I. Phần mở đầu.

1. Lí do chọn đề tài.

Trên cơ sở kế thừa và phát triển môn Tự nhiên và Xã hội ( ở các lớp 1, 2,

3), môn Khoa học ( ở lớp 4, 5) được xây dựng trên nền tảng cơ bản, ban đầu của

khoa học tự nhiên và các lĩnh vực nghiên cứu về giáo dục sức khỏe, giáo dục

môi trường. Khoa học là môn học giúp học sinh khơi dậy trí tò mò, tạo cơ hội để

học sinh tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, tri thức khoa học. Cũng là môn

học quan trọng trong việc giúp học sinh học tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp

trung học sơ sở và các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học ở cấp trung học phổ thông.

Môn khoa học là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu

và thiết thực như là: Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự sinh sản, sự lớn

lên của cơ thể người. Cách phòng tránh một số bệnh thông thường, đặc điểm và

công dụng của một số chất, một số vật liệu và nguồn năng lượng thường gặp

trong đời sống và sản xuất.

Là môn học giúp học sinh hình thành các kĩ năng như: Kĩ năng ứng xử

thích hợp trong một số tình huống có liên quan đến vấn đề sức khỏe của bản

thân, gia đình và cộng đồng. Kĩ năng quan sát và làm một số thí nghiệm thực

hành khoa học đơn giản, gần gũi với đời sống và sản xuất. Biết nêu thắc mắc,

đặt câu hỏi trong quá trình học tập; biết tìm thông tin để giải đáp; biết diễn đạt

những hiểu biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ....

Thông qua những kiến thức và kĩ năng đó giúp học sinh hình thành ý thức

tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng

đồng. Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào

đời sống. Giúp học sinh hình thành tÌnh yêu con người, thiên nhiên, đất nước,

yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ môi trường xung quanh.

Trong thực tế môn khoa học không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến

thức cơ bản về con người, tự nhiên, rèn luyện kĩ năng và thái độ học tập đúng

đắn mà còn góp phần phát triển những kĩ năng và phẩm chất của các nhà khoa

2

học tương lai. Bên cạnh đó, môn Khoa học còn giúp học sinh làm quen với cách

tư duy chặt chẽ mang tính khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực

cần thiết để thích ứng với thực tế cuộc sống. Chính vì vậy môn Khoa học là môn

học có vai trò quan trọng và có mối liên hệ chặt chẽ với các môn học khác trong

nhà trường. Và để thực hiện được mục tiêu đã đề ra đòi hỏi mỗi giáo viên phải

biết vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp giáo dục. Quan trọng hơn

nữa là giáo viên cần lựa chọn vận dụng những phương và giáo dục phát triển

năng lực phẩm chất của học sinh tiểu học.

Trong quá trình giảng dạy môn Khoa học lớp 5, bản thân đã vận dụng một

cách linh hoạt và sáng tạo nhiều phương pháp, đặc biệt chú ý đến nhưng phương

pháp giáo dục và phát triển năng lực cho học sinh. Sau nhiều năm vận dụng tôi

nhận thấy học sinh hứng thú, tích cực, chủ động hơn trong việc tìm tòi và chiếm

lĩnh tri thức. Trong phạm vi sáng kiến này tôi xin chia sẻ kinh nghiệm vận dụng

“Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn khoa học lớp 5”.

2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.

Giúp giáo viên thấy rõ được vai trò, tầm quan trọng của môn Khoa học

trong chương trình Tiểu học. Lựa chọn và áp dụng một số biện pháp, kĩ thuật

dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn khoa học. Tạo sự tích cực chủ

động khám phá tri thức khoa học của học sinh.

Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đối tượng học sinh giảng dạy lựa

chọn một số biện pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động

khám phá tri thức cũng như nâng cao chất lượng của môn Khoa học nói riêng và

nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.

Nhiệm vụ của đề tài là lựa chọn, đề xuất một số giải pháp, biện pháp giảng

dạy phù hợp trong giảng dạy môn khoa học và phù hợp với đối tượng học sinh

lớp 5. Nhằm giúp khơi gợi trí tò mò, đam mê tìm hiểu khoa học của học sinh. Tổ

chức thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm hiệu quả của giải pháp mang lại.

3. Đối tượng nghiên cứu.

3

Một số giải pháp, biện pháp, trò chơi học tập... sử dụng trong quá trình

giảng dạy môn Khoa học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Khoa học nói

riêng và chất lượng giáo dục nói chung.

Sự hứng thú, chủ động trong học tập và ý thức tự giác của học sinh thay đổi

như thế nào sau khi áp dụng những giải pháp, biện pháp, trò chơi ...đã lựa chọn

và thiết kế.

Khảo sát đối tượng học sinh lớp 5A trường Tiểu học Lê Lợi –thị trấn

Quảng Phú – huyện CưMgar- tỉnh Đăk Lăk năm học 2019 – 2020.

4. Giới hạn của đề tài

Tập trung nghiên cứu một số biện pháp, giải pháp... nhằm giúp học sinh

tích cực, chủ động, ham thích khám phá khoa học. Tạo tiền đề đề học sinh học

tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung học cơ sở và các môn Vật lí, Hóa học,

Sinh học ở cấp trung học phổ thông.

