
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
“Một số biện pháp giúp học sinh lớp Bốn học tốt văn miêu tả”
A. PHẦN THỨ NHẤT
I.Lý do chọn đề tài:
Như chúng ta đã biết, Tiếng việt có vai trò cực kỳ quan trọng trong đời sống
cộng đồng và đời sống mỗi con người Việt Nam. Đặc biệt đối với trẻ em, Tiếng
việt có vai trò càng quan trọng. Ngay từ lúc mới lọt lòng, trẻ được giao tiếp hằng
ngày, hằng giờ với Tiếng việt và khi cất tiếng nói đầu tiên, trẻ cũng nói lên tiếng
nói của người Việt. Do đó, trẻ em cần học Tiếng việt một cách khoa học và cẩn
thận để có thể sử dụng suốt năm tháng học tập ở nhà trường cũng như trong suốt
cuộc đời.
Tiếng Việt là một môn học quan trọng của trường tiểu học. Trong đó phân
môn Tập làm văn chiếm vị trí quan trọng không nhỏ. Bởi vì dạy tập làm văn là
dạy cho các em hình thành kỹ năng nói, viết, được xây dựng trên những thành
tựu của nhiều môn học khác như tập đọc, từ ngữ, ngữ pháp, kể chuyện … tập
làm văn còn góp phần bổ sung kiến thức đòi hỏi huy động kiến thức nhiều mặt
từ hiểu biết cuộc sống, rèn luyện tư duy và hình thành nhân cách học sinh.
Chương trình tập làm văn tiểu học bao gồm các thể loại như miêu tả, tường
thuật, kể chuyện, viết thư, đơn… trong đó kiểu bài miêu tả được học và chiếm
thời gian nhiều nhất.
Tuy nhiên để giúp học sinh học tốt văn miêu tả điều quan trọng là làm thế nào
giúp cho học sinh quan sát để tìm ý cho bài văn, biết lựa chọn các từ ngữ miêu tả
cho sinh động, hấp dẫn. Không phải đưa ra các lời nhận xét chung mà phải tả
các sự vật, hiện tượng bằng từ ngữ sinh động, gợi cảm.
Qua thực tế giảng dạy, tôi thấy phần đông học sinh lớp tôi làm văn miêu tả gặp
những khó khăn về tri thức, hiểu biết, về đối tượng miêu tả, các em sẽ không
biết miêu tả nếu như chưa được quan sát; vốn hiểu biết từ ngữ chưa sâu, thấy
đâu tả đó, chưa biết bộc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả của mình. Chưa biết
cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật trong văn miêu tả để bài văn thêm phần
hấp dẫn.
Nhằm góp phần đổi mới phương pháp dạy học, nâng cao chất lượng dạy học
trong nhà trường nói chung, dạy học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả nói riêng, tôi
đã chọn đề tài: “Một số biện pháp giúp học sinh lớp Bốn học tốt văn miêu
tả”.
II. MỤC ĐÍCH, NHIỆM VỤ VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU.
Trang 1

1.Mục đích.
Nghiên cứu đề tài, tôi không có nhiều tham vọng mà chỉ nhằm mục đích góp
một phần công sức của mình vào công tác giáo dục của nhà trường. Với việc
nghiên cứu đề tài, tôi mong muốn sẽ có được bài học kinh nghiệm để có thể áp
dụng vào thực tiễn giảng dạy môn Tập làm văn trong trường Tiểu học nói riêng,
ngành giáo dục nói chung. Điều này càng có ý nghĩa nếu đề tài thành công sẽ
đồng thời là chất lượng học tập của các em học sinh lớp Bốn nói riêng và tiểu
học nói chung được nâng lên.
Chỉ tiêu: Cuối năm học, 95% học sinh có thể làm được bài văn miêu tả theo
yêu cầu. Trên cơ sở các kiến thức, kĩ năng về văn miêu tả đã được học, học sinh
có thể vận dụng học tiếp lên lớp trên.
2. Nhiệm vụ.
- Nghiên cứu cơ sở lý luận về phương pháp dạy học để giúp học sinh lớp 4
học tốt văn miêu tả.
- Phân tích đánh giá và làm rõ nguyên nhân khó khăn và tồn tại trong văn
miêu tả
- Điều tra thực trạng giảng dạy giáo viên trường tiểu học.
- Đề xuất một số ý kiến để giúp học sinh lớp 4 học tốt văn miêu tả.
3.Phạm vi nghiên cứu
*Về nội dung: Nhằm đi sâu vào một vấn đề và chỉ dừng ở mức độ sáng
kiến kinh nghiệm nên tôi chỉ giới hạn đề tài trong phạm vi nghiên cứu việc dạy
học kiểu bài miêu tả cho học sinh lớp Bốn. Với phạm vi nghiên cứu hẹp như
vậy, tôi hi vọng sẽ thu được nhiều kết quả khả quan, góp phần thực hiện nhiệm
vụ giáo dục của một nhà giáo trong giai đoạn mới.
