1

ỦY BAN NHÂN DÂN THÀNH PHỐ HÀ NỘI TRƯỜNG TIỂU HỌC NGŨ HIỆP ----------  ----------

SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM

MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LỚP 4 PHÁT HUY TÍNH TÍCH CỰC, SÁNG TẠO TRONG MÔN KHOA HỌC

Lĩnh vực/ môn: Khoa học

Cấp học: Tiểu học

Tên tác giả: Lưu Hải Linh

Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Ngũ Hiệp

Chức vụ: Giáo viên

2

Năm học 2022-2023

PHẦN A: MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Theo các xu thế mới trong giáo dục, một chương trình dạy học tiến tiến đòi hỏi người học không chỉ có kiến thức và kĩ năng mà còn có thái độ và hứng thú với việc học. Hội nhập với sự phát triển giáo dục toàn cầu, giáo dục ở nước ta đang hướng đến đổi mới mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học.

Đổi mới dạy học nói chung và đổi mới dạy học Khoa học nói riêng là một quá trình được thực hiện thường xuyên và kiên trì, trong đó có nhiều yếu tố quan hệ chặt chẽ với nhau. Dạy như thế nào? Học như thế nào? để đạt được hiệu quả học tập tốt nhất là điều mong muốn của tất cả thầy cô giáo.

Phân môn Khoa học là một bộ môn khoa học xã hội rất quan trọng trong nhà trường. Việc dạy môn Khoa học không chỉ nhằm tích luỹ kiến thức đơn thuần mà còn nhằm dạy cho học sinh tập làm quen với cách tư duy chặt chẽ mang tính khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế cuộc sống và tiếp tục học tập sau này. Để đạt được mục tiêu đó, mỗi bài dạy ở trên lớpngoài việc cung cấp đầy đủ những kiến thức cơ bản cần phải sử dụng một cách hợp lý, khéo léo các phương tiện và đồ dùng dạy học mới thấy được mối quan hệ giữa các sự vật hiện tượng trong tự nhiên.

Ở Tiểu học, giúp các em có những hiểu biết về thế giới xung quanh, những hiện tượng khoa học, những vấn đề về thiên nhiên là mục tiêu quan trọng. Môn Khoa học cung cấp cho các em những kiến thức đó. Đó là môn học tích hợp những kiến thức của khoa học tự nhiên và khoa học xã hội, đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành phẩm chất, năng lực đạo đức của con người. Việc dạy môn Khoa học không chỉ nhằm tích luỹ kiến thức đơn thuần mà còn nhằm dạy cho học sinh tập làm quen với cách tư duy chặt chẽ mang tính khoa học, hình thành cho học sinh những năng lực cần thiết để thích ứng với thực tế cuộc sống và tiếp tục học tập sau này.

Chính vì vậy, Khoa học là môn học quan trọng trong nhà trường. Bên cạnh đó, quá trình hội nhập của Việt Nam, các nước trong khu vực và trên thế giới đòi hỏi nền giáo dục nước nhà phải có những đổi mới trong mục tiêu và nội dung dạy học. Sự đổi mới này đòi hỏi phải có những đổi mới về phương pháp

3

dạy học. Theo định hướng đó, phương pháp giáo dục phổ thông phải phát huy tích tực, chủ động, sáng tạo của học sinh, phù hợp đặc điểm của từng lớp học, môn học. Không những thế, học sinh chỉ học tập đạt kết quả tốt khi yêu thích môn học đồng thời các em cũng tìm được cảm hứng từ môn học đó. Việc đổi mới phương pháp dạy học, đổi mới hình thức tổ chức hoạt động là một việc làm không phải dễ và cũng không phải ngày một ngày hai mà làm được. Nó đòi hỏi một sự đầu tư lâu dài, một quá trình rèn luyện không ngừng của người giáo viên.

Mỗi một sự cố gắng dù rất nhỏ trong nhận thức của giáo viên về đổi mới phương pháp, hình thức dạy học đều là động lực tạo hứng thú học tập cho các em học sinh, góp phần nâng cao chất lượng dạy và học. Học sinh được phát triển các năng lực như năng lực tư duy, năng lực giải quyết vấn đề và sáng tạo, năng lực tự chủ và tự học, năng lực phát triển bản thân, năng lực điều chỉnh hành vi đạo đức. Nhiều hoạt động của học sinh (nhiệm vụ học tập) gắn với gia đình, bạn bè, người thân, góp phần tạo sự gắn kết giữa học sinh và cộng đồng, bồi dưỡng những phẩm chất quan trọng cho việc phát triển nhân cách cho học sinh như: đoàn kết, nhân ái, chăm chỉ, trung thực và trách nhiệm. Học sinh thể hiện được tình yêu thương, gắn bó với gia đình, cộng đồng. Đảm bảo tính tích hợp, tạo cơ hội cho học sinh tiếp cận thực tế và huy động tổng hợp kiến thức, kĩ năng của các môn học để thực hiện những nhiệm vụ được giao. Ngoài ra môn học còn tạo điều kiện giáo viên, phụ huynh giúp học sinh thực hiện các nội dung rèn luyện ở nhà, hiểu về những đặc điểm ở địa phương học sinh.

Vì những lí do trên, để góp phần đổi mới mục tiêu dạy học theo định hướng phát triển phẩm chất và năng lực người học, tôi chọn trình bày một số kinh nghiệm về việc “ Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 phát huy tính tích cực, sáng tạo trong môn Khoa học”.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích nghiên cứu của sáng kiến nhằm:

Tìm hiểu các nguyên nhân vì sao học sinh chưa hứng thú, chưa tích cực

học môn Khoa học.

Tìm ra các giải pháp nhằm giúp học sinh có hứng thú để các em tích cực hơn trong quá trình học tập môn học nói trên, từ đó góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của phương châm giáo dục toàn diện cho học sinh.

Vận dụng kiến thức để giải quyết vấn đề Thể chất, sống thích ứng và hòa

hợp với tự nhiên.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu:

Nghiên cứu nội dung dạy học môn Khoa học lớp 4 qua sách giáo khoa, tài

liệu bồi dưỡng giáo viên và tài liệu tham khảo.