5. Phương pháp nghiên cứu

Phương pháp đàm thoại

Phương pháp quan sát

Phương pháp phân tích

Phương pháp tổng hợp

Phương pháp thực nghiệm

4

II. Phần nội dung.

1. Cơ sở lí luận.

Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã và đang đổi mới một

cách mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó có cả việc đổi mới

nội dung và phương pháp giảng dạy. Chuyển dần từ việc học sinh là người lĩnh

hội kiến thức sang học sinh là người tìm tòi, khám phá ra tri thức của bài học.

Để phát huy tính sáng tạo của mỗi học sinh thì người giáo viên cần khéo lựa

chọn các hình thức dạy học tạo điều kiện để học sinh có cơ hội được trải

nghiệm, được tìm tòi, khám phá thế giới tự nhiên. Học sinh được trình bày

những hiểu biết riêng của mình về vấn đề trong bài học. Tạo cơ hội cho các em

liên hệ, vận dụng phối hợp kiến thức, kỹ năng từ các lĩnh vực khác nhau trong

môn học cũng như với các môn học khác vào giải quyết những vấn đề thực tế

trong cuộc sống. Một điều quan trọng và hiệu quả hơn nữa là giáo viên biết cách

khơi gợi, tạo cho học sinh niềm yêu thích đối với môn học. Có yêu thích môn

học thì các em mới chủ động tìm tòi khám phá, vận dụng những kiến thức đã

học vào cuộc sống thường ngày.

Lứa tuổi học sinh tiểu học các em thường thích điều mới lạ, các em chưa

duy trì được sự chú ý trong mội thời gian dài. Vì vậy giáo viên cần sự dụng

nhiều phương pháp trong một bài học để thu hút sự tập trung chú ý của các em.

Các em có thể ghi nhớ một cách nhanh chóng nhưng lại nhanh quên. Việc tạo cơ

hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm sẽ giúp các em tự rút ra được kiến

thức có như vậy kiến thức thu được mới bền.

Một nội dung bài học giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp khác

nhau để đạt được mục tiêu nhưng có những phương pháp chỉ giúp học sinh ghi

nhớ kiến thức một cách tạm thời, không sâu còn có những phương pháp sẽ giúp

học sinh khám phá kiến thức một cách tự nhiên và bền vững.

Vận dụng các phương pháp giáo dục một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp

với nội dung, mục tiêu giáo dục, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể, quan

5

tâm đến hứng thú học tập của học sinh đó là vấn đề mỗi giáo viên cần chú ý

trong quá trình giảng dạy.

Mỗi môn học đều có những phương pháp dạy học đặc thù, những phương

pháp này sẽ phát huy tối đa tính tích cực tự giác của học sinh. Nhiệm vụ của

giáo viên là cần biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với từng nội dung bài

học, với từng đối tượng học sinh để khơi gợi, phát huy khả năng của từng học

sinh.

2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.

Như chúng ta đã biết môn khoa học ở tiểu học là môn học đóng vai trò

quan trọng trong việc giúp học sinh học tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung

học cơ sở và các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học ở cấp trung học phổ thông. Môn

học chú trọng khơi dậy trí tò mò khoa học, bước đầu tạo cho học sinh cơ hội tìm

hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, tri thức khoa học....Tuy nhiên thực trạng hiện

nay trong quá trình giảng dạy môn học này chưa thật sự được chú trọng.

Về phía giáo viên: Trong một lớp học trình độ học sinh không đồng đều

dẫn đến việc giảng dạy môn Toán và các phân môn của môn Tiếng Việt nhiều

học sinh chưa thể nắm bắt kịp kiến thức nên giáo viên thường kéo dài thời gian

của những tiết học này dẫn đến việc giảng dạy các môn như còn lại thường bị rút

ngắn chưa đảm bảo đúng thời gian quy định. Vì thời gian bị rút ngắn nên việc

giảng dạy đúng đúng quy trình chưa đảm bảo, giáo viên cũng chưa thật sự đầu

tư nhiều thời gian vào việc nghiên cứu đổi mới các phương pháp cũng như làm

đồ dùng học tập giảng dạy trong môn Khoa học nhằm kích thích trí tò mò khám

phá của học sinh.

Về phía phụ huynh và học sinh: Cả phụ huynh và học sinh vẫn có tư tưởng

xem môn học này là môn học “ phụ ”, hoặc chỉ cần học thuộc lòng bài học, nội

dung cần ghi nhớ trong mỗi bài là học sinh có thể làm bài thi học kì. Đối nhiều

phụ huynh vẫn có suy nghĩ môn Khoa học chỉ là môn học nhận xét bằng định

tính như môn Tự nhiên Xã hội ở các lớp 1, 2, 3.

6

Đối với học sinh Tiểu học cũng chưa có sân chơi nào trong lĩnh vực khoa

học nên cũng chưa thu hút được sự quan tâm của học sinh và phụ huynh.

Từ những thực trạng trên, qua nhiều năm giảng dạy ở khối lớp 5, bản thân

tôi nhận thấy cần phải nâng cao chất lượng giảng dạy môn Khoa học trong

trường Tiểu học. Đặc biệt là phải khơi gợi được trí tò mò khám phá tự nhiên,

khám phá khoa học của học sinh. Giúp học sinh khám và và khắc sâu được kiến

thức, vận dụng những kiến thức đã học nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống

hàng ngày, có ý thức giũ gìn sức khỏe, môi trường xung quanh. Sử dụng tài

nguyên thiên nhiên một cách hợp lí, có ý thức bảo vệ môi trường sống.......

