intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sự thay đổi về thái độ của sinh viên trong quá trình học tập môn học Giáo dục thể chất

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

16
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hiện nay Giáo dục thể chất (GDTC) được coi là một bộ phận không thể thiếu trong chương trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục Đại học, GDTC đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển thể lực và phát triển tầm vóc thanh thiếu niên Việt Nam, tuy nhiên nhận thức của sinh viên về vai trò của môn học này chưa thật đúng đắn. Đề tài đã điều tra phỏng vấn 278 sinh viên năm thứ nhất của Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Mục tiêu nhằm nghiên cứu thái độ của sinh viên đối với học phần GDTC, các tiêu chí động lực học tập tác động đến những thay đổi thái độ học tập trong năm học.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sự thay đổi về thái độ của sinh viên trong quá trình học tập môn học Giáo dục thể chất

  1. SỰ THAY ĐỔI VỀ THÁI ĐỘ CỦA SINH VIÊN TRONG QUÁ TRÌNH HỌC TẬP MÔN HỌC GIÁO DỤC THỂ CHẤT Đặng Đức Hoàn Học viện Nông nghiệp Việt Nam TÓM TẮT Hiện nay Giáo dục thể chất (GDTC) được coi là một bộ phận không thể thiếu trong chương trình đào tạo tại các cơ sở giáo dục Đại học, GDTC đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển thể lực và phát triển tầm vóc thanh thiếu niên Việt Nam, tuy nhiên nhận thức của sinh viên về vai trò của môn học này chưa thật đúng đắn. Đề tài đã điều tra phỏng vấn 278 sinh viên năm thứ nhất của Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Mục tiêu nhằm nghiên cứu thái độ của sinh viên đối với học phần GDTC, các tiêu chí động lực học tập tác động đến những thay đổi thái độ học tập trong năm học. Kết quả nghiên cứu cho thấy: 23% sinh viên thay đổi thái độ từ tiêu cực và trung tính sang tích cực, 10% sinh viên trở nên tiêu cực hơn, nhưng 12% sinh viên có thái độ tiêu cực và trung lập đã không thay đổi thái độ trong suốt quá trình học tập. Thái độ của sinh viên đối với học phần GDTC bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các động lực như: “cải thiện trạng thái cảm xúc” (r = 0,452) và “tăng cường sức khỏe” (r = 0,402). Từ khóa: thái độ, giáo dục thể chất, bắt buộc, quá trình học tập, sinh viên. 1. MỞ ĐẦU Giáo dục thể chất (GDTC) trong trường đại học là một mặt giáo dục quan trọng không thể thiếu được trong sự nghiệp giáo dục và đào tạo, góp phần thực hiện mục tiêu: “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo nhân tài” cho đất nước. GDTC không những nâng cao sức khỏe mà còn tác động tích cực đến các mặt giáo dục khác, ví dụ như sẽ giúp hình thành cho con người những phẩm chất đạo đức cần thiết (ý chí, tính kiên nhẫn, lòng dũng cảm... ) và đem lại một sức khỏe cường tráng, sự tự tin vào bản thân. Mặc dù vậy, đối với sinh viên việc nhận thức tầm quan trọng của GDTC vẫn còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong thời kỳ công nghệ phát triển như hiện nay với sự gia tăng lối sống tĩnh, cường độ thể dục thể thao suy giảm đã ảnh hưởng tiêu cực đến thể chất, sức khỏe của sinh viên Việt Nam. Thêm vào nữa, theo tâm lý của các sinh viên phần lớn chỉ tập trung vào các môn học chuyên ngành mà thờ ơ, coi nhẹ việc học môn GDTC, trong suy nghĩ của các em chỉ coi môn học GDTC là môn phụ, cho dù đây là môn học bắt buộc trong nhà trường. Chính vì vậy, đa số các sinh viên có thái độ tiêu cực, thái độ học chống chế với môn học GDTC bắt buộc. Theo quan điểm của tâm lý học xã hội, thái độ là những niềm tin và cảm giác định trước cho chúng ta phản ứng đối với đồ vật, con người và sự kiện (Myers, 2009). Đó là niềm tin của một người, là kết quả của những cảm xúc mà họ trải qua và tích lũy, từ đó dẫn đến những hành động nhất định trong những tình huống xã hội nhất định (Jones & Colman, 1996). Thực tế cho thấy, thái độ của sinh viên đối với hoạt động thể chất và yếu tố lợi ích từ hoạt động thể chất sẽ ảnh hưởng đến mức độ tham gia hoạt động thể chất, cụ thể: những người được hưởng lợi ích từ việc tham gia hoạt động thể chất sẽ có thái độ tích cực đối với thể thao và khi đa số sinh viên có thái độ 550