Điều tra thực trạng dạy và học môn Khoa học lớp 4 nói chung và ở một

lớp riêng trong khối 4.

4

Phân tích, đánh giá làm rõ nguyên nhân của một số khó khăn tồn tại trong

quá trình dạy học môn Khoa học lớp 4.

Đề xuất một số biện pháp, phương pháp lên lớp và cách tổ chức các hoạt

động dạy học môn Khoa học lớp 4.

4. Phạm vi và đối tượng thực hiện

Đối tượng nghiên cứu: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 phát huy tính

tích cực, sáng tạo để đạt kết quả cao môn khoa học

Phạm vi nghiên cứu: học sinh lớp 4A năm học 2022-2023 trường tiểu học

Ngũ Hiệp

5. Phương pháp nghiên cứu

Điều tra thực trạng (phỏng vấn giáo viên, học sinh, dự giờ giáo viên).

Phương pháp thực nghiệm (soạn giáo án dạy một lớp, rút ra kết luận).

Phương pháp nghiên cứu lý luận, đọc sách, báo chí và các tài liệu tham

khảo.

5

PHẦN B: NỘI DUNG

1. Cở sở lí luận và cơ sở thực tiễn

1.1. Cơ sở lý luận

Học sinh tiểu học là lứa tuổi học tập theo hứng thú và chủ yếu là cảm tính. Đồng thời lứa tuổi này còn mang các đặc điểm tâm lý hồn nhiên, ngộ nghĩnh, hiếu động. Các em thích vui chơi, thích các trò chơi vui nhộn: “vừa chơi, vừa học”. Mặt khác đối với học sinh tiểu học, việc ghi nhớ thì rất nhanh nhưng để nhớ một nội dung hoặc một vấn đề nào đó thì lại rất khó cho nên các nhà khoa học đã nhận định rằng lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi “Chóng nhớ, mau quen”. Muốn học sinh nhớ được vấn đề nào đó thì ngoài việc thường xuyên củng cố, ôn tập về nội dung thì việc tạo cho các em cảm giác hứng thú và say mê với nội dung cần ghi nhớ sẽ giúp các em dễ tiếp thu, dễ nhớ và nhớ lâu hơn. Đồng thời lứa tuổi học sinh tiểu học là lứa tuổi mang đặc điểm nhận thức, tư duy trực quan và cụ thể. Các em rất hứng thú khi khai thác, tìm hiểu vấn đề mang tính cụ thể và ưa thích các vấn đề trực quan mang tính bắt mắt mà có thể quan sát một cách dễ dàng.

Ở trường tiểu học, đối với học sinh lớp 4, môn khoa học không chỉ đơn thuần cung cấp cho học sinh một khối lượng tri thức cần thiết, mà còn giúp cho học sinh làm quen với cách tư duy khoa học, rèn kỹ năng liên hệ kiến thức với thực tế và ngược lại, giúp các em có được những phẩm chất và năng lực cần thiết thích ứng với cuộc sống, hình thành thái độ khám phá, tìm tòi thực tế…qua đó hình thành nhân cách cho học sinh.

Mục tiêu chương trình môn khoa học lớp 4 giúp học sinh: - Có một số kiến thức cơ bản, ban đầu và thiết thực về: + Sự trao đổi chất, nhu cầu dinh dưỡng và sự lớn lên của cơ thể người.

Cách phòng tránh một số bệnh thông thường và bệnh truyền nhiễm. + Sự trao đổi chất, sự sinh sản của thực vật, động vật. + Đặc điểm và ứng dụng của một số chất, một số vật liệu năng lượng

thường gặp trong đời sống.

- Bước đầu hình thành và phát triển những kĩ năng: + Ứng xử thích hợp trong các tình huống có liên quan đến vấn đề sức

khỏe.

+ Quan sát và làm một số thí nghiệm thực hành đơn giản. - Hình thành và phát triển những thái độ và hành vi: + Tự giác thực hiện các qui tắc vệ sinh, an toàn cho bản thân, gia đinh,

cộng đồng.

+ Ham hiểu biết khoa học, có ý thức vận dụng những kiến thức đã học

vào đời sống.

+ Yêu con người, yêu thiên nhiên, yêu đất nước. Nội dung chương trình: Có 3 chủ đề + Chủ đề 1: Con người và sức khỏe (17 bài mới và 2 bài ôn) Bao gồm các mạch nội dung: Trao đổi chất ở người, dinh dưỡng, phòng

bệnh, an toàn trong cuộc sống.

6

+ Chủ đề 2: Vật chất và năng lượng ( 33 bài mới và 4 bài ôn tập) Với các mạch nội dung: Nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, nhiệt. + Chủ đề 3: Thực vật và động vật: (10 bài mới và 4 bài ôn tập) Với các mạch nội dung trao đổi chất ở thực vật, động vật, chuỗi thức ăn

trong tự nhiên.

Phương pháp dạy học tích cực hướng tới việc hoạt động hóa, tích cực hóa hoạt động nhận thức của người học, nghĩa là tập trung vào phát huy tính tích cực của người học chứ không phải là tập trung vào phát huy tính tích cực của người dạy, tuy nhiên để dạy học theo phương pháp tích cực thì giáo viên phải nỗ lực nhiều so với dạy theo phương pháp thụ động.

Môn Khoa học được tích hợp nhiều kiến thức, nhiều nội dung trong một môn học. Do đó các nội dung kiến thức của môn học này mang tính trừu tượng, yêu cầu học sinh phải ghi nhớ. Mặt khác, lớp 4 cũng là lớp học bắt đầu của việc tách môn học “Tự nhiên-xã hội” thành các môn Khoa học, Lịch sử, Địa lý và cũng là lớp tạo nền tảng cho việc học tập và tìm hiểu kiến thức các môn học này ở lớp 5 và các lớp trên.

Vì vậy, việc phát huy tính tích cực và sáng tạo cho học sinh học môn

Khoa học ở lớp 4 là hết sức cần thiết.

1.2. Cơ sở thực tiễn

* Về thuận lợi:

- Được sự quan tâm chỉ đạo sâu sát, thường xuyên của lãnh đạo Phòng, của nhà trường và chính quyền địa phương cùng sự kết hợp chặt chẽ của các ban ngành đoàn thể trong nhà trường.

