Luận văn
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải phá
1
LỜI NÓI ĐẦU
Phương hướng phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam thời kỳ 2000-2020 là tiếp tục mở rộng hoạt động ngoại thương theo hướng đa dạng hoá, đa phương hoá, tích cực hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên khi chấp nhận hoà nhập vào kinh tế khu vực và kinh tế thế giới là chấp nhận xu hướng hợp tác trong cạnh tranh gay gắt. Đây là thời cơ vừa là thách thức, đòi hỏi cơ quan quản lý cũng như doanh nghiệp phải có các định hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu và các biện pháp phù hợp trong hoàn thiện chính sách ngoại thương, nhằm đẩy mạnh xuất nhập khẩu theo hướng công nghiệp hoá-hiện đại hoá đất nước.
Trong quá trình công nghiệp hoá, sự chuyển dịch cơ cấu xuất nhập khẩu không chỉ phản ánh sự tiến hoá của các hình thái nhu cầu phục vụ sản xuất và tiêu dùng trong phạm vi từng quốc gia mà còn phản ánh sự phân bố lại năng lực sanr xuất trên phạm vi toàn cầu. Chính vì vậy, công nghiệp hoá hướng xuất khẩu là một định hướng vô cùng quan trọng đưa nền kinh tế đất nước đêns thành công.
Xuất khẩu thể hiện nhu cầu về hàng nội của các quốc gia khác nhau đối với quốc gia chủ thể và nhập khẩu thể hiện nhu cầu về hàng ngoại của quốc gia chủ thể. Xuất khẩu còn có thể chỉ ra được những lĩnh vực có thể chuyên môn hoá, những công nghệ và tư liệu sản xuất trong nước còn thiếu để sản xuất ra sản phẩm xuất khẩu đạt được chất lượng quóc tế. Sự chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu còn giữ vai trò quyết định làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế chung cả nước do hai chức năng cơ bản của nó là: làm chuyển dịch cơ cấu đầu tư và nâng cao hiệu quả kinh tế.
2
Để đạt được mục tiêu tăng giá trị xuất khẩu tuyệt đối hơn 2 tỷ USD/năm đòi hỏi nhiều biện pháp. Nhưng trong đó vấn đề vấn đề tìm kiến thị trường xuất khẩu của Việt Nam có một vị trí đặc biệt quan trọng quyết định đến sự thành công của kế hoạch.
Trên cơ sở đánh giá tầm quan trọng của xuất khẩu và thị trường xuất khẩu em chọn đề tài “Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam: thực trạng và giải pháp”.
Nội dung của đề tài gồm ba phần:
. Những lý luận cơ bản về thị trường xuất khẩu nói chung và thị
trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng.
. Thực trạng của thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam
. Các giải pháp phát triễn thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực
3
của Việt Nam.
CHƯƠNG I
NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU NÓI CHUNG VÀ THI TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC
1. Bản chất của thị trường và thị trường xuất khẩu câc mặt hàng
chủ lực
Thị trường là một phạm trù khách quan gắn liền với sản xuất và lưu
thông hàng hoá, ở đâu có sản xuất và lưu thông thì ở đó có thị trường.
Ta có thể hiểu thị trường theo hai giác độ: thị trường là tổng thể các quan hệ lưu thông hàng hoá-tiền tệ. Theo cách khác thì, thị trường là tổng khối lượng cầu có khả năng thanh toán và cũng có khả năng đáp ứng.
Theo quan điểm của người bán, thị trường là những khách hàng có tiềm năng tiêu thụ, có nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ trong một thời gian nhất định và chưa được thoả mản chứ không thể quan niệm thị trường đơn giản là khu vực hay một phạm vi địa lý nào.
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam là một thương nhân nước ngoài có tiềm năng tiệu thụ, có nhu cầu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam trong một thời gian nhất định và chưa được thoả mản.
4
Một khi trên thị trường có nhiều người mua, nhiều người bán và nhiều hàng hoá tương tự về chất lượng giá cả tất yếu nảy sinh cạnh tranh trên thị trường-cạnh tranh về chất lượng sản phẩm, về phương thức giao dịch mua bán, giữa những người mua với nhau. Cạnh tranh là bộ máy điều chỉnh trật tự thị trường, là yếu tố quan trọng khích thích tích cực tính
đa dạng và nâng cao chất lượng sản phẩm cho phù hợp với yêu cầu của người tiêu dùng, là yếu tố phát triễn thị trường.
Phát triễn thị trường là mục tiêu, phương thức quan trọng để tồn tại và chiến thắng trong cạnh tranh. Có mở rộng và phát triễn thị trường thì mới tăng nhanh doanh số bán, mới duy trì mối quan hệ thường xuyên gắn bó với khách hàng. Đồng thời cũng cố uy tín của doanh nghiệp, không ngừng nâng cao hiệu quả kinh doanh.
Để nắm vững được các yếu tố của thị trường, hiểu biết về quy luật vận động của chúng nhằm ứng xử kịp thời, mỗi nhà kinh doanh nhất thiết phải tiến hành các hoạt động về nghiên cứu thị trường.
Nghiên cứu thị trường hàng hoá thế giới có ý nghĩa rất quan trọng trong việc phát triễn và nâng cao hiệu quả kinh tế, đặc biệt là trong công tác xuất khẩu hàng hoá của quốc gia, mỗi doanh nghiệp nghiên cứu và nắm vững biến động của tình hình thị trường và giá cả hàng hoá trên thế giới là những tiền đề quan trọng đảm bảo cho các tổ chức xuất khẩu hoạt động trên thị trường thế giới có hiệu quả cao nhất.
Đối với các tổ chức xuất khẩu, nghiên cứu thị trường hàng hoá trên thế giới phải trả lời được các câu hỏi: xuất khẩu cái gì, dung lượng của thị trường hàng hoá đó ra sao, sự biến động của giá cả hàng hoá đó như thế nào, thương nhân trong giao dịch là ai, với phương thức giao dịch nào và cuối cùng là chiến thuật kinh doanh của từng giai đoạn để đạt được mục tiêu đề ra.
2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng chủ
lực nói riêng.
5
Đối với những nước đang phát triễn như nước ta, sự phát triễn của xuất khẩu nói chung và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng sẽ có một ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triễn của đất nước. Đặc biệt là trong quá trình khu vực hoá, toàn cầu hoá như hiện nay xuất khẩu càng đóng một vai trò quan trọng trong quá trình hội nhập nền kinh tế nước ta với nền kinh tế thế giới.
Trước hết xuất khẩu sẽ mang lại một nguồn thu ngoại tệ cho đất nước góp phần quan trọng vào việc cải thiệt cán cân thương mại và cán cân thanh toán, đây là nguồn thu ngoại tệ lớn cho đất nước, tăng khả năng dự trữ ngoại tệ, tăng khả năng nhập máy móc thiết bị và nhiên liệu cho việc phát triễn công nghiệp. Trong điều kiện nền kinh tế lạc hậu, sản xuất nhỏ là phổ biến, khu vực nông nghiệp chiếm đại bộ phận dân cư nhưng khả năng tích luỹ kém, khả năng tích luỹ của công nghiệp cũng thấp thì xuất khẩu có vai trò ngày càng to lớn, đủ trở thành nguồn thu nhập chủ yếu của nền kinh tế quốc dân.
Người ta nhận thấy, thu nhập nhờ hoạt động xuất khẩu đã vượt tất cả các nguồn thu nhập khác tại các nước đang phát triễn ở châu Á. Điều đó chứng tỏ rằng trong quan hệ kinh tế giữa các nước, kể cả các nước có trình độ phát triễn, chênh lệch nhau rất nhiều, thì hoạt động ngoại thương đóng vai trò chủ yếu, chứ không phải do các điều kiện viện trợ ưu đãi khác quyết định.
Ngoài việc tạo ra nguồn tích luỹ chủ yếu cho nền kinh tế, xuất khẩu
còn góp phần quan trọng trong việc giải quyết các vấn đề sau:
Nhờ xuất khẩu tăng, khả năng nhập khẩu cũng tăng, tạo ra điều kiện tăng cường đưa ra các tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vfa nguyên vật liệu phục vụ cho sản xuát góp phần quan trọng vào sự đổi mới nền kinh tế.
Sự phát triễn của các ngành sản xuất hàng xuất khẩu mở ra khả năng mới, thu hút lực lượng lao động ngày càng nhiều, góp phần giải quyết vấn đề việc làm. Vấn đề việc làm vừa mang tính chất kinh tế, vừa mang tính chất xã hội. Đây là hướng giải quyết tình trạng thất nghiệp, đưa một bộ phận lao động chưa có việc làm tham gia vào sự phân công lao động quốc tế dưới dạng “xuất khẩu lao động tại chổ”.
6
Một khía cạnh hết sức có ý nghĩa là thông qua phát triễn kinh doanh xuất khẩu, đáp ứng nhu cầu khách hàng về sản xuất ra sản phẩm có trình độ kỹ thuật, tiêu chuẩn quốc tế, mà đào tạo rèn luyện về trình độ kỹ thuật và chuyên môn hoá lành nghề cho một bộ phận lao động. Đây là cơ sở để mở ra một xu hướng mới, làm tăng cường xuất khẩu và xuất khẩu các mặt
hàng có hàm lượng ky thuật cao. Đó cũng là một tiền đề, nền kinh tế có một bước chuyển về chất từ nông nghiệp sang công nghiệp.
Xuất khẩu còn góp phần quan trọng vào việc giải quyết vấn đề sử dụng có hiệu quả cao hơn các nguônf tài nguyên thiên nhiên. Việc đưa các nguồn tài nguyên này tham gia vào sự phân công lao động quốc tế, thông qua việc phát triễn các ngành chế biến xuất khẩu, góp phần nâng cao giá trị của hàng hoá.
Như vậy xuất khẩu không chỉ đóng vai trò “chất xúc tác” hỗ trợ sự phát triễn, mà đã trở thành một nhân tố rất quan trọng trong dự phát triễn của nền kinh tế quốc dân.
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HÓA NÓI CHUNG
VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NOÍ RIÊNG
1. Nhận biết về mặt hàng xuất khẩu
Việc nhận biết mặt hàng xuất khẩu nói chung và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng trước tiên phải dựa vào nhu cầu của sản xuất và tiêu dùng về quy cách và chủng loại, giá cả, thời vụ và các thị hiếu cũng như tập quán của từng vùng, từng lĩnh vực sản xuất. Từ đó, sẽ tiến hành xem xét các khía cạnh của hàng hoá trên thế giới. Về khía cạnh thương phẩm, phải hiểu giá trị, công dụng, các đặc tính của nó, quy cách phẩm chất, mẩu mã. Nắm bắt được đầy đủ về giá cả hàng hoá, khả năng sản xuất và nguồn cung cấp chủ yếu của các công ty cạnh tranh, các hoạt động dịch vụ phục vụ cho hàng hoá như bảo hành, cung cấp phụ tùng, hướng dẫn sử dụng...
7
Việc lựa chọn mặt hàng xuất khẩu không những chỉ dựa vào các tính toán hay ước tính, những biểu hiện cụ thể của hàng hoá, mà còn phải dựa vào những kinh nghiệm của người nghiên cứu thị trường để dự đoán được các su hướng biến động của giá cả thị trường trong nước cũng như nước ngoài, khả năng thương lượng để đạt được điều kiện mua bán ưu thế hơn.
2. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng
Dung lượng thị trường là khối lượng hàng hoá được giao dịch trên một phạm vi thị trường nhất định trong một thời kỳ nhất định. Nghiên cứu về dung lượng thị trường cần xác định được nhu cầu thật của khách hàng, kể cả lượng dự trữ, xu hướng biến đổi của nhu cầu trong từng thời điểm, các vùng, các khu vực có nhu cầu lớn và đặc điểm của nhu cầu cho từng khu vực,từng lĩnh vực sản xuất, tiêu dùng. Cùng với việc xác định nắm bắt nhu cầu là việc nắm bắt khả năng cung cấp của thị trường bao gồm việc xem xét các dặc điểm, tính chất, khả năng của sản xuất hàng thay thế, khả năng lựa chọn mua bán. Một vấn đề cũng cần được quan tâm nắm bắt trong khâu này đó là tính chất thời vụ của sản xuất(cung) và tiêu dùng(cầu) hàng hóa đó trên thị trường thế giới để có các biện pháp thích hợp trong từng giai đoạn để đảm bảo cho việc xuất khẩu có hiệu quả.
Dung lượng thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và hàng hoá chủ lực nói riêng là không ổn định, nó thay đổi tuỳ theo diễn biến của tình hình, do tác động tổng hợp của nhiều nhân tố trong những giai đoạn nhất định. Các nhân tố làm cho dung lượng thi trường thay đổi có thể chia làm ba loại căn cứ vào thời gian ảnh hưởng của chúng đối với thị trường:
Loại thứ nhất là các nhân tố làm cho dung lượng thị trường biến động có tính chất chu kỳ. Đó là sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa và tính chất thời vụ của sản xuất, lưu thông và phân phối hàng hóa.
Sự vận động của tình hình kinh tế tư bản chủ nghĩa là nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến tất cả các thị trường hàng hoá thế giới. Sự ảnh hưởng này có thể trên phạm vi thế giới, khu vực, phải lưu ý phân tích sự biến động trong các nước giữ vai trò chủ yếu trên thị trường. Khi nền kinh tế tư bản rơi vào khủng hoảng tiêu điều thì dung lượng thị trường bị co hẹp và ngược lại thì được mơ rộng.
8
Nhân tố thời vụ ảnh hưởng tới thị trường hàng hoá trong khâu sản xuất, lưu thông các laọi hàng hoá khác nên sự tác động của các nhân tố này rất đa dạng với các mức độ khác nhau.
Loại thứ hai là các nhân tố ảnh hưởng lâu dài đến sự biến động của thị trường bao gồm tiến bộ khoa học kỹ thuật, các biến pháp chính sách của nhà nước và các tập đoàn tư bản lũng đoạn, thị hiếu, tập quan người tiêu thụ, ảnh hưởng của khả năng sản xuất hàng thay thế.
Loại thứ ba là các nhân tố ảnh hưởng tạm thời đối với dung lượng của thị trường nói chung và đối với thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng là như hiện tượng đầu cơ gây ra những đột biến về cung cầu, các yếu tố tự nhiên như thiên tai, bảo lụt, động đất... các yếu tố về chính trĩĩa hội như đình công...
Khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của các nhân tố phải thấy được nhóm các nhân tố tác động chủ yếu trong từng thời kỳ kể cả trước kia, hiện nay và xu hướng tiếp theo.
Nắm được dung lượng thị trường của các nhân tố ảnh hưởng đến nó trong từng thời kỳ có ý nghĩa rất quan trọng trong hoạt động kinh doanh xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng chủ lực nói riêng giúp cho các nhà xuất khẩu cân nhức để đề ra quyết định kịp thời, chính xác, nhanh chóng chớp thời cơ giao dịch nhằm đạt hiệu quả kinh doanh cao nhất. Cùng với việc nghiên cứu dung lượng thị trường, người kinh doanh phải nắm bắt được tình hình kinh doanh mặt hàng đó trên thị trường, các đối thủ cạnh tranh của mình và đặc biệt là các điều kiện chính trị, thương mại, luật pháp, tập quán buôn bán quốc tế từng khu vực để có thể hoà nhập với thị trường nhanh chóng có hiệu quả, tránh được những sơ suất giao dịch buôn bán.
3. Lựa chọn đối tượng buôn bán
Trong thương mại quóc tế, bạn hàng, khách hàng là những người hoặc những tổ chức có quan hệ giao dịch với ta nhằm thực hiện các hoạt động hợp tác kinh tế, khoa học kỹ thuật liên quan đến việc cung cấp hàng hoá.
Xét về tính chất các mục đích hoạt động, khách hàng trong thương
9
mại quốc tế có thể chia làm ba loại:
. Các hãng hay các công ty
. Các liên đoàn kinh doanh
. Các cơ quan nhà nước
Phần lớn các nghiệp vụ mua bán trong kinh doanh thương mại quốc
tế do các hãng hay các công ty thực hiện.
Việc lựa chọn các đối tượng giao dịch có căn cứ khoa học là điều kiện quan trọng để thực hiện thắng lợi các hoạt động mua bán trong thương mại quốc tế. Song viẹc lựa chọn các đối tượng giao dịch cũng tuỳ thuộc vào kinh nghiệm của người nghiên cứu và truyền thống trong mua bán của mình.
Thị trường hàng hoá thế giới trong thương mại quốc tế nói chung và xuất khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng là hết sức cần thiết và quan trọng. Đây là môi trường để xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng chủ lực nói riêng được thực hiện và thực hiện có hiệu quả.
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÓI CHUNG VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG
1. Các thuế quan và hạn ngạch(tariffs and quotas)
Thuế quan có thể gây ảnh hưởng rất lớn đến sức cạnh tranh của sản phẩm xuất khẩu nói chung và các mặt hàng chủ lực của ta đối với sản phẩm của bản xứ. Hiện nay xuất khẩu một số mặt hàng chủ lực của ta vào một số thị trường phải chịu thuế suất rất cao như dệt may, da dày, hải sản... làm giản khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trên thị trường thế giới.
10
Thuế quan còn ảnh hưởng tới sức cạnh tranh đối với các sản phẩm đến từ nước thứ ba, các sản phẩm này đôi khi phải chịu tỷ lệ thuế quan khác nhau. Ví dụ như cùng một mặt hàng, cùng tính năng, cùng chất lượng như nhau nhưng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ phải chịu một tỷ lệ thuế suất rất cao so với các nước khác xuất khẩu sang Mỹ do các nước này được hưởng quy chế tối huệ quốc của Mỹ.
Phần lớn các nước đều sử dụng loại hạn ngạch nhập cảng dưới hình thức này hay hình thức khác. Các loại hạn ngạch thường được ưa chuộng hơn là thuế quan và nói chung nó là đối tượng điều chỉnh thông dụng hơn. Bất cứ lúc nào hạn ngạch đều có thể hạn chế một cách hữu hiệu thị phần có thể tiếp cận được đối với nhà cung cấp nước ngoài hay đối với các nhà xuất khẩu của một số nước. Trong nhiều trường hợp, chính các hạn ngạch nhập khẩu của nước nhập khẩu có thể đóng kín cữa thị trường hoàn toàn cho các nhà cung cấp nước ngoài.
