
Phan Ngọc Huyền.
HCMCOUJS-Kỷ yếu, 17
(3), 123-138 123
Tc đng ca đc đim hi đồng quản trị đến hành vi
quản trị lợi nhuận ca các công ty niêm yết ti Việt Nam
The impact of board characteristics on earnings management
of companies listed in Vietnam
Phan Ngọc Huyền1*
1Trường Đại học Mở Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố Hồ Chí Minh, Việt Nam
*Tác giả liên hệ, Email: huyenpn.208a@ou.edu.vn
THÔNG TIN
TÓM TẮT
DOI:10.46223/HCMCOUJS.
proc.vi.17.3.2477.2022
Ngày nhận: 01/10/2022
Ngày nhận lại: 05/10/2022
Duyệt đăng: 06/10/2022
Từ khóa:
báo cáo tài chính; dồn tích bất
thường; đại dịch Covid-19; đặc
điểm hội đồng quản trị; hành
vi quản trị lợi nhuận
Keywords:
financial statements; discretionary
accruals; Covid-19 pandemic;
board characteristics; earnings
management
Đại dịch Covid-19 xảy ra trên phạm vi toàn cầu, hầu hết các
công ty đều phải đối mặt vi những tác động tiêu cc t s kiện
này. Nhằm cung cấp bức tranh tài chính đẹp cho các bên liên quan
thì người quản lý có thể thc hiện hành vi Quản Trị Lợi Nhuận
(QTLN) nhiều hơn thông qua việc tác động lên các thông tin trên
Báo Cáo Tài Chính (BCTC). Nghiên cứu này xem xét các đặc điểm
Hội Đồng Quản Trị (HĐQT), quy mô công ty, loại công ty kiểm
toán, tỷ suất sinh lời trên tài sản (Return on assets), dòng tiền t
hoạt động kinh doanh (Cash flow operating) tác động đến hành vi
QTLN da trên cơ sở dồn tích (Accrual-based Earnings
Management) và liệu mức độ tác động của các nhân tố này có s
khác biệt gì không giữa hai giai đoạn trưc và sau Covid-19. Dữ
liệu nghiên cứu bao gồm 436 công ty phi tài chính đang niêm yết
tại Việt Nam trong giai đoạn 2016 - 2021. Kết quả nghiên cứu chỉ
ra rằng các nhân tố thuộc đặc điểm HĐQT như số lượng thành viên
HĐQT, s kiêm nhiệm vị trí Tổng Giám Đốc (TGĐ) và Chủ tịch
HĐQT, tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập, số lần họp đều có tác động
đến hành vi QTLN trong cả hai giai đoạn.
ABSTRACT
The Covid-19 pandemic occurred on global scale,
companies have to face the negative impacts of the event. In order
to deliver a good financial picture to stakeholders, the manager
actively engages in earnings management behavior (QTLN)
through the manipulation of financial statement (BCTC)
information. The research data was collected from 436 non-
financial listed companies in Vietnam during 2016 - 2021. This
study is to exam the impact of the board of directors (HĐQT)
characteristics, company size, type of audit firm, Return On Assets
(ROA), cash flow from operating activities (CFO) on Accrual-
based Earnings Management, and whether the level of impact of
these factors has any difference before and after the Covid-19
periods. The result indicated that Board Of Director (BOD)
characteristics such as BOD members, CEO and Chairman duality,
the proportion of independent board members, and the number of
Board meetings has a significant impact on the Earnings
Management (QTLN) in both periods.

124 Phan Ngọc Huyền.
HCMCOUJS-
Kỷ yếu, 17
(3), 123-138
1. Giới thiệu
HĐQT có trách nhiệm giám sát, chỉ đạo người quản lý trong việc thc hiện các mục tiêu
của công ty nhằm bảo vệ lợi ích của các bên liên quan. Dưi s bùng phát của đại dịch Covid-19
đã làm ảnh hưởng tiêu cc đến kết quả hoạt động của các công ty trên khắp thế gii. Điều đó đã
làm phát sinh một loạt các vấn đề về dòng tiền, làm xấu đi số liệu trên Bảng cân đối kế toán của
nhiều công ty trên thế gii. Do đó người quản lý có khả năng thc hiện QTLN để cải thiện Bảng
cân đối kế toán đang xấu đi và báo cáo thu nhập trong những thời điểm tồi tệ như trong đại dịch.