- Lực lượng giáo viên đa số đều nhiệt tình, tự giác trong khi tham gia các

hoạt động giáo dục.

- Các em nhận được sự quan tâm hết mực của cha mẹ, được trang bị

tương đối đầy đủ về đồ dùng học tập.

- Giáo viên chủ nhiệm đã có nhiều năm làm công tác chủ nhiệm, luôn

quan tâm đến việc rèn nề nếp học tập cho học sinh.

- Ban giám hiệu luôn quan tâm, chỉ đạo sát sao việc rèn nề nếp học tập và

năng lực tự chủ, tự học cho học sinh.

* Về khó khăn:

Qua một số tiết dạy những ngày đầu năm học, tôi nhận thấy một tồn tại trong việc học môn Khoa học của học sinh lớp 4A là các em ngại học, không hào hứng. Chính vì ngại, không hứng thú nên tính tích cực học tập của các em còn rất yếu, thể hiện qua một số dấu hiệu sau:

+ Học sinh ít giơ tay phát biểu ý kiến của mình về các vấn đề giáo viên nêu ra (chỉ có khoảng 10% số học sinh cả lớp tham gia phát biểu ý kiến xây dựng bài trong mỗi tiết học).

+ Nếu được hỏi, học sinh chủ yếu lệ thuộc vào sách giáo khoa, ít tư duy.

7

+ Không thắc mắc hay đòi hỏi giáo viên phải giải thích cặn kẽ những vấn

đề mà mình chưa hiểu rõ.

+ Không khí của lớp rất buồn tẻ, trầm lắng hoặc ít sôi nổi khi học sinh

không thực hiện được yêu cầu của giáo viên.

+ Học sinh không có thói quen sưu tầm tư liệu phục vụ bài học; nếu có thì

số lượng tranh rất ít, chất lượng sưu tầm chưa đúng yêu cầu bài học.

+ Việc bố trí thời gian học tập và sinh hoạt chưa phù hợp; kết quả về học tập

cũng không đồng đều.

+ Một số phụ huynh vẫn cho đây chỉ là nội dung thứ yếu, bổ trợ nên xem

nhẹ hoặc chỉ tham gia cho đủ điều kiện để các em học sinh được lên lớp.

Vì vậy, đến giữa học kì I, kết quả môn học Khoa học lớp 4A năm học 2022-

2023 như sau:

Khoa học

STT

Lớp

Sĩ số

Mức độ

SL

TL

1

22

55

T

2

4A

40

18

45

H

3

0

0

C

Bảng kết quả môn học Khoa học lớp 4A giữa học kì I năm học 2022-2023

T: Tốt; H: Hoàn thành; C: Cần cố gắng

2. Các biện pháp giúp học sinh lớp 4 phát huy tính tích cực, sáng tạo

trong môn Khoa học

2.1. Biện pháp 1: Khuyến khích học sinh sưu tầm tư liệu và đồ dùng

học tập phục vụ bài học.

Sách giáo khoa hiện nay đóng vai trò quan trọng trong phần cung cấp kiến thức cho học sinh. Tuy nhiên, ở một số bài học, tư liệu siêu tầm lại đóng vai trò quan trọng và cần thiết trong việc giúp HS chủ động, phát triển, chiếm lĩnh bài học, chứ không phải tiếp nhận kiến thức một cách thụ động. Một tiết học đạt hiểu quả tùy thuộc vào sự chuẩn bị của giáo viên và học sinh trước buổi học. Vì vậy, giáo viên cần khuyến khích học sinh chuẩn bị bài cho ngày hôm sau từ việc xem trước bài cho đến việc chuẩn bị các đồ dùng cần thiết cho bài học sẽ giúp các em có ý thức hơn trong việc học tập của mình. Các này phù hợp với quá trình nhận thức của học sinh, giúp các em hứng thú học tập đồng thời bước đầu hình thành phương pháp nghiên cứu khoa học, chuẩn bị cho các em tiếp tục học các lớp trên.

* Ví dụ bài 7: Tại sao cần ăn phối hợp nhiều loại thức ăn?

Học sinh sưu tầm các đồ chơi bằng nhựa như gà, cá, tôm, cua… => Mục đích: giúp các em phân loại nhóm thức ăn cần ăn đủ, căn có mức độ, ăn ít và ăn hạn

8

chế; đồng thời là dụng cụ để tham gia trò chơi học tập. * Ví dụ bài 54: Nhiệt cần cho sự sống.

Học sinh sưu tầm ảnh về các loài động vật, thực vật. Học sinh làm việc

+ Động vật, thực vật sống ở xứ lạnh, băng tuyết quanh năm. + Động vật, thực vật sống ở vùng ôn đới. + Động vật, thực vật sống ở vùng nhiệt đới. + Động vật, thực vật sống ở vùng sa mạc.

+ Giáo viên thường xuyên bổ sung tư liệu, kiến thức ngoài sách giáo khoa

- Phân loại các loại cây đã sưu tầm theo 4 nhóm sau đây; + Cây chịu được khô hạn + Cây sống trên cạn ưa ẩm ướt + Cây sống dưới nước + Cây vừa sống trên cạn vừa sống dưới nước - Nhận xét về nhu cầu nước của mỗi loài cây Sau khi tìm hiểu và phân loại từ những tranh, ảnh, cây đã sưu tầm, học

theo nhóm với yêu cầu sau: - Phân loại tranh ảnh sưu tầm theo sự phân bố của chúng trên trái đất như sau: - Nhận xét các vùng khí hậu (có nhiều loài vật, cây sinh sống hoặc ít loài sinh sống). Trên cơ sở tranh ảnh sưu tầm, học sinh tự rút ra kết luận về vai trò của nhiệt đối với đời sống sinh vật. Để việc sưu tầm tư liệu mang lại hiệu quả cao, tôi áp dụng một số các làm như sau: + Hướng dẫn học sinh phân loại tranh theo yêu cầu của bài học. + Sử dụng tư liệu sưu tầm của học sinh các khoá trước. + Đánh giá, động viên việc sưu tầm tư liệu của học sinh. trong các tiết học. * Ví dụ bài 58: Nhu cầu nước của thực vật Học sinh sưu tầm tranh, ảnh, một số cây thật. Học sinh sẽ làm việc theo nhóm với các yêu cầu: sinh tự rút ra được kết luận về nhu cầu nước của mỗi loài cây (Mỗi loài cây có nhu cầu về nước khác nhau).

