ỦY BAN NHÂN DÂN HUYỆN THANH TRÌ TRƯỜNG TIỂU HỌC VĨNH QUỲNH
SÁNG KIẾN KINH NGHIỆM
MỘT VÀI BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM THEO ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN NĂNG LỰC CHO HỌC SINH LỚP 4
Lĩnh vực/ Môn: Tiếng Việt Cấp học : Tiểu học Tên tác giả : Vũ Kim Ngân Đơn vị công tác: Trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh Chức vụ : Giáo viên
NĂM HỌC: 2021– 2022
MỤC LỤC
Trang 1 1 2 2 2 2 2 3 3 4 4 6 7
7
11
12 15 17 18 19 19 20
Nội dung PHẦN I. MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài 2. Mục đích nghiên cứu 3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu 4. Nhiệm vụ nghiên cứu 5. Các phương pháp nghiên cứu 6. Thời gian nghiên cứu PHẦN II. NỘI DUNG 1. Cơ sở lí luận 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng vấn đề 2.2. Nguyên nhân của thực trạng 3. Các biện pháp đã tiến hành 3.1. Biện pháp 1. Giáo viên cần chuẩn bị kĩ bài dạy và phân loại đối tượng học sinh 3.2. Biện pháp 2. Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước tiết học và trong giờ học 3.3. Biện pháp 3. Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, đọc lưu loát văn bản 3.4. Biện pháp 4. Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm 3.5. Biện pháp 5. Tích cực đổi mới hình thức dạy học 4. Kết quả SKKN PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận 2. Khuyến nghị PHỤ LỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHẦN I. MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Môn Tiếng Việt ở trường phổ thông có nhiệm vụ hình thành năng lực hoạt động ngôn
ngữ cho học sinh. Năng lực hoạt động ngôn ngữ cho 4 dạng hoạt động tương ứng với chúng là
4 kĩ năng: nghe, nói, đọc, viết. Đọc là một phân môn của chương trình Tiếng Việt bậc Tiểu
học. Đây là một phân môn có vị trí đặc biệt trong chương trình vì nó đảm nhiệm việc hình
thành và phát triển cho học sinh kĩ năng chuyển chữ viết thành ngôn ngữ, một kĩ năng quan
trọng hàng đầu của học sinh ở bậc Tiểu học.
Đối với học sinh, kĩ năng đọc là yêu cầu cơ bản đầu tiên. Nếu không biết đọc các em
sẽ không tham gia vào các hoạt động học các môn khác đạt kết quả được. Vì vậy, dạy đọc có
ý nghĩa rất quan trọng trong chương trình dạy học Tiểu học.
Yêu cầu kĩ năng đọc đặt ra cho học sinh lớp 4 cần đạt tới đó là: Đọc đúng tốc độ; đọc
lưu loát; đọc thầm nhanh hiểu nội dung bài; bước đầu biết đọc diễn cảm ở bài văn hay bài thơ
nói chung, có cảm xúc, biết nhấn giọng ở những từ gợi cảm, gợi tả, biết đọc các lời tác giả, lời
nhân vật.
Có ba yêu cầu của việc luyện đọc thành tiếng trong giờ dạy Tập đọc (đọc đúng, đọc
nhanh, đọc diễn cảm) đọc diễn cảm thể hiện rõ nhất kĩ năng đọc của học sinh. Khi đọc diễn
cảm, các kĩ năng đọc đúng, đọc nhanh đã đồng thời được thể hiện. Do đặc điểm nhận thức của
học sinh lớp 4 mang tính cụ thể, do vốn ngôn ngữ và vốn sống của các em còn hạn chế nên
chúng ta không tổ chức dạy học văn với tư cách là một môn học độc lập. Chính vì vậy đọc
diễn cảm là phương tiện dạy học đồng thời là biện pháp dạy học nhằm đạt được mục tiêu dạy
tích hợp văn qua môn Tiếng Việt.
Trong khi đó ở trường Tiểu học, việc dạy đọc bên cạnh những thành công, còn nhiều
hạn chế như học sinh chưa đọc được như mong muốn. Kết quả đọc của các em chưa đáp ứng
yêu cầu của việc hình thành kĩ năng đọc đặc biệt là kĩ năng đọc diễn cảm. Vì chưa thể hiện
diễn cảm trong bài đọc nên trong quá trình giao tiếp của các em cũng như chưa thể hiện được
sự giao tiếp lịch sự như nói lời chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, lời mời, lời nhờ, yêu cầu, đề nghị…
Mỗi học sinh đã có được kĩ năng đọc diễn cảm thì chắc chắn việc cảm thụ văn học sẽ dễ dàng
hơn và sâu sắc hơn. Nhiều giáo viên cũng còn lúng túng khi dạy tập đọc. Cần đọc bài với
giọng như thế nào, làm thế nào để sửa chữa cách đọc cho học sinh diễn cảm hơn… đó là
những trăn trở của mỗi giáo viên trong những giờ tập đọc.
Xuất phát từ những thực trạng nói trên, tôi mạnh dạn chọn sáng kiến kinh nghiệm:
“Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng phát triển năng lực cho
học sinh lớp 4”, với hi vọng được đóng góp một chút kinh nghiệm của bản thân.
2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở phân tích thực trạng việc đọc diễn cảm của học sinh lớp 4, đề xuất một vài
biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 theo hướng phát triển năng lực trong
thời gian tới.
3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Học sinh lớp 4A9 trường Tiểu học Vĩnh Quỳnh.
Một vài biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng phát triển năng lực cho
học sinh lớp 4.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu
Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4 theo định hướng phát triển năng lực.
5. Các phương pháp nghiên cứu
a. Nhóm phương pháp nghiên cứu lý luận:
- Phân tích và tổng hợp lý thuyết
- Mô hình hoá; phương pháp giả thuyết – suy diễn
b. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
- Điều tra giáo dục
- Quan sát – đàm thoại
- Phương pháp nghiên cứu và tổng kết kinh nghiệm giáo dục
6. Thời gian nghiên cứu
Từ tháng 9 năm 2021 đến tháng 3 năm 2022.