2. Các quy định liên quan đến sức khoẻ và an toàn
Trong nhiều nước, việc nhập cảng hay bán hàng hoá đều tuỳ thuộc vào các quy định nghiêm khắc về vệ sinh và an toàn, nhất là nếu liên hệ đến thực phẩm hay các loại hàng hoá có thể tiếp xúc được với miệng lưỡi. Vả lại, các quy định dựa trên các nhận xét về môi sinh càng ngày càng có tầm quan trọng. Các quy định này có thể liên hệ đến nguyên liệu đã được sử dụng, cách thức chế biến hay còn gồm cả bao bì và nhãn hiệu. Nhiều nước chẵng hạn quy định việc sử dụng các tác nhân đối với việc chế biến thực phẩm và đối với thành phần chất hoá học của các chất màu dùng làm trang trí chén bát và đồ chơi.
Nếu không biết hoặc thiếu thông tin về vấn đề này, nhà xuất khẩu có thể bị loại khỏi thị trường. Do vậy, nhà xuất khẩu phải thu thập thông tin đầy đủ trước khi gia nhập thị trường
3. Các yếu tố kinh tế
Khả năng mua hàng của người dân, dĩ nhiên ảnh hưởng đến số lượng mà họ có thể mua và ảnh hưởng đến loại sản phẩm mà họ chọn để mua. Nếu có một tỷ lệ lớn dân số quá nghèo, thị trường tiềm năng của nhiều loại sản phẩm có lẻ sẽ bị hạn chế, hơn là nếu phần lớn các người tiêu thụ lại sống trong tình trạng giàu có, sung túc.
11
Nếu một nước đang ở tình trạng có tốc độ gia tăng kinh tế nhanh và nếu các khu vực dân số có lẽ sắp thụ hưởng mức gia tăng lợi tức quốc gia,
các triễn vọng bán nhiều sản phẩm, dĩ nhiên sẽ có nhiều hứa hẹn hơn là nền kinh tế của một nước có thể phải trãi qua một thời kỹ trì trệ.
Vì thế, các nhà xuất khẩu phải thiết lập một dự phòng mức cầu của sản phẩm trong một nước nhất định bằng cách xem xét các yếu tố, như viễm tượng tổng quan của nền kinh tế, tình hình dân dụng, mức lợi tức và phân phối lợi tức.
Tuy nhiên các nhà xuất khẩu phải cẩn thận khi thiết lập các mối tương quan giữa các yếu tố trên và mức cầu sản phẩm của mình. Khi lợi tức của họ giảm, người tiêu thụ có khuynh hướng giảm mua các mặt hàng xa xỉ, trước khi từ chối mua các sản phẩm tối thiểu cần thiết. Mặt khác, đối với nhiều sản phẩm, các nước nghèo đôi khi lại có nhiều thị trường đầy hứa hẹn hơn là những nước giàu.
4. Các yếu tố về văn hoá và xã hội
Chúng ta đã thấy các sự khác biệt về lợi tức, trình độ học vấn của dân chúng đều có thể ảnh hưởng đến việc mua loại sản phẩm nào. Nhiều yếu tố xã hội và văn hoá khác cũng có thể làm biến đổi các triễn vọng bán một sản phẩm và cách thức để thương mại nó như: động thái, niềm tin tôn giáo, phong tục tập quán. Tóm lại là phong cách sống của dân cư.
Thỉnh thoảng, những người tiêu thụ có những thái độ tiêu cực đối với một nước hay đối với các sản phẩm của nước đó. Theo thói quen mua hàng của họ, sở thích của họ. Họ có thể có khuynh hướng ưu chuộng hay từ chối đối với một số màu sắc. Khi thì họ bị cuốn hút bởi các sản phẩm có bề ngoài “lạ mắt”, khi thì họ quay lưng lại với nó.
Vì vậy các nhà xuất khẩu trướnc khi xuất khẩu cần nghiên cứu kỹ các
12
yếu tố ảnh hưởng của thị trường xuất khẩu.
CHƯƠNG II
THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG
CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
1. Về cơ hội
13
Thành quả 15 năm đổi mới nền kinh tế đã đưa “thế” và “lực” của nước ta lên một tầm cao mới. Trong xu thế toàn cầu hoá khu vực hoá thành một xu hướng tất yếu thúc đẩy hầu hết các quốc gia mở rộng thị trường bằng cách giảm bớt, thậm chí xoá bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan; chuyển dịch một cách thông thoáng hàng hoá, vốn đầu tư, tiền tệ, dịch vụ, lao động giữa các quốc gia với quy mô ngày càng lớn; hình thành vô số tổ chức kinh tế, tài chính mang tính toàn cầu và khu vực; ký kết hàng vạn hiệp định song phương đa phương, hàng trăm công ước kinh tế quốc tế, phát triển nhiều tập đoàn xuyên quốc gia...Khu vực hoá tập hợp những quốc gia trong từng khu vực với những mục đích đa dạng, hình thức phong phú. Khu vực hoá góp phần thúc đẩy tự do hoá thương mại, đầu tư, dịch vụ trong phạm vi khu vực cũng như giữa các khu vực, tao lập những khu vực rộng lớn với một chính sách tài chính tiền tệ, công nghệ, thị trường thống nhất, giúp cho các quốc gia thành viên tiết kiệm chi phí, tạo mối trường kinh doanh có hiệu quả, tạo lợi thế trong hợp tác cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Việt Nam cũng không nằm trong xu thế đó, ta đã có quan hệ kinh tế với hơn 130 nước trên thế giới và nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hoá Việt Nam đã có mặt tại tất cả các nước lớn như: Mỹ, EU, Nhật Bản và các trung tâm kinh tế lớn. Một số ngành sản xuất phát triễn với tốc độ cao, tạo được khối lượng lớn về sản
phẩm hàng hoá chất lượng cao, ổn định, giá thành hạ, có sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Cơ chế chính sách nhằm thúc đẩy xuất khẩu ngày càng được thông thoáng, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động.
Thành tựu to lớn về đối ngoại của nước ta và những diễn biến trên thị trường thế giới đã đặt nước ta nhiều thuận lợi mới để mở rộng hơn nữa kinh tế đối ngoại làm cho nền kinh tế đối ngoại trở thành đòn bẩy quan trọng góp phần thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế.
Thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam như: dầu thô, hàng dệt may, thuỷ sản, gạo, cà phê, hàng da, than đá, cao su, điện tử- tin học-viễn thông chủ yếu tập trung ở các thị trường như khu vực Châu Á-Thái Bình Dương chiếm 57,4%, khu vực Âu-Mỹ chiếm 37%, khu vực Châu Phi chiếm khoảng 4,6%.
Nhìn vào cơ chế xuất khẩu hàng chủ lực của Việt Nam thì thấy khu vực Châu Á-Thái Bình Dương chiếm ưu thế 37,4%. Trong những thập kỹ tới khu vực này vẫn tiếp tục phát triễn năng động và đạt tốc độ tăng trưởng cao hơn các khu vực khác. Nổi bật nhất là Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan, Malayxia, Thái Lan, Xingapo, Ấn Độ. Trong khu vực, xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư càng phát triễn mạnh mẽ, tiếp tục diễn ra sự liên kết nhiều nấc: đại khu vực, khu vực, tiểu khu vực, tứ gíac, tám giác. Về tình hình chính trị thì khu vực Châu Á-Thái Bình Dương là đối tượng ổn định so với các khu vực khác. Các trung tâm kinh tế thế giới, các nước lớn đều hướng trọng tâm hoạt động kinh tế, chính trị và Châu Á- Thái Bình Dương, xem đây là chứa đựng nhiều yếu tố quyết định sự phát triễn của mình. Nhiều dự báo cho rằng, trong thế kỷ 21 trung tâm thương mại thế giới sẽ chyển sang Châu Á-Thái Bình Dương.
14
Một sự kiện rất quan trọng đối với thị trường xuất khẩu của chúng ta là hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã được ký kết và hạ nghị viện và thượng nghị viện Mỹ vừa thông qua mở ra một cơ hội to lớn vèe giao lưu buôn bán thương mại giữa hai nước. Thị trường Mỹ là một thị trường lớn được đánh giá là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới. Các nhóm hàng mà
Việt Nam có thể xuất khẩu sang Mỹ đó là: cà phê, chè, gia vị, hải sản chế biến, nhất là tôm đông lạnh và hàng dệt may mặc. Ngoài những mặt hàng trên, Việt Nam có những thế mạnh như: cao su, dàu thô, dầu thực vật, hoa quả nhiệt đới, các loại đậu, hàng thủ công mỹ nghệ, đồ chới trẻ em.. dều có thể xuất khẩu sang Mỹ.. Những thành quả to lớn về đối nội, đối ngoại của nước ta và những diễn biến trên thị trường đã đặt nước ta nhiều thuận lợi mới để mỏ rộng kinh tế đối ngoại, làm cho kinh tế đối ngoại nói chung và xuất khẩu nói riêng trỏ thành đòn bẩy để thúc đẩy nhanh sự tăng trưởng kinh tế. Về tình hình chính trị – xã hội của nước ta ổn định, sự cải tiến liên tục tình hình kinh tế, pháp luật, chính sách thông thoáng đó là những nhân tố tạo niềm tin và hấp dẫn với các đối tác nước ngoài.
2. Về khó khăn và thách thức
Mặc dù thành quả của 15 năm đổi mới đã làm cho bộ mặt kinh tế nước tá khác xa hơn trước. Nhưng chúng ta cũng phải thừa nhận một thực tế rằng nước ta là một nước kém phát triễn. Thách thức gay gắt nhất là nguy cơ tụt hậu về kinh tế ngày càng xa so với các nước trong khu vực và trên thế giới do phát triễn của nước tá quá thấp, lại phải đối phó cạnh trnah gay gắt trên thị trường quốc tế. Không hội nhập thị trường được; nhưng hội nhập với nền kinh tế thế giới, nền kinh tế của nước ta lại không tránh khỏi phải chịu ảnh hưởng của xu thế “tự do hoá thương mại”, của biến động giá cả quốc tế và lãi suất ngân hàng, của tình hình cung cầu và vốn đầu tư, của nhu cầu đa dạng của thị trường nước ngoài trong khi bố trí cơ cấu kinh tế...
15
Về hàng xuất khẩu caủa Việt Nam nói chung và cũng như hàng xuất khẩu chủ lực của nước ta đang đứng trước một sự cạnh tranh gay gắt với các khu vực như: Thái Lan, Indonesia, Philíppin, Malaysia...Đặc biệt là Trung Quốc vừu trở thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới WTO đủ tạo ra một lợi thế rất lớn cho hàng Trung Quốc cạnh tranh chiếm thị phần các thị trường trên thế giới. Việc Trung Quốc gia nhập WTO là một cản trở rất lớn cho hàng hoá Việt Nam thâm nhập thị trường thế giới. Bởi vì những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như:
may mặc, da dày, hàng nông sản, thủ công mỹ nghệ... cũng là thế mạnh của Trung Quốc.
Mỹ và phương tây tiếp tục thực hiện mưu toán “diễn biến hoà bình” ở Việt Nam, gây áp lực với ta về vấn đề “dân chủ”, “nhân quyền”, đa nguyên đa đảng. Chính sách hai mặt của Trung Quốc đối với Việt Nam chưa hề thay đổi; hành động lấn chiếm lãnh thổ của ta, đặc biệt là trên biển, đặt ta trong tình trạng luôn luôn phải cảnh giác. Đối phó với sức uy hiếp ngày càng tăng, cuộc chạy đua trong khu vực Châu Á-Thái Bình Dương diễn ra hết sức phức tạp, đe doạ an ninh chủ quyền lãnh thổ nước ta buộc chúng ta phải hết sức coi trọng việc cũng cố và taưng cường khả năng quốc phòng.
Bên cạnh đó nền kinh tế của chúng ta còn nhiều yếu kém: đội ngủ cán bộ làm công tác đối ngoại vừa thiếu lại vừa yếu; tổ chức bộ máy kinh tế kém hiệu quả đã tác động không thuận đến sự phát triễn kinh tế đối ngoại.
Những tình hình trên đã đặt nước ta nững khó khắn trong hoạch định chiến lược cũng như trong điều hành quản lý, đòi hỏi nước ta phải phát triễn vượt bậc, mau chống trưởng thành để đủ sức chống đỡ các ảnh hưởng nói trên
3. Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trường
3.1. Nhóm hàng nguyên vật liệu
Nhóm hàng này với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá chiếm trên 20% kim nghạch xuất khẩu của nước ta. Đối với mặt hàng dầu thô, thị trường xuất nhập khẩu gồm: Ôxtraylia, Singapore, Nhật Bản và Trung Quốc, mặt hàng xuất khẩu chủ lực này trong tương lai sẽ giảm dần sau khi nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào hoạt động. Dự kiến đến năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu vchỉ còn là 12 triệu tấn so với hiện nay là 16 triêụ tấn. Và đến năm 2010 kim ngạch xuất khẩu dầu thô sẽ giảm đáng kể.
16
Về than đá, thị trường xuất khẩu chủ yếu là Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu... Dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy
nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm(hiện nay là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn(5 trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch khoảng 120-150 triệu USD). Nhìn chung giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung ứng trên thị trường thế giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trường nên cầu có xu hướng giảm.
Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt của dầu thô và than đá là rất hạn chế. Như vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp 9% kim ngạch xuất khẩu(2,5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010 tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1%(dưới 500 triệu USD) hoặc 3.5%(khoảng 1,75 tỷ USD), tuỳ theo phương án khai thác dầu thô. Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu.
3.2. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản
Hiện nay nhóm hàng này chiếm gần 25% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cà phê, cao su, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu, và nhân điều, tất cả đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/năm. Nhóm hàng này có xu hướng tăng kim ngạch tuyệt đối nhưng tỷ trọng tuyệt đối của nhóm sẽ giảm xuống còn 22%(tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2%(tương đương 8-8.6 tỷ USD) vào năm 2010. Nguyên nhân là do xuất khẩu nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính cơ cấu(như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn). Bên cạnh đó nhu cầu của thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định.
Theo Bộ Thương Mại hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là mặt hàng thuỷ sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thế giới lại tăng khá ổn định, bình quân tăng mỗi năm trên 13%. Thị trường xuất khẩu chính của mặt hàng này là Nhật Bản, Hoa Kỳ, Trung Quốc...
17
Đối với mặt hàng gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng 20 triệu tấn/ năm, nhiều nước nhập khẩu chú trọng vào an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập
khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến suốt thời kỳ 2001-2010 nhiều lắm ta cũng có thể xuất khẩu được khoange 4-4,5 triệu tấn/năm, thu về mỗi năm khoảng 1 tỷ USD. Để nâng cao kim ngạch, cần đầu tư cải tiến cơ cấu và chất lượng gạo xuất khẩu; khai thác các thị trường mới như: Trung Đông, Châu Phi, Nam Mỹ, ổn định và duy trì thị trường truyền thống như Indonesia, Philippin.. thông qua các hợp đồng G-to-G, nghiên cứu khả năng phối hợp với Thái Lan để điều tiết nguồn cung, ổn định giá cả thị trường tăng hiệu quả xuất khẩu gạo.
Đối với hàng cà phê, thị trường xuất khẩu chính vẫn là EU, Hoa Kỳ, Singapore và Nhật Bản. Nói chung, xuất khẩu cà phê sẽ không gặp khó khăn lớn về thị trường nhưng giá cả khó ổn định.
Nhìn chung, để nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản đạt được giá trị kim ngạch xuất khẩu trong tương lai thì cần chú trọng khâu chế biến, bảo quản, vệ sinh thực phẩm, chuyên chở, đóng gói, phân phối để có thể thẳng tới khâu tiêu dùng, từ đó nâng cao giá trị gia tăng.
3.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo
18
Hiện nay kim ngạch của nhóm này đã đạt trên 4 tỷ USD, tức là 30% kim ngạch xuất khẩu. Hạt nhân của nhóm này là dệt may và dày dép. Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết và thông qua, đây là một cơ hội rất to lớn để dệt may và dày dép phát triễn, dự báo tới năm 2010 kim ngạch của mỗi mặt hàng đạt khoảng 7-7,5 tỷ USD. Thị trường xuất khẩu chính của hai mặt hàng này là EU, Nhật Bản, đặc biệt là thị trường Nhật Bản, đây là thị trường phi quota. Và trong những năm tới phải gia tăng nổ lực thâm nhập vào các thị trường Mỹ, Trung Đông và châu đại dương. Do mực tiêu kim ngạch của toàn nhóm chế biến, chế tạo là trên 20 tỷ USD nên ngoài dệt may và dày dép cần tiếp cận thị trường quốc tế, dự báo nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó không những đáp ứng mà cố gắng tạo ra những ngành hàng mới. Trước mắt, chủ yéu dựa vào cơ cấu đầu tư và thực tiến sản xuất trong những năm qua cũng như thị trường quốc tế, chúng ta cần chú trọng vào những mặt hàng như thủ công mỹ
nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí, điện, sản phẩm nhựa.
Mặt hàg thủ công mỹ nghệ hiện nay đạt xấp xĩ 200 triệu USD. Đây là ngành nhiều tiềm năng, dung lượng thị trường thế giới còn lớn. Nếu có chính sách đúng đắn để khởi động tiềm năng thì có thể đạt kim ngạch.
II. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC NMẶT
HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
1. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam
1.1. Thị trường Châu Á- Thái Bình Dương
tăng 3%(1999) so với mức âm(1998), Philippin
19
Thị trường Châu Á - Thái Bình Dương là một thị trường xuất khẩu trọng điểm của Việt Nam. Với kim ngạch 9,7 tỷ USD chiếm tỷ trong gần 60% trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Với những thuận lợi như dung lượng thị trường lớn, vị trí địa lý gần gủi, là một khu vực phát triễn năng động. Tại khu vực này, cuộc khủng hoảng tài chính-tiền tệ năm 1998 gần như đã kết thúc với sự phục hồi kinh tế ở các nước Malaysia, Singapore, Hàn Quốc, Thái Lan... Trong số các nước bị ảnh hưởng nghiêm trong nhất của cuộc khủng hoảng, Hàn Quốc đã dẫn đầu qua tình trạng phục hồi với mức tăng GDP 9%(1999) so với 6%(1998), Singapore có mức tăng 5%(1999) so với mức âm 0,2%(1998), Hồng Kông tăng 0,7%(1999) so với âm 4,7%(1998), Indonesia tăng 2%(1999) so với mức âm 7,5%(1998), Thái Lan tăng 4%(1999) so với mức âm 8%(1998), tăng Malaysia 2,9%(1999) so với mức âm 0,2%(1998). Các nước Nam Á như ấn Độ, Trung Quốc vẫn tiếp tục tăng trưởng ổn định. Đây là điều kiện rất thuận lợi để giao lưu hàng hoá của Việt Nam vào khu vực Châu Á- Thái Bình Dương tăng rất nhanh. Dự kiến đến năm 2005 xuất khẩu của Việt Nam vào khu vực Châu Á-Thái Bình Dương tiếp tục tăng 10-12%/năm, nhưng từ năm 2006-2010 sẽ còn 8%/năm. Với tốc độ tăng trưởng như dự báo thì đầu năm 2003 khu vực này chiếm khoảng 60% thị trường xuất khẩu của cả nước và đến năm 2010 thì còn khoảng 30%.
