
Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp Giáo viên mầm non - Hạng II
lượt xem 1
download

Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp Giáo viên mầm non - Hạng II này tập trung vào việc nâng cao năng lực chuyên môn và nghiệp vụ cho giáo viên. Nội dung bao gồm các chuyên đề đa dạng, từ kiến thức về chính sách giáo dục, kỹ năng quản lý, xây dựng chương trình giáo dục, đánh giá chất lượng giáo dục đến kỹ năng nghiên cứu khoa học và đạo đức nghề nghiệp. Tài liệu hướng đến việc phát triển nhà trường thành cộng đồng học tập và nâng cao chất lượng giáo dục mầm non. Việc bồi dưỡng này giúp giáo viên cập nhật kiến thức, kỹ năng, đáp ứng yêu cầu đổi mới giáo dục.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp Giáo viên mầm non - Hạng II
- ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI TRƯỜNG ĐẠI HỌC GIÁO DỤC TÀI LIỆU BỒI DƯỠNG THEO TIÊU CHUẨN CHỨC DANH NGHỀ NGHIỆP GIÁO VIÊN MẦM NON - HẠNG II HÀ NỘI, 2017 1
- MỤC LỤC Chuyên đề 1: Quyết định hành chính nhà nước Chuyên đề 2: Giáo dục Mầm non trong xu thế đổi mới Chuyên đề 3: Kĩ năng tạo động lực làm việc cho giáo viên mầm non Chuyên đề 4: Kĩ năng quản lí xung đột Chuyên đề 5: Quản lí phát triển chương trình giáo dục nhà trường Chuyên đề 6: Xây dựng nhà trường thành cộng đồng học tập . Chuyên đề 7: Kiểm định chất lượng giáo dục và đánh giá ngoài trường mầm non Chuyên đề 8: Nghiên cứu khoa học sư phạm ứng dụng trong giáo dục mầm non Chuyên đề 9: Kĩ năng biên soạn tài liệu bồi dưỡng về giáo dục mầm non Chuyên đề 10: Tổ chức sinh hoạt chuyên môn phát triển năng lực nghề nghiệp dưới hình thức nghiên cứu bài học Chuyên đề 11: Đạo đức của cán bộ quản lí trong giải quyết các vấn đề ở nhà trường mầm non và cộng đồng 2
- CHUYÊN ĐỀ 1 QUYẾT ĐỊNH HÀNH CHÍNH NHÀ NƯỚC Tóm tắt nội dung chuyên đề: Chuyên đề cung cấp cho người học những kiến thức cơ bản về khái niệm, đặc điểm của quyết định hành chính nhà nước; tầm quan trọng của các quyết định hành chính nhà nước đối với xã hội; phân loại các quyết định hành chính; các yêu cầu đối với quyết định hành chính nhà nước; quy trình xây dựng và ban hành quyết định hành chính nhà nước. 1. Khái niệm, đặc điểm của quyết định hành chính nhà nước 1.1. Khái niệm quyết định hành chính nhà nước * Quyết định Quyết định (decisions) là từ được sử dụng phổ biến trong đời sống hàng ngày cũng như trong các hoạt động tổ chức quản lí. Quyết định được hiểu đơn giản là một loại văn bản thuộc hệ thống văn bản quy phạm pháp luật. Quyết định là việc công bố hay công nhận một vấn đề đối với tổ chức hay cá nhân nào đó có tính thực thi bắt buộc. Để tạo ra một quyết định thì cần thiết phải có ba yếu tố cơ bản sau: - Quyết định phải gắn liền với một chủ thể nhất định. Đó có thể là tập thể, cá nhân; có thể là nhà nước và không phải là nhà nước; có thể là tổ chức độc lập hay tổ chức mang tính phối hợp, quốc tế. - Quyết định phải có các phương án để lựa chọn. Nếu không có các phương án lựa chọn, chủ thể của quyết định sẽ không có nội dung để công nhận hoặc ra mệnh lệnh đối với đối tượng cần tương tác. - Quyết định phải hướng tới mục đích nhất định. Không có quyết định nào vô hướng. * Quyết định hành chính Thông qua hoạt động của bộ máy nhà nước trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp và tư pháp, quyền lực nhà nước được thể hiện đó là ra các quyết định pháp luật. Quyết định pháp luật bao gồm những quyết định của cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học (Nxb Công an nhân dân, 1999) thì 3
- quyết định hành chính được hiểu là: “Kết quả sự thể hiện ỷ chí quyền lực đơn phương của cơ quan nhà nước có thấm quyền, những người có chức vụ, các tổ chức và cả nhân được Nhà nước trao quyền, thực hiện trên cơ sở và đề thi hành pháp luật, theo trình tự và hình thức do pháp luật quy định hướng tới việc thực hiện nhiệm vụ quản lí hành chỉnh trong lĩnh vực hoặc vấn đề được phân công phụ trách. Hiến pháp năm 2013 quy định Nhà nước quản lí xã hội bằng pháp luật. Những quy định đã được ghi nhận trong luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật năm 1996 đều thể hiện răng, Nhà nước muôn quản lí xã hội nói chung nhất là trong lĩnh vực công thì không thể không thể không thể hiện ý chí thông qua quyền lực của mình dưới hình thức là những quyết định pháp luật, trong đó có quyết định hành chính. Trên thực tế, rất ít tài liệu đề cập đến khái niệm “quyết định hành chính” (Admỉnistrative Decision) mà thường sử dụng phổ biến cụm từ “quyết định của các cơ quan hành chính nhà nước” (Decisions of Admỉnỉstrative Agencỉes). Vậy phải hiểu các cơ quan hành chính nhà nước ở đây là các cơ quan thực thi quyền hành pháp. Với cách hiểu này, quyết định hành chính cũng có ba yếu tố cơ bản như hiểu về khái niệm “quyết định”: - Chủ thể đưa ra quyết