PHẦN II. NỘI DUNG
1. Cơ sở lí luận
Dạy đọc có ý nghĩa rất to lớn ở Tiểu học, đọc trở thành một đòi hỏi cơ bản đầu tiên đối
với những người đi học. Đọc giúp các em chiếm lĩnh được một ngôn ngữ để dùng trong giao
tiếp và học tập, đọc là công cụ để học tập tất cả các môn học, đọc tạo ra hứng thú và động cơ
học tập, đọc tạo điều kiện để học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Chính vì
vậy, việc rèn cho học sinh biết đọc diễn cảm các văn bản là điều rất quan trọng ở mỗi giờ dạy
tập đọc cho học sinh lớp 4. Học sinh biết cách đọc diễn cảm các văn bản sẽ giúp các em sẽ
hiểu sâu sắc hơn về nội dung bài đọc tức là đã góp phần giúp các em biết cảm thụ văn học
được tốt hơn. Hơn thế nữa việc dạy học sinh biết đọc diễn cảm giúp các em biết cách giao tiếp
lịch sự hơn khi nói lời cảm ơn, lời xin lỗi, lời chào hỏi, lời nhờ, lời yêu cầu…
Với nhiệm vụ là một phân môn dành khá nhiều thời gian để thực hành. Nhiệm vụ quan
trọng nhất của tiết tập đọc là hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo
nên bốn kĩ năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của đọc: đọc đúng, đọc nhanh, đọc hiểu và
đọc diễn cảm.
Ở mỗi dạng văn bản khác nhau cách thể hiện giọng đọc diễn cảm khác nhau. Tuy
nhiên dù ở dạng văn bản nào thì yêu cầu về kĩ năng đọc diễn cảm phải đảm bảo được các yêu
cầu sau:
- Đọc ngắt, nghỉ đúng chỗ
- Đọc đúng kiểu câu
- Đọc đúng tốc độ
- Đọc đúng cường độ
- Đọc đúng cao độ
Sau khi học sinh đã được luyện đọc đúng, đảm bảo tốc độ, đọc lưu loát và được tìm
hiểu nội dung bài học thì mới được luyện đọc diễn cảm. Đó là một điều thuận lợi để giáo viên
dạy học sinh luyện đọc diễn cảm. Bởi lẽ sau khi học sinh đã hiểu được nội dung văn bản thì
việc xác định giọng đọc sẽ dễ dàng hơn. Đọc diễn cảm trước hết phải xác định nội dung, ý
nghĩa của bài đọc, sắc thái tình cảm, giọng điệu chung của bài. Đây là nhiệm vụ của quá trình
dạy đọc hiểu. Kết thúc quá trình đọc hiểu học sinh phải xác định được cảm xúc của bài: vui,
buồn, tự hào, tha thiết, trang nghiêm, sâu lắng, ngợi ca… ngay trong một bài cũng có thể hòa
trộn nhiều cảm xúc.
Đọc diễn cảm không phải là đọc sao cho “điệu”, thiếu tự nhiên, dựa vào ý thích chủ
quan của người đọc. Đọc diễn cảm là sử dụng ngữ điệu để phô diễn cảm xúc của bài học. Vì
vậy phải hòa nhập với câu chuyện, bài văn, bài thơ có cảm xúc mới tìm thấy ngữ điệu thích
hợp. Chính tác phẩm quy định ngữ điệu cho chúng ta chứ không phải chúng ta tự đặt ra ngữ
điệu.
2. Cơ sở thực tiễn
2.1. Thực trạng vấn đề
2.1.1. Ưu điểm
- Nhà trường luôn quan tâm tạo mọi điều kiện tốt nhất về cơ sở vật chất và chuyên
môn cho việc dạy và học.
- Đa số các em có ý thức học tập tốt, ngoan ngoãn, biết vâng lời.
- Phụ huynh đa phần rất quan tâm đến việc học của con em mình.
- Bản thân tôi là một giáo viên trẻ luôn cố gắng học tập kinh nghiệm giảng dạy từ
đồng nghiệp, luôn hăng say trong công việc. Khả năng tiếp thu cũng như tiếp cận các chương
trình dạy học có ứng dụng công nghệ khá nhanh.
2.1.2. Tồn tại
a) Giáo viên
Hiện nay, đa số giáo viên nhận thức đúng về vai trò của việc đọc diễn cảm, nắm được
yêu cầu, quy trình hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm. Song không ít giáo viên chưa
nhận thức được tầm quan trọng của việc đọc diễn cảm, vì vậy khi dạy giờ tập đọc giáo viên
chưa chú ý đến đọc diễn cảm mà chỉ coi trọng bước luyện đọc, bước tìm hiểu bài, còn phần
hướng dẫn đọc diễn cảm còn tiến hành một cách hình thức, qua loa.
Không ít giáo viên lại đưa ra yêu cầu cao hơn đối với học sinh, yêu cầu học sinh đọc
diễn cảm, tổ chức thi đọc diễn cảm toàn bài thơ, bài văn, trong khi đối với lớp 4 mới chỉ yêu
cầu ở mức độ ban đầu (đọc diễn cảm được một đoạn).
Bên cạnh đó, trong những năm gần đây, việc đổi mới phương pháp dạy và học theo
hướng phát triển năng lực cho học sinh chưa đạt hiệu quả, vẫn còn một số giáo viên chưa
mạnh dạn áp dụng việc đổi mới phương pháp trong quá trình giảng dạy. Giáo viên còn nặng
về thuyết trình, giảng dạy theo lối dập khuôn, máy móc – thầy đọc mẫu ra sao, trò đọc lại như
vậy. Trong khí đó giọng đọc của giáo viên lại chưa thật hấp dẫn, thậm chí giọng đọc còn chưa
thật chuẩn xác, mẫu mực,…
Giáo viên chưa tạo lập được cơ sở vững chắc cho thành công của tiết dạy: chưa đầu tư
thích đáng cho việc thiết kế bài giảng, chưa có sự công phu rèn giọng đọc của bản thân, chưa
“kế thừa” hiệu quả của hai bước đệm cho diễn cảm tốt: luyện đọc và tìm hiểu bài.
b) Học sinh
Năm học 2021 – 2022, tôi được phân công phụ trách lớp 4A9 với 53 học sinh. Tôi đã
tiến hành khảo sát 53 học sinh lớp tôi về khả năng đọc diễn cảm và có được kết quả như bảng
sau:
Bảng số liệu khảo sát đọc diễn cảm của học sinh lớp 4A9
Ngắt Đọc sai Đọc chưa diễn cảm
giọng sai kiểu câu Lớp Số HS SL TL SL TL SL TL
4A9 53 20 37,7% 31 58,5% 32 60,4%
Qua khảo sát, tôi thấy học sinh đã biết đọc thành tiếng bài văn, bài thơ, đã để ý và đọc
đúng các phụ âm khó. Nhưng đọc hiểu nắm nội dung bài còn rất ít do vậy chưa nêu được ý
chính của bài mà phải nhờ sự gợi ý của giáo viên. Khi đọc ở các dấu phẩy, dấu chấm còn ngắt
nghỉ chưa hợp lí còn tuỳ hứng, chưa đọc đúng giọng câu hỏi, câu cảm, câu khiến. Thực trạng
học sinh đọc diễn cảm một văn bản là rất ít. Hầu như các em mới chỉ đạt đến yêu cầu: đọc
đúng tốc độ, phát âm tương đối chính xác, hiểu được nội dung bài còn yêu cầu về kĩ năng đọc
diễn cảm là rất thấp. Một số học sinh còn nặng về học vẹt, cô đọc sao trò cố đọc như vậy,
chưa biết đọc thế nào cho hay, khả năng cảm thụ văn học của học sinh còn hạn chế.