Hàng hoá xuất khẩu chủ yếu của Việt Nam sang khu vực này vẫn là những mặt hàng truyền thống như: dầu thô, gạo, hạt điều, cà phê, cao su, hải sản, rau quả tươi... Đặc biệt là các sản phẩm gia súc, gia cầm, hoa quả nhiệt đới, rau củ, dầu thô, khi đốt, điện năng có khả năng tăng mạnh trong thời gian tới.
Sản lượng một số mặt hàng chủ yếu của Việt Nam có thể xuất khẩu
vào các nước Châu Á-Thái Bìn Dương là:
Dầu thô 10 triệu tấn/năm
Than đá 4 triệu tấn/năm
Gạo 1,5 triệu tấn/năm
Cao su 200.000 tấn/năm
Cà phê 100.000tấn/năm
Chè 50.000 tấn/năm
Hạt tiêu 50.000 tấn/năm
Hạt điều 20.000 tấn/năm
Thuỷ sản 1.000.000 tấn/năm
Dày dép 200 triệu USD
1.1.1. ASEAN
Những mặt hàng này chủ yếu xuất khẩu vào các thị trường trọng điẻm như: Nhật Bản, Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc(cả Hồng Kông) và các nước ASEAN.
ASEAN là một thị trường khá lớn với khoảng 500 triệu dân, ở sat Việt Nam, tuy trước mắt gặp khó khăn tạm thời song tiềm năng phát triễn còn lớn.
20
Việt Nam gia nhập ASEAN là một cái mốc quan trọng đánh dấu sự chuyển hoá mối quan hệ giữa Việt Nam và các nước thành viên khác mang đậm tính chất hợp tác. Nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế các nước thành viên có thể bổ sung cho nhau đem lại sự phồn vinh cho mỗi
nước và cho cả khu vực. Hiện nay ASEAN chiếm khoảng 25-30% kim ngạch xuất nhập khẩu của Việt Nam và khoảng 15% tổng vốn đầu tư của nước ngoài vào Việt Nam.
Hiện nay các nước ASEAN đang chuẩn bị tiến hành thực hiện Hiệp định khu vực mậu dịch tự do ASEAN(AFTA), thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung(CEPT). Khu mậu dịch tự do ASEAN(AFTA) ra đời hướng vào các mục đích như: mở rộng và tăng cường buôn bán giữa các nước ASEAN, thúc đẩy hợp tác đầu tư trong nội bộ khu vực và thu hút đầu tư nước ngoài vào ASEAN, xây dựng ASEAN thanh một khu vực sản xuất có sức cạnh tranh mạnh hướng vào toàn cầu.
1.1.2. Thị trường Nhật Bản
Để thực hiện AFTA, năm 1992 các nước ASEAN đã ký kết thực hiện chương trình ưu đãi thuế quan có hiệu lực chung(CEPT). Mục tiêu của CEPT là giảm thuế quan trong thương mại nội bộ ASEAN xuống 0-5%, đồng thời loại bỏ tất cả các hạn chế về định lượng và hàng rào phi thuế quan khác. Có thể nói khi khu vực mậu dịch AFTA thành công, hàng rào thuế quan giữa các nước ASEAN không còn nữa thì việc giao lưu giữa các nước ASEAN dễ dàng. Đây thực sự là điều kiện rất tốt để gia tăng hàng xuất khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN nhưng đồng thời nó cũng đặt ra một thách thức rất lớn về sự cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam trong nước và trong khu vực ASEAN.
21
Từ năm 1986 đến nay, lượng hàng Việt Nam nhập khẩu của Nhật Bản đã tăng 3-4 lân trong khi lượng hàng Việt Nam xuất khẩu sang Nhật Bản lại tăng từ 13-14 lần. Vậy mà, suốt từ năm 1988 đến nay Nhật Bản luôn là nước xuất siêu. Sau Indonesia, Việt Nam là nước đang phát triễn tại Châu Á luôn xuất siêu sang Nhật Bản, trường hợp này rất hiếm. Nhật Bản được đánh giá là bạn hàng lớn nhất trong 8 bạn hàng lớn nhất của Việt Nam trong những năm qua(8 bạnn hàng này chiếm 89% kim ngạch xuất khẩu và trên 80% kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam; đó là: Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông, SNG, Pháp, Hàn Quốc, Đài Loan và Thái Lan). Nếu lấy mốc năm 1985 là năm cuối cùng trước khi đổi mới từ năm
1986 đến nay để so sánh với năm 1997, là một năm mà quan hệ kinh tế nói chung và quan hệ kinh tế nói riêng giữa hai nước còn chưa chịu tác động tiêu cực trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ Châu Á trong 2 năm 1997-1998 và cuộc khủng hoảng kinh tế kéo dài của chính Nhật Bản từ đầu thập niện 90 đến nay thì kim ngạch buôn bán hai chiều Việt-Nhật năm 1997 đã tăng 19,9 lần so với con số tương ứng của năm 1985. Tốc độ tăng trưởng thương mại bình quân giữa hai nước là 30%; trong đó tăng trưởng xuất khẩu là 33,2% và nhập khẩu là 38,9%, đều tăng nhanh hơn nhiều so với tốc đọ tăng trưởng xuất khẩu chung của ngoại thương Việt Nam kể cả Xuất khẩu và nhập khẩu.
Trong 3 năm gần đây, 1997-1999, đặc biệt là hai năm 1997-1998 kinh tế Nhật Bản vốn chưa thoát khỏi suy thoái kéo dài từ thập niên 90, lại đã gặp khó khăn nghiêm trọng do sự tác động trực tiếp của cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á. Tình hình suy thoái kinh tế nặng nề đã tác động đến chi tiêu và đầu tư của người Nhật, làm ảnh hưởng xấu đến quan hệ thương mại, đặc biệt là nhập khẩu của Nhật Bản đối với các nước khác; trong đó có Việt Nam. Thế nhưng, vượt lên trên mọi khó khăn, các cơ quan xúc tiến phát triễn thương mại mà trực tiếp vào cuộc là các doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Chính vì thế năm 1999, về cơ bản chúng ta vẫn duy trì được thế cân bằng tương đối trong quan hệ buôn bán với Nhật Bản ư những năm trước. Trong khi đó hoạt động xuất khẩu của ta sang Nhật vẫn tiến triễn khả quan với tốc độ tăng trưởng xuất khẩu 23% trong năm 1999 của hoạt động ngoại thương Việt Nam. Với tăng trưởng liên tục của các hoạt động xuất nhập khẩu cho ta thấy rõ ràng là quan hệ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản trong những năm qua đã ngày càng khẳng định hơn vị trí, vai trò quan trọng không thể thiếu đối với hoạt động ngoại thương Việt Nam.
22
Trong các mặt hàng xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản thì đáng lưu ý là các mặt hàng tôm đông lạnh và mực, hàng may mặc, cà phê, than đá đang là nhưng mặt hàng có tốc độ tăng rất nhanh. Tôm đông lạnh Việt Nam chiếm tỷ phần xấp xỉ 10% thị phần nhập khẩu của Nhật Bản. Nhật Bản cũng đã trở thành thị trường lớn nhất đối với hàng may mặc xuất
khẩu của Việt Nam, lại là thị trường phi hạn ngạch nên tiềm năng của thị trường này cho hàng may mặc xuất khẩu của Việt Nam là rất lớn. Than đá của Việt Nam xuất khẩu sang Nhật gần đây đạt mức kỷ lục hơn triệu tấn/năm. Thị trường cà phê, dày dép của Nhật Bản cũng hứa hẹn nhiều triễn vọng đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam. Có một số mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam trong vài năm gần đây đã có tính cạnh tranh cao cả về chất lượng và giá cả, đáng chú ý là may mặc, khăn lau tay, một số hàng thuỷ snr như tôm và mực. Năm 1998, Việt Nam đã vươn tới vị trí một trong 4 nước hàng đầu sang Nhật về một số mặt hàng như than đá(đứng thứ 2), mực(thứ 2), tôm(thứ 4),... Phần lớn các đối thủ cạnh tranh mặt hàng này của Việt Nam tại thị trường Nhật Bản là một số nước Châu Á như: Trung Quốc, Hàn Quốc, Thái Lan, Malaysia, Indonesia, Philippin, Ấn Độ... Rõ ràng là Việt Nam đã từng bước chiếm lĩnh thị trường Nhật Bản, một thị trường có sức tiêu thụ rất mạnh, những đã từng nổi tiếng là khó tính. Không những thế, nhìn về triễn vọng, xuất khẩu hàng Việt Nam sang Nhật Bản còn có khả năng tiếp tục phát triễn khả quan hơn nữa, khi mà nền kinh tế Nhật Bản kể từ năm 1999 đến nay đang phục hồi trở lại. Nhu cầu tiêu dùng của người Nhật đối với hàng hoá tiêu dùng của Việt Nam sẽ ngày càng gia tăng hơn, nếu họ quen sử dụng, còn các hàng hóa tiêu dùng cho sản xuất của Việt Nam vẫn xuất sang Nhật như: dầu thô, than đá, sắt thép... thì thực tiễn đã cho thấy đó là những hàng hoá nguyên vật liệu thiết yếu dùng cho sản xuất công nghiệp mà nền kinh tế Nhật Bản luôn luôn cần tới. Năm 1998 có thể nói nền kinh tế của Nhật Bản đang chạm tới “đáy” của sự suy thoái, với tốc độ tăng trưởng –18%, đạt kỹ lục chưa từng có từ 5 thập niên gần đây, song quan hệ thương mại của nước ta khi đó Nhật vẫn là thị trường tiêu thụ chủ yếu, chiếm tới 60-70% tổng doanh thu xuất khẩu các sản phẩm dầu thô, than đá và hàng may mặc thuỷ sản của ta.
23
Mặc dù quan hệ thương mại Việt-Nhật đã có sự phát triễn liên tục, khả quan như vậy song nghiêm túc thừa nhận, so với tiềm năng thực có vẫn còn hạn chế. Cụ thể là, nếu tính đến thời điểm năm 1997 , năm mà hoạt động buôn bán giữa hai nước đã được ghi nhận là phát triễn khả quan
nhất, ta thấy kim ngạch xuất nhập khẩu Việt-Nhật đã chiếm 0,46% trong tổng kim ngạch xuất nhập khẩu của Nhật Bản. Nếu so sánh tương quan giữa thương mại giữa các nước trong khu vực với Nhật Bản thì con số tỷ trọng đó là nhất nhỏ bé. Theo số liệu của Quỷ tiền tệ Quốc tế(IMF) tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu của các nước ASEAN trong tổng kim ngạch ngoại thương của Nhật Bản là: Thái Lan là 3,7%, Malaysia là 4,5%, Indonesia là 5,2%...
Tương tự trên, mặc dù kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam tăng đều hàng năm với mức bình quân khá cao là 20% kể từ năm 1990 đến nay, trong đó tăng cao nhất là 25% trong năm 1999, song đến nay Việt Nam vẫn là một bạn hàng xuất khẩu nhỏ bé của Nhật Bản. Năm 1998 khoảng 0,5%, trong khi tỷ trọng của Trung Quốc là cao nhất: 13,2%, Singapore là: 2,9%, Malaysia là: 2,7%, Thái Lan là: 2,6%, Indonesia là: 2,3% và thấp nhất là Philippin cũng đạt tới 1,7%, còn cao hơn Việt Nam 3,4 lần.
Vậy để hàng hoá của Việt Nam thâm nhập vào thị trường Nhật Bản
tương xứng với tiềm năng của hai nước thì:
24
-Trước hết, đó là vấn đề về chất lượng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật. Phải thừa nhận rằng chúng ta đã có nhiều cố gắng về vấn đề này vì thế càng ngày trong danh mục hàng xuất khẩu của Việt Nam càng có thêm những mặt hàng chiếm được ưu thế cao về chất lượng như: hàng may mặc, hàng thực phẩm hải sản, tôm, mực, bạch tuộc, hàng thủ công mỹ nghệ... Thế nhưng qua thực tiễn xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Nhật Bản những năm qua ta cần phải chấp nhận một thực tế là nhìn chung chất lượng hàng hoá của ta chưa đồng đều, còn thua kém nhiều nước trong khu vực, đặc biệt là chất lượng quảng cáo, thông tin trên bao bì, cũng như kỹ thuật đóng gói còn đơn điệu, kém hấp dãn và độ dài thời gian bảo hành sản phẩm còn chưa chuẩn xác như quảng cáo giới thiệu trên các bao bì hàng hoá. Từ đó đặc ra bên cạnh vấn đề chất lượng cao, Việt Nam cần chú ý nhiều hơn nữa đến khâu thông tin, quảng cáo tiếp thị với thị trường Nhật Bản, mà trước hết là chú ý tới hình thức mỹ thuật và chất lượng kỹ thuật của bao bì hàng hoá và vấn đề tiết kiệm giá
thành sản phẩm để giảm giá ở mức hợp lý mới có thể cạnh tranh được với hàng hoá của các nước khác .
-Thứ hai là: hoàn tiện và nâng cao các biện pháp thâm nhập tị trường Nhật Bản. Về vấn đề này của ta còn quá đơn giản và chưa chủ động. Việc thâm nhập thị trường Nhật bằng hình thức tiếp cận trực tiếp thị trường chưa được các doanh nghiệp của ta quan tâm đúng mức, trong đó có nguyên nhân đó là chi phí khảo sát thị trường rất tốn kem, các doanh nghiệp của ta dù có muốn khảo sát trực tiếp cũng chưa có thể thực hiện được vì một thực tế là phần lớn các doanh nghiệp Việt Nam còn ở quy mô nhỏ, chưa có đủ tiềm lực kinh tế làm ăn lớn. Chính vì thế mà cho đến nay các doanh nghiệp Việt Nam không thể nắm bắt kịp thời chính xác được nhu cầu hàng hoá, thị hiếu tiêu dùng cũng như các quy định về quản lý xuất nhập khẩu của Nhật Bản... Do vậy việc xuất khẩu hàng sang Nhật Bản hoàn toàn phụ thuộc vào phía đối tác Nhật.
-Thứ ba là: mở rộng quy mô của các doanh nghiệp Việt Nam.
Quy mô của các doanh nghiệp Viêt Nam hiện nay còn nhỏ bé và do phương thức gom hàng của ta để xuất khẩu lâu nay vẫn chưa khắc phục hết tình trạng sản xuất nhỏ, manh mún... Vì thế rất khó khăn trong việc đáp ứng các hợp đồng lớn, hoặc các hợp đồng đột xuất ngoài kế hoạch dự kiến của phía ta nhưng phía Nhật lạ có nhu cầu.
Tóm lại, xuất khẩu của Việt Nam sang Nhật Bản trong những năm qua đã phát triễn khả quan hơn trước nhiều song vẫn chưa thực sự xứng với tiềm năng và nhu cầu phát triễn của mỗi nước. Cần phải có những giải pháp đồng bộ để phát huy lợi thế so sánh của nước ta.
1.2. Thị trường EU
25
Chính sách thương mại Việt Nam-EU có nhiều chuyển biến tích cực. Bắt đầu từ tháng 11/1990 quan hệ Việt Nam và cộng đồng Châu Âu đã được bình thường hoá. Tháng 12/1993 Việt Nam đã ký hiệp định buôn bán hàng dệt may với EU. Với hiệp định này hàg dệt may xuất sang EU tằng từ 130 triệu USD năm 1992 lên 294 triệu USD năm 1993. Ngày 17/7/1995, tại Brussel đã ký hiệp định hợp tác giữa cộng hoà xã hội chủ
nghĩa Việt Nam và EU, trong đó EU dành cho Việt Nam quy chế tối huệ quốc(MFN) và quy chế ưu đãi thuế quan phổ cập(GSP). Hiệp định này tạo cơ sở pháp lý quan tropng là nền tảng cho việc thcs đẩy quan hệ Việt Nam-EU trên nhiều lĩnh vực như: kinh tế, thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật, giáo dục...
Chính cơ sở pháp lý trên đã tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam khai tác các lới thế so sánh để xuất khẩu sang EU, nhất là hàng dệt may và dày dép. Từ chổ hầu như bị cấm vận, nhóm hàng này của Việt Nam xuất khẩu sang EU năm 2000 đạt gần 700 triệu USD.Riêng mặt hàng dày dép ,từ 1995 đến nat được xuất khẩu tự do sang EU .
Đến năm 1991 tông kim nghạch xuất nhập khẩu giữa hai bên mới là 392 triệu USD (Trong đó Niệt Nam xuất 193 triệu USD , nhập 200 triệu USD)thi đến năm 1999 thi con số này là 3.9 tỹ USD tâng gâp 10 lần( trong đó Việt nam xuất gần 2,9 tỹ USD , nhập 1 tỷ USD )tỷ lệ hàng chế biến ngày càng tăng .
Đến nay cả Việt nam và EU đều xem nhau là đối tác quan trọng. Trong các quốc gia EU, Đức là bạn hàng thứ 4 của Việt Nam, Anh là nước thức 9, Pháp và Hà Lan đứng thứ 12 và 13. Mới đây EU công nhận Việt Nam áp dụng cơ chế kinh tế thị trường. Nhờ đó mà hàng hoá Việt Nam không còn bị bất lợi so với hàng của các nước khác khi EU điều tra và thi hành các biện pháp chống phá giá. Những thuận lợi này càng tạo thêm các cơ hội mới cho hai bên mở rộng các quan hệ kinh tế thương mại và đầu tư trong thời gian tới.