định hành chính là tổ chức hành chính và những người được trao nhiệm vụ, quyền hạn nhất định trong tổ chức hành chính nhà nước (nhiệm vụ và quyền hạn của các cơ quan tổ chức nhà nước, trong đó có các cơ quan hành chính nhà nước được quy định trong khuôn khổ pháp luật cụ thể: Hiên pháp, Luật tổ chức Chính phủ, Luật tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân các cấp hoặc các văn bản quy phạm pháp luật khác. Đây là một trong những đặc trưng quan trọng để phân biệt tổ chức nhà nước với các loại tổ chức khác và cũng là đặc trưng quan trọng ảnh hưởng đến việc làm quyết định của các cơ quan nhà nước nói chung và cơ quan hành chính nhà nước nói riêng. - Những phương án lựa chọn của các tổ chức hành chính nhà nước cũng được xác định trên những nguyên tắc khác với các tổ chức khác. - Sản phẩm của các quyết định hành chính tạo ra rất đa dạng, phong phú - điều này cũng đã gây tranh luận hiện nay, vì quá nhiều quyết định hành chính mà hiểu quả 4
- quản lí lại chưa cao. Như vậy, có thể hiểu quyết định hành chính là loại quyết định của cơ quan hành chính nhà nước nhằm giải quyết một vấn đề thuộc quyền hạn của cơ quan đó để bảo đảm cho các mục tiêu phát triển quốc gia được thực hiện. Chức năng quản lí hành chính nhà nước trên cơ sở của quyền hành pháp có vị trí và vai trò quan trọng trong hệ thống cơ quan nhà nước. Hình thức hoạt động của các cơ quan nhà nước trong lĩnh vực này chủ yếu là ra quyết định hành chính để đề ra những chủ trương, chính sách lớn, xây dựng quy tắc xử sự hoặc áp dụng pháp luật cho một công việc cụ thể nhằm mục đích thực hiện chức năng của Nhà nước thông qua quyền hành pháp. Bên cạnh đó, quyết định hành chính do nhiều chủ thể khác nhau ban hành với những nội dung phong phú, đa dạng liên quan đến các lĩnh vực khác nhau của quản lí hành chính nhà nước. Trong số những chủ thể có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính thì các chủ thể trong hệ thống cơ quan hành chính nhà nước có vai trò đặc biệt quan trọng, bởi lẽ, đây là những chủ thể cơ bản, chủ yếu thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Từ những cơ sở nêu trên có thể đưa ra định nghĩa về quyết định hành chính như sau: “Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật, nó là kết quả sự thể hiện ý chí quyền lực của nhà nước thông qua những hành vi của các chủ thể được thực hiện quyền hành pháp trong hệ thống các cơ quan hành chính nhà nước tiến hành theo một trình tự dưới những hình thức nhất định theo quy định của pháp luật, nhằm đưa ra những chủ trương, biện pháp, đặt ra các quy tắc xử sự hoặc áp dụng những quy tắc đó giải quyết một công việc cụ thể trong đời sống xã hội nhằm thực hiện chức năng quản lí hành chính nhà nước”. * Một vài dấu hiệu đế phân biệt quyết định hành chính và các quyết định (nói chung) Một là, quyết định hành chính là quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước và sử dụng quyền lực nhà nước để lựa chọn phương án và cách thức thực hiện mang tính 5
- chất pháp lí và bắt buộc đối với các chủ thể khác có liên quan đến vấn đề mà quyết định hành chính đề cập đến. Hai là, vì các quyết định này là các quyết định của cơ quan quyền lực nhà nước - các cơ quan công quyền nên các quyết định này không thể hoàn toàn mang ý muốn chủ quan của người ra quyết định, buộc phải tính tới yếu tố khách quan và tính khả thi, hiệu quả của quyết định. Ba là, các nhà hành chính hướng tới mục tiêu của tổ chức hành chính và được đặt trong tổng thể mục tiêu của quốc gia. Bốn là, cơ quan hành chính nhà nước đặt trong tổng thể chung của các mối quan hệ mang tính thứ bậc. Năm là, các nhà hành chính đặt trong môi trường đặc biệt khác với các tổ chức khác. Đó là môi trường trong đó chứa đựng những yêu cầu, đòi hỏi không chỉ các cơ quan lập pháp, hành pháp và tư pháp (các cơ quan quản lí nhà nước) mà còn từ cá nhân công dân, các đảng phái, tổ chức chính trị - xã hội cũng như các nhóm lợi ích. 1.2. Đặc điểm của quyết định hành chính nhà nước Quyết định hành chính là một dạng của quyết định pháp luật nên vừa mang những đặc điểm chung của quyết định pháp luật vừa mang những đặc điểm riêng. 1.2.1. Các đặc điểm chung Thứ nhất, Quyết định hành chính mang tính quyền lực nhà nước. Tính quyền lực nhà nước trước hết thể hiện ở ngay hình thức của Quyết định hành chính bởi chỉ có cơ quan nhà nước mới được đơn phương ra các quyết định pháp luật xuất phát từ lợi ích chung. Bên cạnh đó, tính quyền lực còn thể hiện ở nội dung và mục đích của quyết định. Quyết định hành chính luôn thể hiện tính mệnh lệnh rất cao và tính đảm bảo thi hành của quyết định, về nguyên tắc, mọi quyết định đều phải được thi hành, kể cả những quyết định có sự phản kháng từ phía đối tượng quản lí, có nghĩa là quyết định sẽ được đảm bảo thi hành bằng những biện pháp cưỡng chế của Nhà nước khi cần thiết. Thứ hai là tính ý chí nhà nước. Cũng như các loại quyết định pháp luật khác, quyết định hành chính là kết quả thể hiện ý chí của các chủ thể có thẩm quyền, thực hiện nhân danh nhà nước, vì lợi ích của nhà nước. Ý chí của nhà nước trong quyết định 6