Vậy đâu là nguyên nhân dẫn đến tình trạng đọc diễn cảm của học sinh chưa đạt chất
lượng cao? Qua quá trình giảng dạy lớp 4, tôi nhận thấy học sinh đọc diễn cảm chưa tốt là do
nhiều nguyên nhân.
2.2. Nguyên nhân của thực trạng
2.2.1. Đọc không đúng chỗ ngắt giọng
Đọc sai chỗ ngắt giọng phản ánh một cách hiểu sai nghĩa hoặc ít ra là một cách đọc
không để ý đến nghĩa. Vì vậy đọc ngắt giọng đúng là mục đích của dạy đọc thành tiếng, vừa
là phương tiện giúp học sinh chiếm lĩnh nội dung bài.
Lỗi học sinh mắc phải khi đọc những bài văn xuôi, thường ngắt giọng sai ở những câu
văn dài có cấu trúc ngữ pháp phức tạp.
Ví dụ: Bài: Đôi giày ba ta màu xanh
Tôi tưởng tượng nếu mang nó/ vào chắc bước đi sẽ nhẹ và nhanh hơn, tôi sẽ chạy trên
những con đường đất mịn trong làng trước/ cái nhìn thèm muốn của các bạn tôi.
Ví dụ: Bài: Truyện cổ nước mình
Với thơ lục bát các em thường ngắt nhịp 2/2/2 (6 tiếng), 4/4 (8 tiếng)
Ví dụ: Vàng cơn/ nắng trắng/ cơn mưa
Con sông chảy có/ rặng dừa nghiêng soi.
Những trường hợp trên đã bị xem là ngắt giọng sai vì đã tách một từ ra làm hai, tách
từ chỉ loại với danh từ, tách danh từ ra khỏi định ngữ đi kèm, ngắt giọng sau một hư từ.
2.2.2. Lỗi về đọc không đúng kiểu câu
Học sinh chỉ biết đọc đều cho tất cả các loại câu: kể, khiến, cảm, hỏi. Học sinh không
biết cách thể hiện khi nào thì thể hiện ngữ điệu yếu, ngữ điệu mạnh, ngữ điệu xuống, ngữ điệu
lên.
* Ngữ điệu lên xuất hiện ở các câu hỏi.
Ví dụ: - Ai xui con thế? (Thưa chuyện với mẹ)
* Ngữ điệu yếu, nghỉ hơi dài sau chỗ có dấu chấm lửng.
Ví dụ: Đôi môi tái nhợt, áo quần tả tơi thảm hại… (Người ăn xin)
* Ngữ điệu mạnh xuất hiện ở câu cảm và câu khiến.
Ví dụ: Ôi chao! Chú chuồn chuồn nước mới đẹp làm sao?
(Con chuồn chuồn nước)
2.2.3. Lỗi về tốc độ đọc
Ở những văn bản đòi hỏi phải thể hiện tốc độ đọc nhanh, khi yêu cầu đặt ra như thế
học sinh thường hiểu là với văn bản này phải đọc liến thoắng đọc nhanh đến nỗi người nghe
không thể nào theo dõi được hoặc đối với những văn bản yêu cầu đặt ra là đọc chậm rãi thì
học sinh lại đọc quá chậm: đọc từng tiếng một rời rạc như có cảm giác học sinh vừa đọc vừa
dừng lại để đánh vần.
2.2.4. Lỗi về cường độ
Khi nói đến sử dụng cường độ trong đọc diễn cảm cần phải nói đến chuyện dạy đọc to
cho học sinh. Đọc phải đủ lớn để các bạn ngồi ở vị trí xa nhất cũng có thể nghe được. Nhưng
thực tế trong một lớp học vẫn còn tồn tại một số học sinh đọc quá nhỏ thậm chí giọng đọc
phát ra không đủ để cho bạn ngồi cùng bàn có thể theo dõi được.
2.2.5. Lỗi về cao độ
Thể hiện cao độ khi đọc là muốn nói đến chỗ lên giọng, xuống giọng. Học sinh ở lớp
khi đọc bài còn tùy tiện lên giọng xuống giọng sau mỗi câu mà không biết chỗ đó có dụng ý
nghệ thuật gì.
3. Các biện pháp đã tiến hành
3.1. Biện pháp 1: Giáo viên cần chuẩn bị kĩ bài dạy và phân loại đối tượng học sinh
3.1.1. Mục tiêu
Giúp giáo viên xác định được mục tiêu, thể loại của văn bản để tìm ra giọng đọc phù
hợp. Giáo viên có sự chuẩn bị kĩ bài dạy, có những phương pháp, hình thức dạy đối với từng
văn bản.
Giúp giáo viên phân loại được học sinh đọc tốt và đọc kém trong lớp, từ đó có những
biện pháp phù hợp với từng đối tượng học sinh.
3.1.2. Cách tiến hành
Trước hết muốn rèn cho học sinh đọc thành tiếng đúng thì giáo viên phải đọc hay. Để
đạt được yêu cầu trên thì giáo viên phải rèn luyện bản thân mình đọc đúng, đọc hay. Trước khi
soạn bài, giáo viên cần xác định được mục tiêu của nội dung bài dạy, xác định rõ thể loại văn
bản để tìm ra giọng đọc phù hợp với văn bản đó. Giáo viên luyện đọc mẫu ở nhà, có ý thức tự
điều chỉnh mình đọc đúng hơn, hay hơn, nếu có thể ta sử dụng máy ghi âm ghi lại giọng đọc
của mình điều này sẽ giúp mình phát hiện ra các nhược điểm để tự mình điều chỉnh, sửa chữa.