2.2. Biện pháp 2: Áp dụng CNTT vào trong dạy học phát huy tính

tích cực, sáng tạo cho HS

Áp dụng CNTT để đổi mới phương pháp dạy học trong môn Khoa học không phải thay đổi mục tiêu, mà thay đổi cách thức đạt đến mục tiêu - tức là thay đổi cách

9

dạy, cách học để đạt đến mục tiêu nhanh nhất, hiệu quả nhất, trên cơ sở quan điểm hợp tác giữa giáo viên và học sinh, hướng về học sinh (lấy học sinh làm trung tâm). Giáo viên là người tổ chức quá trình nhận thức, hướng dẫn tự học, hướng dẫn học viên tìm tòi, khám phá, làm “trọng tài” cho học sinh, dẫn dắt học viên tìm đến tri thức đúng đắn.

Khi áp dụng CNTT vào trong dạy học, qua kinh nghiệm và quá trình dạy học, tôi lựa chọn ra hai cách chính để giúp học sinh phát huy tính tích cực, sáng tạo và chủ động như sau:

2.2.1. Tổ chức trò chơi học tập tạo sự hứng thú cho HS Phương pháp dạy học sử dụng trò chơi là một phương pháp tạo nhiều hứng thú cho người học nhưng đòi hỏi tính sáng tạo cao của người dạy để có thể vận dụng tối ưu phương pháp sử dụng trò chơi trong dạy học. Trò chơi là hoạt động rất quen thuộc, gần gũi và thích thú đối với học sinh nhất là học sinh tiểu học. Trò chơi chứa đựng chủ đề, nội dung nhất định mà người tham gia phải tuân thủ. Trò chơi vừa mang tính chất vui chơi, giải trí, đồng thời cũng có ý nghĩa giáo dưỡng, giáo dục cho học sinh. Theo A.X. Macarenco: “Trò chơi có một ý nghĩa quan trọng trong đời sống trẻ. Trong khi trẻ chơi như thế nào thì sau này khi lớn lên, trong công tác trẻ phần lớn sẽ như thế ấy”.

Tổ chức trò chơi được nhiều giáo viên sử dụng như là một phương pháp dạy học tích cực để vận dụng vào hoạt động dạy học, giúp học sinh lĩnh hội kiến thức nhẹ nhàng nhưng lại vui vẻ, thoải mái, làm cho chất lượng dạy học được nâng cao. Đồng thời, thông qua hoạt động trò chơi có thể phát triển ở học sinh các năng lực hợp tác, giải quyết vấn đề, vận dụng kiến thức, sử dụng công nghệ thông tin và sáng tạo…

Quy trình thiết kế trò chơi trong dạy học gồm các bước sau:

Bước 1: Chuẩn bị trò chơi

- Nghiên cứu tài liệu: Chương trình, sách giáo khoa, chuẩn KTKN (tài liệu HD

học tập)… Hệ thống sách tham khảo: sách báo, tạp chí giáo dục…

- Nghiên cứu thực tế lớp học: xem có học sinh khuyết tật không, nhu cầu, sở thích, hoàn cảnh …Tìm hiểu xem học sinh lớp yếu ở mạch kiến thức nào, để lựa chọn trò chơi cho phù hợp, giúp các em củng cố kiến thức để hiểu bài một cách chắc chắn.

Bước 2: Lựa chọn trò chơi:

- Dựa vào mục đích dạy học để lựa chọn trò chơi phù hợp, các trò chơi phải đặt ra cho học sinh các nhiệm vụ học tập tương ứng với nội dung dạy học. Mỗi trò chơi có một vị trí đóng góp cụ thể trong tiến trình thực hiện mục đích dạy học.

+ Đưa trò chơi vào phần khởi động để tạo không khí học tập vui tươi cho cả tiết

học, kích thích sự hứng thú học tập của học sinh.

10

+ Đưa trò chơi vào phần củng cố để kích thích được sự hứng thú học tập của học sinh, giải tỏa không khí căng thẳng sau giờ học kiến thức mới, trở thành “Chơi mà học, học mà chơi” hết sức sinh động.

Bước 3: Xây dựng và thiết kế trò chơi -Thiết kế trò chơi học tập thường qua các bước như sau: + Mục đích: Nêu rõ mục đích của trò chơi nhằm ôn luyện, củng cố kiến thức,

kỹ năng nào?

+ Đồ dùng phục vụ trò chơi + Nêu luật chơi + Số người tham gia + Nêu cách chơi, cách tính điểm + Thời gian chơi Bước 4: Tiến hành trò chơi - Giới thiệu trò chơi, hướng dẫn cách chơi, phổ biến luật chơi. - Chơi thử (nếu cần). - Chơi thật. - Nhận xét, rút kinh nghiệm và tổng kết trò chơi. * Một số yêu cầu khi tổ chức trò chơi Khoa học 4 trên giáo án điện tử: - Mục đích của trò chơi phải thể hiện mục tiêu của bài học . - Hình thức đa dạng, phối hợp các hoạt động trí tuệ với các hoạt động vận

động.

- Luật chơi đơn giản để HS dễ nhớ, dễ thực hiện. Cần đưa ra các cách chơi có

nhiều HS tham gia để tăng cường kỹ năng học tập hợp tác.

- Tổ chức chơi vào thời gian thích hợp của bài học để vừa làm cho học sinh hứng thú học tập vừa hướng cho học sinh tiếp tục tập trung các nội dung khác của bài học một cách có hiệu quả.

- Giáo viên nắm chắc các bước tiến trò chơi, sử dụng thành thạo các phần mềm dạy học, có sự chuẩn bị bài dạy kĩ càng, dự kiến trước các tình huống sẽ xẩy ra khi chơi.

* Ví dụ:

- Trong bài Động vật cần gì để sống, tôi tổ chức trò chơi giúp HS hoàn thành

sơ đồ trao đổi thức ăn ở thực vật

11

* Bài Thực vật cần gì để sống: Tôi lựa chọn trò chơi Happy Garden để

giúp học sinh củng cố kiến thức bài cũ : Ôn tập: vật chất và năng lượng.