- hành chính còn thể hiện ở chỗ mặc dù khi ban hành quyết định cơ quan hành chính có thể xem xét, lấy ý kiến của đối tượng tác động của quyết định về những vấn đề liên quan đến nội dung quyết định nhưng các ý kiến đó có giá trị tham khảo, giảm bớt khả năng nhìn nhận vấn đề một cách phiến diện từ phía cơ quan quản lí hành chính nhà nước. Thứ ba là tính pháp lí của Quyết định hành chính. Quyết định hành chính là kết quả của sự thể hiện ý chí quyền lực nhà nước do đó các Quyết định hành chính đều có giá trị về mặt pháp lí. Trước hết, Quyết định hành chính xuất hiện đã tác động ngay đến cơ chế điều chính pháp luật, Quyết định hành chính có thể đưa ra những chủ trương và biện pháp lớn trong lĩnh vực quản lí hành chính. Mặt khác, tính pháp lí của quyết định còn thể hiện ở việc làm xuất hiện các quy phạm pháp luật, thay thế hay huỷ bỏ quy phạm pháp luật hoặc làm phát sinh, thay đổi hay chấm dứt một quan hệ pháp luật cụ thể. 1.2.2. Các đặc điểm riêng Ngoài những đặc điểm chung, quyết định hành chính còn có những đặc điểm riêng sau: Thứ nhất, quyết định hành chính mang tính dưới luật. Tính dưới luật của quyết định hành chính thể hiện ở ba khía cạnh: 1 - Quyết định hành chính được ban hành trên cơ sở luật; không trái với luật và quyết định hành chính được ban hành để hướng dẫn thi hành luật, cụ thể hoá và chi tiết hoá luật; 2 - Quyết định hành chính là hình thức biểu hiện áp dụng pháp luật trực tiếp. Bằng việc ban hành các quyết định hành chính cá biệt, các văn bản pháp luật được thực hiện, quyết định hành chính áp dụng pháp luật góp phần quan trọng để đưa pháp luật đi vào cuộc sống; 3 - Quyết định hành chính có hiệu lực pháp lí thấp hơn luật, nội dung quyết định hành chính không được trái với luật và do các chủ thể quản lí hành chính nhà nước ban hành. Thứ hai, quyết định hành chỉnh là những quyết định do nhiều chủ thể quản lí 7
- hành chính nhà nước ban hành, cụ thể là các cơ quan nhà nước có thẩm quyền, những cá nhân có thẩm quyền trong các cơ quan hành chính nhà nước được nhà nước trao quyền quản lí hành chính nhà nước trên các lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội. Thứ ba, quyết định hành chính mang tỉnh chấp hành và điều hành. Các cơ quan quản lí hành chính nhà nước ban hành các quyết định hành chính để thực hiện nhiệm vụ và chức năng quản lí hành chính nhà nước, đó là chấp hành các văn bản pháp luật của các cơ quan quyền lực nhà nước và điều hành hoạt động của các đối tượng chịu sự quản lí. Thứ tư, quyết định hành chỉnh có những mục đích và nội dung rất phong phú, xuất phát từ chính sự phong phú đa dạng của hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Ngoài ra, quyết định hành chính là những quyết định mà về mặt hình thức có những tên gọi khác nhau theo quy định của pháp luật như nghị định, quyết định, chỉ thị, thông tư. 1.3. Vai trò của quyết định hành chính nhà nước Có thể nói quyết định hành chính chiếm vị trí trung tâm và có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Cụ thể: Thứ nhất, quyết định những chủ trương, chỉnh sách lớn trong quản lí hành chỉnh. Quyết định hành chính có vai trò quan trọng trong quản lí hành chính nhà nước, thông qua quyết định hành chính, cơ quan hành chính nhà nước đề ra chủ trương, đường lối, nhiệm vụ, biện pháp lớn để quản lí hành chính nhà nước. Nhiều quyết định hành chính quan trọng của Chính phủ đã được đưa vào cuộc sống và có tác động tích cực. Thứ hai, hướng dẫn thi hành Luật, Pháp lệnh và các văn bản liên quan khác. Quyết định hành chính được cơ quan hành chính nhà nước ban hành để thực hiện nhiệm vụ thực thi pháp luật, chuyển tải Luật vào cuộc sống, góp phần tạo nên giá trị thực tiễn của Luật. Luật, pháp lệnh là loại văn bản quy phạm pháp luật điều chỉnh các quan hệ xã hội cơ bản, quan trọng. Chúng chỉ thực sự đi vào đời sống, phát huy hiệu lực khi được cụ thể hoá, chi tiết hoá bằng các quyết định hành chính. Luật, pháp lệnh không được cụ thể hoá, chi tiết hoá thì không chỉ làm chậm quá trình đưa luật vào đời sống mà còn có thể gây ra những hậu quả tai hại do các quan hệ xã hội cơ bản quan trọng không được điều chỉnh đúng đắn, kịp thời. 8