Giáo viên nên dành thời gian cho việc soạn bài và thiết kế các hoạt động cụ thể của thầy và
trò ở từng đoạn của bài. Giáo viên phải chú ý đến khâu rèn đọc cho học sinh, chú ý đến đối
tượng học sinh đọc chưa đúng. Nhất là ở những phần luyện đọc, giáo viên nên sửa chữa, rèn
dứt điểm cho học sinh phát âm ở những lỗi mà em đó hay phát âm sai hoặc đọc chưa đúng.
Giáo viên cần tham khảo nội dung sách hướng dẫn giảng dạy để lựa chọn nội dung,
phương pháp, hình thức học tập phù hợp với đối tượng của lớp mình. Sưu tầm đồ dùng dạy
học, tranh ảnh minh hoạ phục vụ cho bài dạy để học sinh hứng thú học tập, tiếp thu bài sâu
hơn. Giáo viên cần chú ý đến yêu cầu phân môn Tập đọc: đó là rèn đọc.
Qua tìm hiểu điều tra để nắm chắc đối tượng học sinh, đặc biệt là về kĩ năng đọc, tôi
đã phân loại học sinh theo ba đối tượng:
- Đối tượng 1: Học sinh biết đọc diễn cảm
- Đối tượng 2: Học sinh mới chỉ biết đọc to, rõ, lưu loát
- Đối tượng 3: Học sinh đọc nhỏ, ấp úng
Dựa vào đó, tôi đã sắp xếp chỗ ngồi cho học sinh, những em yếu ngồi cạnh những em
đọc khá, đọc tốt để tạo thành đôi bạn cùng tiến. Các em sẽ giúp nhau đọc tốt hơn trong quá
trình luyện đọc theo nhóm, theo cặp.
Khi thiết kế bài dạy, tôi luôn chú ý đến việc phát triển năng lực học sinh. Tôi luôn tự
đặt ra những câu hỏi: Học sinh có thể đọc sai ở những từ nào? Câu văn (câu thơ) nào học sinh
khó ngắt hơi đúng? Nên chọn đoạn nào để hướng dẫn học sinh đọc diễn cảm? Cách tổ chức
các hoạt động đó như thế nào? … Tôi luôn cố gắng trình bày ngắn gọn song thể hiện rõ từng
bước và có sự phân loại kiến thức cho phù hợp với từng đối tượng học sinh trong lớp.
Tôi tiến hành theo quy trình như sau:
1. Mở đầu:
- Đặt câu hỏi, câu đó vui, kể chuyện, nêu một tình huống, tổ chức trò chơi, kiểm tra
bài cũ hoặc kiến thức liên quan đến tiết học, ....
- GV nhận xét và kết nối để giới thiệu bài.
2. Hình thành kiến thức mới
a) Hướng dẫn HS luyện đọc
- GV (HS khá, giỏi) đọc mẫu.
- Cả lớp đọc thầm và chia đoạn.
- HS đọc nối tiếp đoạn lần 1:
+ HS phát hiện và nêu từ khó đọc. HS luyện đọc từ khó (cá nhân, nhóm).
- HS đọc nối tiếp đoạn lần 2:
+ Ở mỗi đoạn HS đọc chú giải, GV kết hợp giải thích thêm.
+ GV cho HS nêu câu dài, câu khó đọc.
+ HS luyện đọc câu (cá nhân, nhóm).
+ Nêu cách đọc mỗi đoạn, từ cần nhấn giọng.
- HS luyện đọc nhóm, gọi 1-2 nhóm đọc.
- 1 HS đọc toàn bài.
b) Hướng dẫn HS tìm hiểu bài
- Lựa chọn hình thức dạy học thích hợp để tổ chức cho HS trả lời các câu hỏi trong
SGK, câu hỏi mở rộng và tìm các ý của bài, nội dung bài.
- GV nhận xét, kết luận.
- HS nhắc lại nội dung bài.
- Yêu cầu HS tìm giọng đọc toàn bài.
- GV hướng dẫn, điều chỉnh cách đọc.
- 1 HS đọc toàn bài.
3. Luyện tập, thực hành
- Hướng dẫn đọc diễn cảm 1 đoạn.
+ 1-2 HS đọc mẫu.
+ Cả lớp đọc thầm để tìm cách đọc diễn cảm.
+ GV đọc mẫu (nếu cần).
+ HS luyện đọc diễn cảm theo cặp. GV giúp đỡ, sửa chữa.
+ HS thi đọc diễn cảm.
Lưu ý:
- Việc hướng dẫn đọc diễn cảm hay luyện đọc lại cần được vận dụng một cách linh
hoạt. Tùy trường hợp, GV có thể áp dụng các biện pháp khác nhau như đọc truyện theo vai,
thi đọc tốt một đoạn văn (khổ thơ) hoặc cả bài, tổ chức trò chơi học tập có tác dụng luyện
đọc,...
- Mỗi đoạn văn (khổ thơ) có thể được đọc với nhiều cách khác nhau. GV chỉ sửa chữa
những cách đọc không phù hợp với nội dung của đoạn, tránh áp đặt, hạn chế sự cảm thụ và
sáng tạo của HS.
* Học thuộc lòng (Đối với những bài có yêu cầu học thuộc lòng)
+ HS tự nhẩm học thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn theo chỉ định trong
SGK. Đối với những lớp yếu, GV có thể áp dụng một số biện pháp giúp HS học thuộc lòng.
+ GV tổ chức cho HS thi học thuộc lòng các khổ thơ, bài thơ hay đoạn văn vừa học
thuộc.
4. Vận dụng
* Hoạt động ứng dụng:
- Tổ chức trò chơi, củng cố bài học: Hướng dẫn HS chốt lại nội dung chính hoặc ý
nghĩa của bài tập đọc.
- Đọc những câu chuyện cùng chủ đề.
* Hoạt động sáng tạo:
- Đọc lại câu chuyện theo vai một nhân vật trong câu chuyện.
- Vẽ tranh minh hoạ câu chuyện.
- Giao nhiệm vụ cụ thể về nhà đối với từng đối tượng hoặc từng nhóm đối tượng HS.
(Có giáo án minh hoạ bài Người ăn xin – Phụ lục)
3.1.3. Kết quả
Nhờ chuẩn bị kĩ bài học, giáo viên chủ động trong các hình thức dạy học đối với từng
bài dạy, có giọng đọc phù hợp với yêu cầu của bài. Từ đó học sinh dễ dàng xác định được
giọng đọc của bài, đọc theo mẫu tốt hơn.
