VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TRƯỞNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI, 2018
VIỆN HÀN LÂM KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI NGUYỄN VĂN TRƯỞNG
THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO TẠI VIỆT NAM HIỆN NAY: THỰC TRẠNG VÀ GIẢI PHÁP
Ngành: Chính sách công Mã số: 8.34.04.02
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
TS. PHẠM ANH TUẤN
HÀ NỘI, 2018
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 2016 được chọn là năm “Quốc gia khởi nghiệp”, điều này cho thấy
vấn đề khởi nghiệp đang được nhà nước và xã hội dành sự quan tâm đặc biệt.
Cùng với thành tựu của các doanh nghiệp truyền thống trong hơn 30 năm tiến
hành đổi mới, tuy còn non trẻ nhưng sự phát triển nhanh chóng của các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo (DNKNST) đã góp phần đáng kể vào những thành
tựu phát triển chung của đất nước. Các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đang
ngày càng khẳng định vai trò không thể thiếu của mình trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Thực tiễn phát triển của nhiều nước trên thế giới hiện nay đã chứng minh
vai trò to lớn của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đối với sự phát triển của
nền kinh tế. Khuyến khích phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo cho
phép khai thác tốt hơn nguồn lao động, nguồn vốn, công nghệ và thị trường.
Đặc biệt doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là môi trường thuận lợi để khai
thác tối đa lượng chất xám, tinh thần làm giàu, ước mơ vươn mình ra thế giới
của thế hệ trẻ hiện nay. Ngoài ra, doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo làm giảm
nguy cơ thất nghiệp, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giảm bớt sự chênh
lệch giàu nghèo, thúc đẩy phát triển khoa học công nghệ cao của quốc gia.
Trong thời gian gần đây, cách mạng công nghiệp lần thứ tư (cách mạng
công nghiệp 4.0) đã trở thành chủ đề được nghiên cứu, phân tích và bàn luận
rộng rãi với nhiều góc độ tiếp cận khác nhau. Thực tế đã cho thấy cách mạng
công nghiệp 4.0 đã bắt đầu có ảnh hưởng đến Việt Nam ở những mức độ khác
nhau trong các lĩnh vực của đời sống, kinh tế, chính trị. Vì vậy, việc nghiên
cứu, đánh giá về hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, coi đó như một giải
pháp phù hợp, một cách ứng phó hiệu quả để tranh thủ các cơ hội mà cuộc cách
1
mạng 4.0 đem lại cho Việt Nam là một nhiệm vụ rất cần thiết, có ý nghĩa cả về
lý luận và thực tiễn.
Sau hơn 10 năm gia nhập WTO, hiện nay Việt Nam đang tham gia một
loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA) thế hệ mới, đánh dấu sự hội nhập
sâu hơn, rộng hơn vào nền kinh tế thế giới. Những FTA này đang đặt Việt Nam
trong một sân chơi kinh tế mới với những thay đổi chiến lược nhằm nâng cao
hợp tác kinh tế, tháo gỡ những khó khăn, rào cản trước đây từng cản trở sự phát
triển của các doanh nghiệp, sự giao thương giữa các quốc gia. Quá trình hội
nhập vào các FTA đem lại rất nhiều cơ hội cho các doanh nghiệp Việt Nam,
đặc biệt là các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo có những sản phẩm mới,
những ý tưởng mới muốn phát triển rộng rãi trên thị trường thế giới. Hòa vào
sân chơi chung đã mang lại nhiều cơ hội, nhưng nó cũng đem đến không ít các
thách thức cho các doanh nghiệp Việt Nam đặc biệt là các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo, rất cần sự hỗ trợ từ phía Nhà nước. Cả nước đang lỗ lực phấn
đấu đạt mốc 1 triệu doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo vào năm 2020 đây là
điều không hề dễ dàng đòi hỏi sự quyết tâm mạnh mẽ của cả nhà nước, doanh
nghiệp và người dân. Một trong những vấn đề cấp thiết để giúp các doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo phát triển nhanh và mạnh trong bối cảnh hội nhập
hiện nay là xây dựng, hoàn thiện và thực hiện tốt chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo cần phải có cơ sở khoa học, phương pháp luận khoa học và căn
cứ vào tình hình thực tế.
Xuất phát từ việc phân tích lý luận và thực tiễn nêu trên, đề tài “Thực
hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam hiện
nay: thực trạng và giải pháp” đã được tác giả lựa chọn và tiến hành nghiên
cứu
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
2
Đề tài nghiên cứu về DNKNST là một đề tài mới tại Việt Nam hiện nay.
Với sự phát triển mạnh mẽ của các DNKNST chính phủ đã lấy năm 2016 là năm
“quốc gia khởi nghiệp” và phê duyệt đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi
mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025” vào tháng 8/2016, đến năm 2017, Luật
doanh nghiệp nhỏ và vừa được thông qua có nội dung về các DNKNST.
Khí thế, tinh thần khởi nghiệp của cả nước đang sôi sục, làn sóng khởi
nghiệp đang diễn ra mạnh mẽ, nhiều bài tham luận, nhiều tài liệu nghiên cứu
về doanh nghiệp khởi nghiệp được công bố. Trong đó chủ yếu là các bài báo,
các báo cáo tham luận về chính sách hỗ trợ DNKNST của các cơ quan chức
năng hoặc các tổ chức kinh tế.
Trong phạm vi luận văn của mình, tôi xin tập trung giới thiệu một số báo
cáo, tham luận tiêu biểu có liên quan đến chính sách hỗ trợ DNKNST:
Báo cáo “Nghiên cứu cơ chế hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo,
kinh nghiệm quốc tế - đề xuất giải pháp cho Việt Nam” do VCCI thực hiện năm
2017. Đây là bản báo cáo chi tiết về thực trạng DNKNST của Việt Nam trong
năm 2017 với những số liệu cụ thể về sự phát triển của các DNKNST. Tuy nhiên,
báo cáo chưa đưa ra được nguyên nhân và giải pháp để hiện thực hóa việc hỗ trợ
các DNKNST.
Bài tạp chí “Khởi nghiệp đổi mới sáng tạo" số 1/2017 do Cục thông
tin khoa học và công nghệ quốc gia thực hiện. Bài viết có cách nhìn sâu sắc
về DNKNST, tuy nhiên chưa đưa ra được những khó khăn thách thức, thực
trạng của DNKNST hiện nay.
Tham luận “Huy động vốn cho các doanh nghiệp startup: thực trạng và
giải pháp”. Tác giả là thạc sĩ Trần Thị Thanh Huyền, Khoa Tài chính - Kiểm
toán, đại học Nguyễn Tất Thành (Thành phố Hồ Chí Minh). Tham luận viết về
một khía cạnh của chính sách hỗ trợ DNKNST là vấn đề huy động động vốn
3
cho các DNKNST. Nhưng bài tham luận lại chưa cụ thể hóa, chưa chia được
các kênh huy động vốn và những khó khăn khi gọi vốn của các DNKNST.
Tổng quan “Xây dựng và phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp: vai trò của
chính sách chính phủ” do Cục Thông tin KH&CN Quốc gia thực hiện. Bài viết
này cung cấp cho độc giả, đặc biệt là các nhà hoạch định chính sách những khái
niệm toàn diện, các đặc điểm thành phần của hệ sinh thái khởi nghiệp và vai
trò của chính sách chính phủ trong việc phát triển thành công các hệ sinh thái
khởi nghiệp.
Luận văn thạc sĩ “Phát triển vườn ươm doanh nghiệp công nghệ trong các
trường đại học ở Việt Nam” do tác giả Nguyễn Thị Nguyên (2014), đại học Quốc
gia Hà Nội, thực hiện. Bài luận văn đã đánh giá thực trạng phát triển các vườn
ươm doanh nghiệp công nghệ tại các trường đại học và đưa ra các biện pháp khắc
phục. Tuy nhiên, các vườn ươm chỉ là một bộ phận nhỏ trong chính sách hỗ trợ
DNKNST.
Các công trình nghiên cứu, các báo cáo tham luận trong nước đã cho thấy
những quan niệm cơ bản về chính sách hỗ trợ DNKNST. Những nghiên cứu, định
hướng đó đã giúp tác giả luận văn có những cơ sở khoa học, lý luận cũng như thực
tiễn khi triển khai nghiên cứu việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt
Nam.