- Quyết định hành chính còn có vai trò quan trọng trong việc chuyển tải chủ trương, chính sách lãnh đạo của Đảng vào quản lí hành chính nhà nước. Với tính cách là công cụ điều chỉnh trực tiếp, chi tiết các quá trình xã hội, quyết định hành chính phải thể chế hoá quan điểm, chính sách của nhà nước, các chủ trường, đường lối chính sách của Đảng, một mặt bảo đảm sự phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa, mặt khác tích cực mở rộng dân chủ, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện quyền công dân. Thứ ba, quy định quy tắc xử sự để điều chỉnh các mối quan hệ phát sinh trong các lĩnh vực quản lí hành chỉnh nhà nước. Xã hội thường được ví như một cơ thể sống để nói đến sự vận động không ngừng của đời sống xã hội mà ở đó có rất nhiều mối quan hệ khác nhau. Để duy trì trật tự xã hội đòi hỏi phải có quyết định hành chính để điều chỉnh các mối quan hệ đó trong những điều kiện, hoàn cảnh nhất định. Nhìn một cách khái quát, có thể thấy số lượng các quyết định hành chính ngày càng nhiều và chiếm tỉ trọng rất lớn trong số các quyết định pháp luật. Các quyết định hành chính đã bao quát được một phạm vi rộng lớn các quan hệ xã hội cần điều chỉnh. Quy trình xây dựng được thực hiện đúng luật và dân chủ hơn. Chất lượng của các quyết định hành chính ngày càng được nâng cao. Đa phần các quyết định hành chính được ban hành đáp ứng được các yêu cầu của thực tiễn quản lí, góp phần tích cực vào việc tăng cường pháp chế, ổn định, phát triển xã hội. Thứ tư, giải quyết các công việc cụ thể phát sinh trong hoạt động quản lí hành chính nhà nước. Để giải quyết các vấn đề cụ thể phát sinh trong hoạt động quản lí, số lượng và nhu cầu ban hành các quyết định hành chính của các chủ thể có thẩm quyền ngày càng nhiều đặc biệt là các quyết định cá biệt. Vai trò của quyết định cá biệt là nhằm hướng đến việc cho các chủ thể pháp luật hành chính thực hiện được những quyền và nghĩa vụ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhờ có quyết định này mà pháp luật thi hành. Nó trực tiếp làm phát sinh, thay đổi, chấm dứt quan hệ hành chính cụ thể. Ngoài ra, quyết định hành chính mang tính bắt buộc đối với mọi cá nhân, tổ chức cho nên trong những hoàn cảnh nhất định họ phải làm theo nhằm đưa ra các chuẩn mực ứng xử và điều chỉnh các hành vi xử sự theo mong muốn thiết lập trật tự xã hội ổn định. 9
- Mặt khác, các biện pháp chế tài của luật hành chính không chỉ mang tính chất trừng trị người vi phạm mà quan trọng hơn, có tác dụng giáo dục, răn đe người vi phạm không lặp lại vi phạm đó đồng thời ngăn chặn những hành vi mới xảy ra. Chính nhờ đó mà trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. 2. Phân loại quyết định hành chính nhà nước 2.1. Phân loại theo tính chất pháp lí Dựa vào tính chất pháp lí, có thể chia quyết định hành chính thành quyết định chủ đạo, quyết định quy phạm và quyết định cá biệt. Quyết định chủ đạo là loại quyết định mà các chủ thể có thẩm quyền ban hành nhằm mục đích đưa ra những chủ trương, chính sách, giải pháp lớn về quyết định hành chính đối với cả nước, một vùng hoặc đối với một đơn vị hành chính nhất định. Do đó, thẩm quyền ban hành quyết định chủ đạo thường thuộc về những chủ thể có vị trí quan trọng trong hệ thống hành chính, về hình thức, quyết định chủ đạo thường được ban hành dưới dạng nghị quyết, ví dụ như Nghị quyết của Chính phủ số 38/CP ngày 04/05/1994 về cải cách một bước thủ tục hành chính trong việc giải quyết công việc của công dân và tổ chức. Quyết định quy phạm: Trên cơ sở luật, pháp lệnh các chủ thể trong hệ thống hành chính nhà nước sẽ ban hành những quy phạm chủ yếu nhằm cụ thể hoá luật, pháp lệnh để quản lí xã hội trên từng lĩnh vực. Với nội dung là những quy tắc xử sự, xác định các quyền và nghĩa vụ cho các đối tượng liên quan, quyết định quy phạm tạo ra một khuôn khổ pháp lí, trong đó các chủ thể của pháp luật hành chính sẽ thực hiện các quyền và nghĩa vụ của mình. Quyết định quy phạm được nhiều chủ thể có thẩm quyền khác nhau ban hành với những hình thức, nội dung và mục đích khác nhau. Theo quy định của pháp luật thì Chính phủ ra các quyết định quy phạm dưới hình thức là những nghị định; Thủ tướng Chính phủ ra quyết định quy phạm với hình thức là những quyết định, chỉ thị; bộ trưởng ra quyết định, chỉ thị; Uỷ ban nhân dân các cấp ra quyết định, chỉ thị... Ví dụ: Nghị định của Chính phủ số 101/2017 NĐ-CP ngày 01/9/2017 về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên chức. 10
- Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo số 14/2017 TT-BGDĐT quy định tiêu chuẩn, quy trình xây dựng, chỉnh sửa chương trình giáo dục phổ thông; tổ chức và hoạt động của Hội đồng quốc gia thẩm định chương trình giáo dục phổ thông. Quyết định của Thủ tướng Chính phủ số 21/2017/QĐ-TTg ngày 15/6/2017 về hạn mức trả bảo hiểm. Quyết định cả biệt: Trên cơ sở quyết định chủ đạo hoặc quyết định quy phạm, quyết định cá biệt được các chủ thể có thẩm quyền ban hành để giải quyết các công việc cụ thể trên từng lĩnh vực quản lí hành chính nhà nước. Chính vì vậy mà quyết định cá biệt trực tiếp làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật hành chính cụ thể. Quyết định cá biệt là loại quyết định để áp dụng quy phạm pháp luật nên nó có đặc trưng riêng như được áp dụng một lần, cho một hoặc một số đối tượng nhất định. Các quyết định cá biệt được ban hành trên cơ sở của quyết định chủ đạo cũng như quyết định quy phạm nhằm mục đích để các chủ thể có thẩm quyền giải quyết các công việc cụ thể trên từng lĩnh vực của quản lí hành chính nhà nước, chính vì vậy mà quyết định cá biệt làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một quan hệ pháp luật hành chính cụ thể. Ví dụ như: Quyết định xử phạt hành chính trong lĩnh vực đất đai với ông X. 2.2. Phân loại theo chủ thể ban hành Dựa vào chủ thể ban hành, có thể phân loại quyết định hành chính như sau: - Quyết định hành chính của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ. Căn cứ vào hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội; lệnh, quyết định của Chủ tịch nước, Chính phủ ra quyết định hành chính dưới hình thức là những nghị quyết, nghị định; Thủ tướng Chính phủ ra Quyết định hành chính dưới hình thức là quyết định, chỉ thị. Ví dụ: + Nghị định số 80/2017/NĐ-CP ngày 17/7/2017 của Chính phủ về việc quy định về môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện, phòng, chống bạo lực học đường. + Quyết định số 01/2017/QĐ-TTg ngày 17/01/2017 của Thủ tướng Chính phủ về 11
- việc ban hành Danh mục giáo dục, đào tạo của hệ thống giáo dục quốc dân. + Chỉ thị số 26/CT-TTg ngày 05/9/2016 của Thủ tướng Chính phủ về tăng cường kỉ luật, kỉ cương trong các cơ quan hành chính nhà nước các cấp. - Quyết định hành chính của các Bộ và cơ quan ngang Bộ. Theo quy định của pháp luật thì bộ là cơ quan quản lí nhà nước có thẩm quyền chuyên môn, được sử dụng quyền hành pháp trong lĩnh vực chuyên môn do mình quản lí. Để thực hiện quyền đó, người đứng đầu mỗi Bộ và cơ quan ngang Bộ có thẩm quyền ban hành Quyết định hành chính dưới hình thức là quyết định, chỉ thị, thông tư. Ví dụ: + Quyết định 2161/QĐ-BGDĐT ngày 26/6/2017 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc ban hành Kế hoạch thực hiện mục tiêu phát triển bền vững lĩnh vực giáo dục và đào tạo đến năm 2025 và định hướng đến năm 2030. + Thông tư số 16/2017/TT-BGTVT ngày 22/5/2017 của Bộ Giao thông vận tải về việc hướng dẫn tuyến đường vận chuyển quá cảnh hàng hoá qua lãnh thổ Việt Nam. + Chỉ thị 5972/CT-BGDĐT ngày 20/12/2016 của Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc tăng cường công tác thanh tra giáo dục đáp ứng yêu cầu đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. - Quyết định hành chính của Uỷ ban nhân dân các cấp. Trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình, Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành quyết định, chỉ thị. Chủ tịch Uỷ ban nhân dân các cấp có thẩm quyền ban hành quyết định và chỉ thị (dưới dạng quyết định cá biệt). - Quyết định hành chính của các cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân. Cơ quan chuyên môn thuộc Uỷ ban nhân dân gồm các sở, phòng, ban có thẩm quyền ban hành quyết định hành chính dưới hình thức quyết định và chỉ thị (dưới dạng quyết định cá biệt). - Quyết định hành chính liên tịch. Quyết định hành chính liên tịch là loại quyết định được ban hành bởi nhiều cơ quan nhà nước khác nhau, thậm chí có cả sự phối hợp của tổ chức xã hội. Quyết định hành chính liên tịch có hình thức là thông tư liên tịch, nghị quyết liên tịch. 12
- Ví dụ: Thông tư liên tịch số 09/2016/TTLT-BGDĐT-BTC-BLĐTBXH ngày 30/3/2016 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ trưởng Bộ Tài chính, Bộ trưởng Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội hướng dẫn thực hiện một số Điều của Nghị định số 86/2015/NĐ-CP ngày 02 tháng 10 năm 2015 của Chính phủ quy định về cơ chế thu, quản lí học phí đối với cơ sở giáo dục thuộc hệ thống giáo dục quốc dân và chính sách miễn, giảm học phí, hỗ trợ chi phí học tập từ năm học 2015 - 2016 đến năm học 2020 - 2021. 3. Các yêu cầu đối với quyết định hành chính nhà nước 3.1. Yêu cầu về tính hợp pháp Thứ nhất, quyết định hành chính phải được ban hành bởi những chủ thể có thấm quyền theo quy định của pháp luật thực hiện quyền hành pháp. Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính về mặt hình thức: Là thẩm quyền của mỗi cơ quan được ban hành những loại quyết định hành chính nào do pháp luật quy định. Cơ quan nhà nước chỉ được ban hành loại quyết định hành chính mà pháp luật quy định cơ quan đó có thẩm quyền ban hành, không được ban hành loại quyết định hành chính thuộc thẩm quyền của cơ quan khác, cũng không được tự mình sáng tạo ra một loại quyết định hành chính riêng. Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính về nội dung: Thẩm quyền ban hành quyết định hành chính về nội dung thể hiện ở chỗ mỗi cơ quan được quyền ban hành quyết định hành chính quy định về vấn đề gì, với tính chất và mức độ nào. Pháp luật quy định rõ các vấn đề cụ thể thuộc thẩm quyền giải quyết của cơ quan liên quan đến đối tượng và khách thể quản lí cụ thể nào, trong giới hạn lãnh thổ nào và thời gian nào. Thẩm quyền này được pháp luật quy định phụ thuộc vào cơ cấu quyền lực nhà nước và khả năng thực tế của từng cơ quan. Thứ hai, về nội dung của quyết định hành chính. Quyết định hành chính có hiệu lực pháp lí thấp hơn phải phù hợp với các quyết định có hiệu lực pháp lí cao hơn. Hệ thống pháp luật Việt Nam bao gồm nhiều văn bản pháp luật có hiệu lực cao thấp khác nhau trong đó văn bản có hiệu lực pháp lí thấp phải phù hợp với văn bản có hiệu lực pháp lí cao hơn. Chẳng hạn: Quyết định hành chính 13
- phải phù hợp với Luật về nội dung cũng như mục đích. Bên cạnh đó, nội dung của quyết định phải hài hoà thống nhất với các quyết định hành chính có cùng hiệu lực pháp lí; các quy định trong cùng một quyết định phải thống nhất với nhau để tránh trường hợp có thể vô hiệu hoá lẫn nhau và gây khó khăn trong việc thực hiện chúng. Thứ ba, quyết định hành chỉnh phải được ban hành theo đúng trình tự, thủ tục và hình thức do pháp luật quy định. Về trình tự, thủ tục ban hành quyết định hành chính: Để đánh giá một quyết định hành chính được ban hành đúng thủ tục cần xem xét ở hai khía cạnh. Một là, quá trình ban hành quyết định hành chính phải bao gồm đầy đủ các hoạt động cần thiết do pháp luật quy định. Hai là, hoạt động ban hành quyết định hành chính phải tuân thủ theo đúng trình tự của các giai đoạn, các bước, các khâu theo pháp luật quy định. Chất lượng của quyết định hành chính không chỉ phụ thuộc và chất lượng của từng hoạt động trong quá trình tạo ra quyết định mà còn phụ thuộc vào mức độ hợp lí của các hoạt động tiến hành. Về hình thức của quyết định hành chính: Quyết định hành chính được ban hành phải đúng tên loại, thể thức và bố cục của quyết định. 3.2. Yêu cẩu về tính hợp lí Bên cạnh các yêu cầu về tính hợp pháp, quyết định hành chính cần đảm bảo yêu cầu về tính hợp lí. Cụ thể: - Quyết định hành chính phải đảm bảo được lợi ích của Nhà nước và nguyện vọng của nhân dân, không được tách rời giữa lợi ích của Nhà nước với nguyện vọng của nhân dân. Nhà nước là đại diện cho ý chí và quyền lợi của nhân dân nên không thể vì lợi ích của nhà nước mà làm ảnh hưởng đến lợi ích của nhân dân cũng như không thể vì lợi ích của nhân dân mà làm tổn hại đến lợi ích của nhà nước. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải đảm bảo hài hoà lợi ích của nhà nước, tập thể, cá nhân. - Quyết định hành chính phải xuất phát từ yêu cầu khách quan của việc thực hiện nhiệm vụ quản lí hành chính nhà nước, tuyệt đối không được xuất phát từ ý muốn chủ quan của chủ thể ra quyết định. 14
- - Ngôn ngữ của quyết định phải rõ ràng, dễ hiểu, ngắn gọn, các thuật ngữ pháp lí phải chính xác, không được đa nghĩa. - Quyết định hành chính phải có tính dự báo, tính kịp thời. - Quyết định hành chính phải có tính khả thi. 4. Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính nhà nước của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ * Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính nhà nước của Chính phủ Chính phủ có thẩm quyền ban hành Nghị quyết và nghị định. Theo quy định của pháp luật thì Chính phủ quyết định chương trình xây dựng Nghị định 3 tháng, 6 tháng và hàng năm theo sáng kiến của mình và theo đề nghị của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. Quy trình gồm những bước sau: - Bước 1: Chính phủ quyết định cơ quan chủ trì để soạn thảo Nghị định, cơ quan chủ trì soạn thảo thành lập ban soạn thảo và ban soạn thảo phải làm một số công việc như sau: + Tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá các văn bản pháp luật hiện hành có liên quan. + Tổ chức nghiên cứu xây dựng dự thảo. + Lấy ý kiến các cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan, tập hợp ý kiến và chỉnh lí dự thảo. + Chuẩn bị tờ trình, dự thảo và các tài liệu cần thiết khác để trình Chính phủ. - Bước 2: Bộ tư pháp có trách nhiệm thẩm định dự thảo trước khi trình Chính phủ. - Bước 3: Chính phủ sẽ tổ chức phiên họp để xem xét nội dung dự thảo. Tại phiên họp, đại diện cơ quan soạn thảo sẽ thuyết trình dự thảo. Bộ trưởng Bộ Tư pháp trình bày ý kiến thẩm định dự thảo, đại diện các cơ quan được mời tham dự phiên họp phát biểu ý kiến. Sau đó các thành viên của Chính phủ sẽ thảo luận. Dự thảo sẽ được thông qua khi có quá nửa tổng số thành viên Chính phủ biểu quyết tán thành. - Bước 4: Thủ tướng Chính phủ sẽ là người kí Nghị định. 15