3.2. Biện pháp 2: Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài trước tiết học và trong giờ học
3.2.1. Mục tiêu
Học sinh chủ động đọc bài, hiểu sơ qua về nội dung văn bản, nắm được các từ khó
đọc, giúp học sinh tiếp thu bài hiệu quả hơn.
3.2.2. Cách tiến hành
Ở nhà, tôi yêu cầu học sinh đọc kĩ bài nhiều lần cho trôi chảy và chuẩn bị trước phần
câu hỏi, tìm hiểu nội dung bài trong sách giáo khoa, đề ra các yêu cầu phù hợp với từng đối
tượng học sinh. Có đọc trước bài ở nhà, học sinh mới biết được từ nào khó đọc, hay đọc sau
để đến lớp nghe cô hướng dẫn, sửa chữa. Ngoài ra tôi nhắc nhở các em nên tìm đọc các quyển
sách hay, đọc truyện phù hợp với thiếu nhi để rèn thói quen đọc sách nhằm kích thích sự hứng
thú với việc đọc.
Ở lớp, tôi luôn chú ý đến tư thế đọc của học sinh, khi đọc cần ngồi ngay ngắn, phải
bình tĩnh, tự tin, không hấp tấp. Khi đứng đọc, tư thế phải đàng hoàng, thoải mái, sách phải
được mở rộng và cầm đúng cách. Tôi luôn nhắc cho học sinh hiểu được đọc thành tiếng là đọc
cho cô và tất cả các bạn trong lớp cùng nghe nên cần đọc với âm lượng vừa phải, đủ cho tất cả
nghe rõ mà cũng không cần đọc quá to. Đối với học sinh đọc quá nhỏ, tôi kiên nhẫn luyện đọc
cho các em và động viên các em đọc to dần lên. Tôi luôn khuyến khích học sinh mạnh dạn
xung phong đọc, tích cực học tập. Khi đọc nhóm, các em cần tập trung chú ý đọc bài và nghe
bạn đọc để nhận xét, bổ sung.
3.2.3. Kết quả
Từ chỗ chưa hứng thú, chưa tự giác luyện đọc, đa số học sinh trong lớp đã tự giác đọc
bài và chuẩn bị trước bài tập đọc ở nhà. Các em giới thiệu cho nhau về các quyển sách hay mà
mình đã đọc nên tinh thần thi đua nhau trong việc rèn kĩ năng đọc được nâng cao hơn.
3.3. Biện pháp 3: Hướng dẫn học sinh luyện đọc đúng, đọc lưu loát văn bản
3.3.1. Mục tiêu
Giúp học sinh có kĩ năng đọc đúng, đọc lưu loát văn bản.
3.3.2. Cách tiến hành
a. Luyện phát âm
Muốn học sinh đọc đúng, đọc ngắt giọng, nhấn giọng dẫn đến đọc diễn cảm, trước hết,
tôi phải giúp các em phát âm chuẩn, đọc đúng loại câu, đúng ngữ điệu câu, hiểu nội dung bài,
các em phải biết đặt mình vào vị trí của nhân vật, của tác giả.
Như chúng ta đã biết đa số giáo viên, học sinh địa phương chúng ta khi nói và đọc
thường mắc một số lỗi phát âm như: nói lẫn giữa các âm n/l. Ngoài ra, các học sinh ở nhiều
vùng miền khác nhau nên việc đọc, việc phát âm của các em cũng không mang tính đồng
nhất : s - x, r - d, tr - ch... Vì vậy khi phát âm đã làm mất đi cái hay, cái tự nhiên và điều này
đã làm cho các em thấy xấu hổ và mất tự tin khi đọc; hạn chế việc đọc của các em làm mất đi
sự hứng thú đối với môn học này. Chính vì vậy, khi dạy Tập đọc, chúng ta phải chú ý quan
tâm đến tất cả các đối tượng học sinh trong lớp mình và khi dạy học, chúng ta phải phụ thuộc
vào trình độ của học sinh, từng vùng miền để hướng dẫn cho các em đọc đúng, phát âm
chuẩn. Nếu học sinh đọc chưa tốt, phát âm chưa đúng thì giáo viên phải dừng lại luyện đọc
cho đúng. Nếu học sinh đọc đúng, đọc tốt rồi thì chúng ta mới luyện đọc hay, đọc diễn cảm.
Động viên các em và giao nhiệm vụ cho cả lớp cùng giúp bạn bằng cách không trêu ghẹo mà
tạo cơ hội cho bạn sửa chữa.
b. Luyện ngắt giọng
Những lỗi sai trên là do người đọc không tính đến cấu trúc ngữ pháp chủ ngữ và vị
ngữ, chỗ ngắt giọng không được rơi vào sau hư từ hoặc trong cụm một từ, một từ lại tách ra
làm hai. Để chữa được những lỗi này giáo viên cần hướng dẫn cho học sinh.
Thường ngắt giọng giữa ranh giới chủ ngữ và vị ngữ.
Ví dụ: Lá trầu / khô giữa cơi trầu
Truyện Kiều/ gấp lại trên đầu bấy nay. (Bài Mẹ ốm)
Tuy những trường hợp có thể nói thơ là sự “phân vân” giữa nhạc và ý nên chỗ cần
luyện ngắt nhịp là chỗ mà nhạc thơ theo áp lực tự nhiên và ý nghĩa - ngữ pháp không khớp
với nhau. Không phải bao giờ cũng ngắt nhịp theo ý. Có trường hợp phải ưu tiên cho nhạc. Ví
dụ: Trong câu lục bát chỗ ngắt nhịp nhất thiết sẽ rơi vào sau tiếng thứ 6 của câu 8 tiếng nếu nó
được gieo vần.
Ví dụ: Sáng ra thơm đến ngẩn ngơ
Dòng sông đã mặc bao giờ/ áo hoa. (Bài Dòng sông mặc áo)
Tuy nhiên cũng không nên cứng nhắc khi dạy ngắt giọng, giáo viên phải biết rằng
trong cùng một câu lại có nhiều cách ngắt giọng. Vấn đề là giáo viên nên chọn cách ngắt
giọng nào cho hay hơn.
Ví dụ: Hôm nay đọc báo Thiếu niên Tiền phong, mình rất xúc động được biết / ba của
Hồng đã hy sinh trong trận lũ lụt vừa rồi.