* Bài Ôn tập: Vật chất và năng lượng: Để củng cố kiến thức về vòng tuần hoàn của nước tôi tổ chức trò chơi: Chiếc vòng đa sắc tạo hứng thú cho học sinh.

12

Ngoài ra, để củng cố kiến thức cho học sinh sau khi học bài, tôi lựa chọn một số

bài tập trên phần mềm ứng dụng Internet như: Quizizz, Kahoot!...

* Trong bài: Các chất dinh dưỡng có trong thức ăn, tôi lựa chọn bài tập dạng câu hỏi trắc nghiệm cho HS nhằm củng cố kiến thức sau khi các em đã học xong bài học:

* Sau khi học bài Nhu cầu chất khoáng của thực vật, tôi tạo một bài tập trắc

nghiệm trên phần mềm Quizizz cho HS làm như sau:

2.2.2. Sử dụng CNTT để làm tư liệu, video dạy học, thí nghiệm trong môn

Khoa học

Khi dạy môn Khoa học 4, việc sử dụng trực quan: các hình ảnh, các thí nghiệm, bản biểu,… là một phương tiện rất quan trọng. Nó không chỉ là phương tiện để giáo viên minh hoạ cho bài dạy mà còn là phương tiện chứa đựng kiến thức để học sinh khai thác, vì thế trong môn Khoa học không thể thiếu hình ảnh sinh động. Ứng dụng công nghệ thông tin vào các tiết học môn Khoa học, ngoài chức năng trực quan, các hình ảnh ở Sách giáo khoa và tranh ảnh sưu tầm trên

13

mạng Internet, video clip hay hình ảnh động sẽ làm cho bài giảng hấp dẫn, tiết học sinh động, học sinh thích thú với những cái mới lạ. Từ đó làm cho học sinh hứng thú với việc tìm tòi và khám phá hơn nữa.

Dưới đây là một số ví dụ minh họa về tư liệu thí nghiệm, video tôi đã sử dụng trong quá trình dạy học phát huy tích cực, sáng tạo trong môn Khoa học lớp 4:

* Trong bài Động vật cần gì để sống, để giúp học sinh có thể quan sát trực quan một cách sinh động và ngộ nghĩnh, tôi dùng phần mềm Powerpoint thiết kế video có sự chuyển động của các con vật gần gũi với học sinh.

* Trong bài Âm thanh, với thí nghiệm kiểm tra sự rung động của mặt trống, tôi đã dùng các chuyển động trong powepoint để học sinh nhìn rõ sự chuyện động của mặt trống qua các mảnh giấy vụn:

14

* Trong bài Làm thế nào để biết có không khí?, giáo viên tổ chức cho học sinh tiến hành thí nghiệm và đưa ra kết quả bằng hình ảnh rõ nét thông qua hiệu ứng trên powerpoint chứng minh có không khí trong chai rỗng:

* Trong bài: Gió mạnh, gió nhẹ, phòng chống bão, để học sinh so sánh

được mức độ gió theo các cấp bão, tôi sử dụng hệ thống bài tập nối tranh:

15

* Trong bài: Nhu cầu chất khoáng của thực vật, để giúp HS hiểu được mỗi loài cây khác nhau thì nhu cầu về chất khoáng khác nhau, tôi sử dụng phần mềm powerpoint để đưa ra bảng so sánh nhu cầu chất khoáng của từng loại cây:

2.3. Biện pháp 3: Ứng dụng sơ đồ tư duy trong dạy học môn Khoa

học

Sơ đồ tư duy hay còn gọi là “bản đồ tư duy” (Mind Map) là một công cụ tổ chức tư duy được tác giả Tony Buzan (sinh năm 1942, người Anh, chuyên gia hàng đầu thế giới về nghiên cứu hoạt động của bộ não và là cha đẻ của Mind Map) nghiên cứu và phổ biến rộng rãi. Sử dụng kỹ thuật sơ đồ tư duy trong dạy học giúp người học chuyển từ cách học truyền thống sang cách học tích cực thông qua Sơ đồ tư duy; tận dụng tối đa thời gian của tiết học vào các hoạt động tích cực, giảm việc ghi chép trên lớp, do đó giúp HS bớt căng thẳng, mệt mỏi. Đặc biệt, khi sử dụng phương pháp thảo luận nhóm kết hợp cùng với sơ đồ tư duy thì lại càng tăng cao hiệu quả dạy học.

Để thiết kế một Bản đồ tư duy dùng trong phương pháp dạy học bằng sơ

đồ tư duy, học sinh cần tuân thủ theo 4 bước cơ bản sau:

Bước 1: Bắt đầu từ trung tâm với từ, cụm từ thể hiện chủ đề (có thể vẽ

hình ảnh minh họa cho chủ đề - nếu hình dung được) sau đó kéo sang một bên.

Bước 2: Từ hình ảnh trung tâm (chủ đề), cần xác định các ý chính liên quan. Sau đó phân chia các ý chính, đặt tiêu đề các nhánh chính và nối chúng với trung tâm.

Bước 3: Ở mỗi ý chính, xác định cần đưa ra những ý nhỏ nào để làm rõ mỗi ý chính ấy. Sau đó, nối chúng vào mỗi nhánh chính. Cứ thế tiếp tục triển khai thành mạng lưới liên kết chặt chẽ.

Bước 4: Cuối cùng, có thể dùng hình ảnh và biểu tượng để minh họa cho

các ý, tạo tác động trực quan, dễ nhớ.

16

Dưới đây là một số sản phẩm, cũng như nội dung bài học Khoa học được học sinh mô tả lại dưới dạng sơ đồ tư duy của học sinh lớp 4A trường Tiểu học Ngũ Hiệp.