- * Quy trình xây dựng và ban hành quyết định hành chính nhà nước của Thủ tướng Chính phủ. Thủ tướng Chính phủ có thẩm quyền ban hành Quyết định, Chỉ thị. Quy trình gồm các bước sau: - Bước 1: Thủ tướng Chính phủ trực tiếp giao và chỉ đạo cơ quan soạn thảo. Cơ quan này có trách nhiệm xây dựng dự thảo và tùy theo tính chất, nội dung của dự thảo tổ chức lấy ý kiến của các thành viên Chính phủ, Chủ tịch Hội đồng nhân dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. - Bước 2: Bộ Tư pháp có trách nhiệm tham gia ý kiến bằng văn bản về các dự thảo quyết định, chỉ thị của Thủ tướng. - Bước 3: Cơ quan soạn thảo tiếp tục chỉnh lí dự thảo và báo cáo Thủ tướng Chính phủ về ý kiến của cơ quan, tổ chức, cá nhân hữu quan. - Bước 4: sau cùng, Thủ tướng Chính phủ sẽ là người trực tiếp xem xét để đi đến việc kí quyết định, chỉ thị. 5. Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ Bộ cũng như các cơ quan ngang Bộ là những cơ quan thực hiện quyền hành pháp để thực hiện hoạt động quản lí hành chính nhà nước ở từng lĩnh vực chuyên môn. Vì vậy, thủ trưởng các cơ quan này sẽ là những người trực tiếp ra các quyết định hành chính có chứa đựng các quy tắc xử sự trong những lĩnh vực cụ thể. Quy trình gồm các bước sau: - Bước 1: Bước dự thảo quyết định, chỉ thị hoặc thông tư. Bước này do Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ giao cho một đơn vị thuộc Bộ thực hiện. - Bước 2: Đơn vị được giao trách nhiệm có nhiệm vụ nghiên cứu và xây dựng dự thảo và cũng tùy vào tính chất và nội dung của dự thảo đã được xây dựng tổ chức lấy ý kiến của các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Uỷ ban nhân dân cấp tỉnh và các cơ quan, cá nhân, tổ chức liên quan. - Bước 3: Đơn vị được giao soạn thảo sẽ chỉnh lí dự thảo trước khi đem trình Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ. 16
- - Bước 4: Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang Bộ xem xét lại dự thảo lần cuối để đi đến việc kí các quyết định, chỉ thị, thông tư. 6. Quy trình xây dựng, ban hành quyết định hành chính nhà nước của uỷ ban nhân dân các cấp Với vị trí là cơ quan chấp hành của cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương, Uỷ ban nhân dân căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, Quyết định của Chủ tịch nước, văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, cũng như nghị quyết của Hội đồng nhân dân cùng cấp ra các quyết định hành chính dưới hình thức quyết định và chỉ thị. Quy trình xây dựng ban hành cũng tương tự các quy trình ở trên. 17
- CHUYÊN ĐỀ 2 GIÁO DỤC MẦM NON Tóm tắt nội dung chuyên đề: Chuyên đềcung cấp cho người học biết được xu thế phát triển giáo dục mầm non trên thế giới, chủ trương, đường lối, chính sách phát triển giáo dục mầm non của Việt Nam qua các thời kỳ; định hướng phát triển giáo dục mầm non hiện nay. 1. Xu hướng phát triển giáo dục mầm non trên thế giới Chăm sóc và giáo dục trẻ thơ như một dịch vụ toàn diện và đa ngành Không giống như các lĩnh vực giáo dục khác, chăm sóc và giáo dục trẻ thơ (ECCE) nhấn mạnh đến việc phát triển toàn bộ đứa trẻ - tham gia vào các nhu cầu về xã hội, tình cảm, nhận thức và thể chất của mình - để thiết lập nền tảng vững chắc và rộng mở cho việc học suốt đời và hạnh phúc. Chăm sóc bao gồm sức khoẻ, dinh dưỡng và vệ sinh trong một môi trường ấm áp, an toàn và nuôi dưỡng; Và “giáo dục” bao gồm kích thích, xã hội hoá, hướng dẫn, tham gia, học tập và phát triển. ECCE bắt đầu từ khi sinh ra và có thể được tổ chức theo nhiều phương thức phi chính thức, chính thức và không chính thức, chẳng hạn như giáo dục nuôi dạy con cái, chăm sóc mẹ và trẻ em dựa vào sức khoẻ, các cơ sở chăm sóc, các chương trình trẻ em, ở nhà hoặc tại trung tâm, chăm sóc trẻ sơ sinh, trường mầm non và trường mẫu giáo. Lợi ích kinh tế của chăm sóc và giáo dục trẻ thơ: Thập kỉ nghiên cứu cung cấp bằng chứng rõ ràng rằng đầu tư công vào chăm sóc và giáo dục trẻ thơ có thể mang lại lợi nhuận kinh tế bằng khoảng 10 lần chi phí của nó. Nguồn gốc của những lợi ích này là việc chăm sóc trẻ em cho phép các bà mẹ làm việc; giáo dục và các hỗ trợ khác cho sự phát triển của trẻ em làm tăng thành công trường học, tăng năng suất lao động, hành vi xã hội và sức khoẻ. Những hậu quả kinh tế bao gồm giảm chi tiêu công và tư nhân liên quan đến sự thất bại trong trường học, tội phạm và các vấn đề về sức khoẻ tăng lên. Việc đầu tư cho trẻ em mang lại những lợi ích tích cực cho nền kinh tế. Thoả thuận quốc tế về ECEC: 18