Những công trình nghiên cứu trên đây đã cho tác giả những kiến thức vô
cùng quý giá để tác giả tham khảo, kế thừa trong quá trình thực hiện để tài luận
văn “Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại
Việt Nam hiện nay: Thực trạng và giải pháp”.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
Trên cơ sở đánh giá thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
của Việt Nam và phân tích tác động của những chính sách hiện có đối với sự
phát triển của DNKNST, luận văn đề xuất một số phương hướng, giải pháp nhằm
4
hoàn thiện các chính sách giúp phát triển hơn nữa các DNKNST ở nước ta trong
bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế và làn sóng cách mạng 4.0 đang diễn ra mạnh
mẽ.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là việc thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST tại Việt Nam hiện nay.
Phạm vi nghiên cứu: Luận văn giới hạn ở việc nghiên cứu việc thực hiện
chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam hiện nay, cụ thể là từ những năm
2010, nhất là từ năm 2016 đến nay.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Sử dụng phương pháp duy vật biện chứng, duy vật lịch sử thông qua các
công cụ phân tích, tổng hợp, so sánh từ các nguồn số liệu thống kê thu thập
được.
Để thực hiện đề tài, tác giả thu thập các dữ liệu thứ cấp từ năm 2010 đến
năm 2017 thông qua các bài báo, sách nghiên cứu chuyên khảo, các công trình
nghiên cứu trong và ngoài nước và các báo cáo liên quan đến chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
Luận văn góp phần hoàn thiện cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo, đồng thời luận văn góp phần phân tích đánh giá thực trạng của chính
sách hỗ trợ DNKNST hiện nay của Việt Nam. Luận văn giúp đưa ra những giải
pháp nhằm hỗ trợ, phát triển DNKNST. Luận văn góp phần thiết thực trong
việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong tình hình mới.
5
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, tài liệu tham khảo luận văn được trình bày
trong ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo và
chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
Chương 2: Thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp
khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam.
Chương 3: Giải pháp nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
6
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH
HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
1.1. Cơ sở lý luận về doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
1.1.1. Khái niệm doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Kể từ khi bắt đầu xuất hiện đến nay, có khá nhiều định nghĩa hay cách
hiểu về khởi nghiệp sáng tạo (KNST) và doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
(DNKNST). Trong tiếng Anh, khái niệm KNST (startup hoặc start-up) được
hiểu là việc một cá nhân hay một tổ chức của con người đang trong quá trình
bắt đầu kinh doanh, hay còn gọi là giai đoạn đầu lập nghiệp. Còn theo Mandela
Schumacher-Hodge, thuật ngữ “DNKNST- startup" không dùng để thông báo
loại hình của doanh nghiệp, mà chủ yếu dùng để miêu tả trạng thái phát triển
của doanh nghiệp (Ví dụ: tất cả các tập đoàn lớn hiện nay đều đã từng là
DNKNST).[1] Một cách tiếp cận khác theo Neil Blumenthal – Đồng sáng lập
và đồng CEO của Warby Parker - thì "DNKNST là một công ty hoạt động nhằm
giải quyết một vấn đề mà giải pháp không phải là hiển nhiên và dĩ nhiên không
có gì đảm bảo thành công cả”.[2]
Như vậy, theo định nghĩa của các học giả phương Tây, DNKNST có thể
hiểu là một tập hợp các nguồn lực tạm thời (nhân lực, tiền, thời gian…) để đi
tìm kiếm một mô hình kinh doanh mới và nhanh chóng xây dựng thành một tổ
chức/doanh nghiệp đạt quy mô, đồng thời có khả năng lặp lại hay nhân rộng tại
các thị trường khác nhau; và thường tận dụng công nghệ làm lợi thế cạnh tranh.
Tại Việt Nam, theo Luật Doanh Nghiệp Vừa và Nhỏ 2017, KNST
(startup) là quá trình khởi nghiệp dựa trên việc tạo ra hoặc ứng dụng kết quả
nghiên cứu, giải pháp kỹ thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng
7
suất, chất lượng, giá trị gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng
trưởng nhanh.[3]
Theo Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam, DNKNST là một cộng đồng đặc biệt,
“tính chất tạo ra những sản phẩm mới, phân khúc khách hàng mới bằng những
công nghệ mới và ý tưởng mới chưa từng có, cách tiếp cận thị trường mới,
thường là liên quan đến công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông tin và vì qua
mạng nên không có tính biên giới”.[4]
Chủ tịch HĐQT của FPT - ông Trương Gia Bình cho rằng: “nói đến
startup phải nói đến đỉnh cao của khoa học công nghệ, nói đến điều thế giới
chưa từng làm” và không tính đến các doanh nghiệp mở quán cà phê hay quán
phở. DNKNST là quá trình khởi nghiệp dựa trên các giải pháp kỹ thuật, công
nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị gia tăng của
sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh.[5]
Một cách hiểu tương tự, bà Trương Lý Hoàng Phi- Giám đốc điều hành
Trung tâm Hỗ trợ thanh niên khởi nghiệp TPHCM cho rằng DNKNST phải bảo
đảm được hai yếu tố là “start” và “up”. “Start” có nghĩa là bạn bắt đầu với một
ý tưởng mới, hoặc nếu ý tưởng đó không mới thì cách làm phải đột phá và
thường thì gắn với ứng dụng công nghệ. Còn “up” liên quan đến khả năng
thương mại hóa và quy mô của thị trường, nghĩa là ý tưởng đó phải có khả năng
được triển khai trong thực tế, có khách hàng hoặc khách hàng tiềm năng, đồng
thời phải có khả năng mở rộng được để “up” trong thời gian càng nhanh càng
tốt.[6]
DNKNST phải dựa trên một công nghệ mới, hoặc tạo ra hình thức kinh
doanh mới, hoặc xây dựng một phân khúc thị trường mới. Tức là các DNKNST
phải có gì đó khác biệt không chỉ với các DN khác ở trong nước, với tất cả các
công ty trước đây và cả với các DN khác trên thế giới. Vì đặc điểm đó nên DN
khởi nghiệp sáng tạo nhanh chóng thu hút được đầu tư trong và ngoài nước để
8
phát triển nhanh, ví dụ như Facebook, Google, thế nên chỉ trong 2-3 năm đã
phát triển để trở thành các tập đoàn lớn.
Tổng quát lại, có thể hiểu DNKNST (Startup) là những công ty đang
trong giai đoạn bắt đầu kinh doanh nói chung (Startup company), gắn với những
đỉnh cao của khoa học công nghệ, nói đến những điều thế giới chưa từng làm.
Doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là một tổ chức được thiết kế nhằm cung cấp
sản phẩm và dịch vụ trong những điều kiện không chắc chắn nhất và có cơ hội
tăng trưởng nhanh nhất, xây dựng một phân khúc thị trường mới, tạo ra sự khác
biệt không chỉ ở trong nước mà với tất cả công ty trên thế giới.
Chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo là tổng thể các quan
điểm, tư tưởng, các giải pháp và công cụ mà nhà nước sử dụng nhằm khuyên
khích, thúc đẩy sự phát triển của các doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo, góp
phần phát huy, nâng cao hiệu quả và khuyến khích cho hệ thống các doanh
nghiệp này phát triển mạnh mẽ, phục vụ cho sự phát triển kinh tế, xã hội của đất
nước.
Thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi sáng tạo là quá trình
chuyển hóa các quan điểm, tư tưởng, các giải pháp của nhà nước thành những
hành động cụ thể nhằm thực hiện tốt những chính sách mà nhà nước ban hành
để hỗ trợ, phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo.
1.1.2. Đặc điểm của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
DNKNST có những đặc điểm riêng khác với các doanh nghiệp thông
thường. Các đặc điểm này được thể hiện bao gồm:
1.1.2.1. Đột phá và sáng tạo
Đột phá và sáng tạo là một xu hướng tất yếu trong hoạt động kinh doanh
trong thời đại 4.0. Giá trị của trí tuệ, sáng tạo và vô cùng to lớn, góp phần tạo
sự đột phá và quyết định khả năng cạnh tranh của DNKNST trong điều kiện
tiền vốn, máy móc hay cơ bắp là hữu hạn. 9
Tăng trưởng cao dựa vào sáng tạo và tiềm năng của DNKNST, với những
ý tưởng kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo. Dựa vào những ý tưởng
kinh doanh mang tính đột phá và sáng tạo dựa trên những giả thuyết không chắc
chắn, nhưng đã rõ nhu cầu của thị trường và nếu việc hoạt động như dự định,
sản phẩm hoặc dịch vụ có thể thu hút nhiều khách hàng tiềm năng đem lại một
lực đẩy mạnh mẽ cho DNKNST.