  2. tích cực đối với hoạt động thể chất thì các hoạt động này sẽ được chấp nhận nhiều hơn; ngược lại những thái độ tiêu cực sẽ tạo ra rào cản đối với hoạt động này và làm giảm tác động tích cực của chúng (SalehNia et al., 2012). 2. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Khung lý thuyết nghiên cứu Nghiên cứu về mối quan hệ thái độ của sinh viên khi tham gia các học phần của môn học GDTC và các động lực được chứng minh bằng lý thuyết về kỳ vọng của Vroom (1964) với sự thể hiện về nhận thức trong tâm lý học. Theo lý thuyết này, xu hướng hành động của mọi người để mang lại kết quả mong muốn có thể được biểu diễn dưới dạng sơ đồ như hình 1. Hình 1: Sơ đồ thay đổi thái độ hành vi con người theo thuyết kỳ vọng Hành vi được xác định bởi niềm tin vào một kỳ vọng có thể thực hiện được, có liên quan đến các kết quả đạt được và sự hài lòng của cá nhân với những kết quả này. 2.2 Phương pháp nghiên cứu - Phương pháp điều tra phỏng vấn: phỏng vấn 278 sinh viên năm thứ nhất tại VNUA trong đó có 119 nữ sinh và 159 nam sinh, được thể hiện trong hình 2. Aerobic Bóng chuyền Bóng đá Bơi lội Điền kinh Aerobic Điền kinh 13% 20% Bóng chuyền 10% GDTC đại cương 39% Cầu lông 18% Hình 2: Số lượng sinh viên được khảo sát theo các môn học GDTC 551
  3. Bảng câu hỏi được sử dụng trong nghiên cứu bao gồm các nội dung: giới tính, độ tuổi, học phần GDTC mà sinh viên lựa chọn, sự thay đổi trong thái độ của học sinh đối với việc bắt buộc học các học phần GDTC, đánh giá về các tiêu chí động lực học tập. Trong đó các tiêu chí liên quan đến sự thay đổi về thái độ học tập học phần GDTC bắt buộc của sinh viên được đánh giá dựa theo thang điểm Likert 5 (Bảng 1). Bảng 1: Thang điểm đánh giá các tiêu chí liên quan đến sự thay đổi thái độ học tập đối với môn GDTC Thang điểm đánh giá (Likert 5) Tiêu chí đánh giá 1 2 3 4 5 Thái độ của SV Tiêu cực Khá tiêu cực Trung tính Khá tích cực Tích cực Hoàn toàn Không đồng Không ý Động lực Đồng ý Rất đồng ý không đồng ý ý kiến Hoạt động chuyên Rất kém Kém Trung bình Tốt Rất tốt môn của GV - Phương pháp phân tích, xử lý số liệu: Giá trị trung bình được tính cho mỗi tiêu chí. Các phương pháp thống kê toán học mô tả và suy luận đã được sử dụng để xử lý số liệu: trung bình cộng, độ lệch chuẩn, sai số trung bình cộng, hệ số Student, hệ số tương quan bằng Microsoft Office Excel. 3. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 3.1 Thực trạng thái độ của sinh viên đối với các hoạt động thể chất ở Học viện Nông nghiệp Việt Nam Thực tế cho thấy, thái độ đối với môn học GDTC ảnh hưởng trực tiếp đến mong muốn tham gia các lớp học thể chất của sinh viên khi bắt đầu học tại các trường đại học. Nhiều kết quả điều tra xã hội học về thói quen thể thao của thanh niên và sinh viên Việt Nam đã đề cập đến những lý do dẫn đến hành vi lười vận động của giới trẻ: nội dung môn học quá khó (16%), nhiệt huyết của giảng viên (2,2%), sợ mệt mỏi ảnh hưởng đến môn học khác (17,8%), và tố chất cơ thể không tốt (16,7%) (Đặng Đức Hoàn, 2020). Cụ thể, sinh viên cũng nhấn mạnh việc thiếu trình độ chuyên môn, nghiệp vụ sư phạm của giảng viên là nguyên nhân dẫn đến sự giảm sút hứng thú trong môn học GDTC (Ánh & Xuân, 2016). Thêm vào