Trong quá trình giảng dạy, đúc rút kinh nghiệm của bản thân sau mỗi năm

học và học hỏi từ bạn bè đồng nghiệp, từ các phương tiện thông tin đại chúng, từ

các nguồn tài liệu khác nhau...bản thân mạnh dạn đổi mới và vận dụng nhiều

phương pháp khác nhau nhằm thu hút sự tập trung chú ý của học sinh, khơi gợi

trí tò mò và đam mê khám phá kiến thức để học sinh tự rút ra được kiến thức sau

mỗi bài học. Có như vậy học sinh mới là chủ thể của hoạt động, chủ thể của kiến

thức.

Năm học 2019 – 2020 tôi được phân công chủ nhiệm lớp 5A với tổng số

học sinh lớp là 32 trong đó có 17 học sinh nữ, 15 học sinh nam, 3 học sinh thuộc

hộ nghèo.

Đa số học sinh ngoan, biết vâng lời và lễ phép với thầy cô giáo. Các em

được phụ huynh chuẩn bị đầy đủ đồ dùng học tập khi đến lớp. Nhưng một thực

tế khiến tôi trăn trở là hầu như cả phụ huynh và học sinh đang tập trung nhiều

thời gian vào các môn Toán, Tiếng Việt và Anh văn. Việc học và chuẩn bị bài ở

nhà những môn học này khá tốt. Trong giờ học các môn này học sinh cũng tích

cực xây dựng bài, tương tác giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với học

sinh rất tốt. Nhưng với các môn học còn lại trong đó có môn khoa học học sinh

lớp tôi chưa thật sự tích cực, việc tìm hiểu kiến thức chuẩn bị bài ở nhà chưa

7

đảm bảo. Các em thường máy móc rập khuôn đọc nội dung ghi nhớ chứ chưa

trình bày diễn đạt được những kiến thức bằng vốn từ, vốn hiểu biết của mình.

Từ thực trạng đó tôi nhận thấy mình cần phải thay đổi phương pháp, vận

dụng các hình thức hoạt động linh hoạt để học sinh hứng thú hơn trong môn học

này. Giúp các em thu nhận được kiến thức một cách tự nhiên và hiểu được bản

chất của vấn đề, có thể trình bày bằng vốn hiểu biết của mình chứ không rập

khuôn máy móc.

Trước khi tiến hành vận dụng các biện pháp tôi đã quan sát tìm hiểu về

mức độ hứng thú học tập của học sinh với môn khoa học thông qua bảng khảo

sát sau:

Nội dung khảo sát Thường Thỉnh Hiếm

xuyên thoảng khi ( Biểu hiện của học sinh)

Học sinh vui vẻ hứng thú trong các tiết

khoa học

Học sinh nắm được bài học và trình bày

được những hiểu biết của mình.

Kĩ năng tương tác,phối hợp tốt giữa học

sinh với học sinh và giữa học sinh với

giáo viên.

HS tự giác hoàn thành bài trước khi đến

lớp.

HS biết tìm kiếm thông tin để hoàn

thành nhiệm vụ học tập.

8

Dựa vào những phiếu khảo sát tôi thu nhận được kết quả như sau:

BẢNG KẾT QUẢ KHẢO SÁT

Thời gian Tổng số Học sinh hứng thú trong Học sinh ít hứng thú

khảo sát học tập trong môn Khoa trong học tập trong môn

học Khoa học

Đầu năm 32 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

10 31,25 22 68,75

3. Nội dung và hình thức của giải pháp.

a) Mục tiêu của giải pháp.

Dựa vào đặc điểm, tâm sinh lí của học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh

lớp 5 các em đang ở giai đoạn chuyển giao từ lứa tuổi nhi đồng lên lứa tuổi thiếu

niên. Ở lứa tuổi này các con bước vào giai đoạn đầu của tuổi dậy thì, các con có

những nhận thức mới về bản thân, gia đình, bạn bè và môi trường xung quanh.

Các con bắt đầu nhận thức được cái tôi từ lứa tuổi này, các con dễ bị lôi cuốn

bởi ấn tượng bên ngoài, dễ bị hấp dẫn bởi cái mới, cái lạ.

Dựa trên những đặc điểm tâm sinh lí của học sinh Tiểu học và đặc thù của

môn học giáo viên lựa chọn những phương pháp, những hoạt động mà trong đó

học sinh có cơ hội để trình bày hiểu biết ( theo diễn đạt của riêng mình) để giải

quyết nhiệm vụ của bài học. Từ đó giải thích được sự vật, hiện tượng tự nhiên

xung quanh. Tạo cơ hội cho học sinh liên hệ, vận dụng kiến thức, kỹ năng từ các

lĩnh vực khác nhau trong các môn học khác vào để giải quyết vấn đề.

Chú trọng tạo cơ hội cho học sinh học qua trải nghiệm, học qua tìm tòi

khám phá thế giới xung quanh, qua quan sát thí nghiệm, thực hành, qua hợp tác,

trao đổi với bạn.

b) Nội dung và cách thực hiện biện pháp

9

Biện pháp 1: Tạo sự hứng thú cho học sinh bằng những trò chơi học

tập.

Không có một phương pháp giảng dạy nào là vạn năng, mỗi phương pháp

đều có những mặt mạnh và mặt hạn chế. Sự khéo léo của mỗi giáo viên là biết

khác thác tối đa những ưu điểm của các phương pháp đó và mạnh dạn ứng dụng

những phương pháp mới, mạnh dạn đổi mới và sáng tạo đáp ứng, thích ứng với

nhu cầu của từng đối tượng học sinh nhằm tạo nên những đổi mới, những tiến

bộ vượt bậc trong giáo dục. Tuy nhiên cũng có những phương pháp thể rõ ưu thế

của mình trong quá trình giảng dạy. Trong những phương pháp đó có phương

pháp trò chơi học tập. Trò chơi học tập phù với học sinh tiểu học vì có tác dụng

giúp học sinh khám phá được kiến thức vừa đáp ứng nhu cầu vui chơi của trẻ.