Đối với DNKNST, tính đột phá là điều bắt buộc. DNKNST có thể tạo ra
một điều gì đấy chưa hề có trên thị trường hoặc tạo ra một giá trị tốt hơn so với
những thứ đang có sẵn. Ví dụ, DNKNST có thể tạo ra một phân khúc mới trong
sản xuất (như thiết bị thông minh đo lường sức khoẻ cá nhân), một mô hình
kinh doanh hoàn toàn mới (như AirBnb), hoặc một loại công nghệ độc đáo,
chưa hề thấy (như công nghệ in 3D).
Công nghệ thường là đặc tính tiêu biểu của sản phẩm từ một DNKNST.
Đây là yếu tố quyết định, là mục tiêu kiên quyết theo đuổi của các DNKNST.
Dù vậy, ngay cả khi sản phẩm không dựa nhiều vào công nghệ, thì DNKNST
cũng cần áp dụng công nghệ để đạt được mục tiêu kinh doanh cũng như tham
vọng tăng trưởng.
1.1.2.2. Tiềm năng tăng trưởng và lợi nhuận lớn
Khác với doanh nghiệp truyền thống đề cao việc tạo ra lợi nhuận và một
khi đạt được lợi nhuận mới nghĩ đến việc mở rộng doanh nghiệp. DNKNST sẽ
đam mê tăng trưởng công ty càng nhanh càng tốt, và tạo ra một mô hình kinh
doanh có tính tăng trưởng. DNKNST sẽ muốn nhân bản mô hình kinh doanh
thành công của mình ra khắp thế giới.
DNKNST xem mình là người đi khai phá thị trường, họ tạo ra ảnh hưởng
cực lớn. Một DNKNST sẽ không đặt ra giới hạn cho sự tăng trưởng, và họ có
tham vọng phát triển đến mức lớn nhất có thể. DNKNST xây dựng mô hình kinh
doanh để sản phẩm hoặc dịch vụ của họ có thể cung cấp ở nhiều thị trường khác
10
nhau và có thể tùy chỉnh trong mô hình chuyển đổi khách hàng (ví dụ: hỗ trợ
khách hàng, ngôn ngữ, hậu cần, hoạt động tiếp thị), nhưng nhìn chung, thị trường
toàn cầu có thể được giải quyết đồng thời với cùng một sản phẩm hoặc dịch vụ
cốt lõi.
Nếu bạn chỉ muốn doanh nghiệp ổn định để cho bạn có thể sống còn thì
bạn đang nhắm tới doanh nghiệp nhỏ chứ không phải là DNKNST. Nếu bạn khởi
đầu một nhà hàng, bạn chỉ phải cạnh tranh với các nhà hàng địa phương khác.
Nếu bạn khởi đầu doanh nghiệp động cơ tìm kiếm thì bạn phải cạnh tranh với
toàn thế giới. Là một DNKNST, bạn phải đi cùng cái gì đó mà có thể được
chuyển giao cho thị trường lớn để cho bạn có được nhiều khách hàng.
Để thịnh vượng và tăng trưởng, nhà doanh nghiệp phải có viễn kiến về
tương lai. Điều đó nghĩa là DNKNST phải có khả năng cung cấp giá trị cho thị
trường lớn; nó phải làm cái gì đó mà nhiều khách hàng muốn; nó phải có khả
năng đạt tới khách hàng nhanh chóng nhất có thể được; và nó phải sẵn lòng
thay đổi khi thị trường hay công nghệ thay đổi. Chẳng hạn, nếu bạn tạo ra một
sản phẩm để được dùng chỉ trong thị trường địa phương, bạn có thể đạt tới một
số giới hạn người dùng nhưng nếu bạn tạo ra nó cho thị trường toàn cầu thì bạn
đang nghĩ về tăng trưởng nhanh. Nếu bạn muốn khởi đầu một công ty, tại sao
không bắt đầu với cái gì đó mà có tiềm năng nhất?
Đối với các doanh nghiệp nhỏ và vừa truyền thống người sáng lập sẽ
muốn có doanh thu từ ngay ngày đầu tiên doanh nghiệp đi vào hoạt động, và
tốt hơn nữa là có luôn lợi nhuận. Giá trị lợi nhuận sẽ phụ thuộc vào số tiền mà
bản thân người sáng lập muốn kiếm được (cho chính bản thân họ), cũng như sẽ
phụ thuộc vào kế hoạch mở rộng doanh nghiệp. Còn đối với các DNKNST có
thể cần đến nhiều tháng, thậm chí nhiều năm để có được doanh thu (dù rất nhỏ).
DNKNST sẽ tập trung vào phát triển một sản phẩm thật sự hữu ích cho người
11
dùng, nhằm có được một lượng khách hàng đông đảo. Nếu kế hoạch thành
công, lợi nhuận tài chính có thể rất khổng lồ.
1.1.2.3. Khởi đầu khó khăn và rủi ro cao
So với doanh nghiệp truyền thống DNKNST có nhiều rủi ro hơn và cũng
có nhiều lợi thế hơn. DNKNST thường làm việc theo nhóm để xây dựng doanh
nghiệp dựa trên công nghệ, quy trình, quy mô kinh doanh, hoặc ý tưởng mới
tạo ra cho họ một lợi thế cạnh tranh đáng kể so với các doanh nghiệp truyền
thống.
Vốn của DNKNST bắt đầu từ chính tiền túi của người sáng lập, hoặc
đóng góp từ gia đình và bạn bè, một số trường hợp thì gọi vốn từ cộng đồng
(crowdfunding). Tuy nhiên, phần lớn các DNKNST đều phải gọn vốn từ các
Nhà đầu tư thiên thần (angel investors) và Quỹ đầu tư mạo hiểm (Venture
Capital).
Đối với các doanh nghiệp nhỏ 32% sẽ thất bại trong ba năm đầu. Tuy
nhiên, tỉ lệ này vẫn còn nhiều tích cực so với DNKNST. Đối với các DNKNST
thì 92% các doanh nghiệp này sẽ chết trong ba năm đầu. Trong khi có gần 10%
công ty khởi nghiệp thành công, khoảng 20 - 30% sớm thất bại thì số còn lại -
là các công ty xác sống chỉ tạo ra doanh thu vừa đủ bù cho chi phí hoạt động,
số tiền này giảm dần, công ty tiếp tục sống ì ạch trong một khoảng thời gian
dài và gần như không thể duy trì được sản phẩm.[7]
DNKNST có ý tưởng khởi nghiệp độc đáo hoặc khác biệt/tốt hơn so với
các giải pháp cạnh tranh trên thị trường. Điều này làm cho việc thực hiện (làm
cho khách hàng thích sản phẩm hoặc dịch vụ của bạn hơn là sản phẩm hoặc
dịch vụ của đối thủ cạnh tranh) không chắc chắn và đương nhiên là khá rủi ro.
Trong thực tế, có một số DNKNST theo dõi những câu chuyện thành công của
các doanh nghiệp khác (sử dụng cùng một mô hình kinh doanh, tham gia vào
cùng một thị trường, có các sản phẩm hoặc dịch vụ tương tự). Trong trường
12
hợp này, một số rủi ro liên quan đến việc bán hàng và tiếp thị cũng có thể giảm
xuống.
1.1.2.4. Thiếu nguồn lực
Các DNKNST luôn thiếu nguồn lực (chủ yếu là thời gian và tiền bạc) vì
thị trường mục tiêu của họ lớn và việc phát triển sản phẩm đòi hỏi nhiều thử
nghiệm và tái triển khai. Điều quan trọng là tìm ra sự cân bằng phù hợp giữa
sự phát triển và việc thực hiện. Mục tiêu cuối cùng của bạn là đạt đến giai đoạn
có doanh thu nhanh chóng và tiết kiệm chi phí nhất có thể.
1.1.3. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo đối với phát triển
kinh tế
1.1.3.1. Đóng góp vào sự tăng trưởng kinh tế
Các DNKNST sẽ là động lực của mọi nền kinh tế trong giai đoạn tới. Các
DNKNST ngày càng đóng góp nhiều hơn vào tổng GDP do số lượng ngày càng
nhiều và phân bổ ở hầu hết các ngành, lĩnh vực và địa phương. Ngoài ra, tốc độ
tăng trưởng của các DNKNST cao hơn rất nhiều so với các khu vực doanh nghiệp
khác, tại một số nước DNKNST được coi là xương sống của cả nền kinh tế.
DNKNST có đóng góp đáng kể vào tăng trưởng kinh tế. DNKNST có
khả năng giữ vững nhịp độ tăng trưởng kinh tế và phát triển dù khi nền kinh tế
rơi vào khủng hoảng. Sự đóng góp này của các DNKNST là đáng kể, và các
nhà nghiên cứu kinh tế cũng như các nhà quản lý đều thống nhất cần phải trợ
giúp khu vực DNKNST là nền tảng để phát triển kinh tế và ổn định xã hội trong
thời đại công nghiệp 4.0. Với sự tiếp sức của cuộc cách mạng công nghệ 4.0 và
thương mại điện tử thì các DNKNST sẽ là khu vực cạnh tranh lớn nhất, sáng
tạo lớn nhất vì nó huy động được toàn bộ nguồn lực cho xã hội và cho phát
triển.
DNKNST khi thành công sẽ phát triển nhanh chóng trở thành các doanh
nghiệp lớn đem lại nguồn lợi nhuận khổng lồ. Với những doanh nghiệp thành
13
công, quy mô của doanh nghiệp sẽ được mở rộng rất nhiều các DNKNST thành
công này sẽ dần trở thành các DN lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia đóng góp
vào tăng trưởng của nền kinh tế.
Theo Mark Weinberger, Chủ tịch kiêm Tổng Giám đốc điều hành EY
toàn cầu cho biết: “Nền kinh tế toàn cầu đang trong quá trình dần phục hồi với
một tốc độ tăng trưởng tuy còn thấp. Có một cơ hội đẩy mạnh tăng trưởng thường
bị bỏ qua, đó là tăng cường hỗ trợ và thúc đẩy các DNKNST. DNKNST đang tiếp
tục thách thức xu hướng của thế giới trong khả năng kinh tế của họ và có kế hoạch
mở rộng và gia tăng nhân lực. Chính phủ các nước và các doanh nghiệp cần bắt
tay với các DNKNST để cùng tạo dựng được một môi trường tương tác hướng
đến thành công”.[8] Các DNKNST có niềm tin và thái độ rất tích cực đối với nền
kinh tế và khuynh hướng phát triển của nền kinh tế. Như vậy, DNKNST đang là
xu hướng phát triển kinh tế của thế giới, đồng thời DNKNST cũng là hạt nhân để
phục hồi, phát triển kinh tế thế giới vốn được đánh giá là phát triển chậm và già
cỗi trong thời đại 4.0.
1.1.3.2. Giải quyết lượng lớn việc làm
Đặc điểm chung của các DNKNST là sử dụng ít lao động, tuy nhiên với
số lượng DNKN lớn sẽ giải quyết được số lượng lớn lao động đặc biệt là nguồn
lao động trẻ có trình độ. Khởi nghiệp hoặc làm việc trong các công ty khởi nghiệp
ngay khi còn trên ghế nhà trường sẽ giúp sinh viên có kinh nghiệm về khởi
nghiệp để sau khi ra trường mỗi sinh viên là một DNKNST. Điển hình như đất
nước Isreal 95% sinh viên trước khi ra trường đều thực hiện tối thiểu đều mở cho
mình hoặc tham gia một tổ chức doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo. Tại Israel,
99% số sinh viên khởi nghiệp thất bại ngay từ trên ghế nhà trường. Như vậy mỗi
sinh viên đều tích lũy cho mình những kinh nhiệm về khởi nghiệp và tự tạo công
việc cho chính mình không lo là gánh nặng cho xã hội khi thất nghiệp.[9]
14
Rõ ràng, các DNKNST không chỉ mang lại lợi ích cho bản thân họ, vì
vậy chính phủ các nước, cần phải hỗ trợ DNKNST để xây dựng một môi trường
khuyến khích, hỗ trợ và thúc đẩy DNKNST, những công ty sử dụng lao động
tạo ra việc làm trong tương lai.
Theo khảo sát của EY toàn cầu về Tạo việc làm và tinh thần doanh nhân
trẻ trong năm 2017 trên toàn thế giới ước tính có khoảng 75 triệu thanh niên
thất nghiệp.[9] Chúng ta cần phải chú ý, quan tâm đến những tham vọng và sự
lạc quan của giới trẻ hiện nay, nếu không, chúng ta sẽ có nguy cơ lãng phí năng
lực của một thế hệ trẻ và chịu thiệt hại lâu dài về con người và kinh tế. Một nhu
cầu cấp thiết đặt ra là các nhà lãnh đạo doanh nghiệp, các DNKNST và các nhà
chính sách cần giúp các bạn trẻ phát huy tối đa tiềm năng của họ thông qua việc
tài trợ, cấp vốn hoặc tư vấn, cố vấn, tạo cơ hội việc làm và đào tạo thông qua
công việc thực tế. Khu vực DNKNST huy động được các nguồn lực trong dân
cư xã hội.
1.1.3.3. Huy động được các nguồn lực xã hội
Hiện nay rất nhiều DNKNST đang thiếu vốn trầm trọng thì nguồn vốn nhà
rỗi trong dân cư còn nhiều nhưng không huy động được. Khi DNKNST tiếp xúc
trực tiếp với người dân và huy động được nguồn vốn để kinh doanh. Tận dụng
nguồn lực vốn từ những người thân trong gia đình là điều mà các DNKNST làm
đầu tiên và rất phù hợp cho các DNKNST mới khởi đầu. Tuy là hình thức tự phát
nhưng cũng đã tận dụng tốt nguồn lực nhàn rỗi trong xã hội.
Lực lượng DNKHST giúp huy động lượng lớn vốn tồn tại trong dân cư.
Nếu có cơ chế phù hợp thì các nguồn lực của nền kinh tế sẽ được khai thác để
tạo ra của cải vật chất và đem lại lợi nhuận cho cá nhân, gia đình, doanh nghiệp
và xã hội. Theo Adam Smiths, sự giàu có của các quốc gia nhờ vào sự phát
triển của doanh nghiệp, trong quá trình tìm kiếm lợi nhuận, doanh nghiệp đã
làm giàu cho chính bản thân doanh nghiệp, mọi thành viên tham gia và cả cho
15
quốc gia qua đóng góp thuế.[10] Từ đó đến nay, các nhà quản lý và các nhà
kinh tế đều thừa nhận và nghiên cứu vai trò của doanh nghiệp. Với việc đẩy
mạnh khởi nghiệp tại các quốc gia thì vai trò của khu vực này thật sự lớn lao
đối với mỗi quốc gia đặc biệt là đối với các nền kinh tế mới nổi và đang phát
triển – những quốc gia có lượng vốn trong dân cực lớn.
1.1.3.4. Góp phần làm năng động nền kinh tế trong cơ chế thị trường
Tính linh hoạt của của các DNKNST đã tạo ra tính năng động của nền
kinh tế. Việc chuyển đổi nhanh chóng nhằm lấp các khoảng trống của thị trường
đã nói lên vai trò ổn định kinh tế của các DNKNST. Các DNKNST đem lại cho
nền kinh tế một hình ảnh mới về sự phát triển năng động, trở thành động lực
mới của nền kinh tế.
Sự ra đời của DNKNST đã làm tăng tính cạnh tranh của nền kinh tế, làm
giảm sự độc quyền buộc các doanh nghiệp phải đổi mới công nghệ tăng tính
cạnh tranh. Các doanh nghiệp phải liên tục đổi mới để tồn tại và phát triển. Với
sự linh hoạt của mình, các DNKNST sẽ tạo ra sức hút cạnh tranh, thậm chí cạnh
tranh với các công ty lớn, các tập đoàn xuyên quốc gia. Đồng thời DNKNST
còn đóng vai trò thúc đẩy quá trình chuyên môn hóa, phân công lao động trong
sản xuất.
Với sự linh hoạt của mình, các DNKNST là người đi tiên phong trong
việc áp dụng công nghệ và các phát minh mới cũng như các sáng kiến về kĩ
thuật. Do áp lực của cạnh tranh nên các DNKNST phải nghiên cứu cải tiến công
nghệ và đưa ra công nghệ mới với sự khác biệt để có thể cạnh tranh thành công.
Đây là những tiền đề đầu tiên làm thay đổi về công nghệ tạo ra nhiều đổi mới
trong nền kinh tế.
DNKNST giúp trẻ hóa nền kinh tế già cỗi, bị chi phối bởi các tập đoàn
lớn xuyên quốc tế. Thông qua các DNKNST Chính phủ các nước thổi một làn
16
gió mới, tăng cường đổi mới sáng tạo, tạo ra nhiều công ăn việc làm mới, nhiều
lĩnh vực ngành nghề mới.
1.1.3.5. Góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
Các DNKNST thường chọn các ngách của thị trường, nên khả năng bao
phủ rất lớn. Vì qui mô và vốn nhỏ nên các DNKN thường chọn ngành về công
nghệ hoặc dịch vụ, thương mại. Cách lựa chọn như trên sẽ làm dịch chuyển
ngành dịch vụ so với ngành sản xuất, chế tạo và nông lâm ngư nghiệp. Ngoài ra,
các DNKNST tạo điều kiện để chuyển đổi kinh tế nông thôn và tạo điều kiện để
phụ nữ tham gia quản lý thông qua các dự án về nông nghiệp công nghệ cao. Ở
nhiều quốc gia, những DNKNST làm về công nghệ hỗ trợ sản xuất nông nghiệp
rất phát triển, chiếm một tỉ lệ cao trong các DNKNST. Đây là điều kiện để kinh
tế nông nghiệp, nông thôn có cơ hội nhảy vọt và là điều kiện để chuyển dịch kinh
tế nông thôn góp phần chuyển dịch nền kinh tế quốc gia.
Việc nhiều DNKNST được thành lập ở các vùng, các khu vực khác nhau
đặc biệt là ở các vùng nông thôn sẽ làm giảm tỷ trọng ngành nông nghiệp, tăng
tỷ trọng các ngành công nghiệp và dịch vụ. Điều này sẽ giúp cho việc chuyển
dịch cơ cấu của toàn bộ nền kinh tế theo hướng giảm tỷ trọng ngành nông
nghiệp, tăng tỷ trọng ngành công nghiệp và dịch vụ.
1.1.3.6. Ươm mầm các tài năng kinh doanh
Các DNKNST không chỉ có động lực từ những lợi ích kinh tế mà bên
cạnh những mục đích về doanh thu và lợi nhuận, việc để lại lợi ích cho xã hội
cũng là yếu tố thúc đẩy hàng đầu để phát triển DNKNST. Những yếu tố thúc
đẩy khác bao gồm việc đóng góp tích cực cho cộng đồng và truyền cảm hứng
và lôi cuốn người khác đi theo những khát vọng của họ. DNKNST cũng thể
hiện sự cam kết mạnh mẽ trong việc hỗ trợ và phát triển những người trẻ như
tạo ra những cơ hội thực tập và học nghề. Các DNKNST hầu như đều đang tạo
17
ra những cơ hội thực tập và học việc nhiều gấp 2 lần các doanh nhân lập nghiệp
khác trên toàn thế giới.[11]
Hiện nay, có rất nhiều bạn trẻ đang có ý định khởi nghiệp, họ có kế hoạch
khởi nghiệp và điều hành nghiệp kinh doanh riêng vào một thời điểm nào đó
phù hợp trong sự nghiệp của mình. Đáng chú ý, các bạn trẻ có muốn khởi
nghiệp đánh giá rất cao sự hướng dẫn và hỗ trợ của các doanh nhân, các
DNKNST đã thành công. Các bạn trẻ cho rằng một cơ hội thực tập thực tế có
sự hướng dẫn của các doanh nhân hàng đầu sẽ giúp những bạn trẻ thực hiện và
đạt được mục tiêu. Điều này cho thấy sự ảnh hưởng cả về tinh thần khởi nghiệp
và vai trò hỗ trợ của các DNKNST đối với các bạn trẻ là rất lớn.
Nhiều doanh nghiệp lớn đều xuất phát từ những doanh nghiệp khởi
nghiệp có quy mô cực nhỏ. Tuy nhiên, có hàng ngàn doanh nghiệp nhỏ ra đời
thì chỉ có ít doanh nghiệp phát triển thành những doanh nghiệp cực lớn như
Microsoft hay Google, Facebook, Apple. Chỉ những điều đó thôi cũng giúp cho
phong trào khởi nghiệp phát triển, và có thể nói DNKNST là nơi khởi phát tinh
thần doanh nghiệp, nơi đào tạo và cho ra đời những doanh nghiệp và doanh
nhân đem lại sự thay đổi sâu sắc đối với nền kinh tế. Nhiều nhà nghiên cứu cho
rằng vì hiệu quả theo quy mô không tồn tại, nên các DNKNST không phải là
động lực của nền kinh tế, nhưng nếu các DNKN là nơi để nhà doanh nghiệp
nhỏ làm quen với môi trường kinh doanh, dám nghĩ lớn và chịu nghiên cứu học
hỏi thì DNKNST sẽ trở thành cái nôi để ươm mầm cho các doanh nghiệp lớn
và tạo ra những doanh nhân thành đạt. Sự đóng góp đó của các DNKNST là
điều không thể phủ nhận.
18
1.2. Cơ sở lý luận về chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng
tạo
1.2.1. Sự cần thiết thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
DN khởi nghiệp sáng tạo cần được hỗ trợ vì những lợi ích mà DNKNST
mang lại cho nền kinh tế và vì những đặc điểm vốn có của DNKNST. Cụ thể
như sau:
- Đặc điểm nổi bật của DNKNST là tính sáng tạo trong mô hình kinh
doanh. Nhờ tính sáng tạo, DNKNST tạo ra những giá trị mới cho xã hội, tạo ra
nhiều giá trị gia tăng cho xã hội, có khả năng tăng trưởng nhanh và mở ra một
mô hình kinh doanh mới cho nền kinh tế. Học giả John R. Dearie (2017) đã chỉ
ra rằng, nhờ tính sáng tạo, các DNKNST đã có đóng góp rất lớn đến sự tăng
trưởng kinh tế Mỹ những năm 1950. Tính sáng tạo này rất cần được khuyến
khích để mở ra những hướng phát triển mới cho nền kinh tế.[12]
- Như đã phân tích, DNKNST luôn gắn với công nghệ, hoặc là sản phẩm
công nghệ, hoặc là sử dụng phổ biến công nghệ trong hoạt động sản xuất, kinh
doanh. Trong bối cảnh xã hội loài người đang bước vào cuộc Cách mạng công
nghiệp lần thứ tư, việc thúc đẩy phát triển những DN gắn với công nghệ là một
đòi hỏi tất yếu.
- Mặc dù có tiềm năng đóng góp lớn cho sự phát triển kinh tế, song lại
có những trở ngại lớn cho sự phát triển của các DNKNST. Trở ngại đầu tiên,
cũng giống như mọi sự bắt đầu khác, là vốn đầu tư. Trong mọi hoạt động kinh
doanh, đều cần đến vốn đầu tư, song DNKNST cần một lượng vốn lớn do đặc
điểm kinh doanh gắn với công nghệ hoặc mô hình kinh doanh mới. Trở ngại
thứ hai, DNKNST được thành lập từ một ý tưởng kinh doanh sáng tạo – một ý
tưởng mới chưa từng có tiền lệ – bởi vậy, nó mới ở dạng tiềm năng, cần đầu tư
thêm nhiều chất xám và công sức để hoàn thiện và hiện thực hóa ý tưởng đó.
19
Tiếp đó, cũng do tính mới, tính sáng tạo nên DNKNST thường đối mặt với
những rủi ro tiềm ẩn, cần có sự hỗ trợ để vượt qua những rủi ro này.
DNKNST không thể đi một mình. Phát triển một hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo cần ba trụ cột chính. Thứ nhất là nâng cao năng lực, nhận thức,
đặc biệt từ phía các địa phương và các trường đại học. Thứ hai, cần nâng cao
truyền thông để tạo ra văn hóa khởi nghiệp hỗ trợ khởi nghiệp, có nghĩa dám chịu,
dám làm, dám dứng lên và bắt đầu lại sau thất bại. Thứ ba là DNKNST không nên
một mình và phải liên kết. Trong hệ sinh thái thì Viện nghiên cứu, Trường đại học
và tổ chức cá nhân, doanh nhân là như nhau. Vì vậy, cần học hỏi lẫn nhau về các
bước đi phù hợp...
Ngoài ra, bên cạnh con người, các DNKNST cần có nguồn lực về tài
chính, dù ít hay nhiều vẫn nên có “bà đỡ” ban đầu từ phía chính sách của địa
phương để kích thích khu vực tư nhân tham gia với nhà nước hỗ trợ cho khởi
nghiệp.
1.2.2. Mục đích và yêu cầu của việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Không phải mọi DNKNST đều được hỗ trợ. Đồng thời, hỗ trợ không có
nghĩa Nhà nước đem cho doanh nghiệp bao nhiêu tiền, mà là tạo cơ hội, tạo
thuận lợi cho doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh, hỗ trợ một phần chi phí khi
thực hiện hoạt động cụ thể nào đó. Mức độ hỗ trợ cũng khác nhau, trong đó,
doanh nghiệp đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp tham gia cụm liên kết ngành,
chuỗi giá trị được hỗ trợ nhiều nhất. Khi khởi nghiệp, với nguồn vốn hạn chế,
khả năng kết nối đối tác chưa tốt, trong khi có rất nhiều thứ cần phải đầu tư nên
việc tận dụng các hỗ trợ từ chính sách sẽ giúp công ty thuận lợi hơn trong những
ngày đầu hoạt động.
Các chính phủ đang có xu hướng khuyến khích các doanh nghiệp trong
nước đẩy mạnh sáng tạo, tiếp cận với thế giới công nghệ, vươn mình đuổi theo
công cuộc cách mạng công nghệ 4.0 hiện nay. Với hỗ trợ từ phía chính phủ và
20
ngay chính bản thân mỗi doanh nghiệp cần nắm bắt cơ hội, mạnh dạn dấn thân
và khởi nghiệp thực hiện ước mơ của mình.
1.2.3. Các yếu tố tác động đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh
nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST là quá trình phức tạp,
đòi hỏi chịu ảnh hưởng của rất nhiều yếu tố như:
1.2.3.1. Yếu tố môi trường chính trị
Những biến đổi trong hoàn cảnh chính trị có tác động đến việc thực
hiện chính sách hỗ trợ DNKNST. Thành phần trước tiên và cũng quan trọng
nhất của một hệ sinh thái hỗ trợ DNNKNST đó là chính sách của chính phủ.
Điều này không chỉ liên quan đến các lĩnh vực quan hệ trực tiếp với doanh
nghiệp khởi nghiệp nhỏ hay tinh thần khởi nghiệp, mà đối với một phạm vi
rộng các chính sách liên quan đến hệ thống thuế, các dịch vụ tài chính, viễn
thông, giao thông, thị trường lao động, hỗ trợ công nghiệp, giáo dục và đào
tạo, cơ sở hạ tầng và y tế. Phần lớn tại các nước môi trường chính trị các tác
động đến việc ban hành và thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST của quốc
gia đó bằng sự công nhận, hỗ trợ DNKNST.
1.2.3.2. Yếu tố môi trường kinh tế
Những thay đổi về điều kiện kinh tế có tác động to lớn đến việc thực hiện
chính sách hỗ trợ DNKNST. Một dự án hỗ trợ DNKNST phải dựa vào những
điều kiện kinh tế. Nhà nước có ngân sách dồi dào ưu tiên cho việc thực hiện
chính sách hay Nhà nước chỉ hỗ trợ hạn hẹp cho DN. Chẳng hạn một ưu đãi về
thuế thu nhập cho DNKNST. Thực tế, giảm thuế Thu nhập doanh nghiệp
(TNDN) cho DNKNST không phải là phương pháp hữu hiệu nhất giúp các DN
thoát khỏi tình cảnh bấp bênh, khó khăn lúc mới bắt đầu, nhưng đây lại là một
giải pháp tạo động lực, tạo niềm tin cho DN, đồng thời đây cũng chính là trong
số những giải pháp nuôi dưỡng nguồn thu. Việc nhà nước có những chính sách
giảm thuế sẽ giúp doanh nghiệp mới khởi nghiệp rất lớn vì có thể tiết kiệm được
21
chi phí và chuyển dòng vốn sang phục vụ cho công tác đầu tư, đồng thời giảm chi
phí trả lãi tiền vay, từ đó giảm giá thành, chi phí sản xuất kinh doanh, góp phần
nâng cao năng lực cạnh tranh, thu hút đầu tư.
Trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế ngày càng sâu rộng thì những
thay đổi của thế giới (bao gồm cả thay đổi chính sách của nhà nước và các tổ
chức kinh tế thế giới, các tổ chức khu vực) có thể ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu
cực tới quá trình thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST thông qua ảnh hưởng
của chúng đến môi trường các nước, đặc biệt đối với những DNKNST sự thay
đổi chính sách của các nhà đầu tư, các quỹ đầu tư thiên thần trực tiếp ảnh hưởng
đến việc thực hiện chính sách. Tuy nhiên, tùy thuộc vào từng thời điểm cụ thể
mà mức độ ảnh hưởng của môi trường kinh tế quốc tế đến chính sách hỗ trợ
DNKNST khác nhau.
Việc thực hiện tốt được chính sách hỗ trợ DNKNST hay không phụ thuộc
rất lớn vào yếu tố môi trường kinh tế của Nhà nước và môi trường kinh tế quốc
tế.
1.2.3.3. Yếu tố môi trường xã hội
Phong trào khởi nghiệp ngày càng sôi nổi và bắt đầu phát triển hệ sinh thái
khởi nghiệp. Đây là điểm thuận lợi cho chính sách hỗ trợ DNKNST nhanh chóng
đi vào đời sống, tạo làn sóng khởi nghiệp mạnh mẽ. Nếu phong trào này thành
công, doanh nghiệp khởi nghiệp chính là những đối tượng tạo ra nhiều việc làm,
mang lại giá trị gia tăng vượt bậc cho nền kinh tế của mỗi quốc gia.
1.2.3.4. Yếu tố môi trường công nghệ
Khởi nghiệp sáng tạo, là quá trình khởi nghiệp dựa trên các giải pháp kỹ
thuật, công nghệ, giải pháp quản lý để nâng cao năng suất, chất lượng, giá trị
gia tăng của sản phẩm, hàng hóa và có khả năng tăng trưởng nhanh. Yếu tố cơ
sở hạ tầng công nghệ là nền tảng để các DNKNST thành công.
Các vườn ươm doanh nghiệp công nghệ cao là môi trường để thực hiện
chính sách hỗ trợ DNKNST. Trong bối cảnh cuộc cách mạng công nghiệp 4.0
22
đang bùng nổ mạnh mẽ công nghệ chính là phần hồn của doanh nghiệp nói
chúng và DNKNST nói riêng. Công nghệ sẽ là yếu tố để thực hiện tốt chính
sách và làm doanh nghiệp bứt phá vươn tầm thế giới.
1.2.3.5. Chủ thể chịu trách nhiệm thực hiện chính sách
Tổ chức bộ máy hành chính chịu trách nhiệm thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST có ảnh hưởng trực tiếp đến việc thực hiện chính sách. Việc tổ chức
thực hiện chính sách DNKNST đòi hỏi sự chung tay đồng bộ của các ngành,
lĩnh vực ở các cấp. Các mối quan hệ liên chính quyền như được thể hiện ở các
chương trình mục tiêu quốc gia, hoặc các mối quan hệ giữa các địa phương như
các chương trình của từng tỉnh, vùng có thể ảnh hưởng quan trọng đến việc
thực thi chính sách. Vì vậy nếu trong nội bộ chủ thể thực hiện chính sách có sự
chồng chéo, mâu thuẫn sẽ ảnh hưởng đến việc thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST.
1.2.4. Các đặc điểm nội dung của chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
Các quốc gia thường đưa ra các chương trình hỗ trợ, khuyến khích người
dân tham gia khởi nghiệp thông qua các chính sách thúc đẩy thành lập doanh
nghiệp, trợ giúp các DNKNST và các đề án hỗ trợ cộng đồng khởi nghiệp với
nhiều ưu đãi…nhằm tạo lập môi trường thuận lợi để thúc đẩy, hỗ trợ quá trình
hình thành và phát triển loại hình doanh nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh
dựa trên khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới.
1.2.4.1. Xây dựng chiến lược khởi nghiệp quốc gia
Chiến lược khởi nghiệp quốc gia là một chương trình được lên kế hoạch
thực hiện trong chuỗi giá trị giúp DNKNST hoạt động tốt hơn, hiệu quả hơn.
Tùy vào thế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn cho mình những
lĩnh vực ưu tiên phù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp khởi
nghiệp hoạt động hiệu quả.
23
1.2.4.2. Tối ưu hóa môi trường pháp lý
Môi trường pháp lý cần hướng đến nâng cao tinh thần khởi nghiệp của
các cá nhân trong xã hội nhằm thực hiện những ý tưởng kinh doanh mới trên
cơ sở chấp nhận rủi ro có thể tính toán được. Nội dung chính sách đưa ra các
giải pháp tối ưu hóa môi trường pháp lý về khởi nghiệp của một quốc gia, cụ
thể: (i) Rà soát các yêu cầu pháp lý khởi nghiệp; (ii) Giảm thiểu rào cản pháp
lý cho doanh nghiệp khởi nghiệp; (iii) Xây dựng niềm tin cho doanh nghiệp
khởi nghiệp về môi trường pháp lý; và (iv) Hướng dẫn các doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo.