Trên thế gii có một số nghiên cứu về s ảnh hưởng hành vi QTLN của người quản lý
trong thời kỳ đại dịch là rất hiếm. Hiện tại, Việt Nam chưa có công trình nghiên cứu nào về hành
vi QTLN của người quản lý trong thời gian đại dịch. Do đó mục tiêu của bài viết là tiến hành
nghiên cứu những nhân tố thuộc đặc điểm của HĐQT tác động đến hành vi QTLN giữa hai giai
đoạn có chịu ảnh hưởng của dịch Covid-19 (2019 - 2021) và không chịu ảnh hưởng của dịch
Covid-19 (2016 - 2018) có s khác biệt gì không tại các công ty niêm yết trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
2. Cơ sở lý thuyết
2.1. Lý thuyết người đại diện (Agency Theory)
Lý thuyết được xây dng bởi Ross (1973), sau đó được phát triển bởi Jensen và Meckling
(1976). Nội dung lý thuyết đề cập đến đó là s phân chia mức độ rủi ro giữa người ủy quyền
(chủ sở hữu) và người đại diện (người quản lý) do họ có mục tiêu khác nhau. Người đại diện có
thể vì tư lợi cá nhân mà không quan tâm đến lợi ích của cổ đông (chủ sở hữu). Do phần ln các
lợi ích của nhà quản lý xuất phát t kết quả kinh doanh thông qua các số liệu kế toán, và là động
cơ có thể dẫn đến xu hưng các nhà quản lý sẽ thc hiện hành vi QTLN thông qua các luồng
thông tin trên BCTC nhằm đạt mục đích cá nhân của mình. Do được nắm quyền quản lý trc tiếp
nên người quản lý có thể điều chỉnh số liệu cung cấp trên BCTC nhằm cung cấp thông tin sai
lệch. Chính vì vậy đã làm cho thông tin được ghi nhận trên BCTC không phản ánh được đúng
bản chất về tình hình hoạt động kinh doanh sản xuất trong kỳ của doanh nghiệp, dẫn đến thông
tin sai lệch cho người sử dụng. Da trên những phân tích về nội dung lý thuyết thì tác giả kỳ
vọng các doanh nghiệp có s kiêm nhiệm TGĐ - chủ tịch HĐQT sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
nhà quản lý thc hiện hành vi QTLN nên mức độ xảy ra QTLN càng cao, doanh nghệp có số
lượng thành viên HĐQT càng nhiều, thành viên HĐQT là người nưc ngoài, số lần họp HĐQT,
tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập càng cao thì kiểm soát được hành vi QTLN.
2.2. Lý thuyết tín hiệu
Lý thuyết tín hiệu được Spence (1973) gii thiệu, theo lý thuyết này khi có s tồn tại của
s bất cân xứng thông tin thì lý thuyết tín hiệu sẽ đưa ra một trạng thái cân bằng. Các công ty có
hoạt động kinh doanh tốt sẽ la chọn các chính sách kế toán cho phép công bố các thông tin có
lợi, còn đối vi các công ty có chất lượng hoạt động kém hơn sẽ la chọn chính sách các chính
sách kế toán sao cho hạn chế những thông tin không có lợi. Do đó, để tạo ra điểm nhấn có lợi về
chất lượng hoạt động của mình, người quản lý có xu hưng công bố thông tin mang lại tín hiệu
hoạt động tốt để thu hút các nhà đầu tư có liên quan. Tín hiệu có thể được thc hiện qua việc la
chọn thời điểm để công bố thông tin kế toán, và số liệu được trình bày trong BCTC. Tác giả kỳ
vọng rằng công ty có quy mô ln, ROA ln thì người quản lý thc hiện hành vi QTLN nhiều
hơn. Còn các công ty được kiểm toán bởi Big 4 và có dòng tiền hoạt động kinh doanh ln thì
QTLN sẽ thấp.