Trò chơi học tập vừa giúp trẻ giải tỏa được những “căng thẳng” trong quá trình

học tập vừa giúp trẻ được vận động để phục hồi sức khỏe.

Trong quá trình giảng dạy tôi đã mạnh dạn đầu tư thời gian thiết kế các trò

chơi học tập trong môn Toán và phân môn Luyện từ và câu nó đã đem lại những

hiệu quả nhất định. Vì vậy tôi tiếp tục mạnh dạn thiết kế những trò chơi học tập

trong môn Khoa học nhằm giúp học sinh hứng thú, khắc sâu kiến thức hơn

trong mỗi tiết học. Thông qua trò chơi học tập học học sinh hình thành khám

phá được tri thức và còn tạo cơ hội hội cho giao lưu, hợp tác với bạn trong tổ,

nhóm.

Khi lựa chọn thiết kế các trò chơi học tập giáo viên cần lưu ý tên trò chơi

phải gây sự chú ý tò mò đối với học sinh. Luật chơi đơn giản, dễ thực hiện đảm

bảo tất cả học sinh đều có thể tham gia.

Giáo viên cần khéo tổ chức để học sinh cả lớp cùng được tham gia, các em

không được chơi trực tiếp thì sẽ là những cổ động viên, là ban giám khảo.... Các

học sinh dưới lớp ngoài việc cổ vũ tinh thần mà còn phải suy nghĩ để tìm đáp án

những vấn đề mà các bạn trong đội đang thực hiện.

10

Kết thúc mỗi trò chơi giáo viên cần có những nhận xét, đánh giá một cách

toàn diện và kịp thời. Giáo viên cần đánh giá về cả kết quả lẫn tinh thần, ý thức,

sự phối hợp của các thành viên trong nhóm.

Trò chơi học tập phải mang ý nghĩa giáo dục đạo đức và ý thức công dân

cho học sinh. Giáo dục ý thức đoàn kết hỗ trợ lẫn nhau tránh tư tưởng ích kỉ, hẹp

hòi.

Trò chơi học tập trong các giờ học được thiết kế theo cấu trúc sau:

Mục đích: Để tổ chức bất kì trò chơi nào giáo viên cũng phải xác định rõ

mực tiêu trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức, kỹ năng nào. Giúp học sinh

hình thành phát triển được năng lực gì.

Đồ dùng để chơi: Chuẩn bị các dụng cụ cần thiết phục vụ cho quá trình tổ

chức trò chơi.

Số người tham gia chơi: Xác định rõ số người tham gia chơi.

Nêu luật chơi và cách chơi: Nêu rõ các bước thực hiện, các qui định cụ

thể đối với người chơi, qui định thắng thua của trò chơi. Nêu cách chơi để người

chơi nắm được và thực hiện tốt.

Tùy vào từng bài học cụ thể, từng đối tượng học sinh giáo viên có sự sáng

tạo trong quá trình vận dụng các trò chơi. Tùy vào nội dung, thời gian của bài

học mà giáo viên qui định thời gian chơi. Nhưng thông thường trò chơi học tập

được tiến hành theo các bước sau:

+ Bước 1: Giới thiệu trò chơi

 Giáo viên nêu tên của trò chơi học tập.

 Hướng dẫn học sinh tham gia chơi, giáo viên có thể vừa diễn tả vừa

mô phỏng hình thức chơi để học sinh nắm rõ.

+ Bước 2: Chơi thử

 Thông qua chơi thử để nhấn mạnh luật chơi.

11

+ Bước 3: Chơi thật

+ Bước 4: Nhận xét kết quả chơi, thái độ của người tham dự, giáo viên có

thể nêu thêm những tri thức thu nhận được thông qua trò chơi, những sai lầm

cần tránh.

+ Bước 5: Giáo viên cùng học sinh đánh giá kêt quả công bằng và khách

quan có như vậy học sinh mới cảm thấy thoải mái và tự giác từ đó sẽ kích

thích ý thức học tập tự giác của học sinh. Hình thức phạt đơn giản, nhẹ nhàng

giáo viên có thể sử dụng những hình thức hóm hỉnh tạo sự sôi nổi, tiếng cười

sảng khoáng cho cả đội thắng và đội thua.

Một số trò chơi học tập trong môn Khoa học lớp 5.

Trò chơi: “Rung chuông vàng”

* Mục tiêu: Củng cố lại những kiến thức học sinh đã học ở những bài trước

nhằm tạo tâm lí hưng phấn trước khi vào bài học. Hoặc tổ chức cuối các bài học

để củng cố kiến thức cho học sinh. Rèn cho học sinh sự nhanh nhẹn và tập trung

chú ý.

* Chuẩn bị: Ứng dụng CNTT soạn trên Powe Point. Học sinh chuẩn bị

bảng con, bút viết bảng.

* Thời gian: Khoảng từ 2 đến 3 phút.

* Luật chơi – Cách chơi: Học sinh cả lớp cùng chơi lần lượt nghe, quan sát

câu hỏi trên màn hình và ghi đáp án đúng vào bảng con. Những học sinh trả lời

chưa chính xác thì không được tham gia ở những câu tiếp theo. Hết thời gian

những học sinh còn lại là người thắng cuộc.