26
Về những mặt hàng cụ thể, khả năng thâm nhập thị trường EU của các sản phẩm truyền thống của Việt Nam như: dày dép, quần áo, thuỷ sản... nên tăng thêm do đang được giảm miễn thuế GSP. Trong khi đó nhiều nhóm hàng của các nước có khả năng rất mạnh trên thị trường EU đã bị loại khỏi diện được hưởng GSP(do tỷ lệ tổng sản phẩm trong nước tính trên đầu người của các nước đó đã đạt tới mức không được hưởng GSP nữa, hoặc do nhóm hàng nào đó đã chiếm tới 25% thị phần hoặc bán phá giá tai thị trường EU).
Với việc EU công nhận 40 doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam đã đủ tiêu chuẩn xuất khẩu sang EU là điều kiện thuận lợi để đảm bảo xuất khẩu ổn định. Ngoài ra điều này còn giúp nâng cao uy tính về chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam trên các thị trường khác, tăng khả năng thâm nhập thị trường của nhóm hàng này.
Đặc biệt là mấy năm gần đây hàng điện tử Việt Nam xuất sang EU đã tăng nhanh, đến năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt khoảng 60 triệu USD. Sản phẩm tủ công mỹ nghệ cũng được người tiêu dùng EU ưu thích. Nếu sản phẩm được sản xuất theo đơn đặt hàng của mùa vụ(hàng lưu niệm phục vụ các sự kiện văn hoá xã hội chẳng hạn), đảm bảo chất lượng, mẩu mả và thời gian giao hàng, chắc chắn khả năng thâm nhập vào thị trường EU sẽ rất lớn. Đấy là điều các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý và nên hợp tác chặt chẻ với các doanh nghiệp để nắm bắt thông tin thị trường.
EU thực sự là một thị trường đầy tiềm năng, với số dân 374,2 triệu người với GDP hơn 9000 tỷ USD, được xác định là khu vực thị trường rộng lớn phát triễn cao. Nhưng để hàng hoá của Việt Nam xâm nhập vào thị trường này ngày một rộng lớn thì vấn đề mấu chốt ở đây là Việt Nam phải đáp ứng được yêu cầu chất lượng cao của EU, việc Việt Nam có mở rộng được thương mại sang các thành viên EU chủ yếu là yêu cầu này. Đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, điều quan trọng là phải nghiên cứu xem họ có nhu cầu gì, nhu cầu đến đâu và bảo hoà chưa, đây chính là bí quyết trong cuộc cạnh tranh với các nước khác để mở rộng xuất khẩu sang thi trường EU.
Bên canh những thuận lợi lớn thì xuất khẩu những mặt hàng chủ lực
của Việt Nam vẫn còn những trở ngại khó khăn:
Thứ nhất là những hạn chế bởi hạn ngạch nhập khẩu mà cụ thể là đối với hàng dệt may của Việt Nam. Mặc dù khối lượng hàng dệt may đã tăng lên nhiều so với trước nhưng còn thấp so với khả năng cung cấp của Việt Nam và nhu cầu mua hàng của các nhà nhập khẩu EU.
27
Thứ hai là hàng rào thuế quan của EU đối với một số mặt hàng nông sản của Việt Nam có thể xuất sang EU lại rất cao. Chẳng hạn như thuế
nhập khẩu gạo lên trên 100%, đường gần 200%(mặc dù đã được giảm thuế theo GSP), trong khi một số lượng lớn hàng của nhiều nước khác được giảm nhiều hơn hoặc được miễn thuế do được hưởng các ưu đãi thương mại riêng. Hàng hoá Việt Nam xuất sang EU khó cạnh tranh được với các hàng hoá của các vùng Châu Phi, Thái Bình Dương, Caribe, cũng như một số nước Đông Âu do các nước này được hưởng các ưu đãi thương mại theo công ước Lomé hoặc các hiệp định ký kết.
Thứ ba là theo quy định của EU, nước xuất khẩu phải có kế hoạch và thiết bị đầy đủ để giám sát dự lượng độc tố trong nhóm hàng noong sản và thực phẩm. Do cơ quan chức năng của Việt Nam chưa đáp ứng được yêu cầu trên nên từ trước đến nay nhiều mặt hàng nông sản thực phẩm, như thịt chẳng hạn, chưa xuất được sang EU. Ngoài ra, một trở ngại rất quan trọng là các doanh nghiệp Việt Nam chưâ lập được quan hệ đối tác trực tiếp với nhà nhập khẩu mà phần lớn hàng Việt Nam phải xuất qua trung gian và dưới dạng gia công(theo ước tính, hiện nay từ 10-45% tổng giá trị giày dép và quần áo của Việt Nam xuất khẩu sng EU là qua trung gian).
1.3. Thi trường Mỹ
Đây là nước nhập khẩu hàng lớn nhất thế giới, mỗi năm nhập khẩu 1000 tỷ USD hàng hoá, với nhu cầu đa dạng, nắm bắt những đỉnh cao về công nghệ nguồn.
28
Sau khi quan hệ ngoại giao được bình thường hoá, quan hệ buôn bán giữa Việt Nam vẫn còn gặp những trở ngại lớn do hai nước chưa ký được Hiệp định thương mại song phương và do Hoa Kỳ chưa dành quy chế tối huệ quốc(MFN) hay quy chế quan hệ buôn bán bình thường(NTR) cho Việt Nam. Khi chưa được cấp quy chế, hầu hết hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu vào Hoa Kỳ phải chịu mức thuế rất cao, ví dụ như 3 laọi hàng hoá cụ thể sau:
Một số sản phẩm dày dép Một số loại đồng hồ đeo tay Một số loại quần áo bằng vải bông Có tối huệ quốc 6% 6,25% 10% Không có tối huệ quốc 35% 80% 90%
Nguồn: Desiderio, tr 26, 27
Tổng mức thuế quan đánh vào hàng hoá Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ khi đã được quy chế tối huệ quốc sẽ giảm từ 3,5% xuống 4,9% trong những laọi mặt hàng Việt Nam có khả năng xuất khẩu được nhiều như hàng may mặc có thể giảm mức thuế quan từ 68,9% xuống 13,4%, hay dệt may từ 55,1% xuống 10,3%.
Mặc dù còn phải chịu mức thuế quan cao như vậy, nhưng hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ tăng lên nhanh chóng, tăng lên 10 lần trong vòng 5 năm từ 50 triệu USD năm 1994, năm Hoa Kỳ từ bỏ cấm vận thương mại chống Việt Nam, lên 500 triệu USD năm 1998, 3 năm sau khi tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam.
Theo bộ thương mại Việt Nam, mức tiêu dùng của người Mỹ cao gấp hai lần của người Nhật và bằng 1,6 lần của người Châu Âu. Do đó, thị trường Mỹ là thị trường tiêu thụ rộng lớn và có yêu cầu về chất lượng đa dạng hơn thị trường Châu Âu và Nhật.
Các mặt hàng nông sản, hải sản, nguyên vật liệu nhập vào Hoa Kỳ không bị đánh thuế hoặc chịu thuế thấp. Đây cũng là những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. Tuy nhiên trừ cà phê, tiêu, điều, các mặt hàng chưa chế biến như bắp, đậu nành, hoa quả xuất sang Mỹ cũng bị hạn chế vì Mỹ cũng là nước sản xuất nông sản lón của thế giới.
29
Hoa Kỳ là một thị trường quan trọng đối với hàng hải xuất khẩu, hiện chiếm khoảng 10% tổng giá trị hải sản xuất khẩu của Việt Nam. Dự kiến đến năm 2005, thị trường Hoa Kỳ có thể tiêu thụ tới 20% tổng giá trị hải sản xuất khẩu của Việt Nam.
Hiện nay phần lớn hàng xuất khẩu sang Mỹ là hàng nông-hải sản nhưng chỉ mới đạt được vài trăm triệu/năm, con số đó quả là nhỏ bé so với tổng giá trị nhập khẩu hàng nông-hải sản của Hoa Kỳ khoảng 50 tỷ USD mỗi năm.
Trong quan hệ buôn bán với Hoa Kỳ, Việt Nam là một trong số ít nước mà Hoa Kỳ thường xuyên có số dư thương mại, tuy số lượng không lớn. Chỉ riêng năm 1998 bị thiếu hụt vì số nhập khẩu của Việt Nam từ Hoa Kỳ sụt xuống do mức tăng trưởng của Việt Nam giảm so với các năm trước do cuộc khủng hoảng ở khu vực Châu Á, Việt Nam phải hạn chế nhập khẩu.
So với các nước ASEAN khác, mức độ buôn bán của Việt Nam và Hoa Kỳ vẫn còn nhỏ bé. Năm 1997 mặc dù Việt Nam đã cố găng nâng được tổng giá trị ngoại thương với Hoa Kỳ lên tới 1,2 tỷ USD, nhưng so với tổng giá trị buôn bán giữa ASEAN và Hoa Kỳ lên trên 119 tỷ USD cũng trong năm đó. So với từng nước ASEAN riêng rẻ cũng vậy, vị trí của Việt Nam trong thị trường Mỹ là tương đối nhỏ bé. Năm 1997, tổng giá trị buôn bán giữa Hoa Kỳ và Indonesia là 13 tỷ USD, so với Malayxia là 29 tỷ USD, với Philippin là 18 tỷ USD, Singapore 38 tỷ USD và Thái Lan 20 tỷ USD, vị trí Việt Nam càng nhỏ bé.
30
Hiệp định thương mại Việt Nam-Hoa Kỳ đã được ký kết và được hạ viện và thượng viện Mỹ thông qua hiện nay đang chờ tổng thống ký. Khi hiệp định này được thực hiện sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Hoa Kỳ. Với những mặt hàng chủ yếu như dệt may, dày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí-điện, sản phẩm gỗ, tủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, hạt điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Các mặt hàng cần bắt tay ngay vào việc nghiên cứu thị trường Mỹ từ trước khi ký hiệp định nên hâù như đã có thể sẵn sàng xuất phát. Dự kiến đến năm 2010 xuất khẩu của Việt Nam và thị trường Mỹ cần phải đạt tỷ trọng khoảng 15-20% so với 5-6% hiện nay. Hoa Kỳ sẽ là khâu đột phá về thị trường xuất nhập khẩu của Việt Nam trong 10 năm tới đây.
Tóm lại, trong thời gian tới, bên cạnh tiếp tục cũng cố và tăng cường chổ đứng tại các thị trường đã có thì khâu đột phá trong thời gian tới là sự gia tăng sự có mặt tại các thị trường Trung Quốc, Nga, mở ra thị trường Mỹ, Châu Phi và trong chừng mực nào đó là thị trường Mỹ La Tinh. Nhìn chung lại, tới năm 2010, tỷ trọng các thị trường xuất khẩu được dự kiến như sau:
Thị trường
Châu Á Nhật Bản ASEAN Trung Quốc, Đài Loan, Hồng Kông Châu Âu EU SNG và Đông Âu Bắc Mỹ(chủ yếu là Mỹ) Australia và New Zealand Các khu vực khác Tỷ trọng 2000 (%) 57-60 15-16 23-25 16-18 16-18 26-27 21-22 1,5-2 3-5 2 Tỷ trọng 2010 (%) 46-50 17-18 15-16 14-16 27-30 25-27 3-5 15-20 5-7 2-3
Nguồn chiến lược XNK Việt Nam 2000-2010
2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam
2.1. Dầu thô
Trong những năm gần đây mặt hàng dầu thô luôn luôn dẫn đầu trong kim ngạch hàng hóa của Việt Nam thường đóng góp 15-20% kim ngạch xuất khẩu. Hiện nay ở vùng biển phía nam của Việt Nam có 3 mỏ lớn đang được khai thác: mỏ Rồng, Bạch Hổ, Đại Hùng với công suất gần 200.000 thùng/ngày. Ngoài ra còn khoảng 10 mỏ khác vùng lân cận phát hiện ra đã gặp dầu.
31
Năm 1999 và năm 2000 vừa qua được đánh giá là rất thuận lợi cho xuất khẩu dầu thô vì giá tăng cao. Tổng khối lượng dầu thô xuất khẩu trong năm 1999 đạt 14,7 triệu tấn tăng 2,597 triệu tấn hay 21,4% so với năm 1998. Nhưng điều quan trọng hơn là giá dầu thô xuất khẩu năm 1999
tăng vọt so với năm 1998 lần đầu tiên nước ta có mặt hàng xuất khẩu đạt kỷ lục về kim ngạch 2 tỷ USD/năm. So với dự kiến đầu năm chỉ có 1,5 tỷ USD, thì việc đạt mức 2 tỷ USD rõ ràng là điều bất ngờ.
Năm 2000 vừa qua giá dầu thô của thế giới vẫn tiếp tục ở mức cao nên chúng ta đã tập trung khai thác và đạt sản lượng 16,3 triệu tấn đạt giá trị 2,5 tỷ USD tiếp tục đạt kỷ lục về xuất khẩu. Và dự kiến đến năm 2001 xuất khẩu dầu thô có thể lên tới 2,8 tỷ USD.
Những bạn hàng xuất khẩu dầu thô chủ yếu của Việt Nam gồm Nhật Bản, Singapore và Trung Quốc. Trong đó Nhật Bản là bạn hàng lớn chiếm khoảng 70%. Sau Nhật Bản là Singapore giữ tỷ trọng nhập từ 17-20%. Đứng thứ ba là Trung Quốc chiếm khoảng 5-10%. Trong những năm tới thị trường xuất khẩu vẫn là 3 thị trường trên, ngoài ra còn có thị trường Hoa Kỳ và Ô- xtrây-lia.
Một thực tế là trong những năm gần đây mặc dù chúng ta đạt khối lượng và giá trị cả về xuất khẩu dầu thô hàng năm rất cao. Nhưng do chưa có máy lọc dầu nên hàng Việt Nam phải nhập một khối lượng xăng dầu rất lớn khoảng 8-9 tỷ tấn, nên nhập khẩu xăng dầu cũng chịu giá nhập khẩu rất cao và đạt kỷ lục về giá trị hàng nhập khẩu. Do vậy mặc dù trong vài năm trở lại đây giá dầu thô tăng cao nhưng do giá nhập khẩu cũng cao nên thực chất nếu xét chung thì chúng ta không được lợi nhiều.
Hiện nay Việt Nam đang khẩn trương xây dựng nhà máy lọc dầu Dung Quất. Sau khi nhà máy đi vào hoạt động lượng xuất khẩu dầu thô sẽ giảm dần. Dự kiến đến năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng 12 triệu tấn/năm( hiện nay là 16 triệu tấn/năm). Tới năm 2010 có hai phương án tuỳ thuộc vào lượng khai thác:
- Nếu khai thác 14-16 triệu tấn/năm thì sẽ sữ dụng trong nước khoảng
12 triệu tấn, xuất khẩu 2-4 triệu tấn.
- Nếu khai thác 20 triệu tấn/năm thì có khả năng xuất khẩu 8 triệu
32
tấn.
Dù theo phương án nào thì kim ngạch xuất khẩu dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010. Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu từ nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010 sản xuất trong nước đáp ứng được gần 80% nhu cầu về sản phẩm dầu khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm/ năm, giá trị trên 3 tỷ USD. Nhập khẩu xăng dầu vào năm 2010 chỉ còn khoảng 4 triệu tấn, giảm 50% so với 8 triệu tấn hiện nay.
2.2. Hàng dệt may
Hàng dệt may trong những năm gần đây chiếm một vị trí rất quan trọng góp vào giá trị xuất khẩu và nâng cao sản lượng của ngành công nghiệp. Bắt đầu từ năm 1995, hàng dệt may đã đướng thứ hai chỉ sau ngành dầu khí trong xuất khẩu, trong khi trước đó chỉ đướng thứ 4 sau cả thuỷ sản và gạo. Năm 1991 tổng giá trị hàng dệt may chỉ đạt 117 triệu USD thì đến năm 2000 đạt 1.815 triệu USD tức là tăng gấp 15,5 lần so với năm 1991. Với kinh nghiệm của các nước đã phát triễn và các nước công nghiệp mới ở Châu Á, ngành dệt may xuất khẩu được coi là ngành mũi nhọn trong chiến lược kinh tế- xã hội của Việt Nam từ nay đến 2000. Bên cạnh đóng góp rất lớn vào kim ngạch xuất khẩu thì hàng dệt may còn có một đóng góp rất lớn nữa là giải quyết công ăn việc làm cho một đất nước gần 80 triệu dân với mức sống còn thấp, trình độ dân trí chưa cao nhưng cần cù, chăm chỉ.
33
Hiện nay phần lớn hàng dệt may của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường có hạn ngạch như: EU, Thổ Nhĩ Kỳ, Canađa, trong đó EU là thị trường trọng điểm. Với một thị trường 360 triệu dân có mức vải tiêu dùng hàng đầu thế giới(17 kg/người/năm), đây là một thị trường tốt để Việt Nam đầu tư và khai thác. Tuy nhiên thị trường EU là một thị trường khó tính, người tiêu dùng đòi hỏi về chất lượng và mẩu mả rất cao. Trong tổng số 63 tỷ USD áo quần nhập khẩu vào EU hàng năm chỉ 9 tỷ USD áo quần tiêu dùng bình thường, số còn lại khoảng 87% là sử dụng theo mốt. Vì vậy, giá trị hàm lượng chất xám tỏng sản phẩm cao hơn rất nhiều so với giá trị vật liệu cấu thành nó. Điều này giải thích tại sao giá xuất khẩu giữa hai loại sản phẩm tương đồng của Việt Nam và Thái Lan lại có sự chênh
lệch khá cao.. Đây là một thiệt thòi lớn do việc tạo mốt của chúng ta còn non kém. nhờ một số thay đổi trong hiệp định buôn bán hàng dệt may EU- Việt Nam giai đoạn 1998-2000 hàng may mặc nước ta có nhiều cơ hội mở rộng thị trường sang EU. Theo hiệp định này, từ năm 1998, Việt Nam được phép tự do chuyển đổi quota giữa các hàng một cách rộng rãi hơn(17% so với trước kia là 12%). Hơn nữa Việt Nam được hưởng quy chế tối huệ quốc và quy chế phổ cập của EU. Vì thế một số mặt hàng dệt may của Việt Nam được hưởng thuế quan nhập khẩu 0% làm tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm nước ta. Tuy nhiên, hàng dệt may của Việt Nam đến nay vẫn phải thông qua nước thứ 3 như Đài Loan và Đức... để vào thị trường nước ngoài.