nữa, những rào cản đối với sinh viên đã được xác định là do ý thức thành tích, phát triển kỹ năng, cải thiện sức khỏe và cảm xúc, thiếu sự hỗ trợ của giảng viên. Một thái độ tích cực là yếu tố cần thiết thúc đẩy một hành động được duy trì lâu dài (Burton & Raedeke, 2008). Do đó, các giảng viên dạy môn học GDTC với hình ảnh năng động và có chuyên môn nghiệp vụ tốt sẽ là tấm gương và tạo cảm hứng thúc đẩy các hoạt động thể chất của sinh viên (Conlin, 2014). Như vậy, điều quan trọng đối với sinh viên là các lớp học GDTC phải diễn ra với sự có mặt của giảng viên GDTC với nghiệp vụ chuyên môn tốt, cũng như kỹ năng và hình thể đẹp. Tóm lại, các yếu tố thúc đẩy sinh viên tham gia hoạt động thể chất là: cơ sở vật chất đầy đủ và luôn sẵn sàng; vai trò dẫn dắt, năng lực của giảng viên; sự phát triển kỹ năng và ý thức thành tích; các khuyến nghị để cải thiện sức khỏe; tăng cường sức khỏe và niềm vui (cảm xúc tích cực). Nhìn chung, thói quen tham gia các hoạt động 552
  4. GDTC của sinh viên có mối quan hệ với sức khoẻ, cũng như thái độ đối với các hoạt động thể dục thể thao. Kết quả điều tra 278 sinh viên cho thấy: - Sinh viên có cơ hội lựa chọn loại hoạt động thể chất và có được các kỹ năng mới hoặc cải thiện các kỹ năng đã đạt được trước đó (phát triển kỹ năng, cải thiện thành tích thể thao); - Sinh viên có vấn đề về sức khỏe có cơ hội tăng cường sức khỏe bằng cách tham gia vào các môn thể thao phù hợp với năng lực cơ thể (nâng cao sức khỏe). 3.2 Đánh giá kết quả về sự thay đổi thái độ của sinh viên đối với hoạt động thể chất Khi nghiên cứu thái độ của sinh viên đối với việc bắt buộc học GDTC, sự tích cực trong thái độ của sinh viên có tăng lên rõ rệt từ 48% đến 60% (rất tích cực) và 13% đến 15% sinh viên có thái độ tích cực. Tương tự, lượng sinh viên có thái độ rất tiêu cực và tiêu cực đều giảm xuống một số lượng như nhau là 2% (Hình 3). ĐVT: % 70 60 60 50 48 40 30 21 11 15 20 6 8 13 10 8 10 0 Rất tiêu cực Tiêu cực Trung lập Tích cực Rất tích cực Đầu năm học Cuối năm học Hình 3: Thay đổi trong thái độ của sinh viên VNUA Như vậy, sự thay đổi về thái độ học tập của sinh viên đối với sự bắt buộc học GDTC có thể chia thành 3 nhóm: nhóm 1 - nhóm các sinh viên có thay đổi thái độ tích cực trong năm học (bao gồm các sinh viên thay đổi thái độ từ tiêu cực, trung lập sang tích cực); nhóm 2 – nhóm các sinh viên có thay đổi thái độ tiêu cực trong năm học (bao gồm các sinh viên chuyển biến từ thái độ rất tích cực, tích cực và trung lập sang tiêu cực và rất tiêu cực); nhóm 3 – những sinh viên giữ nguyên thái độ tiêu cực và trung lập trong suốt năm học. Những chuyển biến trong thái độ của sinh viên trong năm học được thể hiện ở hình 4. 553
  5. Hình 4: Những thay đổi về thái độ của sinh viên trong năm học Những sinh viên có thái độ rất tiêu cực, tiêu cực và trung lập trong đầu năm học đã có thay đổi sang tích cực và rất tích cực vào cuối năm với tỷ lệ 23%; trong đó thái độ tiêu cực, rất tiêu cực được thay đổi từ những sinh viên có thái độ trung lập, tích cực và rất tích cực chiếm tỷ lệ nhỏ hơn (10%). Và cũng còn tồn tại 12% sinh viên có thái độ tiêu cực và trung lập đã không thay đổi trong suốt quá trình học tập. Mối quan hệ giữa các tiêu chí động lực và thái độ của sinh viên đối với GDTC được thể hiện qua hệ số tương quan Pearson với mức ý nghĩa α = 0,05 (Bảng 2). Bảng 2: Mối quan hệ giữa các tiêu chí động lực và thái độ của sinh viên Tiêu chí động Toàn bộ sinh Nhóm 1 Nhóm 2 Nhóm 3 lực viên điều tra (n=65) (n=29) (n=33) (n=278) 1. 0,377 0,124 0,311 0,362 2. 0,402 0,197 0,281 0,350 3. 0,387 0,315 0,627 0,493 4. 0,452 0,231 0,497 0,494 5. 0,364 0,449 0,389 0,317 6. 0,311 0,146 0,429 0,335 7. 0,375 0,162 0,346 0,452 8. 