Ví dụ: Sau khi dạy bài Nhôm giáo viên soạn một số cấu hỏi trắc nghiệm

giúp học sinh củng cố lại kiến thức của bài học như sau:

Câu 1: Nhôm có nguồn gốc từ đâu?

a) Từ quặng nhôm.

b) Trong các thiên thạch.

12

c) Từ dầu mỏ và than đá. d) Trong các núi đá vôi.

Câu 2: Nhôm và hợp kim của nhôm khôn được dùng để làm gì?

a) Trong sản xuất các dụng cụ làm bếp.

b) Làm khung cửa sổ và một số bộ phận của các phương tiện giao thông.

c) Làm đường ray.

d) Làm vỏ nhiều loại hộp.

Câu 3: Đặc điểm của nhôm là:

a)Màu trắng bạc, có ánh kim, có thể kéo thành sợi và dát mỏng, không bị

gỉ. Dẫn điện, dẫn nhiệt tốt.

b)Màu trắng xám, có ánh kim, có tính dẻo, dễ uốn, dễ kéo thành sợi, dễ rèn,

dễ dập.

c)Màu nâu đỏ, có ánh kim, bền dễ dát mỏng, dễ kéo thành sợi, dẫn điện,

dẫn nhiệt tốt.

Trò chơi: “Tiếp sức đồng đội”

* Mục tiêu: Giúp học sinh củng cố kiến thức đã học, trình bày hiểu biết của

học sinh về vấn đề đưa ra. Giúp học sinh phát huy sự tự tin và tính chủ động.

Rèn sự nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong đội.

* Chuẩn bị: tùy vào bài giáo viên chuẩn bị thẻ từ hoặc chỉ cẩn bảng đã chia

sẵn cho các đội và phấn viết.

* Thời gian: Căn cứ vào nội dung bài học và đối tượng học sinh giáo viên

quy định thời gian hợp lí.

* Luật chơi – Cách chơi:

Chơi theo đội, mỗi đội có thể từ 3 đến 5 học sinh, học sinh của hai đội xếp

thành hai hàng dọc. Khi nghe hiệu lệnh bắt đầu học sinh đầu tiên sẽ tìm và gắn

(hoặc ghi) vào bảng của đội mình một nội dung đúng theo yêu cầu thuộc chủ

13

điểm sau khi tìm và gắn ( hoặc ghi) xong sẽ trao phấn cho bạn thứ hai để bạn thứ

hai tiếp tục. Các đội thực hiện đến khi nào hết nội dung hoặc hết giờ. Giáo viên

cùng học sinh dưới lớp kiểm tra nhận xét đáp án đội nào có nhiều nội dung đúng

và nhanh là đội thắng cuộc.

Ví dụ khi dạy bài: Nam hay nữ giáo viên có thể sử dụng trò chơi này.

Mục tiêu: thông qua trò chơi này học sinh phân biệt các đặc điểm về mặt

sinh học và xã hội giữa nam và nữ.

Chuẩn bị: Bảng lớp chia làm hai và kẻ sẵn như sau:

Nam Cả nam và nữ Nữ

Thẻ từ có sẵn nội dung như sách giáo khoa (trang 8) ví dụ:

Dịu dàng Có râu Mạnh mẽ

Kiên nhẫn Tự tin Giám đốc

Thời gian: Đối với nội dung bài có sẵn như trên thì đội nào gắn xong

trước và có nhiều đáp án đúng hơn là đội thắng cuộc.

Để khắc sâu thêm kiến thức và tạo cơ hội cho học sinh trình bày giáo viên

có thể đặt thêm những câu hỏi để học sinh có cơ hội trình bày những hiểu biết

của mình về vấn đề mà các em thực hiện. Ví dụ: Vì sao em cho rằng nhiệm vụ

chăm sóc con cái là trách nhiệm của cả nam và nữ?

Hoặc trong bài Nhôm giáo viên cũng có thể sử dụng trò chơi này.

Mục tiêu: Học sinh kể tên được một số dụng cụ, đồ dùng, máy móc được

làm bằng nhôm.

14

Chuẩn bị: Bảng lớp cho ba đội chơi, phấn.

Thời gian: Đối với nội dung bài này giáo viên quy định trong thời gian 2

phút đội nào viết được nhiều đồ dùng và đúng là đội thắng cuộc.

Trò chơi này rất đơn giản không cần phải chuẩn bị cầu kì nhưng giáo viên

có thể vận dụng ở rất nhiều bài và học sinh được vận động tạo tâm lí hưng phấn,

không khí lớp sôi nổi. Nội dung trò chơi đơn giản phù hợp với tất cả các đối

tượng học sinh đặc biệt là những học sinh còn hạn chế về học, khi các em được

tham gia và hoàn thành nhiệm vụ sẽ tạo cho các em tự tin hơn.

Ví dụ một số bài có thể tổ chức trò chơi này:

Bài số Tiết Tên bài Trang

PPCT

Bài 22 22 Tre, mây, song 46

Bài 24 24 Đồng và hợp kim của đồng 50

Bài 29 29 Thủy tinh 60

Bài 30 30 Cao su 62

Bài 35 35 Sự chuyển thể của chất 72

Trò chơi “Thêm lá cho cây”

* Mục tiêu : Trò chơi giúp học sinh củng cố kiến thức của bài học. Nêu

được những biện pháp phòng tránh xâm hại, những biện pháp vệ sinh tuổi dậy

thì, phòng bệnh viêm gan A....

* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị một bảng phụ vẽ sẵn mô hình cây và một số

chiếc lá được cắt từ giấy.

* Thời gian: từ 2 đến 3 phút

15

* Luật chơi- Cách chơi: Chơi theo nhóm, mỗi nhóm nhận một bảng phụ và

số lá bằng nhau. Sau hiệu lệnh của giáo viên các thành viên trong nhóm viết các

biện pháp phù hợp với nội dung bài học theo yêu cầu của giáo viên và chuyển

cho bạn thư kí để gắn lá vào cây. Hết thời gian các nhóm đọc các biện pháp từ

những chiếc lá của nhóm mình. Nhóm nào có nhiều biện pháp đúng chủ đề,

đúng ngữ pháp nhiều hơn là nhóm thắng cuộc.

Trò chơi này có ưu điểm rất lớn là có thể thu hút tất cả học sinh trong lớp

cùng chơi. Tạo điều kiện cho tất cả các em đưa ra được những biện pháp mà các

em đã từng vận dụng trong cuộc sống hàng ngày vào để giải quyết nhiệm vụ học

tâp nhưng sự chuẩn bị lại rất đơn giản. Để bớt thời gian chuẩn bị của giáo viên

giáo viên có thể yêu cầu mỗi học sinh tự chuẩn bị lá, hoặc có thể thay lá bằng

những hình đơn giản hơn.

Ví dụ: Khi dạy Bài phòng bệnh sốt xuất huyết giáo viên vận dụng trò

chơi này.

Mục tiêu: Giúp học sinh nêu được những biện pháp phòng tránh sốt xuất

huyết mà bản thân và gia đình em vận dụng thường ngày, hoặc những biện pháp

mà học sinh biết được qua tìm hiểu thông tin.

Chuẩn bị: Một bảng phụ có vẽ thân cây, một số lá phát cho các nhóm.

Thời gian: Đối với nội dung bài này giáo viên quy định trong thời gian 2

phút đội nào đưa ra được nhiều biện pháp và đúng là đội thắng cuộc.

Một số bài giáo viên có thể áp dụng trò chơi này:

Bài số

Tiết

Tên bài

Trang

PPCT

Bài 8

8

Vệ sinh tuổi dậy thì

18

Bài 12

12

Phòng bệnh sốt rét

26

16

Bài 13 13 Phòng bệnh sốt xuất huyết 28

Bài 14 14 Phòng bệnh viêm não 30

Bài 15 15 Phòng bệnh viêm gan A 32

Bài 16 16 Phòng tránh HIV/AIDS 34

Bài 18 18 Phòng tránh bị xâm hại 38

Bài 19 19 Phòng tránh tai nạn giao thông đường bộ 40

Trò chơi “Ghép chữ vào hình”

* Mục tiêu: Củng cố cho học sinh kiến thức trong bài “Sự sinh sản của thực

vật có hoa” về sự thụ phấn, thụ tinh của thực vật có hoa. Rèn cho các em thao

tác nhanh nhẹn, phối hợp nhịp nhàng giữa các thành viên trong đội.

17

* Chuẩn bị: Giáo viên chuẩn bị sơ đồ thụ phấn của hoa lưỡng tính và các

thẻ từ có ghi sẵn chú thích.

Hạt phấn Đầu nhụy Bao phấn Noãn

Bầu nhụy Vòi nhụy Ống phấn

* Luật chơi- Cách chơi: Các nhóm nhận thẻ từ có ghi sẵn chú thích và sơ

đồ thụ phấn của hoa lưỡng tính. HS thi đua gắn các chú thích vào hình cho phù

hợp. Nhóm nào hoàn thành trước là nhóm thắng cuộc.

Biện pháp 2: Sử dụng sơ đồ tư duy để giúp học sinh hình thành, củng

cố kiến thức.

Bản đồ tư duy hay còn gọi là sơ đồ tư duy, lược đồ tư duy .... là hình thức

ghi chép nhằm tìm tòi, đào sâu, mở rộng một ý tưởng, tóm tắt những ý chính của

một nội dung, hệ thống hóa một chủ đề....bằng cách kết hợp việc sử dụng hình

ảnh, đường nét, màu sắc, chữ viết.

Ưu điểm của bản đồ tư duy là giúp học sinh hứng thú trong học tập và kích

thích khả năng sáng tạo của học sinh, phát huy tối đa khả năng ghi nhớ của bộ

não. Rèn luyện cho học sinh cách xác định từ khóa và phát triển ý chính, ý phụ

18

một cách logich. Việc kết hợp giữa vẽ, viết, đọc sẽ học sinh ghi nhớ nhanh hơn

và bền hơn. Ngoài ra sơ đồ tư duy còn giúp học sinh nhìn thấy được bức tranh

tổng thể và giúp học sinh phát triển nhận thức tư duy.

Trong quá trình giảng dạy tôi thường dẫn dắt giới thiệu cho học sinh một số

sơ đồ tư duy đơn giản để các em làm quen, hình thành cho các em biểu tượng về

sơ đồ tư duy. Hướng dẫn học sinh “đọc hiểu” sơ đồ tư duy để giúp các em khi

nhìn vào bất cứ một sơ đồ tư duy cũng có thể thuyết trình nội dung của bài học

hay một nội dung nào đó được trình bày trong sơ đồ.