- Hội nghị Thế giới lần thứ nhất về Chăm sóc và Giáo dục Trẻ thơ diễn ra tại Moscow từ ngày 27 đến ngày 29 tháng 9 năm 2010, do UNESCO và thành phố Moscow tổ chức. Mục tiêu bao quát của hội nghị là: - Tái khẳng định ECCE như là một quyền của tất cả trẻ em và là cơ sở để phát triển. - Đánh giá tiến bộ của các quốc gia thành viên đối với việc đạt được Mục tiêu 1 EFA. - Xác định những ràng buộc ràng buộc để hướng tới việc mở rộng bình đẳng dự định tiếp cận các dịch vụ ECCE có chất lượng. - Thiết lập, cụ thể hơn, tiêu chuẩn và mục tiêu cho Mục tiêu 1 của EFA đến năm 2015 và hơn thế nữa. - Xác định các cơ chế chủ chốt cần tạo điều kiện cho các Quốc gia thành viên đạt được các mục tiêu đã đề ra. - Thúc đẩy việc trao đổi toàn cầu các thực tiễn tốt nhất. Theo UNESCO, một chương trình giáo dục mầm non là chương trình cung cấp nội dung giáo dục thông qua các hoạt động hàng ngày và thúc đẩy sự phát triển thể chất, nhận thức và xã hội của trẻ. Nói chung, các chương trình giáo dục mầm non chỉ được các chính phủ công nhận nếu chúng dựa trên nghiên cứu học thuật và được các đồng nghiệp đánh giá. Preschool for Child Rights đã đi tiên phong trong các lĩnh vực giáo dục mầm non và đang đóng góp vào quyền trẻ em thông qua chương trình giáo dục mầm non của họ. Chương trình giảng dạy trong chăm sóc và giáo dạc trẻ thơ: Chương trình giảng dạy về chăm sóc và giáo dục trẻ thơ (ECCE) là động lực thúc đẩy bất kì chương trình ECCE nào. Đó là một phần không thể tách rời của động cơ, cùng với năng lượng và động cơ của nhân viên, cung cấp động lực làm cho các chương trình sinh sống. Do đó chất lượng của một chương trình bị ảnh hưởng lớn bởi chất lượng của chương trình giảng dạy. Ở tuổi thơ ấu, đây có thể là các chương trình cho trẻ em hoặc cha mẹ, bao gồm các can thiệp sức khoẻ và dinh dưỡng và các chương trình trước khi sinh, cũng như các chương trình dựa vào trung tâm cho trẻ em. 19
- Ở cả các nước phát triển và đang phát triển, trẻ em nghèo và người có hoàn cảnh khó khăn vẫn ít được phục vụ nhất. Sự loại trừ này vẫn tiếp tục chống lại bằng chứng rằng giá trị gia tăng của dịch vụ chăm sóc và giáo dục trẻ thơ có giá trị cao hơn so với các đối tác giàu có hơn của họ, ngay cả khi dịch vụ đó có chất lượng khiêm tốn. Các nước phát triển vẫn chưa cung cấp dịch vụ chăm sóc và giáo dục trẻ thơ có chất lượng cho trẻ em của mình và vấn đề này khó khăn hơn ở các nước đang phát triển. Ở nhiều nước châu Âu, trẻ em, chủ yếu từ các gia đình có thu nhập thấp và nhập cư, không được tiếp cận với chăm sóc và giáo dục trẻ thơ có chất lượng tốt. Giáo dục bền vững trong những năm đầu đời: Kể từ Hội nghị Thượng đỉnh Thế giới về Phát triển Bền vững (WSSD) được tổ chức tại Johannesburg năm 2002, giáo dục bền vững đã được công nhận rộng rãi rằng giáo dục có một vai trò quan trọng trong việc thực hiện một “Tầm nhìn bền vững liên kết phúc lợi kinh tế với sự tôn trọng đa dạng văn hoá, Trái Đất và các nguồn lực của nó” (UNESCO 2007, trang 6). Cũng có một sự đồng ý chung rằng giáo dục cho phát triển bền vững (ESD) phải là một phần của Giáo dục Chất lượng cho Mọi người (EFA) theo định nghĩa trong Khung hành động Dakar 2000. Đối với hầu hết các học viên thời thơ ấu, cha mẹ và con cái, các hoạt động hàng ngày có ảnh hưởng lớn nhất đến sự phát triển bền vững là ở mức độ tích luỹ. Yì vậy, tiêu dùng bền vững là khu vực thích hợp nhất để tập trung đầu tiên vào những năm đầu. Nếu chúng ta hỗ trợ cha mẹ và trẻ em hành động cùng nhau để sống một cuộc sống bền vững hơn thì sáng kiến này có thể chấp nhận một sự điều chỉnh nhỏ của định nghĩa Bruntland để phù hợp hơn: Các hành động bền vững có thể được xem là “hành động đáp ứng được nhu cầu của hiện tại mà không ảnh hưởng đến khả năng đáp ứng nhu cầu trong tương lai hoặc khả năng của các thế hệ tương lai để đáp ứng nhu cầu của họ”. Xu hướng phát triển giáo dục mầm non ở một số nước phương Tây: * Các nước Bắc Âu: Giáo dục mầm non ở các nước Bắc Âu cũng chú trọng giáo dục cho trẻ tinh thần dân chủ, tôn trọng sự khác biệt, tính sáng tạo, hứng thú học hỏi và khả năng tự học. Bên cạnh đó, nền giáo dục này thể hiện tinh thần tích hợp cao về mục tiêu và nội dung thông 20

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên theo Mô dule TH 15: Một số phương pháp dạy học tích cực ở tiểu học
27 p |
5037 |
306
-
Lý luận dạy học - Phần 6
18 p |
418 |
259
-
Bài giảng Tập huấn: Áp dụng chuẩn nghề nghiệp giáo viên tiểu học thông qua hoạt động đảm bảo chất lượng giáo dục trong các trường dạy học cả ngày (FDS)
36 p |
328 |
30
-
Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng 1 – Chuyên đề 1: Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam
42 p |
70 |
10
-
Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp giáo viên THCS hạng 1 – Chuyên đề 2: Xu hướng quốc tế và đổi mới giáo dục phổ thông Việt Nam
54 p |
68 |
6
-
Tài liệu bồi dưỡng giáo viên tiểu học: Dạy học toán ở tiểu học theo hướng tiếp cận phẩm chất và năng lực
65 p |
35 |
5
-
Tìm hiểu về CÁCH TÍNH THỜI GIAN TRONG LỊCH SỬ
10 p |
97 |
3
-
Tài liệu bồi dưỡng theo tiêu chuẩn chức danh nghề nghiệp Giáo viên tiểu học - Hạng III
136 p |
2 |
2


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