Bên cạnh những thị trường có hạn ngạch, Việt Nam đã thâm nhập vào một số thị trường không có hạn ngạch khổng lồ như: Nhật Bản, Mỹ, Singapore và Đông Âu... để tiêu thụ hàng dệt may xuất khẩu. Trong đó thị trường Nhật Bản là thị trường lớn nhất không chỉ số dân hơn 125 triệu người mà còn là nước có nức tiêu thụ sản phẩm may mặc lớn. Tuy nhiên Việt Nam mới chỉ đáp ứng được nhu cầu may mặc bình dân của người Nhật Bản với các mặt hàng chủ yếu là áo gió nam, quần áo lao động, một số loại sơ mi, quần âu đơn giản.
34
Mỹ cũng là một thị trường nhập khẩu hàng dệt may không hạn ngạch có tiềm năng đứng thứ 2 của Việt Nam. Mỹ cũng là một nước nhập khẩu hàng dệt may lớn nhất thế giới trên 60 tỷ USD/năm. Trong đó Châu Á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Mỹ với tổng giá trị xuất khẩu năm 1999 là 30,8 tỷ USD. Đây là một thị trường hấp dẫn và đầy triễn vọng đối với hàng dệt may của Việt Nam. Hiện nay, Mỹ chưa cho Việt Nam hưởng quy chế tối huệ quốc và chế độ ưu đãi phổ cập nên hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ phải chịu nhiều loại thuế cao làm cho khả năng cạnh tranh của sản phẩm Việt Nam vốn đã yếu lại càng yếu hơn. Thực tế trong nhiều năm qua, kim ngạch xuất khẩu hàng dệt may sang Mỹ là rất nhỏ bé, chỉ chiếm 0,06% kim ngạch nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ. Trong những năm tới Mỹ được coi là thị trường đầy tiềm năng của Việt Nam đặc biệt là sau khi hiệp định thương mại Việt-Mỹ
được tổng thống Mỹ sẽ mở ra một cơ hội to lớn cho hàng dệt may thâm nhập vào thị trường nhập khẩu hàng may mặc rộng lớn của Mỹ.
Thị trường EU Đông và Tây Á ASEAN Bắc Mỹ Đông Âu Thị trường khác Tỷ lệ(%) 45 42 4 3 5 1
- Cơ cấu xuất khẩu hàng dệt may của Việt Nam.
Đứng trước những cơ hội và thách thức to lớn như hiện nay để đạt mục tiêu phát triển toàn ngành đéen năm 2020, ngành dệt may cần phải thực hiện nhiều giải pháp đồng bộ, cụ thể như:
- Củng cố và mở rộng thị trường xuất khẩu: Để thực hiên được điều này thì nhà nước cần hỗ trợ đắc lực cho các doanh nghiệp trong công tác nghiên cứu thị trường. Ngoài phòng thương mại và công nghiệp Việt Nam, cần có một trung tâm giao dịch xúc tiến xuất khẩu hàng dệt may và đảm nhiệm chức năng tìm kiếm thị trường, môi giới, giới thiệu sản phẩm dệt may Việt Nam với khách hàng quốc tế, thu thập xử lý thông tin về thị trường, về khách hàng một cách kịp thời, khảo sát thực tế thị trường. Các doanh nghiệp cần xâm nhập vào thị trường mới và cũng cố thị trường hiện có. Cần nhanh chống tham gia hệ thống “thông tin ngành dệt may khu vực Châu á- Thái Bình Dương” của 7 nước trong khu vực Châu á để tiết kiệm tối đa chi phí về thời gian, tiền của trong công tác nghiên cứu thị trường.
35
- Sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư: Để đạt được mục tiêu đến 2010 ngành dệt may sản xuất 2 tỷ mét vải các loại và xuất khẩu 4 tỷ USD, cần đầu tư mạnh mẻ để huy động, sử dụng hiệu quả nguồn vốn trong nước.. Công ty tài chính dệt may cần phát huy vài trò bằng cách thay mặt cho tập đoàn các doanh nghiệp dệt may trong nước để huy động vốn, sau đó hỗ trợ cho các doanh nghiệp đơn lẻ. Về phía các ngành dệt may, phải đẩy
mạnh tiến trình cổ phần hoá để huy động vốn trong nước và nâng cao hiệu quả kinh doanh. Đồng thời đa dạng hoá các hình thức đầu tư nước ngoài vào ngành dệt may như đầu tư trực tiếp, đầu tư gián tiếp(qua chứng khoán), liên doanh liên kết. Nhà nước cần cải thiện môi trường pháp lý về đầu tư nước ngoài, đơn giản hoá thủ tục hành chính, đầu tư vào những mặt hàng trọng điểm, ổn định và bền vững về chất lượng cũng như thị trường.
- Nâng cao hiệu quả gia công sản xuất, từng bước tạo tiền đề chuyển sang xuất khẩu trực tiếp, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ 3. Trong thời gian tới thì Việt Nam vẫn tiếp tục gia công hàng dệt may sắp xuất khẩu. Để nâng cao hiêuk quả hoạt động gia công, các doanh nghiệp dệt may cần mở rộng gia công xuất khẩu các mặt hàng mới, sang thị trường mới. Tránh tập trung gia công cho một mặt hàng, cho một thị trường, dẫn đến bị ép giá, lệ thuộc. Trong hoạt động gia công, phía Việt Nam cần dành quyền tự cung cấp nguyên liệu, quyền được gắn nhãn mác và địa điểm gia công trên sản phẩm để từng bước khách hàng làm quen với sản phẩm của doanh nghiệp. Trong quá trình gia công xuất khẩu, các doanh nghiệp đồng thời phải chuẩn bị cho xuất khẩu trực tiếp học hỏi kinh nghiệm quản lý, sản xuất kinh doanh của phía đối tác. Giảm tỷ trọng xuất khẩu sang nước thứ 3 là một biện pháp quan trọng để nâng cao hiệu quả xuất khẩu hàng dệt may. Muốn vậy, các doanh nghiệp trong nước phải tự mình nâng cao uy tín, chất lượng sản phẩm. Đồng thời thực hiện tốt công tác tiếp thị và đăng ký nhãn hiệu thương mại của hàng hoá. Nhà nước cần có chính sách phát triễn ngành tạo một ở Việt Nam bằng cách hỗ trợ cho các nhân tài trong ngành ra nước ngoài du học.
36
- Nâng cao khả năng cạnh tranh của sản phẩm: chúng ta thấy rằng khả năng cạnh tranh của ngành còn khá khiêm tốn. Yêu càu đầu tiên cơ bản nhất để nâng cao khả nâng cạnh tranh của sản phẩm là không ngừng nâng cao chất lượng và hạ giá thành sản phẩm. Cụ thể như là: không ngừng ứng dụng những thiết bị khoa học kỹ thuật, hiện đại trang bị cho các doanh nghiệp dệt may từng bước nâng cao chất lượng, hạ giá thành sản phẩm và nâng cao uy tín với khách hàng. Kiểm tra chặt chẻ nguên liệu
đầu vào, tạo bạn hàng cung cấp nguyên liệu phụ ổn định, đúng thời hạn, đảm bảo chất lượng. Đảm bảo yêu cầu giao hàng trước khi xuất khẩu qua hệ tống kiểm tra chất lượng bắt buộc. Đảm bảo giao hàng bằng cách đơn giản hoá thủ tục xuất nhập khẩu, chủ động trong vận chuyển và bóc xếp hàng hoá. Nhà nước có thể hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp bằng cách kéo dài thời gian hoàn vốn để giảm giá thành sản phẩm, nâng cao sức cạnh tranh.
- Hoàn thiện cơ chế xuất nhập khẩu: Trước hết cần đơn giản hoá thủ tục nhập nguyên vật liệu, hàng mẩu, bản vẻ. Ngành dệt may cần được hưởng chế độ ưu đãi thuế quan hợp lý. Cơ chế phân bổ hạn ngạch phải được thay đổi căn bản theo hướng sử dụng hạn ngạch làm công cụ thúc đẩy các doanh nghiệp tiến ra các thị trường không hạn ngạch. Trong bối cảnh thị trường tiêu thụ truyền thống gặp nhiều khó khăn, nhà nước cần sử dụng quỹ thưởng xuất khẩu để khuyến khích các doanh nghiệp tăng tỷ lệ hàng xuất khẩu. Hơn nữa, nhà nước cần hỗ trợ cụ thể cho các doanh nghiệp tìm kiếm và khai thác thị trường hoàn toàn mới như thị trường Trung Đông, như cấp tín dụng dài hạn, lãi suất thấp.
2.3. Giày dép
37
Nhu cầu thế giới về mặt hàng giày dép ngày càng tăng, mặt hàng này rất được thế giới ưu chuộng. Bước vào tiên niên kỷ mới, ngoài các khu vực phát triễn như Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật… có nhu cầu đáng kể về mặt hàng giày da, các nước đang phát triễn cũng có biến động theo hướng tăng lên của mức sống. Hàng năm các nước Châu Âu, Bắc Mỹ, Nhật… tiêu thụ 100 triệu tấn sản phẩm da hàng năm và khoảng 14 tỷ đôi giày, chiếm 60- 70% tổng sản lượng tiêu thụ của toàn thế giới. Riêng khu vực Đông Nam Á, cuộc khủng hoảng kinh tế trong 2 năm 1997-1998 không nhưng làm giảm lượng cầu của sản phẩm giày dép mà còn làm chững lại các nguồn đầu tư nước ngoài trong nhiều lĩnh vực trong đó có cả giày dép. Tuy nhiên sang năm 1999, nền kinh tế của các nước ASEAN, Hàn Quốc, Nhật đã phục hồi.
Mặt hàng giày dép của Việt Nam trong những năm gần đây đã có một bước phát triễn dài và mạnh. Năm 1995 kim ngạch xuất khẩu hàng giày dép của ta đạt 296 triệu USD thì chỉ sau một năm 1997 đạt xấp xỉ gần 1 tỷ USD(978 triệu USD, tăng 84,53%). Tiếp theo vào năm 1998 tuy xuất khẩu giày dép chịu ảnh hưởng nặng nề của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực, nhưng kim ngạch xuất khẩu tiếp tục tăng trưởng 5,46% và vượt qua ngưởng cữa 1 tỷ USD. Đặc biệt vào năm 1999 kim ngạch xuất khẩu đạt 1,4 tỷ USD, tăng tới 36,2% so với năm 1998, xuất khẩu giày dép đã vượt xa mặt hàng gạo. Có thể nói ngành giày dép trong những năm gần đây đã có một bước phát triễn vượt bậc từ không có tên trong danh sách 10 mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam thì đến năm 1999 đứng vào vị trí thứ 3 sau dầu khí và dệt may.
Theo đánh giá của Bộ Thương Mại sở dĩ xuất khẩu giày dép đạt được tốc độ tăng trưởng cao là do 3 nguyên nhân: xuất khẩu vào thị trường EU là xuất khẩu tự do số lượng không hạn chế và không cần hạn ngạch; các doanh nghiệp đã ký được nhiều hợp đồng xuất khẩu với giá trị lớn; giày dép của nước ta phù hợp với nhu cầu tiêu dùng của thị trường EU.
Với đà tăng trưởng mau lẹ đó, có cơ sở để hy vọng rằng trong một vài năm tới sẽ là mặt hàng thứ 3 đạt kim ngạch xuất khẩu trên 2 tỷ USD. Để thực hiện được điều này thì bên cạnh mở rộng và duy trì thị trường truyền thống thì phải tiếp tục phát triễn thị trường mới.
38
Sản phẩm giày dép cần hướng tới thị trường nước ngoài trên cơ sở để sử dụng những lợi thế của nước ta. Hàn Quốc, Đài Loan sẽ tiếp tục xuống ngôi và danh sách 10 nước xuất khẩu giày dép hàng đầu sẽ có sự xáo trộn thứ tự, thay thế lẫn nhau, các nước Đông Nam Á sẽ chiếm vị trí cao trong bảng. Trong tình hình đó ta cần phấn đấu từng bước giành thị phần thế giới, với ưu thế giá rẻ. Trước hết là sự lựa chọn các sản phẩm phù hợp với xu thế phát triễn thị trường, với các sản phẩm có tiềm lực nguyên liệu nội địa hoặc có khả năng sử dụng các nguồn nguyên liệu thô nhập khẩu để chế biến.
Ba thị trường xuất khẩu giày dép lớn nhất thế giới là: Bắc Mỹ, liên minh Châu Âu, Nhật hoặc các nước NICS. Trong đó mỹ giữ bình quân nhập gần 1,3 tỷ đôi/năm, Đức 380 triệu đôi/năm, 250 triệu đôi/năm, Pháp 230 triệu đôi/năm…
Như vậy để ngành giày dép Việt Nam đạt được các mục tiêu chiến lược trong sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước, ngoài sự nổ lực của từng doanh nghiệp, từng ngành, chúng ta ý thức được vai trò tạo môi trường điều kiện của chính phủ bằng quản lý vĩ mô, bằng pháp luật, bằng đòn bẩy kinh tế, bằng các chính sách ưu đãi… là rất quan trọng. Ngành giày dép chỉ có thể thực hiện thành công mục tiêu chiến lược hướng về xuất khẩu trong sự nổ lực thống nhất hữu cơ liên ngành, đồng thời nhờ vào chính sách bảo hộ đúng đắn của nhà nước cũng như các giai đoạn ổn định và phát triễn hợp lý của ngành giày dép.
2.4. Thuỷ sản
Nằm trong khu vực nhiệt đới gió mùa Đông Nam Á, có bờ biển dài 3260 km với 112 cửa sông, lệch và hơn 400 hòn đảo lớn nhỏ. Việt Nam có điều kiện rất thuận lợi để phát triễn ngành khai thác nuôi trồng thuỷ sản xuất khẩu.
Hiện nay Việt Nam đứng thứ 29 thế giới về xuất khẩu thuỷ sản, xuất khẩu sang 64 nước. Tốc độ tăng trưởng bình quân 12 năm qua tăng 20% từ 90 triệu USD năm 1998 thì đến năm 2000 giá trị xuất khẩu đạt 1,475 tỷ USD.
Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam 1986 đến tháng 7-2001:
1986 1990 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 7/2001
102
205
262
305
368
458
550
670
780
858
985 1475 1001.9
101
28
16
20
24
20
21
15
10
14
55
Kim ngạch (triệu USD) Tốc độ tăng trưởng(%)
39
Năm 2000 thủy sản Việt Nam có một bước phát triễn nhanh chóng đạt kim ngạch 1,475 tỷ USD tăng 504 triệu USD hay tăng 54,9% so với năm 1999.
Hàng thuỷ sản Việt Nam có giá trị cao, được thế giới ưa chuộng. Thị trường cho hàng thuỷ sản có rất lớn với các mặt hàng thủ sản xuất khẩu chính là hàng khô, cá đông lạnh, tôm đông lạnh, nhuyễn thể đông lạnh và các loại khác.
Từ cuối năm 1999, cộng đồng Châu Âu đã xếp Việt Nam vào danh sách số một các nước xuất khẩu vào EU, đồng thời công nhận 18 doanh nghiệp chế biến thuỷ sản Việt Nam đảm bảo điều kiện vệ sinh, an toàn thực phẩm theo tiêu chuẩn của EU. Các nhà xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam ngày càng tỏ ra có kinh nghiệm hơn trong việc tìm kiếm thị trường nên số lượng các mặt hàng tăng, giá cả ổn định. Hàng thuỷ sản của ta vào EU sẽ có điều kiện thuận lợi thâm nhập vào các thị trường khác.
Các thị trường chính của Việt Nam là Nhật Bản, cộng đồng Châu Âu, Mỹ, Đài Loan, Trung Quốc và các nước khác. Trong đó Nhật Bản là thị trường nhập khẩu lớn nhất thế giới đồng thời là thị trường số 1 của ngành thuỷ sản Việt Nam. Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam sang Nhật Bản trong năm 2000 đã tăng hơn 40% so với năm 1999, đưa ra thị trường Nhật Bản chiếm 45% tổng kim ngạch.
Kim ngạch xuất khẩu sang thị trường Châu Á khác như Trung Quốc, Hàn Quốc, Đài Loan cũng tăng nhanh và chiếm 21% thị phần xuất khẩu. Thị trường xuất khẩu đứng thứ 3 là Mỹ chiếm hơn 14% tổng kim ngạch vào năm 1999.
Kết quả rất khả quan của xuất khẩu thuỷ sản những năm gần đây, nhất là trong 3 năm 1998, 1999, 2000 đã đưa hàng thuỷ sản lọt vào danh sách 5 mặt hàng xuất khẩu đạt giá trị cao nhất của Việt Nam và là một trong 3 mặt hàng đạt kim ngạch xuất khẩu lớn nhất, nếu tính từ giai đoạn 1999-2000 thì tổng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản năm 2000 tăng gấp 6,17 lần so với năm 1990.
40
Bước sang năm 2001 tổng sản lượng thuỷ sản 7 tháng đầu năm ước đạt 1,314 triệu tấn, đạt 60,6% kế hoạch và bằng 113,2% cùng kỳ. Tổng gái trị kim nghạch xuất khẩu đạt 1 tỷ đô la. Mặc dù trong 7 tháng đầu năm
2001 có biến động về thị trường, giá giảm, có thời điểm hàng tồn kho lớn nhưng nhìn chung hàng thủy sản vẫn xuất khẩu được.
Tuy nhiên hiện nay, những yếu tố về an toàn thực phẩm, thị trường tiêu thụ thuỷ sản chế biến thế giới còn đòi hỏi nhà cung cấp, nhà xuất khẩu phải có sự ổn định về khối lượng hàng, chất lượng sản phẩm, thời gian giao hàng và xuất khẩu thuỷ sản không có một nguồn nguyên liệu ổn định và có thể kiểm soát được chất lượng.
Các nhà nhập khẩu thường đòi hỏi sản phẩm phải có chứng nhận tiêu chuẩn quốc tế GMP(thực hành xuất khẩu tốt), HACCP(hệ thống phân tích mối nguy tại điểm kiểm soát tới hạn) hoặc SSOP(tiêu chuẩn vệ sinh thực phẩm). Những tiêu chuẩn này không chỉ áp dụng cho khâu chế biến và xuyên suốt quá trình sản xuất, từ nguyên liệu đến bảo quản thành phẩm, cho nên không coi nhẹ vấn đề chất lượng từ công đoạn khai thác nguyên liệu.