2.3. Lý thuyết phụ thuộc nguồn lực
Lý thuyết phụ thuộc nguồn lc được xây dng bởi Pfeffer và Salancik (1978), nội dung
lý thuyết xây dng cho thấy vai trò quan trọng của HĐQT đến hiệu quả hoạt động và s phát
triển của công ty. Hay nói khác hơn, các doanh nghiệp phụ thuộc vào các đơn vị bên ngoài xã

Phan Ngọc Huyền.
HCMCOUJS-Kỷ yếu, 17
(3), 123-138 125
hội để đạt được các mục tiêu của mình. Các đặc điểm của HĐQT bao gồm s đa dạng về gii
tính, quy mô hội đồng quản trị và các giám đốc độc lập có thể là những yếu tố quan trọng trong
việc hạn chế QTLN. T s phân tích nội dung lý thuyết, tác giả kỳ vọng rằng các công ty có tính
độc lập HĐQT cao và không có s kiêm nhiệm TGĐ - Chủ tịch HĐQT thì khó xảy ra hành vi
QTLN. Nếu công ty có quy mô HĐQT ln, HĐQT có chuyên môn tài chính cao và số lượng
thành viên nữ trong HĐQT ln thì sẽ kiểm soát và hạn chế được mức độ QTLN.
QTLN là một thuật ngữ được sử dụng để mô tả hành động cố ý của nhà quản lý nhằm
thao túng thu nhập ròng được báo cáo bằng cách da trên các phương pháp kế toán cụ thể để
thc hiện các thay đổi có lợi cho lợi ích tương ứng (Jensen, 2004). Do đó, hành động này ảnh
hưởng đến uy tín, danh tiếng và cổ phiếu của công ty, QTLN tích cc cũng phát sinh do việc sử
dụng các biện pháp tùy ý có sẵn theo các nguyên tắc kế toán được chấp nhận chung cho phép các
nhà quản lý tạo hoặc cung cấp các số liệu kế toán cần thiết cho các nhà đầu tư và các bên liên
quan, đồng thời che giấu các s kiện thc tế (Yorke, Amidu, & Agyemin-Boateng, 2016). Như
vậy, có rất nhiều nghiên cứu về hành vi QTLN tuy nhiên vẫn chưa có một định nghĩa thống nhất
về hành vi này do mỗi định nghĩa đưa ra chỉ mang tính chất phù hợp của mỗi nhà nghiên cứu. T
những định nghĩa nêu trên cho thấy rằng hành vi QTLN là việc sử dụng những kỹ thuật kế toán
để tạo nên bức tranh BCTC đẹp trong mắt người sử dụng, thông qua việc vận dụng các công cụ,
phương pháp kế toán. Nghiên cứu Healy và Wahlen (1999) có chia hành vi QTLN thành hai loại:
QTLN da trên cơ sở dồn tích và QTLN da trên nghiệp vụ kinh tế phát sinh vì thu nhập là tổng
các khoản tích lũy và dòng tiền hoạt động. Ngo (2019) định nghĩa QTLN da trên cơ sở dồn tích
là hành vi người quản lý vận dụng các chính sách kế toán như hàng tồn kho, ghi nhận doanh thu
và bán hàng, ghi nhận chi phí vốn hóa, … nhằm tác động đến lợi nhuận doanh nghiệp. Còn
QTLN da trên nghiệp vụ kinh tế phát sinh là người quản lý tác động vào các nghiệp vụ kinh tế
trong quá trình hoạt động kinh doanh chính, hoạt động tài chính hay hoạt động đầu tư như cắt
giảm chi phí nghiên cứu và phát triển, chí phí quảng cáo, chi phí đào tạo, …thông qua đó làm
thay đổi chỉ tiêu lợi nhuận trên BCTC.
Trên thế gii có nhiều nghiên cứu về đặc điểm HĐQT ảnh hưởng đến hành vi QTLN.
