
0
SỞ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO QUẢNG TRỊ
TRƢỜNG THPT LÊ LỢI
Tên sáng kiến:
TÍCH HỢP VẬN DỤNG KIẾN THỨC
VẬT LÝ LỚP 10 VÀO PHÒNG TRÁNH
TAI NẠN GIAO THÔNG CHO HỌC SINH
TRƢỜNG THPT LÊ LỢI
Lĩnh vực: Vật lý
Tên tác giả: Lê Xuân Lâm
Giáo viên môn: Vật lý.
Chức vụ: Phó Hiệu trƣởng.
Đơn vị công tác: Trƣờng THPT Lê Lợi
NĂM HỌC 2021 - 2022

1
I. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Mục tiêu giáo dục của Đảng và Nhà nước hiện nay ở cấp Trung học phổ
thông (THPT) là giáo dục toàn diện cho học sinh (HS) để tạo ra những con
người có đầy đủ phẩm chất và năng lực, có khả năng kế tục sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, phấn đấu
đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Vì thế
thông qua quá trình học tập, giáo viên không chỉ cung cấp cho học sinh những
kiến thức cơ bản trong sách giáo khoa, mà còn hình thành cho các em kỹ năng
sống để bước vào đời sau khi tốt nghiệp THPT.
Trên cơ sở đặc thù của bộ môn, dạy học Vật lý ở trường THPT cũng góp
phần giáo dục thế hệ trẻ đáp ứng được yêu cầu chung của đất nước. Do đó, trong
dạy học người giáo viên vật lý phải có trách nhiệm bồi dưỡng cho học sinh tư
tưởng đạo đức và kỹ năng sống để kích thích hứng thú học tập cho HS qua đó
khắc sâu kiến thức và góp phần vào việc tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp
luật trong nhà trường, đây là việc làm hết sức cần thiết, đặc biệt đối với học sinh
cấp THPT bởi các em là những người chưa hoàn toàn trưởng thành, chín chắn
nên rất cần một người dẫn đường, trong đó thầy cô giáo và sách vở chính là
những người bạn hỗ trợ đắc lực cho các em kiến thức và kĩ năng vào đời .
Thực tế hiện nay cho thấy có những bất cập trong công tác tuyên truyền,
phổ biến, giáo dục pháp luật về an toàn giao thông (ATGT) cho giới trẻ nói
chung, đối tượng học sinh nói riêng vì ở các trường hiện chưa có hướng dẫn cụ
thể cho kế hoạch chuyên môn mà chỉ có nội dung công văn hướng dẫn của các
cấp cho hoạt động ngoại khóa, công tác tuyên truyền chưa có chiều sâu nên hiệu
quả và tác động tới học sinh chưa cao, vẫn còn nhiều HS vi phạm về ATGT.
Bên cạnh đó, ý thức chấp hành Luật giao thông của người dân còn hạn chế,
trong đó có số lượng lớn học sinh THPT. Tình trạng học sinh sử dụng xe gắn
máy khi chưa đủ tuổi cũng là vấn đề rất đáng lưu tâm, bởi thực tế thời gian qua
đã có nhiều vụ tai nạn giao thông xảy ra, trong đó có nhiều người gây tai nạn và
nạn nhân thuộc nhóm đối tượng này.
Tôi nhận thấy bộ môn vật lý mà mình đang giảng dạy có rất nhiều bài học
mà thông qua đó giáo viên có thể liên hệ kiến thức bài học với thực tế qua đó có
thể giúp các em cảm thấy yêu thích môn học hơn, vừa hình thành kĩ năng cá
nhân vừa có thể giáo dục ý thức khi tham gia giao thông một cách an toàn hiệu
quả, những bài học đó là những lời nhắc nhở thường xuyên đến với các em, qua
thời gian hình thành một thói quen có lợi.
Từ những lý do đã phân tích ở trên và qua thực tiễn giảng dạy bộ môn Vật
lý ở trường tôi đã mạnh dạn chọn đề tài: “Tích hợp vận dụng kiến thức vật lý
lớp 10 vào phòng tránh tai nạn giao thông cho học sinh trường THPT Lê
Lợi”, tỉnh Quảng Trị.
Với đề tài sáng kiến kinh nghiệm này tôi mong muốn đóng góp một phần
vào việc giáo dục ý thức chấp hành pháp luật và giảm thiểu tai nạn giao thông