Bài 2: Sự trao đổi chất ở người (T4) Bài 4: Các chất dinh dưỡng có trong thức ăn (T10)

Bài 11: Một số cách bảo quản thức ăn (T24) Bài 10: Ăn nhiều rau và quả chín Sử dụng thực phẩm sạch an toàn

Bài 20: Nước có những tính chất gì? Bài 21: Ba thể của nước (T42)

17

Bài 24: Nước cần cho sự sống (T50)

Bài 23: Sơ đồ vòng tuần hoàn của nước trong tự nhiên (T48)

Bài 48: Ánh sáng cần cho sự sống (T96) Bài 64: Trao đổi chất ở động vật (T128)

2.4. Biện pháp 4: Rèn học sinh tự làm các thí nghiệm đơn giản.

Ở lớp 4, chủ đề “Vật chất và năng lượng” giúp HS bước đầu làm quen với kiến thức hóa học vô cơ. Nội dung này được thể hiện nhiều qua các thí nghiệm, khi giảng dạy, GV cần đặc biệt quan tâm đến việc làm thí nghiệm.

* Mục đích của biện pháp

+ Giúp học sinh đi sâu và tìm hiểu bản chất các sự vật, hiện tượng, sự vật

tự nhiên.

+ Thí nghiệm được sử dụng như nguồn dẫn học sinh tìm tri thức mới =>

giúp HS hiểu sâu, nhớ lâu.

+ Rèn luyện cho HS một số kĩ năng: đặt thí nghiệm, lắp ráo dụng cụ, quan

sát diễn biến thí nghiệm.

* Quy trình dạy học trong phương pháp thí nghiệm

18

GV cần:

a) Xác định mục đích của thí nghiệm:

Các thí nghiệm trong chương trình khoa học 4 có thể phân thành 3 loại

chính:

- Loại nghiên cứu mối quan hệ giữa nguyên nhân và kết quả.

- Loại nghiên cứu điều kiện

- Loại nghiên cứu tính chất của một vật.

b) Vạch kế hoặc tiến hành thí nghiệm

Liệt kê những dụng cụ thí nghiệm cần có và những điều kiện để tiến hành

thí nghiệm

c) Tiến hành thí nghiệm

Khi làm thí nghiệm, GV cần nắm vững cách tiến hành và đưa ra yêu cầu

cho HS.

d) Phân tích kết quả và nghiên cứu

Phần này, GV cần hướng dẫn HS chú ý đến các dấu hiệu bản chất, dạy

học sinh cách so sánh, suy luận khái quát để rút ra kết luận.

* Đối với mỗi thí nghiệm, HS cần thực hiện đúng theo các bước:

Bước 1: Chuẩn bị dụng cụ

Bước 2: Tiến hành thí nghiệm

Bước 3: Quan sát thí nghiệm

Bước 4: Giải thích thí nghiệm

* Ví dụ minh họa:

- Bài 35: Không khí cần cho sự cháy

Ở hoạt động 1: Tìm hiểu vai trò của Ô-xi đối với sự cháy

Mục tiêu: Làm thí nghiệm chứng tỏ: Càng có nhiều không khí càng có

nhiều ô-xi để duy trì sự cháy được lâu hơn. HS cần thực hiện

Bước 1: Chuẩn bị:

+ Hai lọ thủy tinh ( 1 lọ to, 1 lọ nhỏ)

+ Hai cây nến bằng nhau

Bước 2: Cách tiến hành

Giáo viên cho HS đọc cách tiền hành trong SGK để HS nắm được cách

làm thí nghiệm như sau:

+ Lấy 2 lọ thủy tinh cùng úp đồng thời vào hai cây nến đang cháy.

+ Quan sát sự cháy của các ngọn nến.

19

Bước 3: Quan sát thí nghiệm

HS quan sát để thấy được ngọn nến trong lọ thủy tinh to thời gian cháy

dài hơn ngọn nến trong lọ thủy tinh nhỏ thời gian cháy ngắn hơn

Bước 4: Giải thích hiện tượng

HS dựa vào các thành phần của không khí để giải thích hiện tượng cây nến trong lọ thủy tinh to cháy lâu hơn cây nến trong lọ thủy tinh nhỏ vì lượng không khí trong lọ to nhiều hơn lọ nhỏ nên lượng ô-xi nhiều hơn lượng ô xi trong lọ nhỏ. Càng có nhiều không khí thì càng có nhiều ô- xi để duy trì sự cháy lâu hơn. => Cần có không khí để duy trì sự cháy.

- Bài 52: Vật dẫn nhiệt và vật cách nhiệt

Ở Hoạt động 2: Làm thí nghiệm chứng minh không khó là vật cách nhiệt.

Bước 1: Chuẩn bị:

+ Hai chiếc cốc như nhau.

+ Hai tờ giấy báo

+ Nước nóng

+ Nhiệt kế.

Bước 2: Cách tiến hành:

+ Lấy một tờ giấy báo quấn thật chặt vào cốc thứ nhất.

+ Lấy tờ báo còn lại làm nhăn và quấn lỏng vào cốc thứ hai để có nhiều

chỗ chứa không khó giữa các lớp giấy.

+ Đổ vào hai cốc nước một lượng nước nóng như nhau.

+ Sau một thời gian đo nhiệt độ nước trong hai cốc.

- Nhận xét nước trong cốc nào nóng hơn.

GV chỉ làm mẫu cách quấn giấu vào cốc, sau đó yêu cầu học sinh tiến

hành làm thí nghiệm theo nhóm 4.

Bước 3: Quan sát thí nghiệm

HS đo và ghi lại nhiệt độ của từng cốc sau mỗi lần đo.

Lần 1: Nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn và không buộc chặt có

nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo chặt.

Lần 2: Đo cách lần một 5 phút, nước trong cốc được quấn giấy báo nhăn

và chặt, vẫn có nhiệt độ cao hơn nước trong cốc được quấn giấy báo thường chặt.

Bước 4: Giải thích hiện tượng

HS dựa vào tính chất của không khí để giải thích hiện tượng nước trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn nước trong cốc quấn giấy báo thường và quấn chặt như sau:

20

Nước trong cốc quấn giấy báo nhăn quấn lỏng còn nóng hơn vì giữa các lớp báo quấn lỏng có chứa nhiều không khí nên nhiệt độ của nước truyền qua cốc lớp giấy báo truyền ra ngoài môi trường ít hơn, chậm hơn nên nó còn nóng lâu hơn.