Nhằm xem xét tác động của đặc điểm HĐQT đến hành vi QTLN, nghiên cứu Peasnell, Pope, và
Young (2005), Moradi, Salehi, Bighi, và Najari (2012), Rauf, Johari, Buniamin, và Rahman
(2012), Sukeecheep, Yarram, và Al Farooque (2013), Bala và Gugong (2015), Rajeevan và
Ajward (2019), … đo lường hành vi QTLN bằng biến dồn tích DA da trên mô hình Jones điều
chỉnh của Dechow, Sloan, và Sweeney (1995). Chủ đề nghiên cứu hành vi QTLN thu hút rất
nhiều nhà nghiên cứu tại Việt Nam như Tran và Dinh (2017), Bui và Ngo (2017), Ngo (2019),
Ngo và cộng s (2021). Trong giai đoạn hòa nhập vi thế gii, nưc ta cũng chịu những ảnh
hưởng t đại dịch Covid-19 và chỉ có một số nghiên cứu ở nưc ngoài về vấn đề này mà chưa có
nghiên cứu nào tại Việt Nam. Lassoued và Khanchel (2021) vi mục đích nhằm xác định tác
động của đại dịch Covid-19 đối vi thc tiễn hành vi QTLN đã nghiên cứu 2031 quan sát ở 15
quốc gia châu Âu. Hsu và Yang (2022) đã nghiên cứu liệu Covid-19 có ảnh hưởng đến chất
lượng BCTC và có tác động đến hành vi QTLN hay không của các công ty niêm yết của vương
quốc Anh.
3. Phương php nghiên cứu
3.1. Giả thuyết nghiên cứu
Số lượng thành viên hội đồng quản trị
Peasnell và cộng s (2005) tìm thấy khi số lượng thành viên HĐQT càng ln thì không
thể xảy ra hành vi QTLN của người quản lý. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp vi Bala và
Gugong (2015) và Hamid và Bello (2019). Ngược lại, Bui và Ngo (2017), Hsu và Yang (2022)
lại tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa độ ln số lượng thành viên HĐQT và hành vi QTLN.
Bên cạnh đó, Rauf và cộng s (2012), Sukeecheep và cộng s (2013), Ngo (2019), … lại cho
thấy không có mối quan hệ nào. Kế tha kết quả nghiên cứu trên và da trên nội dung lý thuyết
phụ thuộc nguồn lc tác giả đặt ra giả thuyết:

126 Phan Ngọc Huyền.
HCMCOUJS-
Kỷ yếu, 17
(3), 123-138
H1: Công ty có số lượng thành viên HĐQT càng lớn thì mức độ QTLN càng thấp
Mô hình kiêm nhiệm TGĐ - chủ tịch HĐQT
Rajeevan và Ajward (2019), Al Azeez, Sukoharsono, và Andayani (2019), Hamid và
Bello (2019) chỉ ra rằng một vị trí chủ tịch và Giám đốc điều hành duy nhất có thể dẫn đến hành
vi QTLN dễ xảy ra cao hơn. Ngược lại, có một số nghiên cứu cho thấy không có ảnh hưởng đáng
kể giữa mô hình kiêm nhiệm TGĐ - chủ tịch HĐQT cụ thể là Peasnell và cộng s (2005),
Moradi và cộng s (2012), Bui và Ngo (2017), Hsu và Yang (2022), ... Da trên lý thuyết đại
diện và kết quả t những bằng chứng thc nghiệm tác giả đặt ra giả thuyết:
H2: Công ty có mô hình kiêm nhiệm TGĐ - chủ tịch HĐQT thì hành vi QTLN cao hơn so
với công ty không có mô hình kiêm nhiệm giữa TGĐ và chủ tịch HĐQT
Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị có chuyên môn tài chính
