
I. Phần mở đầu.
1. Lí do chọn đề tài.
Trên cơ sở kế thừa và phát triển môn Tự nhiên và Xã hội ( ở các lớp 1, 2,
3), môn Khoa học ( ở lớp 4, 5) được xây dựng trên nền tảng cơ bản, ban đầu của
khoa học tự nhiên và các lĩnh vực nghiên cứu về giáo dục sức khỏe, giáo dục
môi trường. Khoa học là môn học giúp học sinh khơi dậy trí tò mò, tạo cơ hội để
học sinh tìm hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, tri thức khoa học. Cũng là môn
học quan trọng trong việc giúp học sinh học tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp
trung học sơ sở và các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học ở cấp trung học phổ thông.
Môn khoa học là môn học cung cấp cho học sinh những kiến thức ban đầu
và thiết thực như là: Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự sinh sản, sự lớn
lên của cơ thể người. Cách phòng tránh một số bệnh thông thường, đặc điểm và
công dụng của một số chất, một số vật liệu và nguồn năng lượng thường gặp
trong đời sống và sản xuất.
Là môn học giúp học sinh hình thành các kĩ năng như: Kĩ năng ứng xử
thích hợp trong một số tình huống có liên quan đến vấn đề sức khỏe của bản
thân, gia đình và cộng đồng. Kĩ năng quan sát và làm một số thí nghiệm thực
hành khoa học đơn giản, gần gũi với đời sống và sản xuất. Biết nêu thắc mắc,
đặt câu hỏi trong quá trình học tập; biết tìm thông tin để giải đáp; biết diễn đạt
những hiểu biết bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ....
Thông qua những kiến thức và kĩ năng đó giúp học sinh hình thành ý thức
tự giác thực hiện các quy tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đình và cộng
đồng. Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học vào
đời sống. Giúp học sinh hình thành tÌnh yêu con người, thiên nhiên, đất nước,
yêu cái đẹp. Có ý thức và hành động bảo vệ môi trường xung quanh.
Trong thực tế môn khoa học không chỉ cung cấp cho học sinh những kiến
thức cơ bản về con người, tự nhiên, rèn luyện kĩ năng và thái độ học tập đúng
đắn mà còn góp phần phát triển những kĩ năng và phẩm chất của các nhà khoa

2
học tương lai. Bên cạnh đó, môn Khoa học còn giúp học sinh làm quen với cách
tư duy chặt chẽ mang tính khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực
cần thiết để thích ứng với thực tế cuộc sống. Chính vì vậy môn Khoa học là môn
học có vai trò quan trọng và có mối liên hệ chặt chẽ với các môn học khác trong
nhà trường. Và để thực hiện được mục tiêu đã đề ra đòi hỏi mỗi giáo viên phải
biết vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương pháp giáo dục. Quan trọng hơn
nữa là giáo viên cần lựa chọn vận dụng những phương và giáo dục phát triển
năng lực phẩm chất của học sinh tiểu học.
Trong quá trình giảng dạy môn Khoa học lớp 5, bản thân đã vận dụng một
cách linh hoạt và sáng tạo nhiều phương pháp, đặc biệt chú ý đến nhưng phương
pháp giáo dục và phát triển năng lực cho học sinh. Sau nhiều năm vận dụng tôi
nhận thấy học sinh hứng thú, tích cực, chủ động hơn trong việc tìm tòi và chiếm
lĩnh tri thức. Trong phạm vi sáng kiến này tôi xin chia sẻ kinh nghiệm vận dụng
“Một số biện pháp nâng cao chất lượng môn khoa học lớp 5”.
2. Mục tiêu, nhiệm vụ của đề tài.
Giúp giáo viên thấy rõ được vai trò, tầm quan trọng của môn Khoa học
trong chương trình Tiểu học. Lựa chọn và áp dụng một số biện pháp, kĩ thuật
dạy học nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy môn khoa học. Tạo sự tích cực chủ
động khám phá tri thức khoa học của học sinh.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn đối tượng học sinh giảng dạy lựa
chọn một số biện pháp, kĩ thuật dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ động
khám phá tri thức cũng như nâng cao chất lượng của môn Khoa học nói riêng và
nâng cao chất lượng giáo dục nói chung.
Nhiệm vụ của đề tài là lựa chọn, đề xuất một số giải pháp, biện pháp giảng
dạy phù hợp trong giảng dạy môn khoa học và phù hợp với đối tượng học sinh
lớp 5. Nhằm giúp khơi gợi trí tò mò, đam mê tìm hiểu khoa học của học sinh. Tổ
chức thực nghiệm sư phạm để kiểm nghiệm hiệu quả của giải pháp mang lại.
3. Đối tượng nghiên cứu.