Sau đó, HS tự rút ra kết luận: Không khí là vật cách nhiệt.

* Ưu điểm của biện pháp:

- HS có kĩ nặng thao tác thành thạo trong việc thực hiện thí nghiệm dưới

sự hướng dẫn của GV.

- HS được trực quan (mắt thấy, tai nghe hoặc cảm nhận qua các giác quan) các hiện tượng, kết quả thí nghiệm, không bị áo đặt, chấp nhận kết quả thí nghiệm một cách gián tiếp.

2.5. Biện pháp 5: Áp dụng dạy học STEM vào bộ môn Khoa học Chương trình GDPT mới cho phép một số nội dung giáo dục STEM có thể được xây dựng thông qua nội dung giáo dục của địa phương, kế hoạch giáo dục của nhà trường và những hoạt động giáo dục được xã hội hoá. Hoạt động giáo dục STEM được triển khai ngay trong quá trình dạy học các môn học thuộc lĩnh vực STEM theo hướng tiếp cận liên môn. Các chủ đề STEM, bài học STEM, hoạt động STEM bám sát chương trình của các môn học thành phần, không làm phát sinh thêm thời gian học tập.

Giáo dục STEM là phương thức giáo dục tích hợp theo cách tiếp cận liên môn (interdisciplinary) và thông qua thực hành, ứng dụng. Thay vì dạy từng môn học như các đối tượng tách biệt và rời rạc, STEM kết hợp chúng thành một mô hình học tập gắn kết dựa trên các ứng dụng thực tế. Qua đó, học sinh vừa học được kiến thức khoa học, vừa học được cách vận dụng kiến thức đó vào thực tiễn.

Từ những lí thuyết cơ bản của STEM, thông qua tiết chuyên đề, giáo viên tham dự sẽ rút ra được các bước lên lớp, cấu trúc thiết kế bài giảng theo mô hình tích hợp giáo dục STEM một cách cụ thể, rõ nét.

Để tổ chức một bài học STEM, giáo viên và học sinh cần có sự chuẩn bị kĩ lượng về kiến thức lẫn các dụng cụ học tập. Với học sinh lớp tôi, tôi lựa chọn đưa ra hoạt động trải nghiệm STEM vào các tiết học Khoa học để giúp HS tự phát hiện khả năng của mình, tích cực tuy duy, sáng tạo để hoàn thiện được sản phẩm của mình sau giờ học.

Ví dụ: Bài Sự lan truyền âm thanh

Ở hoạt động 5: Chế tạo sản phẩm; tôi lựa chọn dạy học hoạt động trải nghiệm theo định hướng giáo dục STEM: HS thiết kế một chiếc điện thoại từ các vật liệu tái chế (cốc giấy, vỏ chai nhựa, lon cooca, lon bia….)

21

Học sinh thiết kế điện thoại để có thể giao tiếp được trong phạm vi 3 - 5m, thử nghiệm thiết kế của mình. giáo viên có thể gợi mở thêm để học sinh có thể tự thiết kế đồ chơi này tại nhà cùng chơi với các thành viên trong gia đình

- Phác thảo:

GV yêu cầu các nhóm trình bày ý bản vẽ phác thảo trong nhóm theo ý tưởng đã thảo luận, thống nhất từ trước. ( Nhóm trưởng trình bày, các thành viên góp ý sửa đổi bản phác thảo; lên trình bày trước lớp; các bạn khác NX, BS..)

. - Chế tạo sản phẩm

+ Nhóm trưởng phân công nhiệm vụ cho từng thành viên nhóm.

+ Đưa ra lưu ý khi thực hành

Một số lưu ý:

1. Lựa chọn vật liệu, dụng cụ phù hợp với nhu cầu sử dụng.

2. Cẩn thận an toàn khi dùng kéo, súng bắn keo, …..

3. Giữ vệ sinh lớp học.

- Trưng bày và giới thiệu sản phẩm

+ GV gọi đại diện các nhóm trưng bày sản phẩm của mình

+ Gọi 2 bạn lên kiểm tra kéo 2 đầu dây của điện thoại khoảng từ 3-5 m có

nghe thấy âm thanh trong tai không?

+ GV hỏi thêm:

? Vì sao lựa chọn vật liệu này để làm sản phẩm của nhóm mình? Có thể

dùng chất liệu nào khác?

- Đánh giá

+ Tự đánh giá: GV cho HS các nhóm tự đánh giá sản phẩm của nhóm

mình vào phiếu đánh giá sản phẩm của nhóm.

+ Bình chọn sản phẩm yêu thích.

+ GV NX, đánh giá kết quả các nhóm, tổng kết.

Một số hình ảnh về sản phẩm điện thoại từ sản phẩm tái chế của học sinh:

22

Trên đây là một số biện pháp nhằm giúp học sinh lớp 4 phát huy tính tích

cực, sáng tạo trong môn Khoa học đã được triển khai tại đơn vị chúng tôi. Kết quả thu được như sau:

- Tất cả các học sinh trong lớp đều đọc được bài theo yêu cầu của chương trình chuẩn. Học sinh linh hoạt sáng tạo các từ khóa, từ ứng dụng có trong bài. Phần nhiều học sinh trong lớp biết thiên nhiên, xã hội.

- Học sinh hăng hái giơ tay phát biểu ý kiến trong các tiết học.

- Các em hào hứng tự tin, mạnh dạn trong các tiết học; tích cực tham gia

các hoạt động cô giáo giáo.

- Học sinh tìm từ nhanh, số lượng nhiều, không trùng với các từ có trong

sách giáo khoa.

Vì vậy, sau một thời gian, tôi thu được kết quả học tập của học sinh lớp

4A giữa kì 2 năm học 2022-2023 như sau:

Khoa học

STT

Lớp

Sĩ số

Mức độ

SL

TL

1

28

70

T

2

4A

40

12

30

H

3

0

0

C

23

PHẦN C: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

1. Kết luận

Khoa học là môn học chiếm số tiết không nhiều như môn Toán, Tiếng Việt ở lớp 4 nhưng chúng ta không thể xem nhẹ vai trò và tầm quan trọng của môn học này trong việc cung cấp kiến thức về khoa học tự nhiên và khoa học xã hội cho học sinh. Đứng trước vai trò, vị trí và tầm quan trọng của phân môn này, tôi thấy người giáo viên cần giáo dục tốt động cơ học tập, tránh học lệch cho học sinh. Người giáo viên giảng dạy cần phải chọn cách dạy sao cho học sinh vừa thích học, vừa chủ động chiếm lĩnh kiến thức, có như thế học sinh mới học tốt được. Người giáo viện cần biết lôi cuốn học sinh vào bài giảng của mình, khiến các em chăm chú, thích thú với những kiến thức mà giáo viên truyền tải chính là sự thành công của giáo viên trong một tiết học.