Bala và Gugong (2015) cho rằng mức độ chuyên môn tài chính của các thành viên HĐQT
càng cao thì hạn chế được hành vi QTLN. Al Azeez và cộng s (2019) và Ngo (2019) cũng có
kết quả tương t. Ngược lại, Rajeevan và Ajward (2019), Bui và Ngo (2017) lại cho thấy có mối
quan hệ tích cc giữa tỷ lệ thành viên HĐQT có chuyên môn tài chính vi hành vi QTLN. Da
trên nền tảng lý thuyết đại diện, tác giả đồng thuận vi quan điểm rằng HĐQT có mức độ chuyên
môn tài chính càng cao thì xảy ra hành vi QTLN càng thấp, do đó giả thuyết được đặt ra:
H3: Hội đồng quản trị có mức độ chuyên môn tài chính càng cao thì xảy ra hành vi
QTLN càng thấp
Tỷ lệ thành viên hội đồng quản trị độc lập
Peasnell và cộng s (2005) cho thấy những công ty có tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập
càng cao thì việc xảy ra QTLN càng thấp. Mặt khác, nghiên cứu Sukeecheep và cộng s (2013),
Bala và Gugong (2015) lại cho thấy rằng tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập có tác động tích cc đến
hành vi QTLN. Điều đó chứng minh rằng s độc lập của HĐQT có thể không đảm bảo rằng các
nhà quản lý sẽ không thao túng thu nhập. Bên cạnh đó cũng có một số nghiên cứu lại chứng
minh rằng tính độc lập HĐQT không có tác động đến QTLN như Rauf và cộng s (2012), Bui và
Ngo (2017), Orazalin (2019), … Tác giả cho rằng vi tỷ lệ HĐQT độc lập càng cao thì giảm bt
được mức độ QTLN của người quản lý, t đó đưa ra giả thuyết:
H4: Tỷ lệ thành viên HĐQT độc lập càng cao thì hành vi QTLN càng thấp
Số lần họp hội đồng quản trị
Cuộc họp HĐQT là rất cần thiết để nhận biết được người quản lý có đủ năng lc thc
hiện nhiệm vụ của mình một cách hiệu quả. Ngo (2019) chứng minh rằng số lần họp HĐQT
được tổ chức càng nhiều thì có kiểm soát được hành vi QTLN. Mặt khác, Gulza (2011), Hezabr,
Qeshta và Alsoud (2020) lại tìm thấy số lần họp HĐQT có tác động thuận chiều đến hành vi
QTLN. Da trên nền tảng lý thuyết phụ thuộc nguồn lc và t những kết quả các công trình
nghiên cứu được công bố tác giả đặt ra giả thuyết:
H5: Số lần họp của hội đồng quản trị được tổ chức trong năm càng nhiều thì hành vi
QTLN càng thấp
Tỷ lệ thành viên nữ trong hội đồng quản trị
Orazalin (2019) chứng minh rằng các công ty khi có s đa dạng về gii tính trong HĐQT
làm tăng hiệu quả trong việc hạn chế hành vi QTLN. Kết quả này cũng phù hợp vi Ngo (2019).
Trong khi Bala và Gugong (2015), Bui và Ngo (2017), … lại tìm thấy mối quan hệ cùng chiều
giữa hành vi QTLN và tỷ lệ các thành viên nữ trong HĐQT. Tuy nhiên Moradi và cộng s
(2012), Hooghiemstra, Hermes, Oxelheim, và Randoy (2019) lại không tìm thấy mối liên hệ giữa
tỷ lệ thành viên nữ và QTLN. Vi mong muốn đóng góp thêm bằng chứng thc nghiệm về s

Phan Ngọc Huyền.