3
Một số giải pháp, biện pháp, trò chơi học tập... sử dụng trong quá trình
giảng dạy môn Khoa học nhằm nâng cao chất lượng giáo dục môn Khoa học nói
riêng và chất lượng giáo dục nói chung.
Sự hứng thú, chủ động trong học tập và ý thức tự giác của học sinh thay đổi
như thế nào sau khi áp dụng những giải pháp, biện pháp, trò chơi ...đã lựa chọn
và thiết kế.
Khảo sát đối tượng học sinh lớp 5A trường Tiểu học Lê Lợi –thị trấn
Quảng Phú – huyện CưMgar- tỉnh Đăk Lăk năm học 2019 – 2020.
4. Giới hạn của đề tài
Tập trung nghiên cứu một số biện pháp, giải pháp... nhằm giúp học sinh
tích cực, chủ động, ham thích khám phá khoa học. Tạo tiền đề đề học sinh học
tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung học cơ sở và các môn Vật lí, Hóa học,
Sinh học ở cấp trung học phổ thông.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp đàm thoại
Phương pháp quan sát
Phương pháp phân tích
Phương pháp tổng hợp
Phương pháp thực nghiệm

4
II. Phần nội dung.
1. Cơ sở lí luận.
Trong những năm gần đây, Đảng và Nhà nước đã và đang đổi mới một
cách mạnh mẽ nhằm nâng cao chất lượng giáo dục. Trong đó có cả việc đổi mới
nội dung và phương pháp giảng dạy. Chuyển dần từ việc học sinh là người lĩnh
hội kiến thức sang học sinh là người tìm tòi, khám phá ra tri thức của bài học.
Để phát huy tính sáng tạo của mỗi học sinh thì người giáo viên cần khéo lựa
chọn các hình thức dạy học tạo điều kiện để học sinh có cơ hội được trải
nghiệm, được tìm tòi, khám phá thế giới tự nhiên. Học sinh được trình bày
những hiểu biết riêng của mình về vấn đề trong bài học. Tạo cơ hội cho các em
liên hệ, vận dụng phối hợp kiến thức, kỹ năng từ các lĩnh vực khác nhau trong
môn học cũng như với các môn học khác vào giải quyết những vấn đề thực tế
trong cuộc sống. Một điều quan trọng và hiệu quả hơn nữa là giáo viên biết cách
khơi gợi, tạo cho học sinh niềm yêu thích đối với môn học. Có yêu thích môn
học thì các em mới chủ động tìm tòi khám phá, vận dụng những kiến thức đã
học vào cuộc sống thường ngày.
Lứa tuổi học sinh tiểu học các em thường thích điều mới lạ, các em chưa
duy trì được sự chú ý trong mội thời gian dài. Vì vậy giáo viên cần sự dụng
nhiều phương pháp trong một bài học để thu hút sự tập trung chú ý của các em.
Các em có thể ghi nhớ một cách nhanh chóng nhưng lại nhanh quên. Việc tạo cơ
hội cho học sinh được thực hành, trải nghiệm sẽ giúp các em tự rút ra được kiến
thức có như vậy kiến thức thu được mới bền.
Một nội dung bài học giáo viên có thể sử dụng nhiều phương pháp khác
nhau để đạt được mục tiêu nhưng có những phương pháp chỉ giúp học sinh ghi
nhớ kiến thức một cách tạm thời, không sâu còn có những phương pháp sẽ giúp
học sinh khám phá kiến thức một cách tự nhiên và bền vững.
Vận dụng các phương pháp giáo dục một cách linh hoạt, sáng tạo, phù hợp
với nội dung, mục tiêu giáo dục, đối tượng học sinh và điều kiện cụ thể, quan

5
tâm đến hứng thú học tập của học sinh đó là vấn đề mỗi giáo viên cần chú ý
trong quá trình giảng dạy.
Mỗi môn học đều có những phương pháp dạy học đặc thù, những phương
pháp này sẽ phát huy tối đa tính tích cực tự giác của học sinh. Nhiệm vụ của
giáo viên là cần biết lựa chọn các phương pháp phù hợp với từng nội dung bài
học, với từng đối tượng học sinh để khơi gợi, phát huy khả năng của từng học
sinh.
2. Thực trạng vấn đề nghiên cứu.
Như chúng ta đã biết môn khoa học ở tiểu học là môn học đóng vai trò
quan trọng trong việc giúp học sinh học tập môn Khoa học tự nhiên ở cấp trung
học cơ sở và các môn Vật lí, Hóa học, Sinh học ở cấp trung học phổ thông. Môn
học chú trọng khơi dậy trí tò mò khoa học, bước đầu tạo cho học sinh cơ hội tìm
hiểu, khám phá thế giới tự nhiên, tri thức khoa học....Tuy nhiên thực trạng hiện
nay trong quá trình giảng dạy môn học này chưa thật sự được chú trọng.
Về phía giáo viên: Trong một lớp học trình độ học sinh không đồng đều
dẫn đến việc giảng dạy môn Toán và các phân môn của môn Tiếng Việt nhiều
học sinh chưa thể nắm bắt kịp kiến thức nên giáo viên thường kéo dài thời gian
của những tiết học này dẫn đến việc giảng dạy các môn như còn lại thường bị rút
ngắn chưa đảm bảo đúng thời gian quy định. Vì thời gian bị rút ngắn nên việc
giảng dạy đúng đúng quy trình chưa đảm bảo, giáo viên cũng chưa thật sự đầu
tư nhiều thời gian vào việc nghiên cứu đổi mới các phương pháp cũng như làm
đồ dùng học tập giảng dạy trong môn Khoa học nhằm kích thích trí tò mò khám
phá của học sinh.
Về phía phụ huynh và học sinh: Cả phụ huynh và học sinh vẫn có tư tưởng
xem môn học này là môn học “ phụ ”, hoặc chỉ cần học thuộc lòng bài học, nội
dung cần ghi nhớ trong mỗi bài là học sinh có thể làm bài thi học kì. Đối nhiều
phụ huynh vẫn có suy nghĩ môn Khoa học chỉ là môn học nhận xét bằng định
tính như môn Tự nhiên Xã hội ở các lớp 1, 2, 3.