*Về đối tượng : Học sinh lớp 4 trong trường Tiểu học tôi được phân công
giảng dạy trong năm học 2017 - 2018 này. Trong quá trình áp dụng sáng kiến
kinh nghiệm, tôi có chú ý phân loại đối tượng học sinh theo trình độ và đối
tượng học sinh: Giỏi, Khá, Trung bình
B.PHẦN THỨ HAI:
NHỮNG BIỆN PHÁP ĐỔI MỚI ĐỂ GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I. Cơ sở khoa học
1. Cơ sở lí luận
Trang 2

-Thế giới phong phú không chỉ bởi tự bản thân nó, mà còn bởi những cách
nhìn nhận và tái hiện của mỗi con người…Hiểu biết, nhận xét và cảm thụ sâu
sắc về thực tế cuộc sống. Đây chính là điều kiện quan trọng để học tập làm văn.
- Các em khám phá thế giới xung quanh bằng con mắt bỡ ngỡ, kì thú, trong
sang, trìu mến và đầy cảm xúc. Những bức tranh miêu tả thiên nhiên và con
người của các em thường êm dịu, hài hòa, sâu lắng và thơ mộng. Các em hết sức
mẫn cảm với cái đẹp tinh tế và tâm hồn luôn luôn rộng mở.
- Thể hiện qua văn miêu tả của trẻ em là những góc nhìn và cảm nhận lung
linh biến hóa không dứt. Đọc văn miêu tả của các em ta có cảm giác rất thú vị. Ở
đó ta sẽ gặp những bất ngờ ngay trong những gì ta tưởng như đã quá quen thuộc.
- Quan sát cảm nhận thế giới xung quanh rồi dùng phương tiện ngôn ngữ nói,
viết để tái hiện lại cả một quá trình tư duy. Với tư cách nhìn riêng, sự lựa chọn
riêng và một bản sắc cảm xúc riêng. Mỗi bài văn miêu tả phần nào có thể xem
đó là sang tác thể hiện trí thông minh, khả năng cảm thụ cái đẹp và nhu cầu tạo
ra cái đẹp trong bản thân mỗi học sinh.
2. Cơ sở thực tiễn
* Giáo viên:
- Hiện nay chương trình của Bộ GD đang áp dụng kĩ năng vào dạy học , hay
dạy học theo hướng tích cực để học sinh được hoạt động nhiều hơn, học sinh
được giao tiếp nhiều hơn trong quá trình học tập. Chính vì vậy người giáo viên
phải đổi mới phương pháp dạy học cho phù hợp. Đổi mới việc dạy học trong
việc thừa kế cái cũ, cái vốn có đòi hỏi phải là một sự sang tạo. Với các phân
môn khác của Tiếng Việt trong việc đổi mới nội dung và phương pháp dạy học
chỉ rõ quy trình các bước lên lớp rất cụ thể rõ ràng. Còn phân môn Tập làm văn
các nhà nghiên cứu chỉ đưa ra quy trình chung nhất cho mỗi loại bài, chủ yếu là
sáng tạo của giáo viên khi lên lớp.
* Học sinh:
- Ngoài SGK Tiếng việt thì hiện nay có rất nhiều sách tham khảo cho học sinh,
giúp học sinh có cái nhìn đa dạng, phong phú hơn. Song những cuốn sách tham
khảo của phân môn Tập làm văn lại thường đưa ra các bài văn hoàn chỉnh nên
khi làm văn các em thường dựa dẫm, ỉ lại vào bài mẫu, có khi sao chép y nguyên
bài văn mẫu vào bài làm của mình. Cách nghĩ của các em không phong phú mà
còn đi theo lối mòn khuôn sáo, tẻ nhạt.
II. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN
Trước khi thực hiện sáng kiến kinh nghiệm: “Một số biện pháp giúp học sinh
lớp 4 học tốt văn miêu tảû”. Tôi đã cho học sinh khảo sát và thấy kết quả như
sau:
Trang 3

Môn Sí số Hoàn thành tốt Hoàn thành Chưa hoàn thành
SL % SL % SL %
Tập làm
văn 39 13 33,5 16 41 10 25,5
Từ bảng số liệu trên cho thấy: Học sinh làm văn miêu tả chưa tốt.
Qua tìm hiểu thực tế ở lớp, gia đình và đồng nghiệp. Tôi nhận thấy nguyên
nhân của tình hình nêu trên là do:
* Nguyên nhân chủ quan:
- Giáo viên còn ngại khi phải dạy phân môn Tập làm văn nên khi dạy còn
nhiều lúng túng về phương pháp và nội dung. Điều này được thể hiện rõ qua
những tiết thao giảng, dự giờ chéo phân môn Tập làm văn ở trường.