Thông qua đề tài: Một số biện pháp giúp học sinh lớp 4 phát huy tính tích cực, sáng tạo trong môn Khoa học, với cách dạy môn Khoa học theo những biện pháp nêu trên, tôi thấy mình đã tạo được sự say mê, hứng thú trong học sinh, góp phần không nhỏ vào việc dạy học và giáo dục các con học sinh- những mầm non tương lai của đất nước. Tôi hi vọng với những kinh nghiệm của tôi có thể góp phần nhỏ vào công cuộc xây dựng kho tàng dạy học môn Khoa học lớp 4.

2. Khuyến nghị 2.1. Đối với giáo viên:

Đối với một giáo viên lớp 4, muốn học sinh của mình chuẩn, giỏi, hay thì đòi hỏi người giáo viên phải năng động sáng tạo nghiên cứu, đầu tư thời gian để tìm ra phương pháp dạy học phù hợp nhất với từng đối tượng học sinh, giúp các em chăm chỉ và tự tin có hứng thú học tập. Hằng ngày kiểm tra đôn đốc và nhắc nhở các em kịp thời. Không nên quát mắng làm các em sợ mất bình tĩnh. Bố trí học sinh yếu kém ngồi ngồi ở vị trí thuận tiện nhất trong lớp để rèn các em học tốt hơn. Có tuyên dương khen thưởng, động viên kịp thời nhằm khích lệ các em có ý thức vươn lên trong học tập. Giáo viên cần phải tăng cường sử dụng các phương tiện, đồ dùng dạy học, đổi mới cách đánh giá, kiểm tra.

Bản thân giáo viên cũng cần bồi dưỡng cho mình kiến thức về khoa học để có thể dẫn chứng, mở rộng thêm để bài giảng phong phú. Qua quá trình giảng dạy, tôi thấy đôi khi học sinh đặt những câu hỏi ngoài phạm vi sách giáo khoa, nếu giáo viên không tự bồi dưỡng tìm kiếm kiến thức sẽ rất khó xử lí trong tình huống ấy. Khi được giải đáp các thắc mắc, HS sẽ ghi nhớ được kiến thức khoa học lâu hơn, yêu thích môn Khoa học hơn. Từ đó, các em tích cực trong việc tìm tòi những kiến thức về thế giới tự nhiên, sinh vật, đồ dùng gia dụng, cách giữa gìn sức khỏe bản thân.

Phải thường xuyên quan tâm, chăm sóc các em cả về trí tuệ lẫn thể chất. Hằng ngày, nên bớt chút thời gian kèm cặp các em học tập, trang bị cho các em đầy đủ sách vở và đồ dùng học tập. Động viên con em kịp thời đúng lúc khi con có sự tiến bộ trong học tập. Từ đó giúp các em thích học hơn và có ý thức phấn đấu hơn nữa.

24

2.2. Đối với nhà trường:

Để nâng cao chất lượng giáo dục nói chung và việc rèn nhân cách cho học sinh lớp 4 nói riêng thì cần phải phối hợp tốt giữa gia đình, nhà trường và xã hội.

Thường xuyên quan tâm tới gia đình có hoàn cảnh khó khăn tạo điều kiện cho các em được đến trường học hành đầy đủ. Hàng tháng có các buổi sinh hoạt dành cho thiếu nhi, tổ chức các hội thi "sáng tạo hay ngay ở trong thôn xóm mình.

Mặc dù luôn tiến tới mục đích đã đề ra bằng tất cả nỗ lực của mình nhưng khả năng bản thân có hạn, hơn nữa điều kiện thực hiện còn nhiều hạn chế nên không tránh khỏi những thiếu sót. Tôi rất mong các cấp lãnh đạo, bạn bè đồng nghiệp đóng góp, bổ sung ý kiến để tôi tiếp tục hoàn thiện đề tài và tiếp tục áp dụng vào việc dạy học tích cực sáng tạo ở lớp 4 ngày càng tốt hơn.

Trên đây là những suy nghĩ, biện pháp, kết quả và bài học kinh nghiệm mà bản thân tôi đã phát hiện và rút ra trong quá trình dạy học phát huy tính tích cực và sáng tạo của học sinh lớp 4 trường Tiểu học Ngũ Hiệp.

Tuy nhiên với khả năng còn hạn chế của bản thân, một số phương pháp vẫn còn hạn hẹp, chưa mang tính rộng rãi nên sáng kiến kinh nghiệm của tôi vẫn còn thiếu sót. Tôi rất mong nhận được sự giúp đỡ, quan tâm các bậc thầy cô, bạn bè đồng nghiệp để bài viết của tôi được hoàn thiện hơn và giúp tôi nâng cao chuyên môn cũng như nghiệp vụ.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Ngũ Hiệp, ngày 25 tháng 4 năm 2023 Tôi xin cam đoan sáng kiến do tôi viết, hoàn toàn không sao chép từ người khác. Người viết

Lưu Hải Linh

25

PHẦN TÀI LIỆU THAM KHẢO

- Phương pháp dạy học tích cực;

- Thông tư 22/2016/TT-BGDĐT ngày 22/9/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo;

- Điều lệ Trường Tiểu học;

- Báo tuổi thơ;

- Tạp chí giáo dục Tiểu học.

- SGK lớp 4 Khoa học nhà xuất bản GDVN

- Tài liệu internet, violet.

- Tham luận nang-cao-chat-luong-khoa-hoc-4.doc (live.com)

- Giáo dục STEM trong chương trình giáo dục phổ thông mới (moet.gov.vn)

- Bài báo 3790-Bài báo-29-1-10-20210422.pdf