Thị trường tiêu thụ thủy sản còn bấp bênh, lại nhiều rủi ro, luôn là vấn đề quan tâm hàng đầu của cả người sản xuất và các cơ sở chế biến thủy sản, bài học này được hai tỉnh An Giang và Đồng Tháp trả giá rất đắt vào năm 1997, khi thị trường xuất khẩu cá basa bị suy sụp, làm cho nhiều hộ ngư dân lỗ đến hàng chục tỷ đồng, phong trào nuối trồng thủy sản xuống dốc thảm hại.
Trở ngại có tính bức xúc hiện nay đối với việc phát triển ngành nuôi thuỷ sản của Việt Nam là con giống, thức ăn và kỹ thuật phòng bệnh. Cả nước hiện nay chỉ có khoảng 27 cơ sở sản xuất thức ăn cho thuỷ sản nuôi, đáp ứng từ 10-15% nhu cầu nuôi tôm, nuôi cá bề và thuỷ sản đặc sản khác. Nếu không giải quyết tốt vấn đề này, ngành nuôi thuỷ sản khó mà phát triễn xa hơn. Ngoài ra, chính phủ, các bộ, ngành hữu quan cần có kế hoạch mở các văn phòng đại diện tại các thị trường lớn và đẩy mạnh các hoạt động quan hệ, xúc tiến thương mại cho ngành thủ sản.
41
Tóm lại, phong trào phát triễn ngành thuỷ sản chỉ mới tập trung đẩy mạnh mấy năm gần đây nhưng đã thu về lượng ngoại tệ cho đất nước hàng năm với con số hơn 1 tỷ USD và hứa hẹn vững chắc sẽ đạt con số 2
tỷ USD trong những năm tới. Ngoài ra, đây là ngành góp phần tích cực trong chuyển dịch kinh tế nông thôn, phân công, bố trí lại lao động cho hàng triệu nông dân, góp phần làm tăng thu nhập, cải thiện đời sống cho họ và từng bước đi lên giàu.
Nếu nhà nước và các doanh nghiệp có chính sách, chiến lược, chủ trương đầu tư đầy đủ, đồng bộ và hữu hiệu để phát triễn tốt nghề khai thác, nuôi trồng, chế biến và xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam, nhất là hai vùng trọng điểm Đồng băng sông Hồng, đồng bằng sông Cửu Long và các tỉnh ven biển nước ta, thì thời gian không xa nhất định ngành thuỷ sản sẽ xứng đáng trở thành mũi nhọn trong phát triễn kinh tế của đất nước.
2.5. Gạo
Năm 1989, đánh dấu sự liện quan trọng: lần đầu tiên Việt Nam xuất khẩu gạo hơn 1 triệu tấn ra thị trường nước ngoài, trở thành nước xuất khẩu gạo đứng thứ 3 trên thế giới sau một thời kỳ dài nhập khẩu. Từ đó lượng gạo xuất khẩu ngày càng gia tăng, là một trong 10 mặt hàng xuất khẩu hàng đầu của Việt Nam, kim ngạch có lúc lên đến hơn 1 tỷ USD.
Có thể nói xuất khẩu gạo kể từ năm 1998 đã chuyển Việt Nam từ nước nhập khẩu sang xuất khẩu, cải thiện đời sống của một bộ phận dân cư, gia tăng sức mua xã hội, giảm bớt thâm hụt thương mại, là tiền đề quan trọng chống lạm phát có hiệu quả, từ đó có tác động đến quá trình phát triễn kinh tế Việt Nam trong những năm sau này.
Trong hơn 10 năm vừa qua xuất khẩu trên 30 tấn gạo với tổng giá trị gần 7 tỷ USD. Với thị trường xuất khẩu gạo chủ yếu của Việt Nam như: Indonesia, Philippin, Băng La Đét, Mỹ…
Giá cả và sản lượng xuất khẩu gạo từ năm 1989-2000 1998
1992
1994
1990
1996
1997
1995
1989
1991
1993
1999
2000
222
179,8
225,4
209,8
207,8
205,4
273,5
254,1
226,9
258,9
199,7
161,9
1.423
1.624
1.033
1.946
1.722
1.983
1.988
3.003
3.575
3.730
4.508
3.500
Năm Giá XK gạo(USD/T) Sản lượng(1000T)
42
Nhìn vào Bảng cho thấy giá xuất khẩu cao vào năm 1989, giảm trong 1990, ổn định trong các năm 1991-1994. Đây là thời kỳ xuất khẩu gạo của Việt Nam chưa được ổn định. Số lượng xuất khẩu hàng năm dưới 2 triệu tấn.
Từ năm 1995-1998, giá cả tăng, lượng xuất khẩu đã tăng từ 2 triệu tấn lên 3,8 triệu tấn vào năm 1998. Năm 1999 đạt con số kỹ lục: xuất khẩu 4,5triệu tấn nhưng giá cả giảm sút mạnh, tổng giá trị xuất khẩu đạt 1,03 tỷ USD chỉ cao hơn 1998 một ít. Bước vào năm 2000, xuất khẩu đạt 3,5 triệu tấn nhưng giá đã giảm thảm hại đạt kỷ lục về giá thấp.
Theo tổ chức lương nông liên hợp quốc(FAO), năm 2000 nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới chỉ còn khoảng 22 triệu tấn, giảm 3,25 triệu tấn so với năm 1999. Trong đó nhu cầu giảm mạnh nhất ở những nước nhập khẩu gạo lớn như: Indonesia giảm 0,95 triệu tấn còn 1,7 triệu tấn và Philippin giảm 0,5 triệu tấn. Nguồn cung gạo cho xuất khẩu của các nước khác tỏng khu vực như Thái Lan, Trung Quốc, Ấn Độ, Pakistan cũng tăng vững làm cho cạnh tranh trên thị trường gạo thế giới càng găy gắt hơn.
43
Trước tình hình gạo thế giới không thuận lợi, ngày 23/3/2000, thủ tướng chỉnh phủ đã có quyết định số 35 về một số giải pháp tiêu thụ lúa gạo vụ đông xuân ở Đồng bằng sông cửu long. Theo đó các đầu mối xuất khẩu gạo có kho chứa của công ty lương thực miền Nam, công ty lương thực miền Bắc và các tỉnh ĐBSCL phải mua tạm trữ 1 triệu tấn gạo để chờ xuất khẩu. Thời hạn tạm trữ 4 tháng từ 1/4/2000 đến 31/7/2000; cho phép quỹ hỗ trợ xuất khẩu để hỗ trợ 100% lãi suất vay vốn ngân hàng để các doanh nghiệp thực hiện mua tạm trử; đồng ý về nguyên tắc việc Bộ Thương Mại cho phép một số doanh nghiệp đầu mối xuất khẩu gạo được bán trả chậm khoảng 1 tấn gạo với thời hạn 720 ngày, khuyến khích các doanh nghiệp ngoài đầu mối tham gia xuất khẩu nếu tìm được thị trường và hợp đồng giao dịch đáp ứng được các điều kiện của Bộ Thương Mại. Tất cả các biện pháp trên nhằm bảo đảm tiêu thụ hết lúa gạo hàng hoá bảo vệ lợi ích của nông dân.
Tuy nhiên, do thị trường gạo thế giới trì trệ, giá chào bán gạo các loại của Việt Nam năm qua giảm 19-20%, đến đầu tháng 12 chỉ còn 174 USD/tấn, FOB(5%/ tấm); 153 USD/tấn, FOB(25% tấm), nên lượng gạo xuất khẩu năm 2000 ước tính chỉ đạt 3,5 triệu tấn, giảm 22,4% so với năm 1999. những nhân tố trên đã làm cho giá thóc gạo trong nước năm qua giảm mạnh. Tính chung cả năm 2000, số giá lương thực trong cả nước giảm 7,9%.
Theo dự đoán của Bộ nông nghiệp và phát triễn nông thôn, sản lượng thóc năm 2001 sẽ đạt 31 triệu tấn, nguồn cung gạo cho sản xuất sẽ tiếp tục ở mức cao 4,2-4,5 triệu tấn. Trong khi đó dự báo của FAO cho thấy, sản lượng thóc thế giới năm 2001 sẽ giảm gần 1% so với năm trước, còn 584,8 triệu tấn thóc( tương đương 393,15 triệu tấn gạo) và thấp hơn nhu cầu tiêu thụ gạo thế giới 7 triệu tấn. Nhu cầu nhập khẩu gạo thế giới năm 2001 dự đoán tăng 7% so với năm 2000, lên 23,6 triệu tấn. Giá gạo thị trường thế giới năm 2001 dự đoán sẽ tăng 10-15% so với năm 2000. Điều này đưa giá xuất khẩu gạo của Việt Nam củng sẽ tăng lên trong năm 2001.
44
Năm 2001, công tác điều hành thị trường thóc gạo của chính phủ có một số thay đổi. Chính phủ xoá bở việc quy định hạn ngạch xuất khẩu gạo mà chỉ công bố định hướng xuất khẩu gạo. Hàng tháng các doanh nghiệp xuất khẩu gạo phải báo cáo tình hình xuất khẩu với các cơ quan chức năng, để có thể điều hành kịp thời lượng gạo xuất khẩu phù hợp với cung cầu gạo trong nước. Mức thuế xuất khẩu gạo khi nguồn cung trong nước dồi dào hay hạn chế xuất khẩu gạo trong khi ngùn thu trong nước khó khăn. Tiêu thụ kịp thời lúa hàng hoá cho nông dân. Nhà nước hỗ trợ một phần tài chính cho doanh nghiệp xuất khẩu gạo để tiêu thụ lúa và đưa vào tạm trử chờ xuất khẩu. Thị trường lúa, gạo đã hình thành từ nhiều năm trước khi Việt Nam tham gia vào hệ thống xuất khẩu đó. Nhưng tình hình ổn định chỉ tương đối và biên độ giao động tương đối lớn. Hệ thống thông tin về sản xuất, tiêu thụ, tồn kho của các quốc gia rất lớn cần được chú ý theo dõi và phân tích chặt chẻ, nhất là các quốc gia trong vùng(Trung Quốc, Indonesia, Ấn Độ, Philippin…). Sự thay đổi sản lượng sản xuất và
tồn kho của các quốc gia này có ảnh hưởng trực tiếp đến tình hình sản xuất và xuất khẩu của Việt Nam.
Xuất khẩu gạo nước ta từ chổ thiếu hụt đến có dư thừa, từ xuất khẩu nhiều trong khoảng không đầy 15 năm là một bước tiến vượt bậc. Thành tựu đó cần được giữ vững và nâng lên tầm cao mới trong điều kiện Việt Nam đã là một quốc gia xuất khẩu lương thực, đang trên bước công nghiệp hoá, hiện đại hóa. Vấn đề lương thực phải tính đến không chỉ trong ngắn hạn và đặt trong chiến lược tổng thể phảttiẽen kinh tế của Việt Nam.
2.6. Cà phê
Trong 70 nước sản xuất cà phê thì Việt Nam cách đây 20 năm còn đứng vị trí rất thấp, hàng năm xuất khẩu 5.000-6.000 tấn, ngoài việc trao đổi hàng hoá với Liên Xô và các nước XHCN Đông Âu cũ, còn lại một lượng nhỏ được bán cho các thương gia ở hai thị trường Singapore và Hong Kong. Ngày nay cà phê Việt Nam đang trực tiếp xuất sang 40 nước với khối lượng lớn đứng thứ 4 trên thế giới. Mức tăng trưởng lượng cà phê xuất khẩu hàng năm khá lớn. Có thể xem số liệu xuất khẩu cà phê của nước ta từ vụ cà phê 1992 - 1993 lại đây.
Lượng xuất khẩu (tấn) Tốc độ tăng (%)
Niên vụ 1992-1993 1993-1994 1994-1995 1995-1996 1996-1997 1997-1998 1998-1999 1999-2000 130.500 158.520 212.038 233.000 346.000 382.000 660.000 65,0 21,5 33,7 9,8 48,5 10,4
45
Kim ngạch xuất khẩu còn tuỳ thuộc vào giá cả, có năm ngành cà phê đã thu được 560 triệu USD. Nếu tính theo năm thì từ 1/1/1997 đến 31/12/1997 Việt Nam đã xuất khẩu khoảng 390.000 tấn, tăng 56% năm 1996, đạt trị giá xấp xỉ 500 triệu USD, đứng thứ 6 về kim ngạch xuất khẩu của cả nước. Từ 1998 đến 2000, dù giá cà phê giảm nhưng nhờ
lượng xuất khẩu tăng nhanh nên kim ngạch xuất khẩu cà phê vẫn giữ ổn định ở mức cao: 1998=593,8 triệu USD 1999=583,3 triệu USD và năm 2000 giá cà phê giảm sút lớn, nhưng nhờ lượng tăng 44% nên kim ngạch xuất khẩu vẫn đạt gần 500 triệu USD.
Với một lượng hàng hoá lớn như vậy, Việt Nam đã thực sự có ảnh hưởng to lớn đến giá giao dịch của cà phê Robusta trên thị trường thế giới. Có thể nói giá cà phê Robusta trên thế giới tăng giảm theo mùa vụ thu hoạch cà phê của Việt Nam và Indonesia. Trong tình hình diễn biến phức tạp của thị trường với sự cạnh tranh gay gắt, ngành cà phê còn non trẻ của Việt Nam cần xác định cho mình phương hướng sản xuất kinh doanh đúng đắn. Nói một cách khác là chúng ta phải có một chiến lược đúng về sản xuất và tiêu thụ sản phẩm.
Niên vụ 1999-2000 giá cà phê giảm kỷ lục. Theo tổng cục thống kê, năm 2000 sản lượng cà phê Việt Nam tăng mạnh, tăng gần 28% so với năm 1999, ước đạt 690.000 tấn. Lượng cà phê xuất khẩu ước tính tăng kỷ lục, tăng gần 40% so với năm 1999, lên 680.000 tấn. Tuy nhiên do giá cà phê năm qua giảm kỷ lục với sự giảm giá cà phê thế giới đã làm cho kim ngạch xuất khẩu cà phê năm 2000 chỉ đạt 489 triệu USD, giảm 17% so với năm 1999.
Mặc dù thị trường xuất khẩu cà phê Việt Nam vẫn được duy trì và phát triễn. Cà phê Việt Nam đã được xuất khẩu sang 50 nước và khu vực trên thế giới. Đặc biệt là xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ đã tăng kỷ lục. Năm 2000 ước tính tăng gấp hơn 2 lần năm 1999, lên 90.700 tấn. Điều này đã đưa Mỹ trở thành nước nhập khẩu cà phê lớn thứ 2 của Việt Nam sau Thuỷ Sĩ. Năm 2000, nước nhập khẩu cà phê lớn nhất của Việt Nam vẫn là Thuỷ Sỹ(khoảng 24% tổng sản lượng cà phê xuất khẩu), Đức(10%), Singapore(9%), Anh(8%), Hà Lan(7%) và Italia(5,5%).
46
Theo hiệp hội cà phê ca cao Việt Nam(VICOFA), năm 2000 thị trường cà phê thế giới thừa cung lớn, giá cà phê giảm mạnh. Sản lượng cà phê niên vụ 1999/2000 đạt 111,55 triệu bao (6,693 triệu tấn), tăng hơn 4% so với trước. Trong đó sản lượng cà phê Robusta tăng hơn 10,3%, lên
38,44 triệu bao (2,306 triệu tấn). Tiêu thụ cà phê Thế giới vụ 1999/2000 ước đạt 6,154 triệu tấn thấp hơn so với sản lượng tới 8% (537.000 tấn). Giá cà phê thế giới năm 2000 đã liên tục giảm, tháng 12/2000 giá cà phê Robusta tại Luân Đôn chỉ còn 590-620 USD/tấn, giảm 58-60% so với tháng 1/2000.
Trong bối cảnh xuất khẩu cà phê của Việt Nam cũng giảm kỷ lục. Năm 2000, giá xuất khẩu cà phê Robusta loại 2(5% đen và vở) tháng 12/2000 chỉ còn 430 USD/ tấn, FOB giảm hơn 51% so với tháng 1/2000. Theo VICOFA, đây là mức giá cà phê xuất khẩu thấp nhất trong 10 năm qua. Đây cũng là nguyên nhân làm cho giá cà phê trong nước năm qua cũng giảm liên tục với tốc độ nhanh xuống những mức thấp kỷ lục chưa từng có. Tại Đắc Lắc, giá cà phê nhân kho loại 1 đã giảm từ 11.500 đồng/kg(1/2000) xuống 4.000-4.500 đồng/ kg(2 tuần đầu tháng 12/2000), giảm hơn 62% so với tháng 1/1999 khi đó giá cà phê hạt loại 1 khoảng 20.500 – 21.000 đồng/ kg, thì giá cà phê thời điển này giảm 80%. Tính toán sơ bộ cho thấy, mức giá cà phê trên đã thấp chi phí sản xuất 33 – 38%.
Trước tình hình giá cà phê quá thấp, giữa tháng 12/2000, VICOFA đã quyết định các thành viên của mình tạm ngừng ký hợp đồng xuất khẩu cà phê và chỉ sẻ chào bán cà phê với mức giá tối thiểu 450 USD/ tấn, FOB. Đây là nhân tố chủ yếu đưa giá cà phê 2 tuần cuối tháng 12/2000 tăng 1.500 – 2.000 đồng/ tấn, lên 5.800 – 6.500 đồng/ tấn(loại 1).
47
Theo VICOFA, sản lượng cà phê thế giới vụ 2000/2001 dự đoán sẽ tiếp tục tăng 3% lên 115,1 triệu bao(6,906 triệu tấn). Trong đó sản lượng cà phê Robusta sẽ tăng hơn 6% lên 40,9 triệu bao(2,454 triệu tấn). Tiêu thụ cà phê thế giới vụ 2000/2001 dự đoán sẽ ở mức 107,5 triệu bao(6,45 triệu tấn) và tiếp tục tăng hơn sản lượng 7,6 triệu bao( 456.000 tấn). Đây là nhân tố áp lực làm giá cà phê thế giới tiếp tục giảm sút. Trong bối cảnh này, hiệp hội các nước xuất khẩu cà phê (ACPC) cũng ra quyết tâm tạm dự trữ 20% sản lượng cà phê xuất khẩu để nâng đỡ giá cả, Việt Nam cũng tham gia chương trình này.