0,204 0,033 0,267 0,140 9. 0,244 0,087 0,392 0,206 10. 0,232 0,069 0,114 -0,002 11. 0,322 0,155 0,408 0,113 Độ tin cậy (%) 0,124 0,253 0,367 0,361 Những thay đổi tích cực trong thái độ của sinh viên đối với việc bắt buộc học GDTC ở nhóm 1 có liên quan đến lợi ích của việc tham gia hoạt động thể chất đó là giúp họ tăng cường sức chịu đựng trước áp lực học tập quá nặng (r = 0,449). Đánh giá của tiêu chí này cao hơn so với những sinh viên ở nhóm 2 và nhóm 3. Đồng thời, có mối tương quan giữa tiêu chí đối với việc tăng sức chịu đựng áp lực trong học tập (tiêu chí 5). 554
  6. 3.3 Thảo luận Trong nghiên cứu này, vào đầu năm học có 48% sinh viên có đánh giá rất tích cực đối với việc bắt buộc học GDTC trong nhà trường và 13% sinh viên đánh giá tích cực. Thái độ của học sinh khi tham gia vào các hoạt động thể chất bị chi phối bởi các động lực như: tăng cường sức khỏe, nâng cao thành tích thể thao, ý thức về thành tích như sự phát triển kỹ năng mới và cải thiện các kỹ năng đã có trước đó, cải thiện trạng thái cảm xúc tích cực (Hoseinzadeh & Shoghi, 2013). Nghiên cứu này xác định các đánh giá của sinh viên về động lực học tập và mối tương quan với các tiêu chí trong việc bắt buộc học GDTC. Sự thay đổi thái độ của sinh viên chịu sự ảnh hưởng từ kết quả của việc nâng cao thành tích thể thao, tăng cường sức khỏe, giảm căng thẳng hàng ngày, cải thiện trạng thái cảm xúc, tăng sức chịu áp lực trong học tập, phát triển và nâng cao các kỹ năng và hoạt động giảng dạy của đội ngũ giảng viên. Cải thiện trạng thái cảm xúc và tăng cường sức khỏe có thể được coi là các tiêu chí quan trọng trong sự thay đổi thái độ của các nhóm sinh viên trong quá trình học. Vấn đề về trạng thái cảm xúc trong các hoạt động thể chất đã được chỉ ra vai trò chủ đạo trong nghiên cứu này, vì nó có mối tương quan cao nhất với thái độ của sinh viên đối với việc bắt buộc học GDTC (r = 0,452). Đối với sinh viên VNUA, sự cải thiện trạng thái cảm xúc khi theo học GDTC tương quan với việc giảm căng thẳng hàng ngày (r = 0,665) và tăng sức chịu đựng các áp lực học tập (r = 0,607), lần lượt là đối với sinh viên có thái độ thay đổi tiêu cực (nhóm 2), tương ứng với việc giảm căng thẳng hàng ngày và tăng sức chịu đựng các áp lực học tập với số tương quan lần lượt là r = 0,673; 0,672 và những sinh viên có sự thay đổi tích cực trong thái độ (nhóm 1) tương quan với tiêu chí về giảm căng thẳng hàng ngày (r = 0,0,584) và tăng sức chịu đựng các áp lực học tập (r = 0,582). Vai trò quan trọng của giảng viên trong việc khuyến khích sinh viên tham gia các hoạt động thể chất cũng được ghi nhận trong nhiều nghiên cứu (Conlin, 2014). Điều này cũng được nhận định tương tự trong nghiên cứu, năng lực chuyên môn của giảng viên đã ảnh hưởng đến thái độ của sinh viên đối với việc học GDTC, vì nó tương quan với cả thái độ và động lực học tập của sinh viên như tiếp thu các kỹ năng mới (r = 0,390) và sự cải thiện các kỹ năng đã có trước đó (r = 0,273). Những thay đổi tiêu cực trong thái độ của sinh viên VNUA đối với việc bắt buộc học môn GDTC bị ảnh hưởng mạnh từ tiêu chí năng lực chuyên môn của giảng viên, vì những sinh viên này đánh giá tiêu chí này khá thấp so với các nhóm sinh viên khác. Tiếp theo, mối tương quan giữa thái độ của sinh viên và sự sẵn có của các dụng cụ thể thao, vị trí phòng tập là không đáng kể, với giá trị tương quan lần lượt là r = 0,244 và 0,232. Vì vậy, tiêu chí này không quá quan trọng trong bối cảnh bắt buộc học GDTC. Thực tế, hầu hết khoảng cách từ các giảng đường, ký túc xá đến nơi tập luyện là đạt yêu cầu, và dụng cụ tập luyện được đầu tư đầy đủ điều này được chứng minh qua đánh giá của sinh viên trên thang điểm 5. Thậm chí còn có một mối tương quan có giá trị nhỏ hơn được tìm thấy giữa thái độ của sinh viên và tiết kiệm tiền (r = 0,204) với đánh giá sinh viên là trên thang điểm 5, do các hoạt động thể chất được tổ chức miễn phí cho sinh viên năm thứ nhất. 4. KẾT LUẬN Những động lực học tập có tác động tích cực tới thái độ của sinh viên đối với việc bắt buộc học GDTC cho thấy rằng việc tổ chức học GDTC trong một năm học tại một trường đại học có thể cải thiện thái độ của sinh viên đối với môn học này và 555