Thông thường trong các tiết khoa học tôi tổ chức cho các em vẽ sơ đồ tư

duy trên giấy. Có thể theo hình thức nhóm hoặc cá nhân tùy vào nội dung bài

học. Để học sinh vẽ được sơ đồ tư duy giáo viên cần hướng dẫn các em chọn từ

khóa, chủ đề, hướng dẫn các em nghĩ trước khi viết và viết một cách ngắn gọn

thường là viết cụm từ không viết thành câu. Khi viết nên chừa chỗ trống để có

thể bổ sung ý. Trong khi thể hiện các nhánh của sơ đồ tư duy các em biết sử

dụng màu sắc để thể hiện các nhánh cho chính xác.

Việc chuẩn bị đồ dùng để học sinh thiết kế sơ đồ tư duy rất đơn giản, học

sinh chỉ cần giấy hoặc bìa bút màu, tẩy là có thực hiện được một bài học, một

chủ đề.

Ví dụ khi dạy bài Đồng và hợp kim của đồng sau khi khai thác nội dung

bài học tôi đã tổ chức cho học sinh học tập thảo luận theo nhóm và sử dụng sơ

đồ tư duy để trình bày những hiểu biết của mình. Sau khi hoàn thiện được sơ đồ

tư duy trong nhóm các em có nhiệm vụ nhìn vào sơ đồ tư duy để thuyết trình nội

dung bài học. Việc làm này giúp học sinh thêm một lần nữa khắc sâu kiến thức.

Ngoài ra cũng góp phần rèn cho học sinh kĩ năng giao tiếp, kĩ năng trình bày

trước đám đông.

Sau một bài học, một chủ đề... giáo viên khơi gợi, hướng dẫn để học sinh

có thể sử dụng sơ đồ tư duy hệ thống kiến thức bài học, chủ đề một cách cô

19

động, ngắn gọn nhưng đầy đủ. Sơ đồ tư duy cũng như một phương tiện giúp học

sinh ôn tập, xem lại kiến thức một cách nhanh chóng và dễ dàng.

Hình ảnh sơ đồ tư duy học sinh thực hiện

Biện pháp 3: Sử dụng phương pháp thí nghiệm

Phương pháp thí nghiệm là phương pháp học sinh được tác động lên sự

vật hiện tượng cần nghiên cứu. Qua quan sát những hiện tượng, biến đổi sảy ra

trong thí nghiệm học sinh thiết lập được các mối qua hệ, giải thích được các kết

quả thí nghiệm để rút ra kết luận.

Đây là một trong những phương pháp góp phần làm cho học sinh huy

động được tất cả các giác quan vào quá trình nhận thức, gây hứng thú học tập

cho học sinh. Học sinh chủ động trong việc thu nhận kiến thức đồng thời tạo ra

sự hưng phấn, tích cực, sôi nổi của lớp học. Phương pháp thí nghiệm làm sáng

tỏ lí thuyết và khơi gợi tính tò mò khoa học cho học sinh đây là một trong những

yếu tố rất quan trọng góp phần tạo nên sự đam mê khoa học của học sinh.

20

Để tổ chức cho học sinh thực hành thí nghiệm giáo viên cần hướng dẫn

các em thực hiện qua các bước sau:

Bước 1: Xác định mục đích của thí nghiệm

Bước 2: Vạch kế hoạch tiến hành thí nghiệm

Bước 3: Tiến hành thí nghiệm

Bước 4: Phân tích kết quả để rút ra được kết luận

Bước 5: Thông báo kết quả.

Ví dụ khi dạy bài Tơ sợi giáo viên tổ chức cho học sinh thực hành thí

nghiệm để phân biệt được tơ sợi tự nhiên và tơ sợi nhân tạo.

Bước 1: Xác định mục tích của thí nghiệm.

Quan sát thí nghiệm và nêu được đặc điểm của tơ sợi tự nhiên và tơ sợi

nhân tạo.

Bước 2: Vạch kế hoạch thí nghiệm.

Học sinh cần chuẩn bị một số mẫu tơ sợi tự nhiên và nhân tạo, tiến hành

đốt cháy các mẫu tơ sợi đó. Quan sát hiện tượng sảy ra.

Bước 3: Tiến hành thí nghiệm để tìm hiểu.

Học sinh thực hành thí nghiệm theo kế hoạch đã vạch ra.

Bước 4: Phân tích kết quả để rút ra được nhận xét.

Tơ sợi tự nhiên khi cháy tạo thành tro, tơ sợi nhân tạo khi cháy thì vón

cục lại.

Bước 5: Thông báo kết quả

GV tổ chức cho hoc sinh báo cáo trong nhóm, và báo cáo trước lớp các

học sinh khác lắng nghe, nhận xét và bổ sung ý kiến.

c. Mối quan hệ giữa các giải pháp.

21

Tùy vào đặc trưng của bài học, tùy vào tình hình thực tế của lớp học để

giáo viên lựa chọn và thiết kế những hình thức hoạt động khác nhau nhằm phát

triển các năng lực cho học sinh. Vì vậy đòi hỏi mỗi giáo viên trong quá trình

giảng dạy phải sử dụng kết hợp linh hoạt, sáng tạo giữa các phương pháp( cả

phương pháp truyền thống lẫn phương pháp hiện đại). Điều quan trọng giáo viên

phải hiểu được đối tượng học sinh của mình, biết được các em đang nằm ở nấc

thang nào của bậc thang kiến thức, nắm được tâm sinh lí lứa tuổi của các em

…nắm được nội dung kiến thức mà các em cần đạt được (mục tiêu của bài học)

từ đó mới lựa chọn phương pháp, hình thức tổ chức phù hợp. Nói tóm lại trong

quá trình giảng dạy đòi hỏi giáo viên phải có sự linh hoạt, linh động trong từng

bài học, đối với từng đối tượng học sinh đúng như câu nói của dân gian “

Người thầy cũng là một người nghệ sĩ” họ phải có tài biến hóa, xử lí linh hoạt

các nội dung kiến thức, các tình huống sư phạm. Họ luôn là người dẫn dắt, gợi

mở để học khám phá kiến thức xung quanh, khám phá chính năng lực của mỗi

học sinh. Nếu làm được điều đó mới chính là thành công của người giáo viên.

d. Kết quả khảo nghiệm, giá trị khoa học của vấn đề nghiên cứu.