Ngày 27/10/2000, thủ tướng chính phủ đã có quyết định 1067 về việc hổ trợ xuất khẩu cà phê niên vụ 2000/2001. Theo đó, thực hiện tạm trữ 60.000 tấn cà phê nhân, phân bổ cho các tỉnh: Đắc Lắc 20.000 tấn, Đồng Nai 10.000 tấn, Gia Lai 7.000 tấn, Lâm Đồng 8.000 tấn và tổng cộng cà phê Việt Nam là 15.000 tấn. Thời hạn tạm trữ 60 ngày kể từ ngày 15/11/2000. Quỹ hổ trợ xuất khẩu hổ trợ 100% lãi suất vay vốn ngân hàng trong thời gian tạm trữ cà phê.
Hiện nay hàng năm chúng ta đã xuất khẩu cà phê đến 49 nước, thu về 400-500 triệu USD và có quan hệ thương mại với tất cả các hãng cà phê lớn trên thế giới. Nâng cao chất lượng cà phê, đảm bảo tín nhiệm với khách hàng, tuân thủ tập quán buôn bán quốc tế,... là những biện pháp quan trọng để củng cố thị trường. Mặt khác cần có các giải pháp để khôi phục thị trường truyền thống cũ trước đây ở các nước SNG và Đông Âu, mở mang thị trường mới như Trung Quốc và các nước Trung cận Đông,... Khối lượng cà phê xuất khẩu ngày một lớn không thể thụ động ngồi chờ ai đến mua thì bán mà cần chủ động tạo thị trường, mở cơ quan đại diện với sử dụng các phương thức thương mại khác như: đổi hàng, trả nợ Nhà nước và các Hiệp định Chính phủ.
Việt Nam đã gia nhập ICO, sẽ tham gia tổ chức Hiệp hội các nước sản xuất cà phê (ACPC) và những tổ chức quốc tế khác có liên quan để tăng cường hợp tác kinh tế thương mại, khoa học công nghệ và phát triển nguồn nhân lực.
Xuất khẩu cà phê và giá cà phê
1997 1998 1999 2000
392 382 482 694
1277 1510 1213 718
48
Năm Sản lượng xuất khẩu(1.000T) Giá xuất khẩu bình quân(USD/tấn,FOB )
III. KẾT LUẬN RÚT RA QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU
Trong những năm qua kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam thường đạt
tốc độ cao(trừ 2 năm 1991 và1998).
Bảng A: Tình hình xuất khẩu thời kỳ 1991-2000
Tốc độ tăng (%) Năm
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 Kim ngạch (triệu USD) 2.085 2.580 2.985 4.054 3.448 7.255 9.185 9.361 11.523 14.308 -13,2 23,7 15,7 35,8 34,4 33,2 26,6 1,9 23,1 23,9
Nguồn: niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mại
Tình hình chung thời kỳ 1991 –1998 kim ngạch xuất khẩu tăng bình quân 20,4%, cao hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế (đạt khoảng 7,5%). Kim ngạch xuất khẩu tính trên đầu người kinh doanh, năm 1991 mới đạt 30 USD, năm 1995 đạt 73 USD, năm 1997 là 119 USD, năm 1999 là 150 USD và đến 2000 con số này đã lên 184 USD, vượt qua ngưởng cửu có nền ngoại thương kém phát triễn (170 USD). Cơ cấu mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam đã có sự chuyển biến tích cực phù hợp theo sự dịch chuyển cơ cấu theo hướng công nghiệp hoá. Tỷ trọng các nhóm các mặt hàng đã qua chế biến tăng, tỷ trọng nhóm hàng thô và sơ chế giảm dần.
Bảng B: Cơ cấu xuất khẩu thời kỳ 1991-1999(%)
Năm
1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999
33,4
37
34
28,8
25,3
28,7
28
23,8
25
Mặt hàng Công nghiệp nặng và khoáng sản
49
14,4
13,5
17,6
23,1
28,4
29
36,7
35,8
36,8
Công nghiệp nhẹ và thủ công nghiệp Nông, lâm, thuỷ sản
52,2
49,5
48,4
48,2
46,2
42,3
35,3
40,4
38,2
Nguồn niên giám thống kê 1998 và báo cáo của Bộ Thương Mại
Số hiệu Bảng B cho thấy tỷ trọng nhóm hàng nông- lâm- thuỷ sản, khoáng sản và hàng công nghiệp năng bình quân từ 79% thời kỳ 1991- 1995 xuống còn 64,6% thời kỳ 1996-1999, tỷ trọng nhóm hàng công nghiệp nhẹ và tiêu thủ công nghiệp từ 21% lên 34,4%. Điều đó phản ánh cơ cấu xuất khẩu Việt Nam đã được cải thiện theo hướng tăng đầu tư chiều sâu và chuyên môn hoá theo phân công lao động xã hội, phát huy lợi thế so sánh giữa các vùng kinh tế, nâng cao chất lượng hàng xuất khẩu, phù hợp với tiến trình hội nhập và phân công lao động quốc tế. Một số mặt hàng chủ lực có giá trị lớn và xu hướng tăng trưởng ổn định , làm trụ cột cho chiến lược xuất khẩu của Việt Nam trong hiện tại cũng như tỏng tương lai, đó là dầu thô, gạo, cà phê, cao su, hải sản, dệt may, giày dép và than đá.
Thị trường xuất khẩu của nước ta đã chuyển biến kịp thời và không ngừng được mở rộng. Từ năm 1991, sau thị trường truyền thống là Liên Xô(củ) và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu tan rã, Châu Á là thị trường xuất khẩu chính của nước ta, chiếm trên 60% tổng kim ngạch. Tỷ trong xuất khẩu sang các khu vực Âu- Mỹ đều tăng khá nhanh, nhất là thị trường các nước EU và Mỹ. Tỷ trọng thị trường Tây Âu tăng 6% năm 1991 lên 24% năm 1999, còn thị trường Mỹ tăng từ 0,3% năm 1991 lên 5,3% năm 1999. Sự chuyển dịch cơ cấu thị trường trên mang tính tích cực và phù hợp với chiến lược đa phương hoá thị trường, đa dạng hoá mặt hàng của ta. Điều này cho thấy khả năng tham gia thị trường thế giới của ta tăng lên.
50
Trong thời gian qua, sự đổi mới về chính sách cơ chế xuất khẩu theo hướng tháo gở và tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đã thúc đẩy các doanh nhiệp thuộc mọi thành phần kinh tế khác nhau tham gia hoạt động xuất khẩu. Xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn FDI tăng trưởng nhanh hơn các doanh nghiệp trong nước
có kim ngạch từ 161 triệu USD năm 1994 lên 2.577 triệu USD năm 1999. Tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp có FDI cũng tăng dần 4% năm 1994 lên 19% năm 1997 và 22,4% năm 1999.
51
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, hoạt động xuất khẩu của Việt Nam thời gian qua cũng bộc lộ nhiều hạn chế, kim ngạch xuất khẩu còn nhỏ và tăng trưởng xuất khẩu chưa vững chắc. Cơ cấu hàng xuất khẩu có chuyển biến nhưng còn chậm, cho tới nay xuất khẩu hàng thô và sơ chế vẫn chủ yếu, tỷ trọng chiếm tới 60% tổng kim ngạch xuất khẩu. Vì thế thời gian qua có một nghịch lý là mặc dù số lượng hàng xuất khẩu của một số mặt hàng tăng nhiều hơn trước nhưng giá trị thu được lại giảm đi. Hiện nay, hàng Việt Nam đã có mặt tại nhiều thị trường lớn, một số mặt hàng có tốc độ tăng trưởng cao như dệt may, dầu thô, da giày, cao su… Tuy nhiên, tốc độ tăng trưởng không ổn định do phụ thuộc quá nhiều vào sự biến động của từng thị trường và khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam vẫn còn yếu kém. Ví dụ, giá gạo thường thấp hơn giá quốc tế khoảng 30-50 USD/tấn, giá cà phê và chè thấp hơn 100-150 USD/ tấn, giá thịt lợn chỉ bằng 60% giá quốc tế…
CHƯƠNG III
CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỄN THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
I. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ ĐỔI MỚI, HOÀN
THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU
Để tạo điều kiện cho hoạt động xuất khẩu thành công thì trong thời gian tới, cần thực hiện các giải pháp để hoàn thiện môi trường pháp lý kinh doanh, đồng thời tiếp tục đổi mới và hoàn thiện cơ chế chính sách xuất khẩu cho phù hợp với điều kiện thực tế:
1. Rà soạt lại hệ thống luật để điều chỉnh các quy định không phù hợp hoặc chưa rõ ràng, trước hết là luật thương mại, luật đầu tư nước ngoài và luật khuyến khích đầu tư trong nước. Về luật thương mại cần bổ sung các quy định rõ ràng hơn về quản lý nhà nước trong lĩnh vực xuất khẩu. Về luật đầu tư nước ngoài, cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại.
2. Ban hành các văn bản luật mới để điều chỉnh quan hệ kinh tế mới phát sinh trên phương diện quốc tế và quốc gia như luật về Tối huệ quốc(MFN) và Đối xử quốc gia(NT), luật cạnh tranh và chống độc quyền, luật chống phá giá và chống trợ cấp, luật phòng vệ khẩn cấp, luật chống chuyển giá.
52
Điều chỉnh hoặc ban hành mới các quy định dưới luật để xử lý linh hoạt các mảng kinh doanh đang ngày càng trở nên quan tỏngj nhưng chưa đủ khung pháp lý như xuất khẩu tại chổ(bán hàng thu ngoại tệ mạnh, bán hàng miển thuế, giao hàng xuất khẩu trên lãnh thổ Việt Nam để tiếp tục sản xuất thành phẩm xuất khẩu…), buôn bán biên giới và buôn bán duyên
hải kinh doanh tạm nhập tái xuất và chuyển khẩu… Đặc biệt chú trọng khuyến khích đi đôi với việc quản lý các dịch vụ tái xuất và chuyển khẩu và kho ngoại quan để tận dụng uy thế về vị trí địa lý, tăng ngoại tệ.
3. Xây dụng hệ thống các tiêu chuẩn hàng hoá- dịch vụ xuất khẩu cho
phù hợp với đòi hỏi của thị trường, nâng dần sức cạnh tranh.
4. Trong hoạt động xuất khẩu kiên trì chính sách nhiều thành phần, trong đó kinh tế quốc doanh đóng vai trò chủ đạo. Hạn chế dần, tiến tới xoá bỏ tình trạng độc quyền mở rộng đầu mối kinh doanh xuất khẩu, hỗ trợ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, bảo đảm sự bình đẳng trong việc tiếp cận với các nhân tố đầu vào(vốn, tính dụng, đất đai, lao động).
5. Tiếp cận các phương thứckinh doanh mới, như buôn bán trên thị trường giao dịch hàng hoá, tỏng đó có thị trường hàng hoá giao ngay và thị trường kỳ hạn để vừa trực tiếp tham gia điều tiêts giá quốc tế, vừa tận dụng được tính chất phòng ngừa rủi ro của các thị trường này. Từ nay đến năm 2010, phấn đấu hình thành thị trường giao ngay và thị trường kỳ hạn tại Việt Nam đối với 1;2 mặt hàng xuất khẩu quan trọng. Cần đặc biệt lưu tâm tiếp cận và phát triễn thương mại điện tử, trong đó có việc tạo dựng khung pháp lý cho các hình thức thương mại đặc thù này.
6. Điều hành lãi suất, tỷ giá hối đoái để vừa đảm bảo sự ổn định kinh tế- xã hội trong nước, vừa có lợi cho xuất khẩu, hạn chế nhập khẩu, tiến tới biến đồng Việt Nam thành chuyển đổi.
II. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH ĐỂ PHÁT TRIỄN THỊ TRƯỜNG XUẤT
KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM
1. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu chủ lực của Việt
Nam vào thị trường nước ngoài
53
Ký kết và rà soát để đàm phán thương mại song phương và đa phương, ký lại Hiệp định thương mại với các yêu cầu mới và tổ chức tốt việc thực hiện các hệp định đó. Cụ thể là đàm phán mở cửa thị trường mới, đamg phán để tiến tới thương mại cân bằng với thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, đàm phán để thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ
sinh, tiêu chuẩn về kỷ thuật và đàm phán để nới lõng các hàng rào phi thuế quan. Nhằm phát triển mạnh công tác thị trường ở cả tầm vĩ mô và vi mô, khắc phục đồng thời hai biểu hiện “ ỷ lại và nhà nước” và “phó mặc cho doanh nghiệp”.
Sữa đổi bổ sung ký kết các hiệp định khác với nước ngoài có liên quan đến hoạt động thương mại như hiệp định vận tải, hiệp định thanh toán nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho kinh doanh của doanh nghiệp.
Tranh thủ ký cam kết “G to G” với các nước mà có sự can thiệp của chính phủ có vai thò quyết định đối với việc nhập khẩu những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam như gạo, cao su, cà phê, hải sản…
Tổ chức tốt phổ biến hướng dẫn và kiểm tra thực hiện các hợp đồng thương mại và các cam kết khác về thương mại giữa Việt Nam với nước ngoài.
Phối hợp quốc tế trong việc xuất khẩu các mặt hàng như gạo, cà phê,
cao su.
2. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu.
Việc thâm nhập thị trường nước ngoài cho hàng xuất khẩu của Việt Nam nói chung và các mặt hàng chủ lực nói riêng là kết quả tổng hợp của nhiều biện pháp chính trị, ngoại giao, kinh tế kỹ thuật và nghiệp vụ ngoại thương và đòi hỏi sự nổ lực của các cơ quan nhà nước và các doanh nghiệp trong đó có tập trung các biên pháp sau:
54
- Tổ chức tốt việc nghiên cứu khảo sát thị trường nước ngoài. Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện cho các cơ quan có trách nhiệm của Bộ thương mại ( các vụ chính sách thị trường nước ngoài, các cơ quan thường vụ của Việt Nam ở nước ngoài, viện nghiên cứu thương mại, các xúc tiến thương mại, trung tâm thông tin thương mại) trong công tác nghiên cứu thị trường, cung cấp các thông tin và kết quả nghiên cứu cho các doanh nghiệp. Hỗ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài khảo sát, tìm kiếm thị trường và bạn hàng xuất khẩu.
- Khuyến khích và hỗ trợ các doanh nghiệp xây dựng ở nước ngoài mạng lưới đại lý, phân phối hàng, kho ngoại quan, trung tâm trưng bày sản phẩm, áp dụng các phương thức buôn bán linh hoạt như gửi hàng, bán thanh toán chậm, đổi hàng phù hợp từng mặt hàng, từng thị trường nước ngoài hoặc lập các công ty pháp nhân nước sở tại để chuyển nhập khẩu hàng Việt Nam, khuyến khích và hỗ trợ cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài nhập hàng Việt Nam.
- Nhà nước hỗ trợ, tạo điều kiện thuận lợi và các doanh nghiệp cố gắng đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, xây dựng một vài trung tâm thương mại, tiến hành quảng cáo, tham gia triễn lãm, hội chợ đối với từng mặt hàng, từng thị trường.
- Các doanh nghiệp cần phải không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thông qua nâng cao chất lượng hàng hoá, mẩu mả, bao bì phù hợp với thị hiếu tập quán từng thị trường và đội ngủ cán bộ ngoại thương có năng lực; xây dựng chiến lược phát triễn cho từng mặt hàng chủ lực xuất khẩu trong đó có chiến lược về thị trường; đảm bảo chữ “tín” trong kinh doanh, kết hợp xuất khẩu với nhập khẩu để đảy mạnh xuất khẩu trên thị trường cụ thể.
3. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm
công tác thị trường nước ngoài.
Kiên toàn tổ chức, nâng cao năng lực cán bộ và đổi mới lề lối làm việc của các vụ chính sách thị trường nước ngoài của Bộ thương mại và gắn hoạt động của các đơn vị này với các doanh nghiệp vì sự tăng trưởng xuất khẩu.
Gắn công tác của viện nghiên cứu thương mại thuộc Bộ thương mại với các hoạt động của các doanh nghiệp trong lĩnh vực xuất khẩu. Có chính sách và biện pháp để các doanh nghiệp đặt hàng cho Viện các đề tài nghiên cứu về thị trường và mặt hàng xuất khẩu.
55
Cùng với việc cũng cố các cơ quan thường vụ, Việt Nam hiện có ở nước ngoài, mở thêm một số cơ quan ở các địa bàn mới, nâng cao hơn
nữa trách nhiệm của các cơ quan này đối với việc thực hiện chiến lược xuất khẩu và các doanh nghiệp trong nước về công tác xuất khẩu. Duy trì việc tổ chức hàng năm Hội nghị Tham tán thương mại và tiếp xúc giữa các Tham tán thương mại với các doanh nghiệp. Các cơ quan thường vụ Việt Nam ở nước ngoài phải là “tai mắt” và người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của các doanh nghiệp Việt Nam ở nước ngoài trong hoạt động xuất nhập khẩu.
Nâng cao trách nhiệm và tạo điều kiện để xúc tiến thương mại thuộc Bộ thương mại, phát huy vai trò hổ trợ và hướng dẫn các doanh nghiệp trong các hoạt động xúc tiến thương mại và sự tăng trưởng xuất khẩu.
Có kế hoạch và biện pháp bồi dưởng, đào tạo cán bộ làm công tác thị trường nước ngoài. Trước mắt cần có biện pháp để mở các lớp bồi dưởng, đào tạo cán bộ chuyên đề công tác thị trường ngoài nước cho doanh nghiệp.
4. Hổ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến
thương mại.
Sớm hoàn thành đề án về chủ trương và giải pháp đẩy mạnh các hoạt
động xúc tiến thương mại phục vụ chiến lược xuất khẩu.
Hổ trợ và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp ra nước ngoài, kể cả việc tháp tùng các đoàn cấp cao của Đảng, Nhà nước, để thâm nhập thị trường, tiếp cận cơ hội xuất khẩu, phát triễn kinh doanh.
Phối hợp và hổ trợ các ngành, địa phương và các doanh nghiệp xây dựng và thực hiện chiến lược Marketing cho từng ngành hàng, mặt hàng quan trọng và tham gia các hội chợ, triễn lãm và các hoạt động xúc tiến thương mại khác ở nước ngoài.