Cách ngắt nhịp trên là đúng, nhưng cũng có thể ngắt nhịp thành: Hôm nay, đọc báo
Thiếu niên Tiền phong, mình rất xúc động / được biết ba của Hồng đã hy sinh trong trận lũ
lụt vừa rồi.
c. Luyện về ngữ điệu
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu yếu: Hầu hết tất cả các bài văn xuôi hay thơ khi được đặt
dấu câu ba chấm (…) đọc đến đây chúng ta phải hạ giọng thấp hơn so với giọng đọc ban đầu.
Dấu ba chấm ở đây chỉ sự ngập ngừng chưa nói hết thì phải đọc với ngữ điệu yếu.
Ví dụ: Bố khó thở lắm… (Nỗi dằn vặt của An drây – ca)
* Cách chữa lỗi về ngữ điệu mạnh: Hầu hết các kiểu câu khiến sẽ có những điệu mạnh
hoặc trong một ngữ đoạn, ngữ điệu mạnh nêu bật những từ người ta muốn nhấn mạnh,đặc biệt
là lúc này ngữ điệu mạnh trùng với trọng âm. Ví dụ: Khi đọc một đoạn trong bài: “Đôi giày ba
ta màu xanh” được đọc nhấn các từ : mấp máy, ngọ nguậy, tưng tưng. Còn những câu cảm: Ôi
chao đôi giày mới đẹp làm sao! được đọc với giọng trầm trồ thán phục.
* Cách chữa về lỗi thể hiện ngữ điệu xuống (hạ xuống): thường dùng để kết thúc câu
kể (câu tường thuật). Vì đường ranh giới câu không chỉ thể hiện ở chỗ ngừng mà còn ở ngữ
điệu kết thúc đi xuống. Nếu ta không hạ giọng ở cuối mỗi câu sẽ không tạo ra sự luân chuyển
nhịp nhàng cao độ của các câu. Vì vậy khi đọc chóng bị mệt và người nghe khó theo dõi.
Ngoài ra, ngữ điệu xuống thường dùng để đọc lời tác giả trong những văn bản xen lẫn lời tác
giả và lời nhân vật, nhất là khi lời tác giả lọt vào những lời nhân vật.
* Cách chữa lỗi về lên giọng: Khi đọc câu hỏi cần phải lên giọng.
Ví dụ: Có câm mồm không? phải cao giọng ở cuối câu. Tuy nhiên những câu hỏi kết
thúc về ngữ khí thì không lên giọng.
Ví dụ: Chúa đã xơi “mầm đá” chưa ạ ?
d. Luyện tập về tốc độ đọc: Để chữa lỗi về thể hiện tốc độ giáo viên cần hướng dẫn:
- Khi đọc những văn bản có nội dung miêu tả một công việc dồn dập khẩn trương thì
phải đọc nhịp nhanh. Nhưng không có nghĩa là các em phải đọc một cách liến thoắng mà đọc
với tốc độ nhanh hơn bình thường để người nghe có thể theo dõi được.
Ví dụ: Chơi một lúc mới nhớ lời mẹ dặn, con vội chạy một mạch đến cửa hàng/ mua
thuốc/ rồi mang về nhà.
- Khi đọc những văn bản có cảm xúc phấn khởi tự hào cần thể hiện tốc độ không quá
chậm.
- Là một bài văn xuôi trữ tình, chan chứa cảm xúc cần phải được đọc chậm. Đọc với
tốc độ chậm là chậm so với mức bình thường chứ không phải các em đọc chậm từng tiếng
một, sẽ làm cho người nghe hiểu sai về nội dung văn bản.
e. Luyện tập về cường độ
Giáo viên phải tập cho tất cả học sinh trong lớp mình có thói quen đọc đúng cường độ
nghĩa là phải đọc đủ lớn để cho cả lớp và cô giáo có thể nghe được. Giáo viên giáo dục cho
học sinh hiểu được tác hại của việc đọc quá nhỏ, thì cô và các bạn sẽ không theo dõi được, mà
không theo dõi được thì không thể sửa sai cách đọc cho chúng ta được.
g. Luyện tập về cao độ
Như đã nêu ở phần cách chữa lỗi về ngữ điệu ở mỗi loại kiểu câu lại có một ngữ điệu
lên, xuống khác nhau. Tuy nhiên vẫn tồn tại trường hợp ngoại lệ. Ví dụ có câu hỏi nhưng khi
đọc không cần lên giọng ở cuối câu. Chẳng hạn khi đọc: “Bầm ơi, có rét không Bầm?”. Đây
là kiểu câu hỏi nhưng khi đọc ta không lên giọng ở cuối câu mà lại hạ giọng ở cuối câu. Vì
đây là câu hỏi thể hiện sự trăn trở của người con nơi chiến trận đang nghĩ về người mẹ yêu
quý của mình, một câu hỏi không cần có câu trả lời. Như vậy tùy thuộc vào từng văn bản cụ
thể mà hướng dẫn học sinh thể hiện đúng cao độ.
3.3.3. Kết quả
Học sinh đọc đúng tiếng, từ, ngắt nghỉ hơi đúng ở các dấu câu, ở chỗ tách các cụm từ.
Học sinh đọc lưu loát văn bản với tốc độ phù hợp.
3.4. Biện pháp 4: Hướng dẫn học sinh luyện đọc diễn cảm
3.4.1. Mục tiêu
Giúp học sinh đọc diễn cảm văn bản với giọng đọc, biểu cảm phù hợp.
3.4.2. Cách tiến hành
a. Cung cấp mẫu giúp HS tri giác các chỉ số âm thanh của bài đọc một cách cụ thể, từ
đó có ý thức luyện tập theo mẫu.
Để thực hiện tốt bước này, cần tuân thủ các yêu cầu: giọng đọc mẫu thể hiện chính xác
các chỉ số âm thanh, phù hợp với nội dung bài đọc, phô diễn được cảm xúc mà tác giả đã gửi
gắm trong bài đọc một cách sáng tạo. Trong thực tế, chúng ta thường đọc mẫu. Tuy nhiên, để
tăng hứng thú cho HS trong giờ học, chúng ta cần thể hiện mẫu bằng nhiều đối tượng hoặc
phương tiện khác nhau (GV/ HS khá giỏi/ băng hình, băng tiếng, ....). Khi đọc mẫu hoặc cung
cấp mẫu, chúng ta lưu ý vị trí thích hợp để cả lớp theo dõi, quan sát mẫu tốt; cần tạo không
khí học tập, tâm thế cho HS trước khi đọc mẫu (thái độ của HS biết chờ đợi nghe giọng đọc
mẫu, im lặng, trật tự,...).
b. Phân tích các chỉ số âm thanh của giọng đọc mẫu giúp HS hiểu rõ các yêu cầu
trong giọng đọc mẫu một cách có ý thức, từ đó tránh bắt chước giọng đọc mẫu một cách máy
móc.