  7. có tác động đến việc nâng cao sức khỏe về lâu dài. Kết quả của quá trình dạy học có 23% sinh viên đã thay đổi thái độ từ tiêu cực và trung lập sang tích cực, yếu tố quan trọng là tăng khả năng chịu áp lực trong học tập; 10% sinh viên không đạt được kết quả như mong đợi đã thay đổi thái độ theo hướng tiêu cực và quá trình này liên quan đến hoạt động giảng dạy, năng lực chuyên môn của đội ngũ giảng viên, như vậy cần thiết phải nâng cao năng lực giảng dạy của đội ngũ giảng viên; cuối cùng là 12% sinh viên có thái độ tiêu cực và trung lập đã không thay đổi trong suốt quá trình học, tuy nhiên các lý do cho xu hướng này chưa được phân tích sâu trong nghiên cứu này. Tóm lại, thái độ của sinh viên đối với bắt buộc học GDTC trong trường đại học bị ảnh hưởng nhiều nhất bởi các tiêu chí như “cải thiện trạng thái cảm xúc” (r = 0,452) và “tăng cường sức khỏe” (r = 0,402). Sự sẵn có của cơ sở vật chất, vị trí và tiết kiệm tiền không phải là tiêu chí tác động mạnh mẽ đến sự thay đổi thái độ của sinh viên. Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu cho thấy sự tương quan giữa năng lực giảng dạy của giảng viên với thái độ của sinh viên trong học tập, do đó sự đổi mới trong phương pháp giảng dạy và nâng cao năng lực chuyên môn của giảng viên GDTC tại các trường không chuyên sẽ thúc đẩy sự tham gia tích cực hơn của sinh viên đối với môn học. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Ánh, H. Q., & Xuân, Đ. (2016). Giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy môn giáo dục thể chất trong trường đại học Đồng Nai. Tạp Chí Khoa Học - Đại học Đồng Nai, ISSN 2354-1482, 03, 114–121. 2. Burton, D., & Raedeke, T. D. (2008). Sport psychology for coaches. Human Kinetics. 3. Conlin, G. (2014). Student responses to physically literate adult role models. Science & Sports, 29, S17. 4. Đặng Đức Hoàn & Đặng Thị Vân (2020). Một số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú học tập môn học GDTC tại Học viện Nông nghiệp Việt Nam. Tạp chí Giáo dục và xã hội, 152, 152-154. 5. Jones, E. E., & Colman, A. M. (1996). Social psychology. 6. Lê Đức Luận (2007). Những yếu tố tác động đến chất lượng giáo dục đại học. Trường Đại học Sư phạm – Đại học Đà Nẵng. Truy cập tại trang web: http://www.qnamuni.edu.vn. 7. Myers, D. G. (2009). Exploring psychology. Macmillan. 8. Reeve, J. (2014). Understanding motivation and emotion. John Wiley & Sons. 9. SalehNia, B., Mizany, M., Sajadi, S. N., & Rahimizadeh, M. (2012). A comparison between attitudes of active and inactive students toward sport and physical activities. Procedia-Social and Behavioral Sciences, 31, 61–65. 10. Tiến, H. Q., & Lệ Hằng, P. T. (2017). Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động thể dục thể thao ngoại khóa cho sinh viên không chuyên thể dục thể thao trường Đại học sư phạm- Đại học Thái Nguyên. Tạp Chí Khoa Học, 14(10), 141–152. 11. Vroom, V. H. (1964). Work and motivation. 12. Yan, Z., & Cardinal, B. J. (2013). Increasing Asian International College Students’ Physical Activity Behavior: A Review of the Youth Physical Activity Promotion Model. Health Educator, 45(1), 35–45. 556
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2