2
đáng tiếc. Đề tài này không chỉ áp dụng ở đối tượng học sinh THPT nơi tôi đang
giảng dạy mà còn áp dụng tốt cho học sinh ở các trường phổ thông khác.
2. Mục đích nghiên cứu .
Đề tài tập trung nghiên cứu nhằm đạt được những mục đích sau:
- Khắc sâu kiến thức bài học, gắn lí thuyết với thực tiễn cuộc sống.
- Góp phần củng cố lòng tin của học sinh vào những kiến thức được học,
thấy được lợi ích của việc học tập.
- Hình thành kỹ năng liên hệ và vận dụng kiến thức gắn vật lý thực nghiệm
với thực tế.
- Tác động một cách thường xuyên, liên tục đến ý thức và hình thành một
số kĩ năng cơ bản cho học sinh khi tham gia giao thông.
Với những mục đích trên tôi mong muốn có thể góp phần nào giải quyết
được những khó khăn gặp phải của học sinh trong quá trình học tập và liên hệ
thực tế bài học, để mỗi tiết dạy là một bài học thực tế sinh động và gần gũi, trên
hết là góp phần nâng cao ý thức chấp hành luật pháp, luật giao thông và tránh
được những tai nạn đáng tiếc cho các em.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu:
Đối tượng khảo sát áp dụng của đề tài là học sinh khối lớp 10B10 của
Trường THPT Lê Lợi tỉnh Quảng Trị năm học 2021 - 2022 và sẽ mở rộng cho
đối tượng khối lớp 10, 11, 12 trong các năm học sau.
Đối tượng nghiên cứu xoay quanh các vấn đề sau:
Thứ nhất: Nghiên cứu kĩ các bài học có thể vận dụng kiến thức và kĩ năng
tham gia giao thông an toàn, từ đó lập ra nội dung chi tiết liên hệ bài học với
thực tế, kết nối kiến thức với thực tiễn một cách sinh động, sử dụng nhiều kênh
thông tin minh họa cho nội dung cần truyền tải.
Thứ hai: Tìm ra những phương pháp tối ưu, tích cực để tích hợp nội dung
đó vào bài học mà không làm ảnh hưởng đến thời gian lên lớp trong phạm vi tiết
học, kiến thức đưa vào phải sát với thực tế cuộc sống trên cơ sở gợi ý của giáo
viên và sự tìm tòi khám phá của học sinh, gây hứng thú và có tác dụng thúc đẩy
các em thực hiện nó trong đời sống.
Thứ ba: Tìm ra biện pháp có tính hệ thống để nhắc nhở, tác động thường
xuyên đến ý thức của các em, từ đó các em có thể áp dụng những kiến thức được
học vào cuộc sống một cách tự giác, xem đó như một trách nhiệm, một việc làm
hàng ngày của mỗi cá nhân.
3.2. Phạm vi nghiên cứu:
- Sách giáo khoa vật lý lớp 10 THPT – Chương trình Cơ bản và Nâng cao.
- Học sinh khối 10 trường THPT Lê Lợi tỉnh Quảng Trị.

3
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
- Phương pháp điều tra.
- Phương pháp trò chuyện.
- Phương pháp tổng hợp xử lý số liệu.
- Phương pháp dự thính thông qua các tiết dạy.
- Phương pháp quan sát có ghi chép.

4
II. NỘI DUNG
1. Tổng quan lý luận
1.1. Cơ sở lý luận
Vật lý là môn khoa học thực nghiệm, nội dung kiến thức (khái niệm, định
luật, quy tắc, …) được rút ra từ sự quan sát, khảo sát, tiến hành kiểm tra thực tế
nhiều lần. Vì vậy, việc tiếp thu kiến thức không dễ đối với đa số học sinh, bản
thân các em rất mơ hồ khi vận dụng kiến thức để giải toán, đặc biệt là vận dụng
kiến thức giải thích các hiện tượng thực tế. Hầu hết việc vận dụng kiến thức vào
thực tế do giáo viên cung cấp nên mang tính thụ động, học sinh ít hứng thú.
Việc đưa kiến thức giáo dục an toàn giao thông vào bài học môn Vật lý
chưa có văn bản nào hướng dẫn, giáo viên chỉ đề cập qua ở một số bài học có
liên quan, chủ yếu tập trung tích hợp về môi trường và biến đổi khí hậu theo quy
định của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
Thực hiện Nghị quyết số 88/NQ-CP ngày 24 tháng 8 năm 2011 của Chính
phủ về tăng cường thực hiện các giải pháp trọng tâm đảm bảo trật tự an toàn
giao thông(ATGT); Công văn 3678/BGDĐT-GDCTHSSV của Bộ Giáo dục và
Đào tạo về việc tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục pháp luật bảo
đảm TTATGT năm học 2021-2022.
- Nâng cao chất lượng và hiệu quả công tác giáo dục an toàn giao thông
trong các cơ sở giáo dục, thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ và giải pháp của ngành
giáo dục được giao tại Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ.
- Ngăn chặn, đẩy lùi các vi phạm an toàn giao thông trong học sinh, sinh
viên góp phần thực hiện hiệu quả “Năm an toàn giao thông năm ”.
Để thực hiện công tác giáo dục ATGT, yêu cầu:
“Bám sát nội dung, yêu cầu của Nghị quyết số 88/NQ-CP của Chính phủ,
Kế hoạch số 445/KH-UBATGTQG, kết hợp giáo dục chính khóa với các hoạt
động ngoại khóa, lồng ghép giáo dục an toàn giao thông với các cuộc vận động,
các phong trào thi đua lớn của Ngành và các hoạt động của nhà trường.
- Tăng cường phối hợp, phát huy vai trò của các tổ chức trong và ngoài nhà
trường, đặc biệt là các tổ chức Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Thanh
niên Việt Nam, Cảnh sát giao thông, trong việc tổ chức các hoạt động tuyên
truyền, giáo dục an toàn giao thông cho học sinh, sinh viên.
- Bổ sung, hoàn thiện các điều kiện đảm bảo cho công tác giáo dục an toàn
giao thông trong nhà trường, tăng cường các hình thức tổ chức như ứng dụng
công nghệ thông tin, băng đĩa, phim ảnh, tiểu phẩm,… để nâng cao hiệu quả của
công tác giáo dục an toàn giao thông.
- Sử dụng các kênh phim và kênh hình về an toàn giao thông phong phú,
đúng lúc, kịp thời, phù hợp với nội dung bài học có tác động mạnh mẽ đến giác
quan học sinh, giúp các em dễ nhớ, ấn tượng và khắc sâu kiến thức, qua đó ý
thức và kĩ năng thực hành trở nên tự nhiên, gần gũi, quen thuộc.