Xuất phát từ đặc điểm nhận thức của HS và nội dung dạy học (thuộc bình diện ngữ âm
- cái biểu hiện của ngôn ngữ ), chúng ta lưu ý phân tích các chỉ số âm thanh kết hợp việc thể
hiện giọng đọc để việc phân tích giúp HS hình dung cách đọc một cách cụ thể; cách phân tích
cần dễ hiểu, không dùng thuật ngữ ngôn ngữ học nhằm phù hợp với nhận thức mang tính trực
quan, cụ thể của HS. Khi phân tích, cần tránh hiện tượng áp đặt, nên hé mở định hướng để HS
có ý thức tái tạo giọng đọc theo cảm xúc của bản thân một cách tốt nhất. Chúng ta cần quy
định hệ thống kí hiệu đánh dấu các chỉ số âm thanh cụ thể của bài đọc (lên giọng, xuống
giọng, nhấn giọng,...). Trong thực tế, chúng ta thường sử dụng hệ thống kí hiệu sau: /: chỗ
ngắt giọng, //: chỗ ngừng giọng, ↑: chỗ lên giọng, ↓: chỗ xuống giọng, … nên chọn đoạn tiêu
biểu - chứa các trường hợp khó đọc hoặc thể hiện cảm xúc, tư tưởng cao của tác phẩm.
Ví dụ: Bài “Hoa học trò” nên chọn đoạn “Phượng không phải là một đóa… đậu khít
nhau” vì đoạn này chứa nhiều câu có ngữ điệu khác nhau, chứa nhiều từ biểu cảm cần nhấn
giọng…
Khi phân tích, chúng ta cần tổ chức lớp học bằng nhiều hình thức khác nhau: cá nhân,
nhóm, tập thể lớp,... và nên phân công các nhóm, các cá nhân từng nội dung cụ thể để đảm
bảo thời gian bài học, giờ học (trở lại ví dụ trên, chúng ta nên chia lớp thành các nhóm, yêu
cầu từng nhóm thực hiện các nhiệm vụ khác nhau. Có thể phân chia như sau: nhóm 1: xác
định cách ngắt nhịp / phát hiện, đánh dấu các từ ngữ cần nhấn giọng, lên giọng, xuống
giọng,....; nhóm 2: xác định tốc độ đọc câu; để có cơ sở khoa học, việc phân tích cần gắn với
việc tìm hiểu bài đọc (gắn với các câu hỏi: Vì sao tốc độ giọng đọc phải nhanh /chậm?) …
c. Luyện theo giọng đọc mẫu giúp HS rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm theo định hướng
của mẫu. Bước này chiếm nhiều thời gian và được xem là trọng tâm của biện pháp luyện đọc
theo mẫu. Cường độ luyện tập ở bước này cao giúp HS ghi nhớ và vận dụng tốt mẫu đã được
nghe và phân tích. Để tránh nhàm chán đối với HS khi phải luyện tập nhiều, hình thức luyện
tập cần phong phú (cá nhân, nhóm, thi đọc, đọc phân vai, đọc nối tiếp,...). Khi luyện tập cần
bảo đảm thời gian của giờ học, mục tiêu của bài học. Thực hiện bước này bằng các thao tác cơ
bản: chọn hình thức tổ chức luyện tập (cá nhân/ nhóm/ tập thể); giao nội dung luyện tập; tổ
chức luyện tập.
d. Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc của bài đọc giúp HS
điều chỉnh, sửa chữa, ý thức sâu sắc về cách đọc diễn cảm bài đọc. Trong thực tế, bước này
thường kết hợp với bước 3; chúng ta nên tổ chức nhận xét điều chỉnh theo nhóm hoặc tập thể
lớp. Cách thức thực hiện bước này thường là: tổ chức nhận xét, điều chỉnh; khái quát về yêu
cầu bài đọc.
3.4.3. Kết quả
Học sinh có kĩ năng đọc diễn cảm văn bản, thể hiện đúng giọng đọc và nhấn giọng
chính xác.
3.5. Biện pháp 5: Tích cực đổi mới hình thức dạy học
3.5.1. Mục tiêu
Giúp học sinh hứng thú hơn trong việc rèn kĩ năng đọc diễn cảm bài tập đọc đã học.
3.5.2. Cách tiến hành
Sau khi các em nắm được các yêu cầu, cách đọc diễn cảm, tôi thường tổ chức các trò
chơi ở các tiết ôn tập giữa kì và cuối kì hay ở những giờ hướng dẫn học bằng trò chơi: Hái
hoa đọc diễn cảm.
Giáo viên chuẩn bị một cành cây có gắn các bông hoa bằng giấy. Mỗi bông hoa ghi tên
bài tập đọc đã có kèm đoạn văn, đoạn thơ cần thi đọc diễn cảm (học thuộc lòng). Sau đó giáo
viên làm người điều khiển trò chơi. Chọn một nhóm giám khảo gồm ba đến bốn em học sinh
khá giỏi đại diện các tổ nhận xét, đánh giá kết quả thi đọc diễn cảm của từng học sinh. Từng
học sinh lần lượt xung phong lên hái hoa để thi đọc diễn cảm theo phiếu và thực hành đọc
theo yêu cầu của phiếu đó. Học sinh đọc xong, bán giám khảo sẽ đánh giá xếp loại. Nếu học
sinh đọc chưa tốt, ban giám khảo cho học sinh hái hoa lần hai. Kết thúc trò chơi giáo viên ghi
tên từng học sinh tham gia chơi trên bảng, cả lớp nhận xét, bình chọn học sinh đọc diễn cảm
tốt nhất để biểu dương và trao phần thưởng.
Giáo viên có thể thay đổi trò chơi hái hoa bằng các trò chơi khác nhau như: hái sao,
nhổ cà rốt, dọn dẹp đại dương,…. Giáo viên nên xây dựng các trò chơi trên powerpoint bằng
các hình ảnh, hiệu ứng sinh động, giúp học sinh hứng thú hơn với tiết luyện đọc diễn cảm.