Có cơ chế xúc tiến và thẩm vấn định kỳ giữa Bộ thương mại và các doanh nghiệp, các hiệp hội ngành hàng và các vấn đề liên quan đến xuất nhập khẩu.
Mở rộng các quan hệ hợp tác đa phương và song phương đối với
56
nước ngoài trong các công tác xúc tiến thương mại.
Khuyến khích, tạo điều kiện và tăng cường quan hệ phối hợp giữa
các cơ quan chức năng, báo chí đối ngoại phục vụ tăng trưởng xuất khẩu.
5. Xây dựng đội ngủ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương hùng mạnh.
Một đội ngũ cán bộ ngoại thương là một đội ngũ có đủ khả năng để tìm hiểu một cách rõ ràng, chính xác và kịp thời nhu cầu của thị trường quốc tế, quy mô của nhu cầu và khả năng đáp ứng nhu cầu đó của nền sản xuất trong nước. Đồng thời, phải nắm bắt được chính xác mọi thông tin về sự thay đổi nhu cầu và giá cả thị trường, những nguyên nhân gây nên sự thay đổi đó (như các diễn biến về chính trị, quân sự, tài chính, tiền tệ…; sự thay đổi chính sách của chính phủ của một quốc gia nào đó trên thế giới) cho dù là năng nề, thậm chí mang tính tàn phá cũng phải được cung cấp ngay lập tức. Đó là con đường duy nhất để giúp lãnh đạo doanh nghiệp ngoại thương tiếp tục xử lý một vấn đề trước khi nó vượt ra ngoài tầm kiểm soát của doanh nghiệp. Để có một đội ngủ và doanh nghiệp ngoại thương như vậy, mỗi nhân viên và cán bộ doanh nghiểp trước tiên là những người phải giỏi chuyên môn nghiệp vụ ở vị trí hoạt động của mình, đồng thời giỏi ngoại ngữ tiếng Anh và ngôn ngữ thị trường mục tiêu của doanh nghiệp. Luôn rèn luyện thói quen theo dõi, ghi nhận, nghiên cứu và phân tích các thông tin có liên quan đến sản phẩm và dịch vụ của doanh nghiệp, thị trường mục tiêu, giá cả trên thị trường thế giới…Đồng thời phải nắm được kỹ thuật sử dụng một số phương tiện phân tích và truyền tin hiện đại như Internet, Fax… để nâng cao khả năng phân tích chính xác và kịp thời.
6. Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thương mại cho các
doanh nghiệp
57
Sớm hoàn thiện và tổ chức thực hiện đề án về công tác thông tin thương mại mà Bộ thương mại đang xây dựng để phục vụ các ngành, các địa phương của doanh nghiệp trong hoạt động xuất nhập khẩu trong đó gồm các việc cụ thể như:
- Tổ chức cung cấp định kỳ hàng năm, hàng quý, các ấn phẩm về thị
trường hàng hoá thế giới cho các doanh nghiệp.
- Xây dựng kênh thông tin thương mại thông suốt từ các cơ quan
thương vụ Việt Nam ở nước ngoài, Bộ thương mại và các doanh nghiệp.
- Ngoài việc cung cấp thông tin theo phương thức hổ trợ của nhà nước cho các doanh nghiệp, cần phải thực hiện thương mại hoá các thông tin và các áp dụng của phương thức linh hoạt khác nhằm đáp ứng nhu cầu cá thể, kịp thời của doanh nghiệp.
7. Sớm xây dựng và ban hành cơ chế công tác thị trường ngoài nước:
Trong đó xác định rõ trách nhiệm của các cơ quan nhà nước có liên quan của trung ương cũng như của địa phương và trách nhiệm của daonh nghiệp, quy chế phối hợp giữa các cơ quan có trách nhiệm và doanh nghiệp trong công tác thị trường nước ngoài. Đồng thời, nhà nước có chính sách cụ thể để đảm bảo các điều kiện vật chất và tài chính để thực hiện trách nhiệm được giao trong công tác thị trường nước ngoài, cần sớm xây dựng và ban hành cơ chế này mới có thể làm tốt công tác thị trường ngoài nước, một mặt vừa bắt buộc, khuyến khích các cơ quan đơn vị liên quan trong công tác thị trường, mặt khác tạo điều kiện để kiểm điểm, đánh giá tình hình công tác thị trường ngoài nước.
III. ĐIỀU KIÊN TIỀN ĐỀ ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP TRÊN
1. Để thâm nhập, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam cần làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và các doanh nghiệp
1.1. Về phía nhà nước
58
Đàm phán thương mại song phương và đa phương để duy trì và mở rộng thị trường mới, tiến tới thương mại cân bằng với những thị trường mà ta thường xuyên nhập siêu, thống nhất hoá các tiêu chuẩn vệ sinh, tiêu chuẩn kỹ thuật và nới lỏng các hàng rào phi thuế quan.
Bộ thương mại và các thường vụ tích cụ hoạt động để gia tăng thị phần xuất khẩu của Việt Nam vào các nước; các ngành và các địa phương cần chủ động phối hợp, nêu yêu cầu cụ thể với Bộ thương mại và các thường vụ về ngành hàng cụ thể. Đề nghị chính phủ nghiên cứu có quy định chính thức về cơ chế “hoa hồng” giữa thường vụ với doanh nghiệp.
Bộ thương mại tăng cường công tác phổ cập thông tin về các thị trường từ tình hình chung tới các ccơ chế chính sách của các nước, dự báo các chiều hướng cung cầu hàng hoá và dịch vụ… Các ngành, các địa phương cần “đặt hàng” cụ thể về các thông tin còn thiếu.
Nhà nước tiếp tục tạo môi trường đầu tư thuận lợi cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài xuất khẩu, tránh gây phiền hà, sách nhiễu.
Để hổ trợ các daonh nghiệp hoạt động ở thị trường nước ngoài, nhà nước xoá bỏ thủ tục cấp giấy phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để phục vụ giao dịch trên thị trường nước ngoài.
Nhà nước sớm hoàn chỉnh cơ chế vận hành các Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, Quỹ bảo hiểm xuất khẩu, Quỹ bảo lãnh tín dụng,…hình thành quỹ xúc tiến thương mại có sự đóng góp của các doanh nghiệp để hỗ trợ các doanh nghiệp trong các hoạt động hội chợ, trưng bày, triễn lãm…Có chế độ khuyến khích thoả đáng (như miễn giảm thuế thu nhập cá nhân, cho phép tính vào chi phí tính thuế thu nhập doanh nghiệp…) đối với các tổ chức và cá nhân, bao gồm các cơ quan đại diện ngoại giao, ngoại thương của ta với nước ngoài tham gia các hoạt động môi giới, trợ giúp tiếp cận và tâm nhập thị trườn quốc tế.
59
Tiếp tục hoàn thiện chính sách thưởng xuất khẩu theo hướng mở rộng hơn nữa diện, tiêu chuẩn và mức độ xét thưởng đối với các doanh nghiệp tìm kiếm được thị trường xuất khẩu mới, xuất khẩu được các mặt hàng mới hoặc xuất khẩu hàng hoá với chất lượng cao ra thị trường nước ngoài.
Đối với những mătỵ hàng mà Việt Nam giữ thị phần lớn trên thị trường quốc tế (như gạo, cà phê, hạt tiêu…), tăng cường áp dụng các biện pháp thư thông tin chiến lược, chiến tuật, kiềm chế tốc độ bán ra, tham gia các kế hoạch quốc tế về điều tiết nguồn cung trong điều kiện có thể… để tác động vào thị trường và giá cả theo hướng có lợi.
1.2. Về các hiệp hội ngành hàng
Nâng cao hơn nữa vai trò của các hiệp hội trong việc phối hợp và thống nhất hành động trong tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm (kể cả việc thống nhất giá bán, hạn chế tranh mua, tranh bán) một cách có hiệu quả nhất, bảo đảm lợi ích của toàn ngành, mở rộng hợp tác quốc tế vì lợi ích của ngành hàng. Các ngành liên quan chỉ đạo việc hình thành các hiệp hội ngành hàng mới.
1.3. Về phía doanh nghiệp
Ở tầm vi mô các doanh nghiệp có trách nhiệm dựa vào khung pháp lý và các chính sách của nhà nước để chủ động, tích cực tổ chức tiếp cận, khai thác thông tin, lo tìm bạn hàng, thị trường, tiếp xúc với thị trường thế giới thông qua hội thảo khoa học, hội chợ triễn lãm; kịp thời nắm bắt xu thế thị trường. Tổ chức sản xuất và xuất khẩu theo nhu cầu và thị hiếu của thị trường, tránh tư tưởng ỷ lại vào các cơ quan quản lý nhà nước hoặc trông chờ trợ cấp, trợ giá, đặc biệt chú trọng “chử tín” trong kinh doanh để duy trì chổ đứng trên thị trường, phối hợp với nhau trong việc đi tìm và quan hệ bạn hàng.
2. Không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu:
60
- Ban hành cơ chế điều hành xuất khẩu ổn định theo hướng tiếp tục mở rộng quyền kinh doanh xuất khẩu của các doanh nghiệp ( trong đó có các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài). Cụ thể: tất cả các thương nhân là doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế được thnàh lập theo quy định của pháp luật được phép xuất khẩu tất cả các mặt hàng mà nhà nước không cấm, cấm kinh doanh và kinh doanh có điều kiện. Riêng đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được xuất khẩu như các doanh nghiệp trong nước.
- Về mặt hàng, cần tiếp xúc xây dựng và tích cực thực hiện các đề án xuất khẩu, tập trung vào các mặt hàng có thế mạnh và tiềm năng phát triễn như: thuỷ sản, thủ công mỹ nghệ, hàng điện tử…
Hiên nay xuất khẩu hàng gia công đang chiếm tỷ trọng khá lớn trong kim ngạch xuất khẩu, song hiệu quả thấp và ngoại tệ thu được rất hạn chế. Vì vậy, đối với các mặt hàng đang xuất khẩu chủ yếu bằng phương pháp gia công, cần khuyến khích các doanh nghiệp tìm thị trường và bạn hàng nhập khẩu trực tiếp, trên cơ sở tăng cường nghiên cứu mẩu mả, phát triễn sản phẩm, chuyển sang bán FOB, giảm dần việc phụ thuộc vào nước ngoài, kể cả khâu kỹ thuật, công nghệ, thiết kế mẩu mả và tiếp thị.
- Sử dụng có mục đích và có hiệu quả Quỹ hỗ trợ xuất khẩu, trong đó có cả phần thưởng xuất khẩu. Chú ý ưu tiên các doanh nghiệp xuất khẩu các mặt hàng dệt may, giày dép, cà phê, thuỷ hải sản, thủ công mỹ nghệ nhằm tăng cường xuất khẩu các mặt hàng này ra thị trường thế giới.
61
Khuyến khích đầu tư vào các ngành hàng chủ lực và các dự án nâng cao cấp độ chế biến, từ đó nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng hoá xuất khẩu. Theo hướng đó, đối với những dự án đầu tư chỉ nhằm mở rộng quy mô thì ít ưu đãi. Đối với các dự án đổi mới công nghệ, nâng cao cấp độ chế biến hàng hoá thì tuỳ theo mức độ, được ưu đãi nhiều hơn.
KẾT LUẬN
Trong quá trình hội nhập và mở cửa nền kinh tế Việt Nam trong những năm vừa qua đã không ngừng thúc đẩy và mở rộng thị trường xuất khẩu hàng hoá nói chung và thị trường xuất nhập khẩu các mặt hàng chủ lực nói riêng. Việt Nam từ một nước xuất khẩu kém trên thế giới thì đến năm 2000 vừa qua Việt Nam vượt qua ngưỡng cửa xuất khẩu kém trên thế giới( trên 175USD/người/năm), cơ cấu thị trường và cơ cấu hàng hoá xuất khẩu chuyển biến theo chiều hướng có lợi, tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá qua chế biến tâưng dần, tỉ trọng xuất khẩu hàng hoá thô và sơ chế giảm dần…
Có được những thành quả đó là nhờ sự nỗ lực không nừng của nhà
nước cũng như các doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Tuy nhiên so với các nước trong khu vực như Thái Lan, Malaysia, Indonesia…thì tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam còn rất nhỏ bé. Thị trường xuất khẩu chưa ổn định, tỷ trọng hàng hoá xuất khẩu thô và sơ chế vẫn chiếm một tỷ lệ cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam…
62
Trong những năm tới đây thị trường xuất khẩu của chúng ta cũng có rất nhiều cơ hội khi Việt Nam tham gia mậu dịch tự do ASIAN(AFTA), thực thi hiệp định thương mại Việt- Mỹ,Trung Quốc gia nhập WTO…Do vậy đòi hỏi nhà nước cũng như các doanh nghiệp phải không ngừng nổ lực trong việc tìm kiếm cơ hội để xuất khẩu sang các thị trường này.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
SÁCH:
1. Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX 2. Thương mại trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam 3. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu 4. Chiến lược phát triễn xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010 5. Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ 6. Quan hệ Việt Nam – ASEAN 7. Niên giám thống kê 1998, 2000 TẠP CHÍ:
1. Tạp chí phát triển kinh tế: Số 11(270) 11/2000 Số 10(269) 10/2000 Số 7(266) 7/2000 Số 5(252) 5/2000 2. Tạp chí nghiên cứu Nhật Bản: Số 3/2000
Số 1/2000 Số 3/1999
Năm 1999 – 2000 và 2000 – 2001
63
3. Chuyên sản của thời báo kinh tế Việt Nam 4. Tạp chí kinh tế phát triển Số 128, 126, 124, 120, 116, 114, 112
MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU ................................................................................................. 1
CHƯƠNG I: NHỮNG LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU NÓI CHUNG VÀ THI TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG ........... 4
I. BẢN CHẤT VÀ VAI TRÒ CỦA THỊ TRƯỜNG VÀ THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC ................................................... 4 1. Bản chất của thị trường và thị trường xuất khẩu câc mặt hàng chủ lực .... 4 2. Vai trò của xuất khẩu hàng hoá nói chung và các mặt hàng
chủ lực nói riêng. ............................................................................................ 5
II. NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA XUẤT KHẨU HÀNG HÓA NÓI CHUNG VÀ
XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NOÍ RIÊNG ............................ 7 1. Nhận biết về mặt hàng xuất khẩu .................................................................. 7 2. Nghiên cứu dung lượng thị trường và các nhân tố ảnh hưởng .................. 8 3. Lựa chọn đối tượng buôn bán ....................................................................... 9
III. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI XUẤT KHẨU HÀNG HOÁ NÓI
CHUNG VÀ XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC NÓI RIÊNG ... 10 1. Các thuế quan và hạn ngạch(tariffs and quotas) ........................................ 10 2. Các quy định liên quan đến sức khoẻ và an toàn ....................................... 11 3. Các yếu tố kinh tế .......................................................................................... 11 4. Các yếu tố về văn hoá và xã hội ................................................................... 12
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU
CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM .............. 13
I. ĐẶC ĐIỂM CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG
CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM ............................................................................ 13 1. Về cơ hội ........................................................................................................ 13 2. Về khó khăn và thách thức ........................................................................... 15 3. Cơ cấu nhóm hàng xuất khẩu chủ lực sang các thị trường ...................... 16 3.1. Nhóm hàng nguyên vật liệu ............................................................. 16 3.2. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản ...................................................... 17 3.3. Sản phẩm chế biến và chế tạo ......................................................... 18
II. THỰC TRẠNG CỦA THỊ TRƯỜNG XUẤT KHẨU CÁC NMẶT HÀNG
CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM ............................................................................ 19 1. Các thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam ........................................... 19 1.1. Thị trường Châu Á- Thái Bình Dương ............................................ 19 1.2. Thị trường EU ................................................................................. 25
64
1.3. Thi trường Mỹ ................................................................................. 28 2. Các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam ......................................... 31 2.1. Dầu thô ........................................................................................... 31 2.2. Hàng dệt may .................................................................................. 33 2.3. Giày dép .......................................................................................... 37 2.4. Thuỷ sản .......................................................................................... 39 2.5. Gạo ................................................................................................. 42 2.6. Cà phê ............................................................................................. 45
III. KẾT LUẬN RÚT RA QUÁ TRÌNH NGHIÊN CỨU ...................................... 49
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP ĐỂ PHÁT TRIỄN THỊ TRƯỜNG XUẤT NHẬP KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM .................................................................. 52
I. HOÀN THIỆN MÔI TRƯỜNG PHÁP LÝ VÀ ĐỔI MỚI,
HOÀN THIỆN CƠ CHẾ, CHÍNH SÁCH XUẤT KHẨU .............................. 52
II. CÁC GIẢI PHÁP CHÍNH ĐỂ PHÁT TRIỄN THỊ TRƯỜNG
XUẤT KHẨU CÁC MẶT HÀNG CHỦ LỰC CỦA VIỆT NAM.................. 53 1. Tạo khung pháp lý thuận lợi cho hàng xuất khẩu chủ lực
của Việt Nam vào thị trường nước ngoài .................................................... 53 2. Tăng cường các biện pháp thâm nhập thị trường cho hàng xuất khẩu. ....... 54 3. Nâng cao trách nhiệm và năng lực của cơ quan và tổ chức làm
công tác thị trường nước ngoài. ................................................................... 55 4. Hổ trợ các doanh nghiệp đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại. 56 5. Xây dựng đội ngủ cán bộ và doanh nghiệp ngoại thương hùng mạnh. ........ 57 6. Tổ chức tốt việc thu thập, xử lý và cung cấp thương mại
cho các doanh nghiệp ................................................................................... 57 7. Sớm xây dựng và ban hành cơ chế công tác thị trường ngoài nước: ............ 58 III. ĐIỀU KIÊN TIỀN ĐỀ ĐỂ THỰC HIỆN CÁC GIẢI PHÁP TRÊN ............. 58 1. Để thâm nhập, tìm kiếm thị trường xuất khẩu các mặt hàng chủ lực của Việt Nam cần làm rõ trách nhiệm của Nhà nước, Hiệp hội và các doanh nghiệp ..................................................................................... 58 1.1. Về phía nhà nước ............................................................................ 58 1.2. Về các hiệp hội ngành hàng ............................................................ 60 1.3. Về phía doanh nghiệp ..................................................................... 60 2. Không ngừng hoàn thiện cơ chế, chính sách đẩy mạnh xuất khẩu:......... 60
KẾT LUẬN
............................................................................................... 62
TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................................. 63
65