HCMCOUJS-Kỷ yếu, 17
(3), 123-138 127
ảnh hưởng của tỷ lệ thành viên nữ trong HĐQT đến hành vi QTLN, tác giả đặt ra giả thuyết:
H6: Hội đồng quản trị có tỷ lệ thành viên nữ càng cao thì hành vi QTLN càng thấp
Hội đồng quản trị có người nước ngoài
Peasnell và cộng s (2005) đã cho thấy tỷ lệ HĐQT là người nưc ngoài có tác động
nghịch chiều đến hành vi QTLN. Trong khi nghiên cứu Hooghiemstra và cộng s (2019), Hamid
và Bello (2019) lại chứng minh ngược lại rằng s hiện diện của người nưc ngoài trong HĐQT
lại tác động thuận chiều đến hành vi QTLN. Sukeecheep và cộng s (2013) lại không tìm thấy
bằng chứng giữa s hiện diện người nưc ngoài trong HĐQT và QTLN có mối quan hệ vi
nhau. Da trên nền tảng lý thuyết người đại diện tác giả đặt ra giả thuyết:
H7: Công ty có sự hiện diện của người nước ngoài trong HĐQT sẽ làm giảm hành vi
QTLN hơn là các công ty không có sự hiện diện của người nước ngoài
Các biến như quy mô công ty, loại công ty kiểm toán, tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản và nhân
tố dòng tiền hoạt động kinh doanh cũng là một trong những nhân tố thuộc biến kiểm soát được
các nhà nghiên cứu đưa vào mô hình để phân tích mức độ tác động của đặc điểm HĐQT đến
hành vi QTLN.
Quy mô công ty
Moradi và cộng s (2012) cho thấy rằng quy mô công ty có tác động thuận chiều đến
hành vi QTLN. Kết quả này cũng phù hợp vi nghiên cứu của Rauf và cộng s (2012), Ngo
(2019), Rajeevan và Ajward (2019), Hsu và Yang (2022), … Ngược lại nghiên cứu Bala và
Gugong (2015) lại đưa ra kết quả rằng quy mô công ty có tác động nghịch chiều đến hành vi
QTLN. T những kết quả nghiên cứu trưc tác giả đăt ra giả thuyết:
H8: Công ty có quy mô càng lớn thì hành vi QTLN càng cao
Loại công ty kiểm toán
Rajeevan và Ajward (2019) chứng minh rằng các công ty được kiểm toán bởi Big 4 có
tác động thuận chiều đến hành vi QTLN. Mặt khác, Ngo (2019), Lassoued và Khanchel (2021),
… lại chứng minh rằng các công ty được kiểm toán bởi nhóm công ty kiểm toán Big 4 lại tác
động nghịch chiều đến hành vi QTLN. Tuy nhiên Peasnell và cộng s (2005), Moradi và cộng s
(2012), Orazalin (2019), …lại không tìm thấy s tác động của loại công ty kiểm toán đến hành vi
QTLN. Da trên kết quả nghiên cứu trưc, tác giả đặt ra giả thuyết:
H9: Công ty được kiểm toán bởi Big 4 sẽ có tác động nghịch chiều đến hành vi QTLN
Lợi nhuận trên tài sản
Nhân tố này được đo lường bằng cách lợi nhuận sau thuế trên tổng tài sản của doanh
nghiệp. Moradi và cộng s (2012) cho thấy tỷ lệ lợi nhuận trên tài sản (ROA) có mối quan hệ
thuận chiều đến hành vi QTLN. Kết quả nghiên cứu này cũng phù hợp vi các nghiên cứu Ngo
(2019), Lassoued và Khanchel (2021). Trong khi Bui và Ngo (2017) lại tìm thấy s tác động
nghịch chiều giữa ROA và hành vi QTLN. Da trên nền tảng lý thuyết tín hiệu và các kết quả
nghiên cứu trưc tác giả đề ra giả thuyết:
H10: Công ty có tỷ suất lợi nhuận trên tài sản càng lớn thì hành vi QTLN càng cao
Dòng tiền từ hoạt động kinh doanh
Peasnell và cộng s (2005), Moradi và cộng s (2012), Rauf và cộng s (2012), … đều
chứng minh rằng dòng tiền t hoạt động kinh doanh có mối quan hệ nghịch chiều đến hành vi
QTLN. Ngược lại trong nghiên cứu Sukeecheep và cộng s (2013) lại không tìm thấy mối liên hệ
giữa dòng tiền hoạt động kinh doanh và hành vi QTLN. Vi mong muốn góp thêm bằng chứng về
dòng tiền hoạt động kinh doanh có tác động đến hành vi QTLN, tác giả đặt ra giả thuyết: