầu nối bằng văn hóa và lịch sử để có sự đối thoại, cuộc gặp gỡ giữa những giá trị của một thời với tâm lí tiếp nhận của người học hiện nay. Mỗi tác phẩm văn chương không chỉ truyền cho HS những thông điệp mà nhà văn, nhà thơ gửi gắm mà còn truyền cho các em một niềm tin thực sự dựa trên cơ sở có thật mà cái thật đó không gì khác ngoài lịch sử. Khi đã hiểu về lịch sử, các em sẽ cảm nhận và tin vào những thông điệp mà các tác giả gửi gắm, sẽ không còn cảm giác “chơi vơi”, mơ hồ, sáo rỗng về những tác phẩm xưa cũ. Khi đó, HS sẽ là người tiếp nhận tác phẩm văn học vừa là người đồng sáng tạo với tác giả nếu được đặt mình trong không gian văn hóa và thời gian lịch sử mà tác phẩm đó ra đời.
Như vậy, quan điểm tiếp cận trên là thực sự cần thiết đối với thực tế giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại trong nhà trường. Nó đã rút gần hơn khoảng cách giữa HS với nhữngtác phẩm này, để chúng không còn xa lạ, vô nghĩa và khắc phục tâm lí chán nản, hoài nghi về giá trị của những tác phẩm thuộc thời đại cũ.
1.2 Mối quan hệ giữa văn học và lịch sử:
1.2.1 Mối quan hệ hai chiều giữa văn học và lịch sử:
Văn học cũng như mỗi tác phẩm văn chương luôn ra đời trong những bối cảnh lịch sử xã hội, văn hoá cụ thể. Mỗi tác phẩm văn học – đứa con tinh thần của mỗi nhà văn, nhà thơ lại được thai nghén, ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử, xã hội nhất định. Nếu khôngđặt trong môi trường sinh thành thì không thể có cơ sở để khẳng định hay ngợi ca về những giá trị hiện thực, nhân đạo mà nó thể hiện.
Văn học là lăng kính phản chiếu lịch sử và hoàn cảnh lịch sử sẽ là đối tượng, là bối cảnh sản sinh ra văn học. Và nhà thơ, nhà văn đóng vai trò là “người thư kí trung thành của thời đại” (Balzac). Bởi thế, không phải ngẫu nhiên khi đánh giá sự nghiệp thi ca của Tố Hữu, người đọc thấy ở đó chặng đường thơ gắn liền với chặng đường cách mạng của dân tộc, hay xa hơn nữa là thơ văn Nguyễn Đình Chiểu được ngợi ca là “ghi lại lịch sử của một thời khổ nhục nhưng vĩ đại" của dân tộc. (Phạm Văn Đồng- Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng trong văn nghệ của dân tộc, tạp chí văn học 7- 1963).Tuy nhiên, văn học không phản ánh lịch sử một cách khô cứng, gượng ép mà rất hình tượng và mang màu sắc thẩm mĩ. Như vậy, ở phương diện nào đó, lịch sử là chất
GV: Lê Thị Thu Phương
3
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 liệu, là đối tượng phản ánh của văn học và lịch sử soi mình trong văn học để mãi lung linh trong tâm hồn mỗi con người.
1.2.2 Điểm đồng quy giữa bộ môn Lịch sử và Ngữ văn:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng căn dặn: “Dân ta phải biết sử ta/ Cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”. “Biết sử ta” không phải chỉ đơn thuần là ghi nhớ một số sự kiện, một vài chiến công nói lên tiến trình đi lên của dân tộc hay ghi nhớ công lao của những người làm nên sự nghiệp to lớn đó, mà còn phải biết tìm hiểu “cho tường gốc tích nước nhà Việt Nam”, tiếp nhận những nét đẹp của đạo đức, của đạo lý làm người Việt Nam.
Mặt khác, nhà văn M.Gook-ki thật chí lí khi đã cho rằng: “Văn học là nhân học”. Câu nói là sự đúc kết tuyệt vời từ cuộc đời cầm bút của ông. Qua đó có thể thấy ý nghĩa của việc học văn là để hiểu sâu hơn tâm hồn con người và đồng thời cũng là để học cách làm người. Cái cách học làm người ấy có gì khác ngoài những giá trị đạo đức, những truyền thống đạo lí của người Việt Nam được bồi đắp qua bao thế hệ. Thì ra, đây chính là điểm gặp gỡ đẹp đẽ giữa giá trị giáo dục của bộ môn văn học và bộ môn lịch sử.
Như vậy, có điểm đồng quy giữa văn học và lịch sử: đó là giá trị giáo dục con người. Cả hai môn học đều hướng đến giáo dục đạo đức, tình yêu đất nước, con người , lòng tự hào dân tộc, và ý thức bảo vệ tổ quốc. Có điều, mỗi môn học lại có con đường - hành trình riêng để đi đến nhận thức và trái tim của người học. Nếu lịch sử phản ánh đời sống, quá trình hình thành, tồn tại và phát triển của đất nước, dân tộc bằng những cứ liệu lịch sử, những chuyện xưa, tích cũ trong quá khứ thì văn học lại phản ánh những điều đó thông qua những hình tượng nghệ thuật độc đáo và dấy lên trong lòng người học những cảm xúc thẩm mĩ cao đẹp.
2. Cơ sở thực tiễn:
2.1 Thực tiễn giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại:
Văn học trung đại là một thời kì lớn trong lịch sử văn học nhân loại và văn học Việt Nam đồng thời cũng là một trong hai bộ phận lớn của văn học bên cạnh văn học cổ đại và văn học hiện đại. Văn học trung đại Việt Nam là một thời kì phát triển rất phong phú và kéo dài suốt mười thế kỉ (từ thế kỉ X đến thế kỉ XIX) và đã đạt được nhiều thành tựu to lớn và đỉnh cao như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương…
Nhìn lại SGK lớp 11, những tác phẩm văn học trung đại chiếm một số lượng không nhỏ. Việc dạy cho hay, hiểu cho đúng những tác phẩm này vẫn là thách thức
GV: Lê Thị Thu Phương
4
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 và mục tiêu phấn đấu của mỗi GV và HS. Bởi lẽ trong qua trình tiếp nhận cả GV và HS gặp nhiều khó khăn cơ bản như:
Thứ nhất là vấn đề ngôn ngữ. Cả GV và HS hầu như chỉ tiếp nhận tác phẩm thông qua các bản dịch nghĩa và dịch thơ. Do đó việc hiểu sai hoặc chưa đầy đủ các lớp nội dung, ý nghĩa cũng như vẻ đẹp nghệ thuật của các tác phẩm rất hay xảy ra.
Thứ hai, rất nhiều tác phẩm văn học trung đại là những văn bản “hành chức”, được sáng tác theo các thể loại mang tính chức năng như chiếu, cáo, hịch, văn tế nên ít gây hứng thú đối với HS ngày nay.
Thứ ba, những tác phẩm văn học thời kì này đã trở nên cũ kĩ và xa lạ với tâm lí tiếp nhận của HS ngày nay. Ngoài ra việc vận dụng về sự phát triển của lịch sử xã hội góp phần vào việc lí giải các tác phẩm văn học thời kì này cũng gặp rất nhiều khó khăn, nhất là các sự kiện lịch sử cụ thể liên quan đến sự ra đời của các tác phẩm văn học.
Từ thực tiễn trên, đề tài sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp liên hệ kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11” sẽ góp phần khắc phục khó khăn thứ ba, kéo HS gần hơn với những tác phẩm đã ra đời rất lâu so với thời đại các em sống.
2.2 Những hướng đề xuất trong việc giảng dạy tác phẩm văn học trung
đại:
Vì còn nhiều bất cập trong việc giảng dạy tác phẩm văn học trung đại nên cũng có nhiều ý kiến trao đổi, những hướng đề xuất để việc tiếp nhận những tác phẩm thời kì này như:
Cô Nguyễn Thị Hiểu – GV trường THPT Lệ Thủy, Quảng Bình trong bài viết “Một vài đề xuất hướng tiếp cận và giảng dạy các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình THPT” có nhấn mạnh: khi giảng dạy các tác phẩm văn chương trung đại, giáo viên phải dựng lại được không khí văn hóa, lịch sử của thời đại, phải tạo được sự đồng cảm về văn hóa, văn học; giảng dạy văn học trung đại phải dựa trên thi pháp văn chương trung đại, phải bám sát đặc trưng thể loại, phải đặt trong mối liên hệ với cuộc sống thực tại hôm nay.
Theo kinh nghiệm của mình, cô Trần Thị Hoa– Giáo viên Trường THPT Thái Hòa (Hàm Yên, Tuyên Quang) có chia sẻ: “ trong quá trình dạy học, tôi nhận thấy việc tham khảo tài liệu từ các lĩnh vực khác có vai trò quan trọng trong việc khôi phục, tái hiện hình ảnh quá khứ. Tài liệu tham khảo giúp người học xây dựng được tầm đón nhận phù hợp với văn bản”,cụ thể là: sử dụng tài liệu liên môn,sử dụng tư liệu lịch sử, sử dụng tư liệu về các tác phẩm nghệ thuật, sử dụng tài liệu địa lý và ngôn ngữ học, sử dụng tài liệu các lĩnh vực văn hóa khác. Kinh nghiệm trên chỉ ra
GV: Lê Thị Thu Phương
5
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 cái nhìn bao quát mang tính phương pháp chứ chưa có biện pháp đi vào cụ thể từng bài, từng nội dung kiến thức.
Còn tác giả Trương Thị Minh Hà trong sáng kiến kinh nghiệm “Một số biện pháp dạy học văn bản nghị luận, văn học trung đại ở trường THPT” lại chỉ chú trọng đến những tác phẩm thuộc văn nghị luận và phương pháp tích hợp ngang (Văn-Tiếng Việt-Làm văn), tích hợp dọc(tích hợp theo từng vấn đề) và không bao quát hết kiến thức văn học trung đại lớp 11.
Tác giả Trần Minh Thương lại đề xuất “Hướng tích hợp những kiến thức liên quan giữa hai phân môn lịch sử và ngữ văn ở trường THPT” song hướng tích hợp rộng, bao quát cả tác phẩm văn học lớp 10,11,12, cả tác phẩm văn học Việt Nam và tác phẩm văn học nước ngoài mà chưa chỉ ra tích hợp chỗ nào và tích hợp như thế nào trong những tác phẩm văn học trung đại lớp 11.
Nói tóm lại, các công trình nghiên cứu, những đề xuất, sáng kiến đều chỉ nêu chung chung mà chưa đi vào cụ thể vào liên hệ kiến thức lịch sử trong việc giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại lớp 11. Vì vậy, để khắc phục điều đó, đề tài này sẽ tìm những địa chỉ liên hệ và đề xuất những biện pháp liên hệ kiến thức lịch sử để góp phần hiệu quả vào việc giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11.
III. NỘI DUNG MỘT SỐ BIỆN PHÁP LIÊN HỆ KIẾN THỨC LỊCH SỬ
VÀO GIẢNG DẠY TÁC PHẨM VĂN HỌC TRUNG ĐẠI LỚP 11
1. Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử vào phần hướng
dẫn chuẩn bị bài cho HS
Bước chuẩn bị bài ở nhà của HS là một khâu bước rất quan trọng trong tiến trình giảng dạy tác phẩm văn học nói chung và tác phẩm văn học trung đại nói riêng. Sở dĩ nó quan trọng là bởi, nếu không chuẩn bị bài ở nhà dưới sự hướng dẫn của GV thì sẽ cản trở việc HS cảm thụ tác phẩm ở trên lớp. Hơn nữa, HS tự mình được trước bài văn dễ có những ấn tượng sai lạc ban đầu. Tuy nhiên nhìn lại thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy khâu chuẩn bị ở nhà của HS thường bị coi nhẹ, GV phần nào không hướng dẫn cụ thể cho học sinh. Mấy phút còn lại cuối cùng của giờ học, GV dặn HS soạn những câu hỏi trong sách giáo khoa và kết quả HS chuẩn bị đến đâu lại ít được quan tâm.
Nội dung công việc chuẩn bị ở nhà của HS có nhiều mặt, đa dạng. Có thể là tập đọc tìm hiểu điển cố, từ ngữ khó, suy nghĩ về một chi tiết nghệ thuật, một kiến thức cụ thể cần thiết có liên quan đến việc tiếp nhận tác phẩm. Phần lớn những câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị bài thường tập trung, xoay quanh kiến thức văn học, kiến thức trong SGK mà ít tận dụng những kiến thức ngoài SGK, ngoài môn học như lịch sử để khám phá và hiểu sâu hơn về tác phẩm – điều mà rất cần đối với quá trình đọc hiểu văn bản văn học trung đại. Trong một phạm vi nhỏ, đề tài hướng đến biện pháp “Xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử vào phần hướng dẫn chuẩn bị bài cho HS”. Tất nhiên không phải bất kì tác phẩm tác phẩm văn học
GV: Lê Thị Thu Phương
6
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 trung đại nào trong quá trình tìm hiểu cũng có thể được liên hệ kiến thức lịch sử ở mức độ như nhau. GV phải tìm hiểu kĩ tác phẩm, sau đó đặt những câu hỏi thật sát với nội dung bài học, tận dụng tối đa những hiểu biết ngoài tác phẩm của HS vừa để các em có cái nhìn tin cậy hơn, đúng hơn về tác phẩm, vừa tránh tình trạng tản mạn trong kiến thức của mình. Dưới đây làgợi ý trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử trong một số tác phẩm văn học trung đại 11 tiêu biểu:
* Trước hết là văn bản Vào phủ chúa Trịnh trích Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác. Đây là văn bản thuộc thể loại kí sự - một thể kí, ghi chép sự việc, câu chuyện có thật và tương đối hoàn chỉnh. Có thể thấy qua đoạn trích này một cái nhìn chân thực, hài hước, mỉa mai, bất bình của tác giả về lối sống xa hoa, lãng phí và biểu hiện lộng quyền của chúa Trịnh. Để HS đọc hiểu tốt văn bản này, GV nên đặt những câu hỏi hướng các em đến những sự kiện lịch sử trong thời gian mà văn bản ra đời.
- Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh tríchThượng kinh kí sự của tác giả Lê Hữu
Trác được sáng tác trong hoàn cảnh nào?
- Tác phẩm Thượng kinh kí sự của tác giả Lê Hữu Trác được hoàn thành vào năm 1783. Bằng những kiến thức lịch sử ở lớp 10 đã học, em hãy cho biết vào thời điểm đó, nền chính trị nước ta có gì đáng chú ý? Em biết gì về mối quan hệ giữa chính quyền Lê- Trịnh?
- Cũng vào thời điểm đó, đời sống nhân dân như thế nào dưới sự trị vì của chúa
Trịnh?
- Hình ảnh nào trong SGK lịch sử 10 cho em thấy sự lộng hành, tiếm quyền cả
cung vua Lê của chúa Trịnh?
* Đối với bài thơ Thu điếu của Nguyễn Khuyến, tưởng chừng như không cần có sự liên hệ kiến thức lịch sử thì tâm sự thời thế của nhà thơ ở hai câu cuối và hồn thu đẹp nhưng có phần lạnh lẽo, cô quạnh ở sáu câu trước đó lại cần tìm về bối cảnh lịch sử những năm cuối thế kỉ XIX thì mới có thể cắt nghĩa, lí giải được.
- Nhà thơ Nguyễn Khuyến sáng tác bài thơ Thu điếu trong hoàn cảnh nào?
- Vì sao Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn?
- Trong thời gian khoảng thời gian và sau khi ông cáo quan về ở ẩn tại quê nhà
(1872-1883), lịch sử Việt Nam có những biến động gì đáng chú ý?
* Bài Vịnh khoa thi Hương (có bản ghi là Lễ xướng danh khoa thi Đinh dậu) của Trần Tế Xương (1870-1907) là bài thơ thuộc đề tài “thi cử”. Bài thơ đã thể hiện thái độ mỉa mai, phẫn uất của nhà thơ đối với chế độ thi cử đương thời và đối
GV: Lê Thị Thu Phương
7
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 với con đường khoa cử của riêng ông. Qua bài thơ này, tác giả vẽ nên một phần hiện thực nhốn nháo, ô hợp của xã hội thực dân nửa phong kiến buổi đầu, đồng thời nói lên tâm sự của mình trước tình cảnh đất nước. Bài thơ gắn liền với một sự kiện lịch sử đương thời có thật cho nên không lẽ gì khi tìm hiểu tác phẩm này HS lại không quan tâm đến lịch sử. Những thông tin trong SGK, cả về phần Tiểu dẫn và phần Chú thích cũng không thể cung cấp hết cái nhìn thời sự đối với tác phẩm này. Vả lại, Vịnh khoa thi Hương chỉ được đưa vào chương trình với tư cách là bài đọc thêm, thời lượng rất ít, nên việc HS chuẩn bị bài ở nhà qua những câu hỏi hướng dẫn liên hệ của GV ở tiết học trước là rất cần thiết. GV có thể đặt một số câu hỏi để HS tự liên hệ, tìm hiểu như:
- Em hãy nêu hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế
Xương?
- Kì thi Hương được Trần Tế Xương phản ánh trong bài thơ diễn ra vào năm
nào?
- Câu thơ “Nhà nước ba năm mở một khoa” trong bài thông báo điều gì? Em biết gì về cách thức tổ chức các kì thi và chính sách phát triển giáo dục dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn? (gợi ý: thi Hương, thi Hội, thi Đình)
- Câu thơ thứ hai “Trường Nam thi lẫn với trường Hà” đã cho thấy kì thi có gì
đặc biệt? Vì sao có sự đặc biệt đó?
- Tại sao trong lễ xướng danh khoa thi Đinh dậu lại có sự xuất hiện của “quan
sứ” và “mụ đầm”?
* Một tác phẩm cùng viết về đề tài “thi cử” khác trong chương trình là Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (1809 ?-1855). Bài thơ biểu lộ tinh thần phê phán của ông đối với học thuật và sự bảo thủ, trì trệ của chế độ nhà Nguyễn nói chung. Có thể thấy Cao Bá Quát sống cùng thế kỉ và cùng dưới triều Nguyễn với Nguyễn Công Trứ nên cái nhìn của hai con người có tài năng, nhân cách và tư tưởng canh tân ít nhiều có sự tương đồng. Vì thế, khi dạy bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát, GV có thể đặt một số câu hỏi liên hệ kiến thức lịch sử tương tự:
- BàiBài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát được sáng tác trong hoàn
cảnh nào?
- Tại sao Cao Bá Quát lại vào trong Huế để tham gia kì thi Hội?
- Điều gì khiến cho Cao Bá Quát có thái độ chán ghét, quay lưng với nền học
thuật và khoa cử đương thời?
GV: Lê Thị Thu Phương
8
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
- Nhìn vào lịch sử nước ta lúc đó, lúc đó có nhiều cuộc tiếp xúc với phương Tây, liệu đó có phải là yếu tố tác động đến tư tưởng và tâm trạng của Cao Bá Quát được thể hiện trong bài thơ này không?
- Trong SGK lịch sử 10, bài 26, Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân giúp em hiểu thêm được điều gì về cuộc đời và con người Cao Bá Quát?
* Bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Bài Chạy giặc (có sách ghi là Chạy Tây) là một trong những tác phẩm đầu tiên của văn học yêu nước chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Tác phẩm này cho dù là bài đọc thêm nhưng cả GV và HS không thể tiếp cận được nếu không phân tích hoàn cảnh lịch sử ra đời của nó. Ở bài thơ này, GV đặt một số câu hỏi cho HS về nhà chuẩn bị để rút ngắn thời gian trên lớp trong việc cảm nhận bài thơ.
- Em hãy cho biết hoàn cảnh sáng tác của bài thơ Chạy giặc của Nguyễn Đình
Chiểu có gì đặc biệt?
- Trong SGK lịch sử 11, bài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) đã ghi nhận bối cảnh lịch sử - thời điểm bài thơ Chạy giặc ra đời như thế nào?
- Em biết gì về địa danh Bến Nghé và Đồng Nai? Trong SGK lịch sử 11, bài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) cho em biết thêm điều gì về những địa danh này?
* Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc là bài văn Nguyễn Đình Chiểu viết theo yêu cầu của Đỗ Quang – tuần phủ Gia Định, để tế những nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận tập kích đồn quân Pháp ở Cần Giuộc đêm 16-2-1861. Vậy điều gì đã khiến bài văn này ngay lập tức được truyền tụng khắp nơi trong nước và làm xúc động lòng người? Đó là bởi nó đặt trong bối cảnh cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) đang diễn ra sôi sục, liên tiếp những cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra và đã đạt những chiến thắng nhất định. Đặt trong bối cảnh khi toàn dân tộc đang quyết một lòng “chết vinh còn hơn sống nhục”, sự hi sinh vì đại nghĩa của những nghĩa sĩ trong trận Cần Giuộc lại có sức mạnh cổ vũ và khích lệ to lớn. Vì vậy, ở bài văn tế này, GV có thể đặt một số câu hỏi liên hệ lịch sử cho HS như:
- Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu được ra đời trong
hoàn cảnh nào?
- Bài văn tế ra đời giữa thời điểm các phong trào đấu tranh chống thực dân
Pháp xâm lược diễn ra như thế nào?
GV: Lê Thị Thu Phương
9
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
- Em hiểu như thế nào về “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm”? Hãy tìm trong SGK lịch sử 11, bài Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) những cứ liệu lịch sử nói về việc thực dân Pháp đã xuất hiện và lăm le xâm lược nước ta?
* Bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng 1788 – 1789, nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức của triều đại cũ (Lê- Trịnh) ra cộng tác với triều đại Tây Sơn. Tác phẩm Chiếu cầu hiền được sáng tác trong một hoàn cảnh đặc biệt. Phải đặt tác phẩm trong hoàn cảnh ra đời mới thấy được tính cấp bách của nó. Để HS tìm hiểu tốt hơn bài học này, GV có thể đặt câu hỏi hướng dẫn tự học như:
- Bài Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết được ra đời vào năm nào?
- Bối cảnh lịch sử nước ta lúc đó ra sao?
- Tại sao những sĩ phu Bắc Hà lại có tâm lí kiêng dè không ra gánh vác việc
nước?
- Liệu có phải Quang Trung kém tài, ít đức nên chưa có người phò tá không?
Vì sao?
- Vì sao Quang Trung lại cho rằng “công việc ngoài biên đương phải lo toan”, “dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp nơi”?
* Bài Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ (1830-1871)
Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ cũng được ra đời trong bối cảnh sự thúc bách của thời đại, đặt trong bối cảnh trào lưu cải cách, duy tân ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX. Ở bài này, GV đặt một số câu hỏi giúp HS kết nối kiến thức của phần Tiểu dẫn và kiến thức lịch sử lớp 11, bài 35 như:
- Bài Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ được ra đời trong hoàn cảnh
nào?
- Đoạn trích Xin lập khoa luật được ra đời trong bối cảnh chính trị đất nước
dưới triều Tự Đức như thế nào?
- Bài 35, trong SGK lịch sử lớp 11, giúp em hiểu thêm điều gì về tư tưởng canh
tân và tác giả của bản điều trần này?
GV: Lê Thị Thu Phương
10
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Trong quá trình xây dựng hệ thống câu hỏi có liên hệ kiến thức lịch sử, GV cần
lưu ý những điểm sau đây:
Thứ nhất là có thể đặt câu hỏi gợi nhắc lại kiến thức lịch sử mà HS đã tìm hiểu hiểu ở lớp dưới (lớp 10), cũng có thể đặt câu hỏi để các em tìm kiếm kiến thức mới chưa học bởi chương trình của bộ môn Ngữ văn chưa có sự tương thích về mặt thời gian với chương trình môn học Lịch sử.
Thứ hai là cần lựa chọn những câu hỏi thực sự có ý nghĩa trong cả việc khai thác kiến thức bài học Ngữ văn vừa nhắc lại kiến thức lịch sử mà HS đã học theo phương pháp “ôn cố tri tân”
Thứ ba là đối với những bài có dung lượng câu hỏi tích hợp nhiều, GV nên sử dụng phiếu học tập dưới dạng bài tập về nhà để HS tiết kiệm thời gian ghi chép câu hỏi trên lớp mà GV cũng giảm bớt khó khăn trong việc kiểm tra việc tự học, tự liên hệ của HS.
2. Liên hệ kiến thức lịch sử để tạo hứng thú cho HS trong phần giới thiệu
bài học.
Sau biện pháp liên hệ kiến thức lịch sử trong và ngoài kiến thức SGK cho HS thông qua việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong phần chuẩn bị bài ở nhà, GV có thể liên hệ trực tiếp những kiến thức đó trong phần giới thiệu bài học để tạo ấn tượng ban đầu cho HS về tác phẩm. Qua quá trình giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại lớp 11, tôi nhận thấy có thểliên hệ kiến thức lịch sử tạo ấn tượng cho HS ngay trong lời dẫn vào bài.
Trước hết cần nhận thức rằng: lời dẫn vào bài cũng đóng vai trò quan trọng trong tiến trình của một giờ dạy văn, và đặc biệt đối với những tác phẩm văn học trung đại vốn được cho là khó, khô. Có GV dùng lời dẫn vào bài để chuyển tiếp từ bài cũ sang bài mới, có người mở đầu bằng lời giới thiệu tác giả, tác phẩm, có người kiểm tra bài cũ, có người đọc diễn cảm ngay. Nhưng dù chọn cho mình cách nào GV cũng cần lưu ý phải khơi gợi sự hứng thú cho HS đồng thời tạo tâm thế cho các em trong việc tiếp nhận tác phẩm.
Không phải tác phẩm văn học trung đại nào cũng sẵn có một nguồn hình ảnh, thước phim tư liệu để minh họa, bởi do những hạn chế kĩ thuật của thời đại. Càng lùi về lịch sử thì điều đó càng hiếm có, có chăng cũng chỉ là sự minh họa bằng tranh vẽ nên ít nhiều có sự dung sai. Vì vậy, đối với những tác phẩm văn học trung đại không có nhiều hoặc không có hình ảnh lịch sử minh họa thì GV nên chọn cách dẫn dắt vào bài đồng thời tích hợp kiến thức lịch sử mà các em đã học hoặc đã tự tìm hiểu để tạo ấn tượng mạnh trong phần giới thiệu bài học. Ví dụ những bài như
GV: Lê Thị Thu Phương
11
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Thu điếu của Nguyễn Khuyến, Thương vợ của Trần Tế Xương,Xin lập khoa Luật của Nguyễn Trường Tộ. Cụ thể như sau:
- Ở bài thơ Câu cá mùa thu, GV bắt đầu tiết học bằng lời dẫn:
“Sau phát súng xâm lược đầu tiên của thực dân Pháp tại bán đảo Sơn Trà, Đà Nẵng, lần lượt ba tỉnh miền Đông (1862), rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì (1867) bị rơi vào tay giặc trước sự bất lực, nhu nhược của triều đình nhà Nguyễn. Chỉ trong không đầy 1 năm, triều đình nhà Nguyễn đã phải kí 2 bản Hiệp ước Hác măng (1883) và Hiệp ước Patơnốt (1884). Trước thời buổi nhiễu nhương trong triều, một vị đại quan trong triều đã từ quan về ở ẩn tại quê nhà, với cảnh quê người quê những vẫn đau đáu, trăn trở về thời cuộc mà bất lực. Vị đại quan ấy không ai khác chính là nhà thơ Nguyễn Khuyến. Tâm sự về thời cuộc mà ẩn chứa lòng yêu nước kín đáo của ông được thể hiện trong bài thơ Câu cá mùa thu mà hôm nay chúng ta sẽ cùng tìm hiểu.”
- Ở bài thơ Thương vợ của Trần Tế Xương, GV có thể dẫn vào bài như:
“Trong nửa sau của thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng, tài chính cạn kiệt. Để đối phó với tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn tăng cường bóc lột nhân dân, thậm chí áp dụng cả những biện pháp tiêu cực như: cho nộp tiền chuộc tội, cho buôn bán thuốc phiện, cho mua quan, bán tước để thu tiền. Chế độ khoa cử cũ kĩ lỗi thời cùng với nạn mua quan bán tước diễn ra công khai, trắng trợn đã khiến những người có thực tài, thực học như Trần Tế Xương tám lần đi thi nhưng chỉ một lần đỗ tú tài. Đó có phải là thói đời bạc bẽo đã khiến cho bà Tú phải khổ mà ông cất lên tiếng chửi trong bài thơ Thương vợ. Điều đó sẽ được trả lời trong tiết học hôm nay.”
- Ở bài Xin lập khoa Luật của Nguyễn Trường Tộ , GV cũng có thể liên hệ kiến
thức lịch sử trong lời dẫn vào bài:
“Trong nửa sau thế kỉ XIX, bộ máy chính quyền triều Nguyễn từ trung ương đến địa phương trở nên sâu mọt; địa chủ cường hào tha hồ đục khoét, nhũng nhiễu dân lành. Những năm trước khi Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất, ở nước ta đã rộ lên một phong trào đề nghị cải cách. Một trong số những người đi đầu phong trào đó là Nguyễn Trường Tộ. Chính tình trạng trì trệ, bảo thủ và suy yếu nghiêm trọng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn trước sự xâm lược của thực dân Pháp đã thôi thúc ông đề xuất việc lập khoa Luật cho đất nước. Tầm nhìn xa trông rộng và tư tưởng tiến bộ của ông sẽ là điều mà chúng ta tìm hiểu trong tiết học hôm nay qua bài “Xin lập khoa Luật.”
Một kinh nghiệm rút ra trong việc liên hệ kiến thức lịch sử vào phần giới thiệu bài học là GV nên đặt các thông tin về lịch sử lên trước sau đó kết nối thông tin đó
GV: Lê Thị Thu Phương
12
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 với nội dung bài học có liên quan. Và nên lưu ý, không nên gượng ép trong việc liên hệ vì nếu việc liên hệ mang tính chất khiên cưỡng không những không giúp HS hiểu thêm về lịch sử mà còn làm mất hứng thú, không đáp ứng được sự chờ đợi của các em trước một giờ học văn.
3. Liên hệ kiến thức lịch sử thông qua những hình ảnh minh họa trong
phần Đọc- hiểu
Trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại, ngoài nhưng nội dung thông tin trong và ngoài văn bản thì việc giới thiệu và cung cấp cho HS những hình ảnh minh họa cũng không kém phần quan trọng. Bởi “trăm nghe không bằng một thấy”, phải “đích mục sở thị” mới củng cố thêm niềm tin, giúp các em hình dung và có những cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm.
GV nên bổ sung hình ảnh tư liệu thuộc lĩnh vực lịch sử vào bài giảng để HS có vốn tri thức rộng khi tiếp nhận. Hơn nữa, HS tiếp nhận kiến thức qua tranh ảnh, hình ảnh trực quan kết hợp với SGK và các tài liệu tham khảo sẽ nhớ lâu và hứng thú hơn. Để việc khai thác nguồn tư liệu này có hiệu quả, phát huy tính tích cực của HS, GV cần nghiên cứu kĩ mục tiêu và nội dung của từng tư liệu trong bài học, tư liệu thuyết minh hình ảnh. GV có thể tận dụng sự hỗ trợ của công nghệ thông tin, trình chiếu kênh hình sẽ có ưu thế hơn vì HS được trực quan với hình ảnh rõ, kích thước lớn, màu sắc sinh động và ấn tượng hơn. Tuy nhiên, trong phạm vi cho phép, sáng kiến kinh nghiệm chỉ thể hiện hình ảnh minh họa cho một số tác phẩm văn học trung đại trong chương trình lớp 11. Cụ thể như sau:
* Ở bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác:
Ở bài này, GV cho HS quan sát hình ảnh minh họa cho hai buổi thiết triều của vua Lê và Chúa Trịnh và đặt câu hỏi đây là hình ảnh nào? Em hãy quan sát và so sánh hai hình ảnh này về mức độ quy mô? Sở dĩ GV đặt câu hỏi này là bởi hai hình ảnh này được lấy trong SGK lịch sử lớp 10 các em mới được tìm hiểu không lâu. Từ đó HS dễ dàng so sánh được quy mô, sự long trọng, sang trọng đầy đủ ban bệ ở phủ Chúa không kém gì ở cung vua. Điều đó giúp HS hiểu thêm sự lộng quyền, lấn át cả cung vua Lê của chúa Trịnh.
GV: Lê Thị Thu Phương
13
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Buổi thiết triều của chúa Trịnh Buổi thiết triều của vua Lê
*Ở bài Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương, GV nên giới thiệu khung
cảnh trường thi, hình ảnh Lễ xướng danh khoa thi Đinh dậu.
Hình ảnh trường thi ngày xưa Các sĩ tử xem bảng danh sách những
người thi đỗ Trường Hà Nam,
khoa Đinh dậu 1897
14
GV: Lê Thị Thu Phương
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
(Cổng Tiền Môn) (Cổng Tiền Môn)
Dân chúng chen lấn nhau đi Toàn quyền P.Doumer chứng kiến
xem lễ xướng danh lễ xướng danh
Xướng danh trường Hà Nam (27/12/1897)
Các quan mặc triều phục, theo thứ tự phẩm trật, ngồi ghế tréo ở hai bên con
đường đi từ Cổng Tiền Môn dẫn vào nhà Thập Đạo
(Trường Hà-nam 27/12/1897)
GV: Lê Thị Thu Phương
15
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
(Tân khoa ngồi đợi hoàn tất lễ Xướng danh Sau khi trình diện các Khảo quan, ông Cử mới đượcdẫn đến chiếu ngồi trong một cái rạp dựng trước nhà Thập đạo. Ông Thủ Khoa, cũng gọi là Giải nguyên hay Hương nguyên, ngồi trên chiếc chiếu hoa cạp điều đầu hàng lẻ, ông Á nguyên ngồi trên chiếc chiếu đầu hàng chẵn.)
* Ở bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Quân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (17/2/1859) Liên quân Pháp - Tây Ban Nha tấn công bán đảo Sơn Trà (Đà Nẵng), ngày 1-9-1858
GV: Lê Thị Thu Phương
16
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Tàu chiến Pháp-Tây Ban Nha đổ bộ vào Sài Gòn năm 1859
* Ở bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
GV dạy bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu, ngoài kiến thức lịch sử về trận tấn công đồn Cần Giuộc năm 1861, nhằm giúp HS hiểu hình tượng người nông dân nghĩa sĩ trong tác phẩm là hình tượng đám đông bước ra từ thực tế đời sống chứ không còn là hình ảnh ước lệ tượng trưng thì GV nên kết hợp cho HS xem tranh vẽ trận Cần Giuộc, xem hình ảnh về việc xây dựng tượng đài kỉ niệm những nghĩa sĩ Cần Giuộc đã được khởi công vào năm 2011 như một sự tri ân thành kính đối với những anh hùng vô danh trong lịch sử dân tộc.
Hình ảnh minh họa những nghĩa sĩ Hình ảnh Lễ khởi công xây dựng
trong trận Cần Giuộc tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc
GV: Lê Thị Thu Phương
17
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
* Ở bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Tượng đài Quang Trung Lược đồ chiến thắng Rạch Gầm – Xoài Mút
Phối cảnh Nguyễn Huệ lên ngôi hoàng đế tại núi Bân
Lược đồ diễn biến trận đánh Hình ảnh Quang Trung
Ngọc Hồi – Đống Đa (Tết Kỷ Dậu -1789)
GV: Lê Thị Thu Phương
18
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
GV có thể sử dụng hình ảnh lịch sử trong phần giới thiệu bài học làm tăng sự hứng thú, kích thích sự đón đợi của HS. GV khi giới thiệu hình ảnh cũng cần có sự thuyết minh ngắn gọn để phương pháp trực quan đạt hiệu quả như mong muốn.
4. Liên hệ kiến thức lịch sử trong và ngoài chương trình SGK lịch sử đã
học để tạo sự liên kết kiến thức với nội dung bài học đang tìm hiểu
Việc liên hệ kiến thức lịch sử trong và ngoài chương trình SGK lịch sử là một biện pháp hiệu quả trong việc đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại và đồng thời khắc sâu thêm kiến thức lịch sử cho HS. Trong phạm vi đề tài này, người thực hiện sẽ gợi ý những địa chỉ tích hợp và nội dung tích hợp. Ở mỗi bài học thì lượng kiến thức liên hệ có thể ít hoặc nhiều. Song cần chú ý rằng, đối với những bài dài cần tiết chế và chọn lọc những kiến thức lịch sử tiểu biểu để phục vụ cho bài học để tránh biến giờ dạy văn học thành một bài dạy lịch sử hoặc phô diễn kiến thức, sự uyên bác của GV.
* Bài Vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác:
Khi học bài Vào phủ chúa Trịnh , HS có thể vận dụng kiến thức lịch sử bài 21“Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII” và bài 23 “Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ 18” trong sách giáo khoa lịch sử lớp 10. Nội dung như sau:
Trong bài 23, HS có thể vận dụng kiến thức ở mục 3, Nhà nước phong kiến Đàng Ngoài để hiểu hơn về vị trí của nhà Chúa và sự tiếm quyền vua Lê của chúa Trịnh:
Năm 1627, cuộc chiến tranh Trịnh – Nguyễn bùng nổ, kéo dài đến cuối năm 1672. Không phân thắng bại, hai bên giảng hòa, lấy sông Gianh (Quảng Bình) làm giới tuyến, chia đất nước làm hai: Đàng Ngoài và Đàng Trong với hai chính quyền riêng biệt.
Từ cuối thế kỉ XVI, nhà nước phong kiến Nam Triều chuyển về Thăng Long, được xây dựng lại hoàn chỉnh với danh nghĩa thống trị toàn bộ đất nước, do vua Lê đứng đầu. Tuy nhiên quyền hành của vua Lê không còn như trước, thậm chí bị thu hẹp đến mức chỉ còn là danh nghĩa. Mọi quyền hành đều nằm trong tay người tổng chỉ huy quân đội họ Trịnh, về sau được phong vương (nhân dân quen gọi là “chúa”).
Ở Trung ương hình thành hai bộ phận: triều đình và phủ chúa. Chính quyền đứng đầu là vua Lê được tổ chức như cũ nhưng quyền hành bị thu hẹp. Phủ chúa gồm một số quan văn, quan võ cao cấp chuyên cùng chúa bàn bạc, quyết định các chủ trương, chính sách lớn của nhà nước và trực tiếp chỉ đạo việc thức hiện.
GV: Lê Thị Thu Phương
19
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
HS có thể tham khảo nội dung trong SGK lịch sử nâng cao lớp 10, ở mục 3, Nội chiến Trịnh – Nguyễn và sự phân chia Đàng Trong- Đàng Ngoài; và bài 33 - “Chiến tranh phong kiến và sự chia cắt đất nước” có ghi thêm “Vùng đất từ sông Gianh, lũy Thầy (Quảng Bình) trở ra Bắc nằm dưới quyền cai trị của chính quyền Lê-Trịnh gọi là Đàng Ngoài. Họ Trịnh xưng vương, lập phủ Chúy, tuy vẫn duy trì triều đình vua Lê, nhưng trên thực tế đã thâu tóm mọi quyền hành trong tay, biến vua Lê thành bù nhìn.”
HS cũng nên liên hệ với đời sống nhân dân dưới sự trị vì của Chúa Trịnh để thấy rằng sự ăn chơi sa hoa, lãng phí của nhà Chúa trên sự thống khổ của nhân dân. Đó là một tội ác không thể dung thứ.
“Chính sách ruộng đất của họ Trịnh nhằm phục vụ cho quyền lợi của nhà nước phong kiến, giai cấp địa chủ, tầng lớp quan lieu và binh sĩ.Đến đầu thế kỉ XVIII, quỹ đất công còn lại ít. Ngoài vùng Sơn Nam Hạ (vùng Nam Định, Thái Bình) có tương đối nhiều ruộng công, còn các xứ khác, ruộng công chỉ đủ để cung cấp cho quan lại và binh lính. Người nông dân đã bị chiếm đoạt phần ruộng đất tư, lại hết hi vọng ở phần ruộng đất công của làng xã. Trong khi đó, nhà nước Lê- Trịnh ngày càng tăng cường bóc lột tô thuế, lao dịch, binh dịch đối với nông dân. Nhà nước cũng đồng thời phó mặc cho nông dân các công việc đê điều, thủy lợi, khiến nạn hạn hán, lụt lội, vỡ đê xảy ra liên tiếp. Những nông dân nghèo khổ “không có đất cắm dùi”, phải rời bỏ đồng ruộng, xóm làng đi lang thang kiếm sống ngày càng đông đảo.Từ những năm 30 của thế kỉ XVIII, mâu thuẫn xã hội trở nên gay gắt đã đẩy xã hội Đàng Ngoài vào tình trạng suy yếu và khủng hoảng.”(SGK lịch sử 10, nâng cao, trang 184)
“Theo một giáo sĩ phương Tây, bấy giờ “gạo đắt như vàng, tình trạng đói khổ
bày ra lắm cảnh thương tâm khó tả, xác chết chồng chất lên nhau””
Nếu nhớ lại những kiến thức trên, HS khi tìm hiểu về quang cảnh trong và ngoài phủ chúa sẽ hiểu rằng thì ra để tô điểm cho sự sang trọng, lộng lẫy và để phục vụ cho cuộc sống ăn chơi, hưởng lạc của nhà chúa, nhân dân lao động đã chịu bao nhiêu nỗi thống khổ, lầm than. Từ đây có thể cảm nhận sâu sắc hơn tâm trạng và thái độ của tác giả Lê Hữu Trác; đồng thời dấy lên trong lòng người đọc sự căm giận đối với triều đình phong kiến mục nát Lê- Trịnh.
Cũng trong SGK lịch sử lớp 10, bài 23, Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp
thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII có ghi:
“Vào giữa thế kỉ XVIII, chế độ phong kiến Đàng Ngoài khủng hoảng sâu sắc. Phong trào nông dân bùng lên rầm rộ, kéo dài trong hơn 10 năm và bị đàn áp…..Năm 1771, một cuộc khởi nghĩa nông dân bùng lên ở ấp Tây Sơn (Bình
GV: Lê Thị Thu Phương
20
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Định) do 3 anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ lãnh đạo. Sau nhiều năm chiến đấu kiên cường, cuộc khởi nghĩa phát triển, tiến lên đánh đổ chính quyền chúa Nguyễn , làm chủ phần đất từ Quảng Nam trở vào. Một nhiệm vụ mới được đặt ra: tiến quân ra Bắc đánh đổ chính quyền Lê-Trịnh…..Trong những năm 1786-1788, phong trào Tây Sơn lần lượt đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê và làm chủ toàn bộ đất nước. Sự nghiệp thống nhất đất nước bước đầu được hoàn thành.”.
Theo những thông tin trên, thì chỉ sau 3 năm tức là từ năm 1783 đến năm 1786 kể từ khi Lê Hữu Trác hoàn thành xong tập kí sự bằng chữ Hán Thượng kinh kí sự thì chính quyền chúa Trịnh đã bị sụp đổ hoàn toàn. Chứng tỏ những gì Hải Thượng Lãn Ông được mắt thấy tai nghe trong phủ Chúa đã cho thấy sự rệu rã, mục ruỗng của nhà chúa và dự báo trước phút lâm chung của chính quyền phong kiến này. Đồng thời đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh đã cung cấp cho người đọc một góc nhìn chân thực về lịch sử dân tộc dưới triều Lê – Trịnh qua ngòi bút kí sự của tác giả. Ở khía cạnh này, không thể phủ nhận giá trị hiện thực đem lại của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh nói riêng và của tác phẩm Thượng kinh kí sự nói chung.
* Bài Câu cá mùa thu của Nguyễn Khuyến (1835-1909)
Câu cá mùa thu là bài thơ thuộc chùm ba bài thơ thu (Thu ẩm, Thu vịnh, Thu điếu) của Nguyễn Khuyến được cho là sáng tác trong thời gian Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn tại quê nhà tại xã Yên Đổ, huyện Bình Lục, tỉnh Hà Nam. Bài thơ không chỉ đơn thuần là tả cảnh thu tại một vùng quê chiêm trũng mà ẩn trong đó là những kí thác, những tâm sự thầm kín của nhà thơ. Thật không dễ cho người học cảm nhận những tâm sự đó nếu như không đặt tác phẩm vào trong hoàn cảnh sáng tác của nó. Tại sao tác giả lại cảm nhận cảnh thu đẹp nhưng có vẻ lạnh lẽo, u buồn? Cảnh thu lạnh hay chính tâm hồn người lạnh lẽo, cô quạnh? Phải chăng tiếng cá đớp mồi dưới chân bèo càng làm tăng cái tĩnh của cảnh vật hay cũng là cái động trong lòng người? Nhà thơ đang trăn trở, suy tư điều gì mà lãng quên việc đi câu? Tâm sự thời thế của Nguyễn Khuyễn trong bài thơ này là gì? Có lẽ HS chỉ có thể trả lời được thấu đáo khi tìm về kiến thức lịch sử tương ứng với thời điểm ra đời của tác phẩm.
Trong suốt cuộc đời mình, Nguyễn Khuyến chỉ làm quan mười một năm (1872-1883), còn phần lớn cuộc đời ông ở quê nhà. Tuy gắn bó với người quê, cảnh quê nhưng Nguyễn Khuyến vẫn không nguôi nỗi đau đáu với dân, với nước. Không đau đáu sao được khi Nguyễn Khuyến sinh ra trong thời kì xã hội Việt Nam có nhiều biến động. Khi tìm hiểu bài thơ Thu điếu, HS cần chú ý đến kiến thức về lịch sử Việt Nam những năm cuối thế kỉ XIX. Ví dụ như trong SGK lịch sử 11, bài 34, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884), có ghi nhận:
GV: Lê Thị Thu Phương
21
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 “Ngày 1-9-1958, quân Pháp nổ súng, mở đầu cuộc tấn công xâm lược Việt Nam….Sau khi chiếm được thành Gia Định, quân Pháp lần lượt đánh chiếm ba tỉnh miền Đông (1862), rồi ba tỉnh miền Tây Nam Kì (1867)”, “Chiếm xong 6 tỉnh Nam Kì, thực dân Pháp gấp rút biến Nam Kì thành bàn đạp vững chắc để tiến đánh Bắc Kì và Trung Kì….Trong khi đó, triều đình nhà Nguyễn dường như không còn nghĩ đến việc chiến đấu giành lại các vùng đất đã mất mà vẫn tiếp tục thi hành những chính sách thiển cận,….tăng cường vơ vét bóc lột nhân dân…đời sống nhân dân ngày càng sa sút.”
Theo SGK lịch sử 11, vào năm 1883, đúng vào thời điểm Nguyễn Khuyến cáo quan về ở ẩn thì “hầu hết các tỉnh thành lớn ở vùng đồng bằng Bắc Kì lại rơi vào tay giặc.”, “Ngày 17-7-1883), vua Tự Đức qua đời. Lợi dụng triều đình đang bận rộn với việc chọn người kế vị, thực dân Pháp đem quân đánh thẳng vào cửa Thuận An, sát Kinh đô Huế, buộc triều đình phải đầu hàng” và chỉ trong chưa đầy 1 năm, triều đình nhà Nguyễn đã phải kí với Pháp 2 bản Hiệp ước Hácmăng (1883) và Hiệp ước Patơnốt (1884). Với những thông tin trên, HS sẽ hiểu được tâm sự, những đau đớn âm thầm của một con người có tấm lòng ưu ái với dân, với nước nhưng lại bất lực trước cảnh nước mất nhà tan.
* Bài Thương vợ của Trần Tế Xương (1870-1907)
Đối với bài thơ Thương vợ - một bài thơ trữ tình hay viết về vợ của Trần Tế Xương, GV và HS đôi khi chỉ chú trong phân tích hình tượng bà Tú với những đức tính cao đẹp và hình tượng ông Tú với nhân cách đẹp qua nỗi lòng thương vợ. Có lẽ cả người dạy và người học đều tiếp cận tác phẩm ở góc độ văn học, văn hóa mà ít nhiều không cảm nhận nó ở góc độ lịch sử. Tiếng chửi của ông Tú ở cuối bài vẫn thường cho hai cách hiểu: cách hiểu thứ nhất là ông tự chửi bản thân mình, cách hiểu thứ hai là ông chửi đời. Nếu hiểu theo cách thứ nhất thì ông tự rủa mát mình, tự nhận trách nhiệm về mình là người chồng vô tích sự đã khiến cho vợ phải khổ, còn hiểu theo cách thứ hai cần phân ra hai góc độ: về góc độ văn hóa, thì rõ ràng tiếng chửi của ông Tú hướng tới thói đời với tư tưởng Nho giáo nặng nề, hẹp hòi, khắt khe với người phụ nữ. Trong gia đình, người vợ giữ vai trò trụ cột nuôi sống cả nhà người vợ giữ vai trò trụ cột nuôi sống cả nhà còn người chồng miệt mài đèn sách với hi vọng đỗ đạt làm thay đổi vận mệnh gia đình và cái xã hội với tư tưởng cố hữu đó không cho phép những người chồng như Tú Xương được tham gia vào những việc tầm thường, “buôn thúng bán mẹt” cho dù ông rất thương vợ. Còn về góc độ lịch sử, thì người đọc có thể thấy tiếng chửi của ông Tú hướng tới chế độ khoa cử đương thời, tình trạng mua quan, bán tước diễn ra công khai, ngang nhiên, trắng trợn đã khiến cho những người có thực tài, thực học như ông đi thi năm lần bẩy lượt mà rốt cuộc cũng chỉ là đậu vớt cái danh vị Tú tài. Để hiểu được điều này, HS ngoài việc tìm hiểu về cuộc đời của Tú Xương cần tìm tư liệu trong SGK lịch
GV: Lê Thị Thu Phương
22
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 sử 11, trong bài 35, Trào lưu cải cách, duy tân ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, có ghi:
“Trong nửa sau thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Nông nghiệp sa sút, thủ công nghiệp và thương nghiệp bế tắc, tài chính cạn kiệt…Để đối phó với tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn tăng cường bóc lột nhân dân, thậm chí áp dụng cả những biện pháp tiêu cực như: cho nộp tiền chuộc tội, cho buôn bán thuốc phiện, cho mua quan, bán tước để thu tiền…Bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương trở nên sâu mọt; địa chủ, cường hào tha hồ đục khoét, nhũng nhiễu dân lành.”
* Bài Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương:
Ở mỗi bài học trong sách giáo khoa đều có phần Tiểu dẫn trình bày về tác giả, hoàn cảnh ra đời tác phẩm để GV và HS khai thác. Tuy nhiên vẫn cần có sự tham khảo thêm tư liệu lịch sử để làm rõ yếu tố thời đại. Đối với bài Vịnh khoa thi Hương của Trần Tế Xương, tuy thời lượng dành cho bài đọc thêm này là không nhiều nhưng GV nên giới thiệu thêm về cách thức tổ chức các kì thi trong nền giáo dục dưới chế độ phong kiến triều Nguyễn: thi Hương, thi Hội, thi Đình. Những hiểu biết này sẽ giúp HS hiểu nội dung câu thơ thứ nhất thông báo thông lệ của việc tổ chức kì thi Hương.
- Thi Hương là một khóa thi cử về nho học do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng ở các địa phương. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Kỳ thi Hương là kỳ thi sơ khởi nhất. Sau khi đỗ thi Hương thì năm sau mới được dự thi kỳ thi cao cấp hơn là thi Hội. Đỗ đầu kỳ thi Hương gọi là giải nguyên. Thi Hương được tổ chức tại các trường ở nhiều địa phương.
- Thi Hội là một khóa thi cử về Nho học do bộ Lễ của triều đình phong kiến tổ chức 3 năm một lần tại các trường trung ương để tuyển chọn người có tài, học rộng.
- Thi Đình là một khóa thi cử về nho học cao cấp nhất do triều đình phong kiến tổ chức để tuyển chọn người có tài, học rộng. Người thi đỗ được cấp bằng và có thể nhờ đó mà được vào làm quan chức trong triều chính. Sau khi thí sinh đỗ kỳ thi Hội thì mới được dự thi kỳ thi Đình. Đỗ đầu thi Đình gọi là đình nguyên hay điện nguyên. Gọi là thi Đình vì thi trong điện của vua. Vua ra đề và chấm khảo thi.
Ngoài ra, GV cho HS biết thông tin năm Đinh dậu thực dân Pháp đã chiếm thành Hà Nội, do đó trường thi Hà Nội bị đóng cửa, các thí sinh Hà Nội phải về thi ở Nam Định. Như vậy, câu thơ thứ hai không chỉ thông báo một sự kiện gắn với lịch sử mà còn là kết quả quan sát của tác giả về sự lộn xộn, nhốn nháo của trường
GV: Lê Thị Thu Phương
23
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 thi cũng là hình ảnh xã hội đang suy thoái. Từ sự quan sát và miêu tả khách quan ấy, người đọc cảm nhận nỗi đau đời thấm thía của nhà thơ yêu nước.
* Bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (1809 ?-1855)
GV có thể gợi ý HS liên hệ kiến thức lịch sử về giáo dục trong bài 24, Tình hình văn hóa ở các thế kỉ XVI-XVIII, trong mục II. Phát triển giáo dục và văn học:
“Nhà Mạc được thành lập, tiếp tục phát triển giáo dục, tổ chức đều đặn các kì thi Hương, thi Hội để tuyển chọn nhân tài. Khi đất nước bị chia cắt, ở Đàng Ngoài, nhà nước Lê – Trịnh cũng cố gắng tiếp tục mở rộng giáo dục Nho học theo chế độ thời Lê sơ. Nhiều khoa thi được tổ chức nhưng số người đi thi và số người đỗ đạt không nhiều. Ở Đàng Trong, mãi đến năm 1646, chúa Nguyễn mới mở khoa thi đầu tiên theo cách riêng. Nội dung Nho học sơ lược. Vua Quang Trung lên ngôi, lo chấn chỉnh lại giáo dục, cho dịch các sách kinh từ chữ Hán ra chữ Nôm để học sinh học, đưa văn thơ chữ Nôm vào nội dung thi cử.
Tuy nhiên, nội dung giáo dục chủ yếu vẫn là kinh, sử. Các bộ môn khoa học tự
nhiên không được chú ý, không được đưa vào khoa cử”
Những kiến thức lịch sử trên đã giúp HS hiểu và lí giải thái độ chán ghét lối học cũ, lối khoa cử đương thời của Cao Bá Quát. Không chỉ phản ánh lối học và lối khoa cử cũ mòn mà tác giả còn cho thấy tính chất vô nghĩa của nó, những pho sách cũ, những lí thuyết suông, đâu giúp được gì cho đất nước trong buổi nhiễu nhương.
GV cũng cần tìm hiểu sách giáo viên lịch sử lớp 10 để cung cấp cho HS cái nhìn đầy đủ hơn về giáo dục đương thời: “Dưới thời Lê- Trịnh, tuy nhà nước “vẫn mở đều các khoa thi nhưng chất lượng ngày càng sa sút. Nhà nước thả cho các quan chấm thi ở trường thi Hương (ở Thừa Tuyên) soạn sẵn 4-5 đề thi, ra đi ra lại, những thầy đồ giỏi nhân đó soạn sẵn bài đem bán mà quan trường thì cứ theo văn lấy đỗ “trùng kiến cũng mặc”. Không những thế, các bộ Ngũ kinh, Tứ thư còn được tóm tắt, người đi thi chỉ cần thuộc học thuộc lòng chừng ấy là đủ”.
Những ghi chép trên về tình trạng khoa cử và giáo dục ở các thế kỉ XVI-XVIII và gần hơn nữa là tình trạng giáo dục dưới triều Nguyễn đã tác động không nhỏ tới nhận thức, tâm trạng của Cao Bá Quát trước hành trình tìm kiếm công danh của ông cũng như của các nho sĩ cùng thời. Trong SGK lịch sử nâng cao lớp 10, bài 40, “Đời sống văn hóa-tư tưởng nửa đầu thế kỉ XIX” có ghi:
“Gia Long, vị vua khai sáng triều Nguyễn, quan niệm: “Nhà nước cầu nhân tài tất do đường khoa mục”, và để tuyển chọn quan lại, vào năm đầu 1807, ông ban hành quy chế thi Hương, thi Hội. Theo quy định này, tháng 10 năm 1807, triều
GV: Lê Thị Thu Phương
24
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Nguyễn bắt đầu mở khoa thi Hương từ Nghệ An trở ra Bắc. Đến năm 1822, Minh Mạng cho khôi phục các kì thi Hội và thi Đình. Trong số những người đỗ đại khoa, nhiều người đã trở thành các nhà văn hóa lớn của đất nước hay những quan lại cao cấp trong triều đình nhà Nguyễn. Cũng bắt đầu từ thời Minh Mạng, việc tổ chức và thi cử được chấn chỉnh và đi vào nề nếp. Tuy nhiên, nội dung giáo dục và thi cử lại không có gì khác so với trước và vì thế mà cả số lượng và chất lượng giáo dục khoa cử đều giảm sút.”
Với cách học và cách thi cử cũ mòn cùng hiện tượng gian lận, mua quan, bán tước thì nền giáo dục ở thời Cao Bá Quát sống đã báo hiệu đi vào ngõ cụt. Chính điều này đã đặt ra câu hỏi hoài nghi về việc tìm kiếm công danh bằng con đường khoa cử của Chu Thần, dấy lên trong ông niềm khát khao thay đổi, tìm một hướng đi mới, trổ hết tài năng của mình để giúp nước, vượt lên trên cái mộng danh lợi tầm thường của người đời. Đó rõ ràng là biểu hiện của một lối sống có trách nhiệm, có ý nghĩa trước cuộc đời của một nhân cách lớn - một con người mà “nhất sinh đê thủ bái mai hoa”.
GV có thể giúp HS hiểu hơn về những câu hỏi tu từ trong bài Bài ca ngắn đi trên bãi cát, về nỗi băn khoăn, hoài nghi cao độ: “Tính sao đây đường bằng mờ mịt?”, “Anh đứng làm chi trên bãi cát?”. Liệu nhà thơ sẽ đi tiếp con đường gian nan, vô nghĩa hay dừng lại và tìm một đường khác có ý nghĩa xã hội hơn? GV gợi ý HS chú ý đến kiến thức lịch sử trong SGK lớp 10, bài 26, Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân, mục 2, trang 131 có ghi: “Những cuộc khởi nghĩa nông dân đã nổ ra từ đầu thế kỉ XIX và tiếp tục phát triển rầm rộ ở khắp nước cho đến giữa thế kỉ XIX…..Tiêu biểu và rộng lớn nhất trong phong trào nông dân là các cuộc khởi nghĩa do Phan Bá Vành và do Cao Bá Quát lãnh đạo…Cuộc khởi nghĩa do Cao Bá Quát lãnh đạo bùng lên ở vùng Ứng Hòa (Hà Tây) năm 1854, mở rộng hoạt động ra các tỉnh Hà Nội, Hưng Yên, nhưng do chưa chuẩn bị đủ lực lượng nên năm 1855 đã bị triều đình đàn áp.” . Khi đã nhớ lại những kiến thức này, hẳn HS sẽ trả lời được cho nỗi băn khoăn, phân vân, nỗi bất bình, u uất, âm ỉ của nhà thơ và cảm phục thêm về tài năng và khí phách của ông.
* Bài Chạy giặc của Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888)
Ở bài thơ này có thể liên hệ kiến thức trong bài 34, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884), mục 2, trang 224 –NC: “Sáng sớm 17 – 2 (năm 1859), quân Pháp với hỏa lực mạnh tấn công thành Gia Định. Đến trưa, chúng chiếm được thành. Mặc dù quân đông, vũ khí và lương thực nhiều nhưng quân triều đình đã tan rã nhanh chóng.”
GV: Lê Thị Thu Phương
25
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Việc tấn công bất ngờ của quân Pháp và sự thất bại nhanh chóng của triều đình đã lí giải phần nào cho tâm lí hoang mang, lo sợ, hoảng loạn đến cực điểm của dân đen, con đỏ. Có thể nói bài thơ Chạy giặc là bức tranh sinh động về cảnh điêu linh, khốn cùng của nhân dân ta những năm đầu thực dân Pháp xâm lược. Tác phẩm chứa đựng tấm lòng nhân đạo và giá trị hiện thực lớn lao.
Hai câu thơ “Bến Nghé của tiền tan bọt nước/ Đồng Nai tranh ngói nhuốm màu mây” thường khiến HS có nhiều nghi vấn. Bến Nghé và Đồng Nai là nơi nào? Và vì sao lại “của tiền tan bọt nước”, “tranh ngói nhuốm màu mây”? HS chỉ biết trông vào phần chú thích:
- Bến Nghé là tên một con rạch đổ ra sông Sài Gòn; cũng là địa danh chỉ thành
Gia Định, thuộc địa phận Thành phố Hồ Chí Minh ngày nay.
- Đồng Nai là địa danh chỉ phần đất miền đông Nam Bộ; cũng là tên một con
sông chảy vào sông Nhà Bè, gần Sài Gòn.
Rõ ràng cách chú thích như vậy chưa đủ để HS hiểu được ý nghĩa của hai câu thơ trên. GV yêu cầu HS tìm kiếm trên các kênh thông tin và đặc biệt chú ý đến SGK lịch sử 11, bài 34, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858- 1884), mục 2, có ghi: “Gia Định (Bến Nghé) và Nam Kì là vựa lúa của Việt Nam, có vị trí chiến lược quan trọng. Hệ thống giao thông đường thủy rất thuận lợi. Từ Gia Định có thể sang Cam-pu-chia một cách dễ dàng. Chiếm được Nam Kì, quân Pháp sẽ cắt đứt con đường tiếp tế lương thực của triều đình nhà Nguyễn, đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho việc làm chủ khu vực sông Mê Công của Pháp.”
Với những kiến thức lịch sử trên, HS có thể tự nhận ra Bến Nghé, Đồng Nai là địa điểm trọng yếu, là nơi diễn ra hoạt động giao thương sôi nổi, tấp nập, là vùng trù phú, giàu có đương thời. Thực dân Pháp kéo đến xâm lược đã phá vỡ cảnh sinh sống yên ổn, làm ăn, phá hủy bao giá trị được tạo dựng, gieo vào lòng nhà thơ biết bao xót xa, nuối tiếc và căm phẫn.
Hai câu thơ cuối là một câu hỏi đầy nhức nhối của Nguyễn Đình Chiểu hướng đến những trang hảo hán, mà cụ thể ở đây là hướng đến triều đình phong kiến nhà Nguyễn đã làm được gì trước cảnh nước mất nhà tan. Nếu nhìn lại lịch sử thì vào thời điểm lúc bấy giờ triều đình nhà Nguyễn đớn hèn, bạc nhược. Trong SGK lịch sử 11, bài 34, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) có ghi nhận lại thái độ này của triều đình nhà Nguyễn “Việc triều đình Huế kí hiệp ước cắt đất cầu hòa đã gây bất bình trong sĩ phu và nhân dân cả nước. Họ bày tỏ thái độ của mình bằng nhiều cách, hoặc như Nguyễn Đình Chiểu, Nguyễn Thông dùng văn thơ châm biếm bọn Việt gian bán nước, hoặc tiếp tục kháng chiến chống Pháp, bất chấp lệnh bãi binh của triều đình mà tiêu biểu là Trương Định.”
GV: Lê Thị Thu Phương
26
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
* Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Để hiểu được ý nghĩa thời sự của bài văn tế, GV nên nhấn mạnh vào thời điểm tác phẩm ra đời. Có đặt trong hoàn cảnh lúc bấy giờ mới thấy được, vì sao tác phẩm được truyền tụng khắp nơi trong nước và làm xúc động lòng người, đồng thời có sức mạnh cổ vũ, động viên phong trào đấu tranh nhân dân những năm cuối thế kỉ XIX. GV gợi ý HS tìm hiểu trong SGK lịch sử 11 nói về phong trào khởi nghĩa những năm cuối thế kỉ XIX: “Ngay từ đầu, nhân dân Nam Kì đã đứng lên kháng chiến. Các toán nghĩa quân của Trương Định, Trần Thiện Chính (một tri huyện bị cách chức), Lê Huy (một võ quan bị thải hồi) chiến đấu rất anh dũng, lập được nhiều chiến công. Ngày 10-12-1861, Nguyễn Trung Trực chỉ huy nghĩa quân đánh chìm chiếc tàu Ét-pê-răng (Hi Vọng) của giặc đậu trên sông Vàm Cỏ Đông (đoạn chảy qua thôn Nhật Tảo), làm nức lòng quan dân ta.”
GV có thể kết hợp kiến thức về hoàn cảnh sáng tác trong phần Tiểu dẫn, đồng thời cung cấp những kiến thức ngoài SGK để HS có cái nhìn đầy đủ hơn về tác phẩm. Trong cuốn “Việt Nam những sự kiện lịch sử 1858-1918” của tác giả Dương Kinh Quốc, NXB KHXH và Nhân văn, Viện sử học có ghi:
“Trận Cần Giuộc diễn ra vào ngày Rằm tháng 11 năm Tân Dậu, tức ngày 16- 12-1961. Trong trận này tuy binh lính và sĩ quan bị tiêu diệt nhiều, nhưng nghĩa quân Việt Nam cũng bị hi sinh một số lớn.” Có tài liệu cho biết trận này do Thống quân Bùi Quang Diệu chủ động kéo quân đến tấn công quân Pháp ở làng Đa Phước, huyện Cần Giuộc. Tài liệu khác cho biết: “Lực lượng nghĩa quân ở Tân An và Cần Giuộc lúc đó do một thủ lĩnh tên là Là (thường gọi là Cai tổng Là) chỉ huy; được tin ngày 14-2-1861, Pháp sẽ kéo quân tới đánh Tân An và Cần Giuộc, thủ lĩnh nghĩa quân Gò Công lúc bấy giờ Trương Định đã đem quân đến tập hợp lực lượng cùng nghĩa quân của Cai tổng Là và chủ động tấn công đồn Cần Giuộc trước. Bùi Quang Diệu là người thay mặt Đỗ Quang – Tuần phủ Gia Định, đọc bài “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” tại buổi lễ truy điệu các nghĩa sĩ đã hi sinh trong trận Cần Giuộc.”
GV cần liên hệ kiến thức lịch sử khi tìm hiểu một ý trong câu văn tế “mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm”. “Ba năm” là số từ ước lệ có thể chỉ vài năm. Ý cả câu văn muốn chỉ thực dân Pháp đã xuất hiện nhũng nhiễuđã mấy năm nay. GV có thể dùng tư liệu lịch sử trong SGK lịch sử lớp 11, bài 34, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884):
“Tháng 9-1856, Pháp cho tàu chiến đến Đà Nẵng, đưa quốc thư cho triều đình Huế, nhưng bị khước từ. Quân Pháp trắng trợn nổ súng bắn phá các đồn lũy của ta rồi lên bờ phá tất cả số đại bác phòng vệ ở đây.
GV: Lê Thị Thu Phương
27
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Tháng 1-1857, tàu Pháp lại tới xin được truyền đạo và buôn bán, nhưng cũng
bị triều đình nhà Nguyễn từ chối….
Chiều ngày 31-8-1858, liên quân Pháp-Tây Ban Nha kéo tới cửa biển Đà
Nẵng, chuẩn bị nổ súng xâm lược Việt Nam”
*Bài Chiếu cầu hiền của Ngô Thì Nhậm (1746-1803)
Chiếu cầu hiền là một tác phẩm nghị luận chính trị - xã hội độc đáo, có ý nghĩa chính trị, có sức lay động chí, chuyển tâm ý của hiền tài trong thiên hạ; có đóng góp đáng kể trong quá trình thuyết phục, sử dụng người hiền tài góp sức lực, trí tuệ để bảo vệ và xây dựng đất nước thời vua Quang Trung. Đối với bài học này, GV càng nên chú ý đến hoàn cảnh sáng tác của tác phẩm để hiểu hơn tại sao Quang Trung lại ra chiếu cầu hiền? Tại sao những sĩ phu Bắc Hà lại có tâm lí kiêng dè không ra gánh vác việc nước? Liệu có phải Quang Trung kém tài, ít đức nên chưa có người phò tá chăng? Vì sao Quang Trung lại cho rằng “dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp nơi”? Nếu hiểu được bối cảnh lịch sử đất nước đang nguy cấp, triều đình mới còn non trẻ, biên cương vẫn chưa yên đang bị quân Thanh lăm le xâm lược. Đặt trong tình cảnh nguy cấp đó mới thấy được nhưng trăn trở, lo lắng và niềm thiết tha mong mỏi chân thành và ân cần những người hiền tài dốc sức phò vua, giúp nước.