3.5.3. Kết quả
Qua việc tích cực đổi mới hình thức luyện đọc diễn cảm cho học sinh, tôi thấy học
sinh cả lớp đều rất thích và hăng hái tham gia luyện đọc diễn cảm. Học sinh đọc diễn cảm tiến
bộ rõ rệt ở tất các các bài tập đọc và các môn học khác.
4. Kết quả SKKN
Nhờ vận dụng những biện pháp đã nêu trên, việc đọc đúng, đọc diễn cảm của HS lớp
tôi đã có chuyển biến rõ rệt so với đầu năm học, học sinh thì không còn đọc ngắc ngứ, đọc
không để ý đến nghĩa hoặc sai nghĩa, giọng đọc đều đều, rời rạc,... lên xuống giọng tùy tiện
mà không biết chỗ đó tác giả có dụng ý nghệ thuật gì. Dần dần từng bước các em đã biết đọc
diễn cảm ở mỗi bài đọc. Học sinh hiểu bài hơn, đồng thời góp phần làm cho học sinh diễn đạt
tốt hơn trong phân môn tập làm văn. Việc biết đọc diễn cảm giúp các em bồi dưỡng thêm các
kĩ năng trong giao tiếp, các em đã mạnh dạn và tự tin hơn khi tham gia vào các hoạt động tập
thể,... khi giao tiếp với người lớn, thầy cô, với bạn bè và mọi người xung quanh như: nói lời
chào hỏi, cảm ơn, xin lỗi, lời mời, lời đề nghị, lời yêu cầu,...
PHẦN III. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ
1. Kết luận
Qua một năm thực nghiệm về rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 4A9, tôi đã
vận dụng những biện pháp trên và kết quả đạt được rất khả quan:
Bảng số liệu khảo sát đọc diễn cảm của học sinh lớp 4A9
Đọc to, Đọc ngắt Đọc diễn cảm đúng
lưu loát nghỉ Lớp Số HS đúng
SL TL SL TL SL TL
4A9 53 33 62,3% 30 56,6% 22 41,5%
Với những biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh mà tôi đã áp dụng và đạt
được kết quả như đã nêu trên, tôi thấy rằng để đạt được hiệu quả giờ lên lớp, học sinh đọc
hay, đọc diễn cảm thì trước hết người giáo viên phải đọc diễn cảm. Bản thân mỗi giáo viên
phải tích cực khắc phục những hạn chế về kĩ năng đọc của mình, thường xuyên luyện đọc
diễn cảm để hướng dẫn học sinh đọc tốt.
Khi dạy đọc cho học sinh, ta phải hết sức chú ý việc chữa lỗi phát âm cho học sinh, về
cách ngắt giọng, về ngữ điệu, tốc độ đọc, cường độ, cao độ,...
Sử dụng nhiều biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh theo các bước:
- Cung cấp mẫu, giúp học sinh tri giác các chỉ số âm thanh của bài đọc một cách cụ
thể, từ đó có ý thức luyện tập theo mẫu.
- Phân tích các chỉ số âm thanh của giọng đọc mẫu giúp học sinh hiểu rõ các yêu cầu
trong giọng đọc mẫu một cách có ý thức, từ đó tránh bắt chước giọng đọc mẫu một cách máy
móc.
- Luyện theo giọng đọc mẫu giúp học sinh rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm theo định
hướng của mẫu. Bước này chiếm nhiều thời gian và được xem là trọng tâm của biện pháp
luyện đọc theo mẫu.
- Nhận xét, sửa chữa, điều chỉnh, khái quát hóa về cách đọc của bài đọc giúp học sinh
điều chỉnh, sửa chữa, ý thức sâu sắc về cách đọc diễn cảm bài đọc.
2. Khuyến nghị
2.1. Đối với Phòng Giáo dục và Đào tạo Thanh Trì
Mở thêm nhiều chuyên đề với nội dung sinh hoạt về kĩ năng giao tiếp, kĩ năng thuyết
trình, kĩ năng đọc diễn cảm,... để giáo viên có cơ hội giao lưu, trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau.
2.2. Đối với nhà trường
Tổ chức thêm nhiều hoạt động ngoại khóa như: Thi đọc diễn cảm, thuyết trình văn
học, thi kể chuyện, thi dẫn chương trình,... để các em có điều kiện trao đổi, học hỏi lẫn nhau
và phát huy năng lực sẵn có.
2.3. Đối với giáo viên
- Rèn nhiều hơn đối tượng học sinh yếu để các em vươn lên cùng các bạn.
- Mỗi giáo viên cần xác định vai trò chủ đạo của mình trong việc đổi mới phương
pháp dạy học. Trước mỗi bài dạy cần tìm hiểu kĩ nội dung bài học, sưu tầm tư liệu phục vụ
cho bài giảng; lựa chọn phương pháp dạy học phù hợp với đối tượng học sinh. Người giáo
viên luôn phải chủ động tự học, tự bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ, bồi dưỡng vốn sống,
vốn từ ngữ.
- Đối với những bài khó mà mình còn vướng mắc, giáo viên cần mạnh dạn, chủ động
đưa ra bàn bạc trong buổi sinh hoạt chuyên môn. Đồng thời cần phải tích cực dự giờ, thăm lớp
để học hỏi kinh nghiệm bạn bè, đồng nghiệp.
Trên đây, tôi đã mạnh dạn đưa ra một số ý kiến nhằm giúp cho học sinh rèn kĩ năng
đọc diễn cảm đạt kết quả tốt hơn. Tôi rất mong nhận được sự quan tâm góp ý của các cấp lãnh
đạo và bạn bè đồng nghiệp để tôi tiến bộ hơn và thêm kinh nghiệm giảng dạy.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thanh Trì, ngày 15 tháng 4 năm 2022
Người viết
Vũ Kim Ngân
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phương pháp dạy học Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo dục
2. Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở Tiểu học – Tác giả: Lê Phương Nga - Nhà xuất bản Đại
học Sư phạm
3. Tài liệu bồi dưỡng Giáo viên dạy các môn học lớp 4 - Bộ Giáo dục và Đào tạo
4. Hỏi - đáp về dạy học Tiếng Việt - Nhà xuất bản Giáo dục
5. Sổ tay kiến thức Tiếng Việt Tiểu học - Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội
6. SGK Tiếng Việt 4 (2 tập) - Nhà xuất bản Giáo dục
7. SGV Tiếng Việt 4 (2 tập) - Nhà xuất bản Giáo dục
8. Hướng dẫn thực hiện chuẩn kiến thức kĩ năng các môn học ở Tiểu học – Nhà xuất bản Giáo
dục