Thông qua hình thức trò chơi học tập tạo không khí lớp học sôi nổi, học

sinh có nhiều cơ hội giao lưu, hợp tác với nhau. Các em có cơ hội chia sẻ vốn

kiến thức của mình với các bạn trong nhóm giúp, tăng cường kĩ năng giao tiếp

cho học sinh, kĩ năng trình bày trước đám đông.

Thực hành thí nghiệm giúp học sinh được trải nghiệm thực tế, tự đúc rút

ra được kiến thức sau quá trình thực hành, đây là một trong những phương pháp

đặc thù của bộ môn khoa học. Cũng như sơ đồ tư duy nó giúp học sinh tư duy

một cách khoa học và logich.

Sau một thời gian áp những những biện pháp trên học sinh lớp tôi đã tích

cực, hào hứng hơn trong các tiết khoa học. Các em dần có niềm đam mê với

khoa học, các em có thể trình bày kiến thức nội dung bài học bằng vốn từ và vốn

hiểu biết của mình không trả lời một cách máy móc hay học thuộc lòng nội

22

dung. Ý thức tự giác trong học tập của học sinh cũng được nâng lên rõ rệt, các

em có ý thức tự tìm tòi, khám phá kiến thức, biết tìm kiếm các nguồn thông tin

để giải quyết các nhiệm vụ học tập

KẾT QUẢ ĐẠT ĐƯỢC

Thời gian Tổng số Học sinh hứng thú Học sinh ít hứng thú

khảo sát trong học tập trong học tập

Cuối năm 32 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ

26 81,25 6 18,75

BẢNG THỐNG KÊ CHẤT LƯỢNG MÔN KHOA HỌC

CUỐI NĂM HỌC 2019 - 2020

5A

ữ N

ố s g n ổ T

c ộ t n â d

c ộ t n â D

p é h g p ớ L

t ậ t t ế y u h K

ữ N

Trong tổng số

I. Kết quả học tập

32 17 0 0 0 0 Khoa học

Hoàn thành tốt 26 15 0 0 0 0

Hoàn thành Chưa hoàn thành

6

2

0

0

0

0

23

III. Phần kết luận, kiến nghị.

1. Kết luận.

Mỗi giáo viên là một người nghệ sĩ để có được những phút giây thăng hoa

trong quá trình giảng dạy và học tập của học sinh thì mỗi giáo viên cần không

ngừng học hỏi, không ngừng đổi mới và lựa chọn vận dụng những hình thức

hoạt động phù hợp với đối tượng học sinh của mình. Biết khơi dậy niềm đam

mê, trí tưởng tượng và óc sáng tạo của học sinh.

Để vận dụng bất kì một phương pháp có hiêu quả giáo viên cũng cần thời

gian đầu tư nắm vững mục tiêu bài học, trình độ nhận thức của học sinh, thời

gian chuẩn bị những đồ dùng, dụng cụ cho việc dạy và học. Nói tóm lại giáo

viên phải có niềm đam mê, nhiệt huyết với nghề, có tình thần học hỏi nâng cao

trình có như vậy mới đáp ứng được nhu cầu đổi mới của nên giáo dục.

2. Kiến nghị

Đối với phòng giáo dục.

- Áp dụng những sáng kiến hay, có hiệu quả về việc nâng cao chất lượng

giáo dục vào thực tiễn, xây dựng thành những điển hình để mọi người học tập.

Đối với ban giám hiệu:

- Đảm bảo sĩ số lớp học và cơ sở vật chất đầy đủ phục vụ cho việc đổi

mới phương pháp giảng dạy của giáo viên.

Đối với giáo viên:

- Tích cực trong việc học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.

- Đổi mới trong cách đánh giá học sinh, tạo động lực để các em vươn lên

trong học tập.

- Tạo không khí lớp học thân thiện, cởi mở để học sinh có niềm vui khi đến

lớp, lồng ghép nhiều hình thức hoạt động đáp ứng nhu cầu “Học mà chơi – chơi

mà học” của lứa tuổi học sinh tiểu học.

24

-Trên đây là những biện pháp bản thân đã vận dụng trong quá trình giảng

dạy học sinh của mình, sau một thời gian các em có được những kết quả tương

đối khả quan đối với lớp 5. Tuy nhiên đây cũng là một kinh nghiệm nhỏ của bản

thân tôi đã rút ra trong quá trình dạy học. Bởi vậy chắc chắn không thể không

tránh khỏi những thiếu sót trong quá trình thực hiện song tôi cũng mạnh dạn

trình bày. Rất mong nhận được sự góp ý, bổ sung của hội đồng khoa học cũng

như các quý vị đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Xác nhận của BGH Quảng Phú,ngày 6 tháng 3 năm 2021

Người viết