Để liên hệ kiến thức lịch sử tốt khi dạy tác phẩm Chiếu cầu hiền, GV nhắc HS nhớ lại kiến thức cũ ở lớp 10 về vương triều Tây Sơn và công lao to lớn của người anh hùng Nguyễn Huệ. Trong bài 23, Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII, trang 116-120, có ghi “trong những năm 1786-1788, phong trào Tây Sơn lần lượt đánh đổ hai tập đoàn phong kiến Trịnh, Lê và làm chủ toàn bộ đất nước”, “Được sự ủng hộ của nhân dân, đầu năm 1785, Nguyễn Huệ đã tổ chức trận Rạch Gầm- Xoài Mút đánh tan tành quân Xiêm (Thái Lan) xâm lược”, “Sau 5 ngày (bắt đầu từ đêm 30 cho đến trưa mồng 5 Tết Kỉ Dậu) tiến quân thần tốc, chiến đấu quyết liệt và với chiến thắng vang dội Ngọc Hồi- Đống Đa, quân ta đã đánh bại hoàn toàn quân (Thanh) xâm lược, tiến vào Thăng Long……Những chiến công hiển hách của sự nghiệp thống nhất lại đất nước và bảo vệ nền độc lập dân tộc trong hoàn cảnh đất nước rơi vào tình trạng khủng hoảng đã nói lên công lao to lớn của phong trào Tây Sơn và người “anh hùng áo vải” Nguyễn Huệ.”. Thông tin trên giúp HS hiểu hơn về tài năng quân sự tuyệt vời của nhà vua Quang Trung.
Cũng bài 23, sách lịch sử có ghi nhận: “Nhân dân Đàng Ngoài vừa trải qua những năm loạn lạc, đói khổ, cuối năm 1788 lại phải chứng kiến hàng chục vạn quân xâm lược tràn vào Thăng Long...Trở lại ngôi vua, Lê Chiêu Thống tìm mọi cách bắt nhân dân đóng góp để phục vụ quân xâm lược.Cảnh cướp bóc, tàn phá,
GV: Lê Thị Thu Phương
28
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 hoành hành lại xảy ra ở khắp nơi có quân Thanh đóng giữ, khiến nhân dân càng căm thù quan cướp nước và bán nước.” Kiến thức lịch sử này cho HS thấy vì sao Quang Trung lại khẳng định “dân còn mệt nhọc chưa lại sức” đồng thời cũng thấy được cái nhìn đầy tâm lí, biết khoan thư sức dân của vị vua đức độ.
Ngay khi lên ngôi Hoàng đế, Quang Trung đã bắt tay ngay vào việc khôi phục vương triều cũ nát, khôi phục sản xuất…điều này cũng được thấy trong SGK lịch sử 10: Cuối năm 1788, trước khi xuất quân lên đường ra Bắc chiến đấu chống quân xâm lược Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế (Quang Trung) và sau ngày chiến thắng, chính thức xây dựng vương triều mới theo chế độ quân chủ chuyên chế, thống trị trên vùng đất từ Thuận Hóa trở ra Bắc. Chính quyền các trấn được thành lập. Vua Quang Trung ban chiếu kêu gọi nhân dân khôi phục sản xuất, lập lại sổ hộ, tổ chức lại giáo dục thi cử. Đất nước dần dần được ổn định. Quân đội được tổ chức quy củ và trang bị vũ khí đầy đủ.”. GV có thể liên hệ kiến thức trên để HS cảm nhận được tài năng, đức độ, tầm nhìn chiến lược và tâm huyết của Quang Trung. Và việc xuống chiếu cầu hiền, chiêu hiền đãi sĩ lại càng thể hiện đầy đủ hơn những phẩm chất đáng quý đó của nhà vua.
* Bài Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ (1830-1871)
Bài Xin lập khoa luật trích từ bản điều trần số 27: Tế cấp bát điều (Tám việc cần làm gấp) của Nguyễn Trường Tộ được đưa vào tìm hiểu với tư cách là bài đọc thêm, với ý nghĩa để HS biết thêm về một thể loại văn học trung đại. Tuy nhiên, vì là bài đọc thêm nên văn bản này ít khi được chú trọng đúng mức. Nhưng thiết nghĩ, dù là bài đọc thêm hay bài học chính thức thì con đường tiếp cận cũng không hề thay đổi, có điều thời lượng dành cho từng bài ít hay nhiều mà thôi. Ở bài Xin lập khoa luật, nếu người học không đặt văn bản này vào hoàn cảnh lịch sử mà nó ra đời thì không thể hiểu được sự cần thiết của luật pháp đối với xã hội và tính cấp bách của việc lập khoa Luật cũng như thấy được tư tưởng tiến bộ và tâm huyết của tác giả Nguyễn Trường Tộ. Và đồng thời lí giải được vì sao những tư tưởng canh tân của Nguyễn Trường Tộ lại không được triều đình Tự Đức thực thi một cách tích cực? Vì thế, GV khi dạy bài này cần nhắc HS liên hệ với kiến thức lịch sử trong SGK lớp 11, bài 35, Trào lưu cải cách, duy tân ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX, có ghi:
“Trong nửa sau thế kỉ XIX, nền kinh tế Việt Nam tiếp tục lâm vào tình trạng khủng hoảng nghiêm trọng. Nông nghiệp sa sút, thủ công nghiệp và thương nghiệp bế tắc, tài chính cạn kiệt…Để đối phó với tình hình đó, triều đình nhà Nguyễn tăng cường bóc lột nhân dân, thậm chí áp dụng cả những biện pháp tiêu cực như: cho nộp tiền chuộc tội, cho buôn bán thuốc phiện, cho mua quan, bán tước để thu
GV: Lê Thị Thu Phương
29
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 tiền…Bộ máy chính quyền từ trung ương đến địa phương trở nên sâu mọt; địa chủ, cường hào tha hồ đục khoét, nhũng nhiễu dân lành.”
“Trong những năm trước khi Pháp đánh Hà Nội lần thứ nhất, ở nước ta đã rộ lên một phong trào đề nghị cải cách. Đi đầu trong phong trào đó là một số quan chức, sĩ phu có học vấn cao,…, như: Nguyễn Hiệp, Lê Đính,…., Nguyễn Trường Tộ”
“Từ năm 1863 đến năm 1871, Nguyễn Trường Tộ (1828-1871), đã kiên trì gửi đến triều đình gần 60 bản điều trần, đề nghị chấn chỉnh bộ máy quan lại, phát triển công thương, tài chính, chấn chỉnh võ bị, ngoại giao, cải tổ giáo dục…”
Đến đây, HS có thể phần nào trả lời được những băn khoăn về tác giả và văn bản. Thì ra chính tình trạng trì trệ, bảo thủ, khủng hoảng, suy yếu nghiêm trọng của triều đình phong kiến nhà Nguyễn trước sự gõ cửa và xâm lược của phương Tây đã là điều thôi thúc Nguyễn Trường Tộ đề xuất Tế cấp bát điều và thể hiện tầm nhìn chiến lược trước vận mệnh đất nước.
Qua kinh nghiệm dạy những tác phẩm văn học trung đại trong nhiều năm qua, tôi nhận thấy khả năng tích hợp giữa nội dung văn học với kiến thức lịch sử trong chương trình phổ thông là rất lớn. Đặc biệt là kiến thức trong SGK lịch sử lớp 10, 11, cả chương trình cơ bản và nâng cao. Điều này cũng mở ra hướng tiếp cận tác phẩm bằng phương pháp tích hợp liên môn là rất dễ dàng, vừa tận dụng kiến thức HS vừa học, vừa khắc phục sự tản mạn trong kiến thức các môn học của HS. Dưới đây là bảng thông kê để thấy được khả năng dạy liên môn giữa lịch sử và ngữ văn trong giờ học một số tác phẩm văn học trung đại 11.
Văn bản văn học trung Bài học lịch sử
đại
- Vào phủ chúa Trịnh
- Bài 21,“Những biến đổi của nhà nước phong kiến trong các thế kỉ XVI đến thế kỉ XVIII” và
- Bài 23,“Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ 18”
Môn Lớp - Bài 33,“Chiến tranh phong kiến và sự chia cắt đất nước” – NC-
GV: Lê Thị Thu Phương
30
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
- Bài 24, Tình hình văn hóa ở - Bài ca ngắn đi trên bãi
các thế kỉ XVI-XVIII, 10 cát
- Vịnh khoa thi Hương
- Bài 26, Tình hình xã hội ở nửa đầu thế kỉ XIX và phong trào đấu tranh của nhân dân
- Bài 40,“Đời sống văn hóa-tư tưởng nửa đầu thế kỉ XIX” (SGK – NC)
- Chiếu cầu hiền
- Bài 23, Phong trào Tây Sơn và sự nghiệp thống nhất đất nước, bảo vệ tổ quốc cuối thế kỉ XVIII
- Bài 34, Cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược (1858-1884) - Câu cá mùa thu - Chạy giặc - Văn tế nghĩa sĩ Cần
11 Giuộc
- Thương vợ - Xin lập khoa luật
- Bài 35, Trào lưu cải cách, duy tân ở Việt Nam trong những năm cuối thế kỉ XIX
Từ thực tế giảng dạy, tôi nhận thấy đối với những tác phẩm văn học trung đại được ra đời trong cùng một bối cảnh lịch sử, GV nên liên hệ kiến thức lịch sử trong một tác phẩm được tìm hiểu trước còn những tác phẩm tìm hiểu sau chỉ nhắc lại ngắn gọn để tránh sự nặng nề và nhàm chán cho HS trong quá trình cảm thụ.
5. Liên hệ kiến thức lịch sử bằng trò chơi ô chữ trong phần củng cố bài
học
Trong phương pháp dạy học văn, phần Củng cố bài học đã được đặt ra song khi tiến hành vẫn chưa được coi trọng. Phần vì HS quá chú trọng vào phần phân tích, phần vì việc phân bố thời gian chưa hợp lí nên thời gian cho khâu củng cố vẫn bị hạn chế. Để củng cố bài học đạt được hiệu quả cao, GV có thể áp dụng nhiều cách. Ví dụ như đặt câu hỏi mang tính khái quát để HS tổng quát lại giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật cũng như ý nghĩa của bài học, hoặc ra đề trắc nghiệm củng cố đồng thời kiểm tra kiến thức của HS. Trong quá trình giảng dạy tác phẩm văn học trung đại, tôi nhận thấy có thể liên hệ kiến thức lịch sử trong phần Củng cố bằng trò chơi ô chữ thay vì những câu hỏi trắc nghiệm thường làm để tạo sự ấn tượng sâu đậm và hứng thú cho HS đồng thời thay đổi không khí trong giờ học. GV dùng bảng phụ hoặc máy chiếu để củng cố kiến thức thông qua trò chơi ô chữ này. HS phải vận dụng, kết hợp kiến thức bài học và kiến thức lịch sử để trả lời.
GV: Lê Thị Thu Phương
31
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 1
B Ắ C H À
I Đ Ố N G Đ A
N G Ọ C H Ồ
2
Í T Đ Ứ C
3
Ị N H
L Ế T R
4
Q A N G T R U N G
5
I Ế U
G H É C H
6
T R Ầ M
7
8 R Ạ C H G Ầ M X O À
I M U T
I Ê M N H Ư Ờ N G
K H
9
N G Ô T H
Ì N H Ậ M
10
N G H Ề H A Y N G H
I Ỏ
I
11
I Ê P G
M Ở R Ộ N G
12
Dưới đây là hệ thống câu hỏi có thể tham khảo:
Câu 1. Đối tượng của bài Chiếu cầu hiền là những sĩ phu ở đâu?
Câu 2. Trận đánh nào được Nguyễn Huệ tổ chức đầu năm 1785, đánh tan tành
quân Xiêm xâm lược?
Câu 3. Quang Trung đã tự nhận về mình điều gì khiến cho những sĩ phu Bắc
Hà không ra phò tá?
Câu 4. Bài Chiếu cầu hiền nhằm thuyết phục những trí thức của triều đại cũ
nào ra cộng tác với triều đại Tây Sơn?
Câu 5. Cuối năm 1778, trước khi xuất quân lên đường ra Bắc chống quân xâm
lược Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và lấy hiệu là gì?
Câu 6. Trong bài chiếu tác giả đã sử dụng điển cố nào để thể hiện thái độ cầu
hiền của vua Quang Trung?
Câu 7. Trong bài chiếu, Quang Trung đã xưng là gì?
Câu 8. Nguyễn Huệ đã tổ chức trận đánh nào vào tết Kỉ Dậu năm 1789 đánh
bại hoàn toàn quân Thanh xâm lược?
GV: Lê Thị Thu Phương
32
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Câu 9. Câu văn “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến.” đã thể hiện thái độ cầu hiền nào của Quang Trung?
Câu 10. Ai đã thừa lệnh Quang Trung viết Chiếu cầu hiền?
Câu 11. Trong đường lối cầu hiền, Quang Trung đã cho phép các quan văn,
quan võ được tiến cử những người như thế nào?
Câu 12. Em có nhận xét gì về đường lối cầu hiền của vua Quang Trung?
Vì thời gian củng cố cuối giờ có hạn nên GV chỉ nên chọn lọc những câu hỏi
quan trọng để HS vận dụng kiến thức, tư duy tìm ra từ chìa khóa hàng dọc.
IV. HIỆU QUẢ CỦA ĐỀ TÀI:
1. Thiết kế giáo án thực nghiệm:
Tiết 22,23
CHIẾU CẦU HIỀN
( Cầu hiền chiếu) - Ngô Thì Nhậm –
I. MỨC ĐỘ CẦN ĐẠT
- Hiểu được chủ trương chiến lược, thái độ “chiêu hiền đãi sĩ” của vua Quang
Trung trong công cuộc phục hưng dân tộc.
- Nhận thức được vai trò và trách nhiệm của người trí thức đối với việc xây
dựng đất nước.
- Nắm được hệ thống lập luận trong bài chiếu và cảm xúc của người viết.
II. TRỌNG TÂM KIẾN THỨC VÀ KĨ NĂNG
1. Kiến thức
- Hoàn cảnh đất nước khi bài chiếu ra đời.
- Chủ trương cầu hiền đúng đắn của vua Quang Trung.
- Nghệ thuật lập luận chặt chẽ, giàu sức thuyết phục của Ngô Thì Nhậm.
2. Kĩ năng
- Đọc-hiểu bài chiếu theo đặc trưng thể loại.
- Rèn luyện kĩ năng viết bài nghị luận.
GV: Lê Thị Thu Phương
33
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
III. PHƯƠNG PHÁP VÀ PHƯƠNG TIỆN DẠY HỌC:
1. Phương pháp:
Giáo viên sử dụng các phương pháp:Vấn đáp gợi tìm, Phân tích ngôn ngữ, tích
hợp kiến thức lịch sử, hướng dẫn tự học ở nhà của HS
2. Phương tiện:
- Sách giáo khoa, Sách giáo viên Ngữ văn 11, tập 1.
- Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức, kĩ năng môn Ngữ văn lớp 11.
- Các tài liệu tham khảo có liên quan đến nội dung bài học.
- Giáo án cá nhân
IV. Tiến trình dạy học:
1. Ổn định lớp, kiểm tra sĩ số:
2. Kiểm tra bài cũ (không kiểm tra bài cũ)
3. Dạy bài mới: GV tích hợp kiến thức lịch sử trong lời dẫn vào bài
(chiếu hình ảnh Quang Trung) Nhắc đến Quang Trung là nhắc đến một vị tướng tài ba với những trận đánh mang tầm vóc thời đại như trận Ngọc Hồi-Đống Đa, Rạch Gầm-Xoài Mút. Ông còn là một vị vua có tầm nhìn xa trông rộng trong việc chiêu hiền đãi sĩ để phò giúp triều đại Tây Sơn còn non trẻ. Thái độ và đường lối cầu hiền cũng như tâm huyết khôi phục đất nước của ông được thể hiện rõ trong bài Chiếu cầu hiền do Ngô Thì Nhậm viết mà hôm nay chúng ta sẽ tìm hiểu.
Mức độ cần đạt
HĐ của GV và HS Hoạt động 1: Hướng dẫn HS tìm
hiểu phần tiểu dẫn.
Thao tác 1: tìm hiểu tác giả - GV: Nêu một vài nét chính về cuộc
đời của Ngô Thì Nhậm? I. Tiểu dẫn 1. Tác giả: - Ngô Thì Nhậm (1746-1803) hiệu là Hi Doãn,quê thuộc trấn Sơn Nam, nay là Thanh Trì,Hà Nội.
- Ông là người đã đỗ tiến sĩ, từng làm
quan dưới triều Lê-Trịnh.
- HS: dựa vài vào tiểu dẫn trả lời. - GV: dùng máy chiếu chiếu hình ảnh
về vua Quang Trung - Ngô Thì Nhậm là một sĩ phu Bắc Hà đi theo phong trào Tây Sơn, được Quang Trung trọng dụng.
- Ông có nhiều đóng góp cho triều đại Tây Sơn. Nhiều văn kiện, giấy tờ quan trọng của nhà Tây Sơn đều do ông soạn thảo.
GV: Lê Thị Thu Phương
34
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Thao tác 2: tìm hiểu tác phẩm - GV: phát vấn + Bài Chiếu cầu hiền được sáng tác
theo thể loại nào?
2. Tác phẩm a) Thể loại - Chiếu là một thể loại văn nghị luận chính trị-xã hội thời trung đại do nhà vua ban hành.
+ Ở lớp dưới, em đã tìm hiểu tác phẩm nào thuộc thể loại chiếu? Em biết gì về thể loại này?
- Xuống chiếu cầu hiền tài là một truyền thống văn hóa-chính trị phương Đông.
- GV: liên hệ kiến thức lịch sử qua câu hỏi đã hướng dẫn HS ở tiết học trước.
+ Bài Chiếu cầu hiền do Ngô Thì
Nhậm viết được ra đời vào năm nào?
+ Bối cảnh lịch sử nước ta lúc đó ra
sao?
b) Hoàn cảnh ra đời - 1788 Quang Trung tiến quân ra Bắc tiêu diệt quân Thanh và bọn tay sai, nhà Lê sụp đổ, các tri thức của triều đại cũ mang nặng tư tưởng trung quân, phản ứng tiêu cực.
+ Bài chiếu nhằm mục đích gì? - HS: dựa vào phần tiểu dẫn và câu
chuẩn bị bài ở nhà trả lời câu hỏi
- GV: phát vấn hướng dẫn HS tự tìm
hiểu bố cục - Chiếu cầu hiền của vua Quang Trung do Ngô Thì Nhậm viết thay vào khoảng năm 1788-1789, nhằm thuyết phục sĩ phu Bắc Hà, tức các trí thức củatriều đại cũ ra cộng tác với triều đại Tây Sơn.
Theo em nên chia văn bản Chiếu cầu hiền thành mấy phần? Xác định giới hạn và nêu nội dung từng phần?
c) Bố cục: 3 phần - Phần 1 “từ đầu…người hiền vậy”: Mối quan hệ giữa người hiền tài và thiên tử.
- HS tự học theo sự hướng dẫn của
GV.
- GV: khái quát, định hướng lại nếu
có. - Phần 2 “ tiếp theo… buổi ban đầu của trẫm hay sao?”: cách ứng xử của hiền tài Bắc Hà và nhu cầu của đất nước. - Phần 3 “còn lại”: Con đường để hiền
tài cống hiến cho đất nước. II. Đọc-hiểu văn bản: 1. Mối quan hệ giữa hiền tài và thiên Hoạt động 2: hướng dẫn HS tìm
hiểu bài chiếu tử:
- “ Người hiền xuất hiện ở đời, thì như
ngôi sao sáng trên trời cao”:
+ Tác giả so sánh người hiền như ngôi
Thao tác 1: tìm hiểu đoạn 1: (20’) - GV: tác giả đã bắt đầu bài chiếu bằng việc so sánh hình ảnh nào với người hiền? sao sáng trên bầu trời
+ Khẳng định vai trò vàtrân trọng vai
trò của những người có tài, có đức.
- HS: Trả lời cá nhân - GV: lần lượt phát vấn + Sau lời so sánh, đánh giá cao người hiền, tác giả đã phân tích mối quan hệ giữa người hiền với thiên tử? -“ Sao sáng… thiên tử”: dẫn ra quy luật của tinh tú để nói lên sự hợp lẽ là người hiền ắt làm sứ giả cho thiên tử.
+ Sau đó, tác giả đã đặt ra giả thuyết gì? Cách đặt ra giả thuyết đó có tác dụng gì đến tư tưởng của người hiền? - “Nếu như… hiền vậy”: phủ nhận thái độ quay lưng lại với thời cuộc chính là
GV: Lê Thị Thu Phương
35
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
- HS: dựa vào nội dung bài chiếu chỉ
ra. trái ý trời,đi ngược lại với quy luật hợp lẽ xưa nay.
- GV: bằng cách dẫn ra các hình ảnh từ sách Luận ngữ, bài chiếu có tác dụng ntn?
- HS: trả lời cá nhân. Theo quan niệm của Nho gia, Khổng Tử là ông thánh, lời dạy của Khổng tử là lời dạy của thánh hiền, là chân lí. Vì thế nó có sức thuyết phục lớn đối với sĩ phu Bắc Hà.
- GV: nhận xét, giảng thêm - GV nêu câu hỏi khái quát Em có nhận xét gì về cách lập luận
của tác giả? Những hình ảnh được rút ra từ sách Luận ngữ sẽ có sức thuyết phục rất cao đối với giớisĩ phu Bắc Hà trong bối cảnh đó. Với cách lập luận chặt chẽ, tác giả nêu ra tư tưởng có tính quy luật trong các triều đình phong kiến để làm cơ sở cho việc cầu hiền. Đây là cơ sở hợp lòng trời, hợp lòng người.
2. Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và
nhu cầu của đất nước:
a. Cách ứng xử của sĩ phu Bắc Hà và Thao tác 2: tìm hiểu đoạn 2 (30’) - GV: Tác giả đã sử dụng những điển tích điển cố nào để nói về cách ứng xử của các sĩ phu Bắc Hà? thái độ của vua Quang trung:
- Cách ứng xử của các sĩ phu Bắc
Hà:
- GV: đặt câu hỏi liên hệ kiến thức lịch sử: Bằng hiểu biết lịch sử, em hãy cho biết tại sao những sĩ phu Bắc Hà lại có tâm lí kiêng dè không ra gánh vác việc nước?
+ Ở ẩn trong ngòi khe, trốn tránh việc đời, chết đuối trên cạn, lẩn tránh: chỉ những người ẩn dật uổng phí tài năng. - HS: tìm và chỉ ra các điển tích, điển
cố. - GV: Em có nhận xét gì về tác dụng của việc sử dụng điển cố, điển tích trong bài chiếu này? + Kiêng dè không dám lên tiếng,gõ mõ canh cửa,ra biển vào sông, … : những người ra làm quan nhưng còn nghi ngại, kiêng dè, không dám lên tiếng, làm việc cầm chừng. Không nhiệt tình với triều đại mới.
- Việc sử dụng các điển tích, điển cố có
tác dụng:
+ Sử dụng các hình ảnh trong sách Nho gia và các hình ảnh mang ý nghĩa tượng trưng ngầm chỉ trích cách ứng xử của các bậc hiền tài khi Tây Sơn ra bắc diệt Trịnh.
+ Cách diễn đạt vừa châm biếm nhẹ
nhàng,vừa tế nhị.
+ Đồng thời thể hiện vốn hiểu biết
uyên thâm,tài hoa của tác giả.
+ Người nghe tự nhận ra cách ứng xử - HS: rút ra nhận xét cá nhân. - GV: Trong bài chiếu, tác giả còn thể hiện thái độ nào của Quang Trung khi cầu hiền?Ngoài các điển cố, điển tích ra,bài chiếu còn sử dụng hình thức nghệ thuật nào? Phân tích các câu hỏi tu từ ấy?Tác dụng của các câu hỏi ấy là gì?
GV: Lê Thị Thu Phương
36
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
chưa thỏa đáng của mình;thêm nể trọng vì những điều được viết ra.
- Thái độ của vua Quang Trung:
- GV: đặt câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử:Liệu có phải Quang Trung kém tài, ít đức nên chưa có người phò tá chăng như trong bài chiếu thể hiện? Bằng hiểu biết của mình về Quang Trung, em hay chứng minh? + Bộc bạch tâm sự: “Nay trẫm…tìm đến” thái độ thành tâm tha thiết trông chờ hiền tài.
- HS: dựa phần chuẩn bị ở nhà theo câu hỏi hướng dẫn của GV ở tiết học trước và trả lời cá nhân
+ Hai câu hỏi tu từ: “Hay trẫm ít đức…? Hay đang thời đổ nát…?” thái độ khiêm tốn, lời lẽ chân thành, tác động vào nhận thức của hiền tài.
- GV: liên hệ kiến thức lịch sử qua hình ảnh minh họa (hình ảnh QT và những trận đánh mang tầm vóc thời đại của ông) Cả hai cách nói trênđều không đúng với thực tế bấy giờ.
- GV: để bày tỏ thái độ của mình, tác
giả đã đưa ra những lí lẽ nào?
- HS: trả lời cá nhân.
Sử dụng điển cố, kết hợp câu hỏi tu từ, cho thấy người viết có kiến thức sâu rộng, có tài văn chương khiến người nghe không tự ái mà còn nể trọng và tự nhận ra cách ứng xử chưa thỏa đáng của mình.
b. Thực trạng và nhu cầu của đất
- GV: Tác giả đã nêu ra thực trạng nước:
của đất nước như thế nào? - Thực trạng:
- HS trả lời. GV cho HS tìm vàgạch
chân SGK
+ Triều chính còn nhiều khiếm khuyết. + Biên ải chưa yên. + Nhân dân chưa kịp lại sức. + Đức hóa chưa thấm nhuần.
- GV: đặt câu hỏi tích hợp kiến thức lịch sử: Vì sao Quang Trung lại cho rằng “công việc ngoài biên đương phải lo toan”, “dân còn nhọc mệt chưa lại sức, mà đức hóa của trẫm chưa kịp thấm nhuần khắp nơi”?
- GV: Việc nêu ra thực trạng cho thấy Vua Quang Trung đã chỉ ra tính chất của thời đại, thẳng thắn thừa nhận những điều bất cập của triều đình mình. Điều đó thể hiện cái nhìn toàn diện, sâu sắc của nhà vua: triều đại mới tạo lập nên còn nhiều khó khăn. cái nhìn của tác giả như thế nào?
- Nhu cầu: Gặp nhiều khó khăn, cần
sự trợ giúp - GV nhận xét, khái quát ý. - GV: Từ thực trạng đó, tác giả muốn nêu lên nhu cầu gì? Cách nói của tác của nhiều bậc hiền tài.
GV: Lê Thị Thu Phương
37
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 giả như thế nào? Việc tác giả dùng hình ảnh cụ thể và dẫn lời Khổng Tử có tác dụng gì? - HS trả lời - GV: Em có nhận xét gì về cách lập
luận và thái độ của tác giả? + “Một cái cột…trị bình”: dùng hình ảnh cụ thể để chỉ công việc nhiều,nặng nề, đòi hỏi phải có sự giúp sức của các bậc hiền tài. +“Suy đi…hay sao” điều này khẳng định nhân tài trong nước rất nhiều. Thể hiện quyết tâm cầu hiền của Quang Trung.
- HS trả lời. GV nhận xét, chốt
Với cách lập luận vừa mềm mỏng vừa thuyết phục, tác giả đã cho thấy thái độ thành tâm, khiêm nhường nhưng cũng rất kiên quyết trong việc cầu hiền của vua Quang Trung.
3. Đường lối cầu hiền của Quang
Trung:
- Những con đường để hiền có thể ra Thao tác 3: tìm hiểu đoạn 3 (15’) - GV: tác giả đã đưa ra những con đường nào để người hiền ra giúp nước? giúp nước :
+ Người nào có ...tâu bày sự việc : tự
mình dâng thư tỏ bày công việc.
+ Người có nghề hay...tùy tài lục - HS: dựa vào sgk phân tích - GV: cuối bài chiếu,tác giả đã làm dụng : Các quan tiến cử
gì? - HS: trả lời cá nhân - GV: Những biện pháp mà tác giả
đưa ra như thế nào?
- GV: Em có ấn tượng gì về hình ảnh
+ Người nào từ .... bán rao : tự tiến cử Đường lối cầu hiền của vua Quang Trung mở rộng, tiến bộ, đúng đắn, cụ thể, dễ thực hiện, thể hiện tầm nhìn xa trông rộng. - Kết thúc bài chiếu là hình ảnh không gian trời đất thanh bình, trong sáng Nay trời...tôn vinh
kết thúc bài thơ? Vì sao? - HS: trả lời cá nhân - GV: nhận xét, chốt Điều đó có ý nghĩa khích lệ hiền tài cùng gánh vác việc nước và hưởng phúc lâu dài.
Hoạt động 3: hướng dẫn HS tổng
kết. (5’)
III. Tổng kết Ghi nhớ : sgk
- GV: em hãy tổng kết lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của bài chiếu
- HS: đọc ghi nhớ sgk - GV: tích hợp tư tưởng Hồ Chí
GV: Lê Thị Thu Phương
38
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 Minh
+ Thông qua bài học, em có nhận xét gì về việc đào tạo và sử dụng nhân tài hiện nay?
+ Liên hệ với tư tưởng sử dụng nhân
tài của Bác?
4. Củng cố, dặn dò:
B Ắ C H À
a. Củng cố : bằng trò chơi ô chữ
1
I Đ Ố N G Đ A
N G Ọ C H Ồ
2
Í T Đ Ứ C
3
Ị N H
L Ế T R
4
Q A N G T R U N G
5
I Ế U
G H É C H
6
T R Ầ M
7
8 R Ạ C H G Ầ M X O À
I M U T
I Ê M N H Ư Ờ N G
K H
9
N G Ô T H
Ì N H Ậ M
10
N G H Ề H A Y N G H
I Ỏ
I
11
I Ê P G
M Ở R Ộ N G
12
Dưới đây là hệ thống câu hỏi có thể tham khảo:
Câu 1. Đối tượng của bài Chiếu cầu hiền là những sĩ phu ở đâu?
Câu 2. Trận đánh nào được Nguyễn Huệ tổ chức đầu năm 1785, đánh tan tành
quân Xiêm xâm lược?
Câu 3. Quang Trung đã tự nhận về mình điều gì khiến cho những sĩ phu Bắc
Hà không ra phò tá?
GV: Lê Thị Thu Phương
39
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Câu 4. Bài Chiếu cầu hiền nhằm thuyết phục những trí thức của triều đại cũ
nào ra cộng tác với triều đại Tây Sơn?
Câu 5. Cuối năm 1778, trước khi xuất quân lên đường ra Bắc chống quân xâm
lược Thanh, Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng đế và lấy hiệu là gì?
Câu 6. Trong bài chiếu tác giả đã sử dụng điển cố nào để thể hiện thái độ cầu
hiền của vua Quang Trung?
Câu 7. Trong bài chiếu, Quang Trung đã xưng là gì?
Câu 8. Nguyễn Huệ đã tổ chức trận đánh nào vào tết Kỉ Dậu năm 1789 đánh
bại hoàn toàn quân Thanh xâm lược?
Câu 9. Câu văn “Nay trẫm đang ghé chiếu lắng nghe, ngày đêm mong mỏi, nhưng những người học rộng tài cao chưa thấy có ai tìm đến.” đã thể hiện thái độ cầu hiền nào của Quang Trung?
Câu 10. Ai đã thừa lệnh Quang Trung viết Chiếu cầu hiền?
Câu 11. Trong đường lối cầu hiền, Quang Trung đã cho phép các quan văn,
quan võ được tiến cử những người như thế nào?
Câu 12. Em có nhận xét gì về đường lối cầu hiền của vua Quang Trung?
b. Dặn dò:
- Học bài cũ
- Chuẩn bị Đọc thêm Xin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ
+ BàiXin lập khoa luật của Nguyễn Trường Tộ được ra đời trong hoàn cảnh
nào?
+ Đoạn trích Xin lập khoa luậtđược ra đời trong bối cảnh chính trị đất nước
dưới triều Tự Đức như thế nào?
+ Bài 35, trong SGK lịch sử lớp 11, giúp em hiểu thêm điều gì về tư tưởng
canh tân và tác giả của bản điều trần này?
2. Tổ chức dạy học thực nghiệm:
- Đối tượng dạy thực nghiệm: lớp 11C2, trường THPT Võ Trường Toản
- Thời gian thực nghiệm: tuần 8, từ 6/10 đến 11/10/2014
- Quá trình thực nghiệm: tôi đã tiến hành các tiết dạy bài Chiếu cầu hiền ở các
lớp đối chứng và lớp thực nghiệm.
GV: Lê Thị Thu Phương
40
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
+ Tiết dạy ở các lớp đối chứng, tôi sử dụng giáo án thông thường không có
tích hợp kiến thức lịch sử theo những đề xuất đã nêu (11C3, 11C7, 11C13)
+ Tiết dạy ở các lớp thực nghiệm, tôi sử dụng giáo án có tích hợp theo hướng
đã đề xuất(11C2, 11C9, 11C5)
3. Kết quả thực nghiệm:
Kết quả của những tiết dạy thực nghiệm sẽ là phép thử hiệu quả của việc vận dụng các biện pháp đã đề xuất trong việc tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm trung đại lớp 11. Để hình dung về hiệu quả của tiết dạy thực nghiệm thêm cụ thể và thuyết phục, tôi đã tiến hành khảo sát để nắm bắt được tính tích cực trong học tập và mức độ hiểu bài của HS ở các lớp thực nghiệm và lớp đối chứng. Kết quả đạt được như sau:
Vì Đặt
Em có tiết thích học Chiếu cầu
hiền không? sao những sĩ phu Bắc Hà không triều ra giúp trẻ đình non của Quang Trung? Nêu những thực trạng của đất nước thời điểm Quang Trung xuống chiếu cầu hiền? trong bối cảnh lịch sử đương thời, em nhận xét gì về đường lối cầu hiền của Quang Trung?
Trả lời Biết,nêu Biết,nêu Biết khái
Câu hỏi kiểm tra tính tích cực và hiểu bài của HS Trả lời Lớp dạy
có đúng, đủ đúng, đủ quát đúng, đủ
Lớp 37 40 39 37
thực nghiệm 11C2 – 42HS
đối 25 20 23 21
Lớp chứng
11C3 – 42HS Từ bảng thống kê về kết quả đối chứng, tôi nhận thấy một tiết học thực nghiệm thành công hơn so với các tiết dạy đối chứng ở chỗ: các tác phẩm được tìm hiểu sâu sắc hơn, HS chuẩn bị bài ở nhà tốt hơn, trong tiết học tích cực, chủ động và hào hứng hơn, tiết học thực nghiệm đã hướng tới tâm lí tiếp nhận của HS, khắc phục được phần nào về sự chán nản, tâm lí ngao ngán của các em trước mỗi giờ đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại.
V. KẾT LUẬN, KIẾN NGHỊ:
1. Kết luận:
GV: Lê Thị Thu Phương
41
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
Qua quá trình giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11, tôi nhận thấy rằng tích hợp là quan điểm chỉ đạo và là phương pháp dạy học đúng đắn và mang lại hiệu quả trực tiếp cho một giờ đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại lớp 11 nói riêng và việc đọc hiểu các tác phẩm văn học trung đại trong chương trình SGK Ngữ văn trung học phổ thông nói chung.
Việc tích hợp kiến thức lịch sử là rất cần thiết đối với trong một giờ đọc hiểu tác phẩm văn học trung đại lớp 11. Tuy nhiên để phương pháp này được vận dụng hiểu quả và đúng với tinh thần của việc dạy học tích hợp, liên môn, trong quá trình soạn giảng, giáo viên cũng cần chú ý một số nguyên tắc như:
Ý thức rõ mối quan hệ giữa lịch sử và văn học, thấy được sự vận động của lịch sử và văn học có phần trùng khít bởi văn học là tấm gương lớn phản chiếu cuộc sống.
Tích hợp phải có tính chất liên môn, liên lớp học để HS thấy được mối quan hệ hữu cơ giữa những nội dung kiến thức đã học, mỗi nội dung kiến thức đã học không tồn tại riêng lẻ, rời rạc mà bổ sung và soi chiếu cho nhau.
Cần xác định rõ mục tiêu, trọng tâm của bài học để biết được tích hợp vào nội dung nào thì phù hợp, tích hợp bao nhiêu là đủ nói cách khác là tích hợp cần có chọn lọc và chừng mực để tránh sa đà sang một giờ dạy học lịch sử hay làm loãng đi giá trị văn học cũng như trọng tâm kiến thức của một giờ học văn.
Cuối cùng, GV cần tránh sa vào hình thức, máy móc dẫn đến sự nhàm chán, đơn điệu trong quá trình tích hợp, làm giảm hiệu quả và ý nghĩa của phương pháp giáo dục này. Vì vậy, GV phải luôn thay đổi hình thức tích hợp để tạo hứng thú và kích thích năng lực học tập của học sinh.
2. Kiến nghị:
Để hướng dạy học tích hợp, liên môn trong giảng dạy tác phẩm trung đại lớp 11 đạt được hiệu quả như mong muốn, bản thân tôi mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau:
Về phía HS, các em cần ý thức được tầm quan trọng của việc liên hệ kiến thức lịch sử vào một giờ học văn. Mỗi HS cần chú trọng tự trau dồi, nâng cao trình độ, hiểu biết về lịch sử để hiểu và cảm thụ sâu sắc hơn về tác phẩm văn học trung đại lớp 11.
Về phía GV, GV giảng dạy hai bộ môn Ngữ văn và bộ môn Lịch sử cần có sự trao đổi, hỗ trợ nhau trong quá trình dạy học để HS qua những kiến thức lịch sử sẽ
GV: Lê Thị Thu Phương
42
Trường THPT Võ Trường Toản
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015 cảm nhận sâu sắc hơn về tác phẩm văn học trung đại và qua những tác phẩm văn học trung đại sẽ khắc sâu hơn những hiểu biết lịch sử của mình.
Về phía nhà biên soạn SGK, cần tăng thời lượng cho bài đọc thêm Chạy giặc, Xin lập khoa Luật, đểviệc tìm hiểu một thể loại văn học trung đại không mang tính chất cưỡi ngựa xem hoa
Cần có sự thống nhất về thông tin trong SGK lịch sử 11 và SGK văn học 10 để tránh thái độ hoài nghi của HS trước thông tin được coi là chính thống, ví dụ về thông tin năm sinh, năm mất của Nguyễn Trường Tộ, trong SGK Ngữ văn ghi (1830-1871), còn trong SGK Lịch sử lại ghi (1828-1871).
Trong SGK lịch sử lớp 11, phần lịch sử Việt Nam nên được tìm hiểu trước ở học kì 1, còn phần lịch sử nước ngoài sẽ tìm hiểu ở học kì 2, để có sự tương thích về mặt thời gian thuận tiện hơn cho việc tích hợp, liên môn trong cả hai môn học lịch sử và văn học.
Với những đề xuất cụ thể về việc liên hệ, tích hợp kiến thức lịch sử vào giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11, tôi hi vọng sẽ chia sẻ được những kinh nghiệm ít ỏi của mình cho những đồng nghiệp có tâm huyết đã, đang và sẽ dạy những tác phẩm này. Sáng kiến kinh nghiệm này đã cho tôi tin tưởng vào khả năng rộng mở của hướng dạy học tích hợp, liên môn. Đó không chỉ là tích hợp lịch sử mà còn tích hợp địa lí, văn hóa, giáo dục công dân…; không chỉ tích hợp vào giảng dạy những tác phẩm văn học trung đại mà còn cả những tác phẩm văn học hiện đại. Với đề tài này, tôi rất mong nhận được sự góp ý và đối thoại về kinh nghiệm giảng dạy tác phẩm văn học trung đại lớp 11 của các bạn đồng nghiệp để việc giảng dạy những tác phẩm này ngày càng đạt hiệu quả cao.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO:
1. Phương pháp dạy học văn, Phan Trọng Luận, NXB Đại học Sư phạm.
2. Việt Nam những sự kiện lịch sử (1858-1918), Dương Kinh Quốc, NXB
Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, viện sử học.
3. Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến năm 1884, Nguyễn Phan Quang, NXB
TP HCM.
4. Việt Nam sử lược, Trần Trọng Kim, NXB TP HCM.
5. SGK lịch sử lớp 10,11 chương trình cơ bản và nâng cao, Bộ GD và ĐT,
NXB Giáo dục.
GV: Lê Thị Thu Phương
43
Sáng kiến kinh nghiệm năm học 2014 – 2015
Trường THPT Võ Trường Toản
6. Để dạy và học tốt tác phẩm văn chương (phần trung đại) ở nhà trường phổ
thông, Nguyễn Thị Thanh Hương, NXB Đại học Sư phạm
7. Việt Nam thế kỉ XIX (1802-1884), Nguyễn Phan Quang, NXB TP HCM.
8. Sách giáo viên lịch sử lớp 10,11 chương trình cơ bản và nâng cao, Bộ GD và
ĐT, NXB Giáo dục.
Xuân Tây, ngày 12 tháng 5 năm 2015
NGƯỜI THỰC HIỆN SKKN
Lê Thị Thu Phương