- Phương pháp dạy của giáo viên còn rập khuôn thiếu sự dẫn dắt gợi mở cho
học sinh tìm ra những từ, ý hay khi miêu tả.
- Giáo viên ít quan tâm đến việc hướng dẫn các em phải tả như thế nào để
bôïc lộ được nét riêng biệt của đối tượng mình đang tả để thoát khỏi việc tả một
cách khuôn sáo.
- Giáo viên thường hay thiếu tranh ảnh, vật thật để hổ trợ cho các em miêu tả.
- Việc chấm và sửa bài còn chung chung, chưa sửa ý hay nhằm phát huy cho
học sinh khi học Tập làm văn.
- Thiếu sự kết hợp, liên hệ giữa tiết dạy phân môn Tập làm văn với các môn
học khác.
* Nguyên nhân khách quan:
- Khả năng quan sát miêu tả còn sơ sài, học sinh chưa biết sử dụng các giác
quan để quan sát, quan sát chưa theo một trình tự, thấy đâu tả đó.
- Học sinh dùng từ đặt câu chưa hay, chưa biết lựa chọn từ ngữ thích hợp.
- Vốn từ ngữ còn quá nghèo nàn, dùng từ địa phương, diễn đạt chưa hay như
nói chuyện bình thường.
- Dùng văn mẫu một cách chưa sáng tạo (do sách tham khảo bán tràn lan trên
thị trường) các em rập khuôn theo mà chưa biết sáng tạo chọn lọc thành cái
riêng của mình.
- Một số học sinh trung bình, yếu viết câu chưa thành thạo nên diễn đạt chưa
mạch lạc các ý trong bài văn còn nhiều hạn chế.
Từ thực tế nêu trên, để giúp học sinh học thể loại văn miêu tả đạt hiệu quả
cao. Tôi đã tiến hành thực hiện các biện pháp sau:
II. 1: Biện pháp tổng thể
1. Hướng dẫn học sinh quan sát tìm ý.
Trang 4

2.Tạo điều kiện cho sinh tích luỹ vốn từ ngữ và lựa chọn vốn từ ngữ miêu tả
qua các bài tập đọc, từ ngữ …
3. Sử dụng một số biện pháp nghệ thuật trong miêu tả.
4. Bôïc lộ cảm xúc trong bài văn miêu tả.
*Đặc điểm tình hình trước khi áp dụng sáng kiến kinh nghiệm:
Thuận lợi:
a. Giáo viên
- Đội ngũ giáo viên đã tích lũy được nhiều kinh nghiệm qua nhiều năm thực hiện
đổi mới chương trình và thay sách giáo khoa.
b. Học sinh
-Đa số học sinh được gia đình quan tâm, đầu tư đầy đủ sách vở, dụng cụ học
tập.
Những tồn tại:
a. Giáo viên:
+ Việc vận dụng quan điểm dạy học tích hợp trong dạy học chưa được giáo viên
vận dụng triệt để nên lượng kiến thức, kĩ năng cung cấp cho học sinh trong một
tiết Tập làm văn thường rất lớn, nhiều lúc dẫn đến tình trạng quá tải trong tiết
học.
+ Giáo viên đã có nhiều cố gắng trong việc đổi mới phương pháp dạy học nhưng
đôi khi cũng ngại không dám thoát li các gợi ý của sách giáo khoa, sách hướng
dẫn vì sợ sai.
b. Học sinh:
- Học sinh chưa vận dụng được các kiến thức, kĩ năng đã học trong các phân
môn của Tiếng Việt, của các môn học khác, của các lớp dưới vào học tập môn
tập làm văn. Chẳng hạn khi dạy cho học sinh cấu tạo một bài văn tả cảnh, giáo
viên phải hướng dẫn học sinh tìm hiểu văn bản mẫu để rút ra nhận xét. Trong
khi đó, nếu dựa trên kiến thức đã học về văn miêu tả ở lớp Bốn để hình thành
cho học sinh cấu tạo bài văn tả cảnh ở lớp Năm rõ ràng là nhanh hơn.
- Học sinh của nhà trường đa số là học sinh nghèo. Với đối tượng này, việc học
tập của các em gặp một số khó khăn sau:
+ Vốn tiếng Việt của các em rất hạn chế. Trong khi đó, việc học kiểu bài miêu tả
trong phân môn Tập làm văn lớp Bốn lại yêu cầu sử dụng vốn từ ngữ, năng lực
tư duy rất lớn.
+ Vốn từ của học sinh chưa phong phú, các em chưa hiểu hết nghĩa của từ nên
việc vận dụng vào bài làm còn nhiều sai sót.
+ Chương trình tiếng Việt mới có rất nhiều ưu điểm trong việc phát huy sáng tạo
của học sinh nhưng lại tương đối nặng đối với đối tượng học sinh Tiểu học.
Trang 5