1.2.4.3. Tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát triển các
kỹ năng
Trọng tâm của kỹ năng khởi nghiệp bao gồm kỹ năng mềm và các năng
lực chuyên môn cần có như kiến thức cơ bản về khởi nghiệp, kế hoạch kinh
doanh, năng lực tài chính và kỹ năng quản lý. Chính sách và các chương trình
giáo dục khởi nghiệp hiệu quả tập trung vào phát triển năng lực kinh doanh và
kỹ năng cần thiết trong các điều kiện công việc cụ thể nhằm nâng cao năng lực
khởi nghiệp và phát triển văn hóa khởi nghiệp trong xã hội.
1.2.4.4. Tạo điều kiện trao đổi và đổi mới công nghệ
Khởi nghiệp và công nghệ luôn hỗ trợ lẫn nhau. Tại các nước đang phát
triển, cả hai yếu tố này đều quan trọng tùy vào mức độ phát triển kinh tế, tỷ lệ
ứng dụng công nghệ và khả năng đổi mới của doanh nghiệp. Các quốc gia có
thể áp dụng các giải pháp như: (i) Hỗ trợ phát triển công nghệ thông tin và
truyền thông cho khu vực tư nhân; (ii) Tăng cường mạng lưới liên kết, cụm
công ty, cụm ngành nhằm phổ biến công nghệ và đổi mới; (iii) Xây dựng cầu
nối giữa cơ quan nhà nước, viện nghiên cứu, các trường đại học và khu vực tư
nhân; và (iv) Hỗ trợ khởi nghiệp công nghệ cao.
24
1.2.4.5. Hỗ trợ tiếp cận tài chính
Các giải pháp hỗ trợ khởi nghiệp tiếp cận tài chính như: (i) Tăng cường
tiếp cận với các dịch vụ tài chính; (ii) Đẩy mạnh tài trợ cho đổi mới công nghệ;
(iii) Nâng cao năng lực cho các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực tài chính để
phục vụ khởi nghiệp; và (iv) Cung cấp các chương trình đào tạo về tài chính
cho các doanh nghiệp khởi nghiệp.
1.2.4.6. Nâng cao nhận thức về khởi nghiệp và thiết lập các cụm liên
kết, cụm ngành công nghiệp, các hiệp hội hỗ trợ
Các quốc gia có thể áp dụng các giải pháp cụ thể như: (i) Nâng cao hiểu
biết cộng đồng về giá trị của khởi nghiệp và giải quyết những thành kiến tiêu
cực trong nhận thức xã hội, (ii) Nâng cao nhận thức cộng đồng về các cơ hội
khởi nghiệp; và (iii) Khuyến khích các sáng kiến trong khu vực tư nhân và tăng
cường mạng lưới giữa các doanh nghiệp khởi nghiệp.
25
Kết luận chương 1
Trong thời đại của nền cách mạng công nghiệp 4.0 đang diễn ra manh
mẽ, việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
mang tầm nhìn chiến lược đối với nền kinh tế của một quốc gia. Trong chương
1, luận văn trình bày những vấn cơ bản và khoa học có liên quan đến DNKNST
như đặc điểm, vai trò của DNKNST, và đặc biệt luận văn đưa ra những khác
biệt giữa DNKNST và DNVVN. Đồng thời trong chương 1 tác giả đưa ra cơ
sở lý luận về việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST cũng như nội dung của
chính sách. Qua tìm hiểu lý luận chung về thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST, tác giả thấy cần đẩy mạnh hơn nữa việc thực hiện chính sách hỗ trợ
DNKNST trên địa bàn cả nước theo hướng linh động, mạnh mẽ và quyết liệt
hơn nữa, và cần sự kết hợp giữa nhà nước và khu vực doanh nghiệp tư nhân,
nhằm hỗ trợ tốt hơn, làm bệ phóng tốt hơn cho các DNKNST vươn tầm thế
giới. Nhà nước cần xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp và vườn ươm các
DNKNST với mục tiêu thúc đẩy một quốc gia khởi nghiệp, mỗi một trường đại
học là một vườn ươm doanh nghiệp. Với tiềm năng hiện có, nếu có những bước
đi phù hợp để thực hiện tốt chính sách hỗ trợ DNKNST sẽ là bước đi có giá trị
đột phá cho nền kinh tế, hệ sinh thái khởi nghiệp nói riêng và nền kinh tế nói
chung sẽ tạo được những thành tích ấn tượng.
Những vấn đề lý luận trên đây là cơ sở cho việc đánh giá thực trạng, vai
trò của việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST. Từ đó đề ra phương hướng
và giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
tại Việt Nam hiện nay.
26
THỰC TRẠNG VIỆC THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ
TRỢ DOANH NGHIỆP KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO Ở VIỆT NAM
2.1. Thực trạng phát triển doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo của
Việt Nam hiện nay
Việt Nam có tiềm năng khởi nghiệp dồi dào từ một thế hệ trẻ sáng tạo có
quyết tâm khởi nghiệp cao, với văn hóa khởi nghiệp và tư duy chấp nhận thất
bại ngày càng được cải thiện. Hiện nay, hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo (ĐMST) đang phát triển khá mạnh mẽ. Điều đó thể hiện ở số lượng và chất
lượng ở các chủ thể thể trong hệ sinh thái khởi nghiệp.
Hoạt động khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam đã bắt đầu từ hơn 10 năm
trước với việc hình thành một số DNKNST trong lĩnh vực thương mại điện tử,
dạy học trực tuyến. Hơn 10 năm hình thành và phát triển của cộng đồng khởi
nghiệp sáng tạo, mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp đang hình thành và hoạt động
ngày càng hiệu quả, trong đó, nổi bật là vai trò của cố vấn khởi nghiệp vốn có
từ lâu ở các nước, nay dần hình thành một cách chuyên nghiệp ở Việt Nam.
Thêm vào đó, đã bắt đầu manh nha mạng lưới nhà đầu tư cho công ty khởi
nghiệp, bao gồm không chỉ các nhà đầu tư trong nước mà còn các nhà đầu tư
nước ngoài.
Đến nay hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo và các DNKNST của Việt
Nam hiện có thể xem là đã bao gồm đầy đủ các thành tố quan trọng (bao gồm
các DNKNST, nhà đầu tư thiên thần, quỹ đầu tư mạo hiểm, tổ chức hỗ trợ kinh
doanh, vườn ươm, công viên nghiên cứu, mạng lưới các huấn luyện viên/tư
vấn, các cơ sở/đơn vị hỗ trợ nghiên cứu và khởi nghiệp sáng tạo tại các trường
đại học, viện nghiên cứu… thuộc cả khối tư nhân và Nhà nước). Tuy nhiên, số
lượng của các chủ thể này ở Việt Nam được đánh giá là còn khá khiêm tốn.
27
Hiện nay trên cả nước đã có 28 tỉnh, thành phố đã ban hành kế hoạch
triển khai Đề án 844, không chỉ tập trung tại các thành phố lớn như Hà Nội, Đà
Nẵng, TP HCM, Cần Thơ, ... mà còn diễn ra sâu và rộng ở các địa phương như:
Vĩnh Long, Bến Tre, Quảng Bình, Thái Nguyên…[13]
Bên cạnh đó, nhiều tỉnh, thành phố đã ban hành nhiều chương trình hành
động hỗ trợ cộng đồng khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Những con số ấn tượng
trên cho thấy sự phát triển mạnh mẽ của DNKNST trong hệ sinh thái khởi
nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia.
2.1.1. Số lượng doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam
Do định nghĩa DNKNST mới chỉ xuất hiện trong Luật doanh nghiệp nhỏ
và vừa (SME) mới được thông qua 6/2017, cũng không có phân loại DNKNST
trong thống kê của cơ quan đăng ký kinh doanh, hiện không có bất kỳ số liệu
chính thức nào về số lượng, quy mô và lĩnh vực hoạt động chủ yếu của các
DNKNST ở Việt Nam. Theo thống kê của tạp chí Echelon (Singapore) Việt
Nam hiện có khoảng 3.000 DNKNST, tăng gần gấp đôi so với số liệu ước tính
cuối năm 2015 (khoảng 1.800 doanh nghiệp). Khoảng 40 cơ sở ươm tạo khởi
nghiệp, tổ chức thúc đẩy kinh doanh đang hoạt động trên cả nước. Về hoạt động
tài chính, hiện có khoảng 40 quỹ đầu tư mạo hiểm đang hoạt động tại Việt
Nam.[13] Một thống kê khác của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng cho thấy,
cả nước hiện có khoảng 600.000 doanh nghiệp, trong đó có 3.000 doanh nghiệp
đổi mới sáng tạo. Đây sẽ là lực lượng doanh nghiệp tiên phong, có tăng trưởng
cao để đóng góp hiệu quả vào sự phát triển kinh tế- xã hội của đất nước.[14]
Tính trong 2 năm 2016-2017 tổng sổ DNKNST chiếm đa số về mặt số lượng
các doanh nghiệp xin đăng kí mới (chiếm 90% tổng số các doanh nghiệp xin
đăng kí mới). Tốc độ tăng trưởng của các DNKNST thành công tăng trưởng
nhanh gấp nhiều lần so với doanh nghiệp lớn.
Bảng 1.1: Hệ sinh thái khởi nghiệp sáng tạo Việt Nam
28
6 4 Các quỹ/vườn ươm của Chính phủ (Incubators)
22 Các khu làm việc chung 13
25 Các Sự kiện DNKNST lớn 13 Các tổ chức hỗ trợ kinh doanh (Accelerators) Các quỹ/nhà đầu tư giai đoạn sơ khởi (Pre-seed, Seed investors) Các quỹ/nhà đầu tư giai đoạn Series A, B
Các nhà đầu tư khác 14 9 Các Cộng đồng, đầu mối truyền thông DNKNST
Nguồn: Tổng hợp từ “2016 Startup Deal Vietnam” của Topica Founder Institute
Theo đánh giá của Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam
(VCCI), nếu tính trên đầu người thì số các DNKNST của Việt Nam cao hơn
các quốc gia khác như Trung Quốc (2.300 công ty khởi nghiệp), Ấn Độ (7.500
công ty khởi nghiệp) và Indonesia (2.100 công ty). So sánh giữa các lĩnh vực
hoạt động cho thấy, doanh nghiệp công nghệ thông tin có con số vượt trội so
với các doanh nghiệp trong lĩnh vực khác. Thực tế này phản ánh đúng xu hướng
phát triển trong điều kiện cách mạng công nghiệp 4.0 với các đặc điểm:
DNKNST trong lĩnh vực công nghệ thông tin không cần quá nhiều vốn đầu tư
ban đầu như nhiều lĩnh vực truyền thống khác; doanh nghiệp trong lĩnh vực này
dựa chủ yếu vào ý tưởng mới và cách làm mang tính sáng tạo cao, có khả năng
tăng trưởng nhanh; khả năng dễ dàng kết nối toàn cầu qua công nghệ giúp cho
các ý tưởng sáng tạo tốt dễ dàng đến được với thế giới và ngược lại, doanh
nghiệp cũng dễ dàng học hỏi được từ các mô hình thành công khác của quốc
tế.[15]
Số lượng các nhà đầu tư KNST tuy chưa nhiều nhưng bắt đầu có xu
hướng tăng. Hầu hết đây là doanh nhân đã thành công mong muốn đầu tư cho
DNKNST ở thế hệ sau. Một số Việt Kiều, du học sinh Việt tại nước ngoài đã
và đang trở về Việt Nam tham gia vào đầu tư KNST. Hoạt động của các nhà
đầu tư thiên thần ở Việt Nam đã bắt đầu có tính hệ thống hơn thông qua việc
29
kết nối, hình thành một số câu lạc bộ, mạng lưới đầu tư cho DNKNST như VIC
Impact, iAngel hay VCNetwork.co. Đánh giá theo lĩnh vực được đầu tư kinh
doanh, các DNKNST tập trung chủ yếu trong lĩnh vực công nghệ tài chính
(fintech), thương mại điện tử và công nghệ giáo dục (edtech).
2.1.2. Quy mô, trình độ phát triển công nghệ
Đánh giá một cách tổng thể, quy mô doanh nghiệp ở Việt Nam đang nhỏ
dần; số doanh nghiệp quy mô vừa và nhỏ tăng mạnh hơn các doanh nghiệp có
quy mô lớn. Đây là xu hướng phù hợp với mục tiêu và điều kiện phát triển kinh
tế - xã hội ở Việt Nam hiện nay là khuyến khích các DNKNST. Theo số liệu
báo cáo của tổng cục thống kê tính đến hết năm 2017 cả nước có 10.000 doanh
nghiệp lớn tăng 29% số doanh nghiệp lớn so với năm 2015, tuy nhiên thì số
doanh nghiệp lớn này chỉ chiếm 1,9% tổng số doanh nghiệp. Trong khi đó, số
lượng doanh nghiệp vừa tăng 23,6%, số lượng doanh nghiệp nhỏ tăng 21,2%,
đặc biệt số lượng DNKNST tăng tới 65%. [16]
Hầu hết doanh nghiệp DNKNST có tuổi đời khoảng 1 năm, quy mô nhỏ lẻ
và khả năng tăng trưởng không cao, vốn đầu tư đa phần dưới 10 triệu USD, hoạt
động gọi vốn còn nhỏ lẻ so với DNKNST trong khu vực. Trong khi đó, một số
quỹ đầu tư phản ánh đang gặp nhiều vướng mắc về thủ tục đầu tư nên gặp nhiều
rào cản để bỏ vốn vào DNKNST Việt, dẫn đến tình trạng DNKNST Việt ra nước
ngoài để lập công ty.
Một trong những yếu tố quyết định việc doanh nghiệp mới thành lập có
phải là DNKNST hay không, chính là trình độ công nghệ làm nền tảng cho tính
đổi mới sáng tạo. Trình độ công nghệ của doanh nghiệp góp phần quan trọng
tạo điều kiện cho tinh thần khởi nghiệp và DNKNST. Các nước có trình độ
công nghệ cao cũng thường là các quốc gia có nhiều DNKNST thành công.
Hiện nay nhiều DNKNST chọn cho mình hướng đi: Công nghệ (Tech Startup).
Đặc điểm của DNKNST công nghệ là không cần quá nhiều vốn ban đầu (so với
30
các ngành nghề khác) và có thể dễ dàng học hỏi từ những mô hình đi trước trên
thế giới. Tại Việt Nam số liệu khảo sát năm 2014 được công bố cho thấy, trong
tổng số 7.450 doanh nghiệp được khảo sát, chỉ có 464 doanh nghiệp khẳng định
là có các hoạt động nghiên cứu và phát triển (R&D) chiếm 6,23%. Điều này có
nghĩa rằng, đại bộ phận các doanh nghiệp chưa quan tâm đến các hoạt động ứng
dụng và phát triển khoa học công nghệ.[15] Tuy nhiên bước sang giai đoạn năm
2016-2018, các lĩnh vực được các DNKNST lựa chọn khởi nghiệp sẽ tập trung
vào các lĩnh vực công nghệ tài chính, công nghệ lữ hành, trí tuệ nhân tạo/chatbot,
Internet vạn vật, chăm sóc sức khoẻ và tập hợp dữ liệu lớn theo xu hướng phát
triển của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.
2.1.3. Khả năng gọi vốn
Nguồn đầu tư vào các DNKNST tại Việt Nam chủ yếu đến từ các quỹ
đầu tư KNST, tập đoàn lớn, các tổ chức thúc đẩy kinh doanh và nhà đầu tư cá
nhân (hay còn gọi là “nhà đầu tư thiên thần”). Các tổ chức, cá nhân này đến từ
cả trong nước và quốc tế. Nhìn chung, việc huy động vốn, kêu gọi đầu tư của
các DNKNST đang ngày càng diễn ra sôi động ở Việt Nam.
Theo Topica Founder Institute thì năm 2016, tổng vốn đầu tư mà các
DNKNST Việt Nam nhận được là 205 triệu USD, tăng 46% so với năm 2015
(137 triệu USD), chủ yếu từ các nhà đầu tư nước ngoài. Đầu tư cho các
DNKNST Việt Nam cũng có xu hướng tập trung hơn, mặc dù tổng vốn
DNKNST kêu gọi được tăng lên đáng kể nhưng số thương vụ lại giảm, chỉ 50
thương vụ (trong so sánh với 67 thương vụ năm 2014) trong đó 07 thương vụ
có giá trị đầu tư trên 10 triệu USD.[17] Theo thống kê của tổ chức Topica
Founder Institute (TFI), năm 2017, Việt Nam tiếp nhận 92 thương vụ đầu tư
KNST với tổng số vốn hơn 291 triệu USD, tăng gần gấp đôi về mặt số lượng
thương vụ và gần 50% về mặt tổng số vốn đầu tư so với năm 2016 (50 thương
vụ với 205 triệu USD). Trong số đó, có 8 thương vụ thoái vốn thành công thông
31
qua mua bán và sáp nhập (M&A) trị giá 128 triệu USD. Năm 2015, giá trị đầu
tư là 137 triệu USD và giá trị thoái vốn là khoảng 300 triệu USD (do có thương
vụ bán Misfit trị giá 260 triệu USD).[14] Năm 2016-2017 cũng chứng kiến sự
tham gia của nhiều tập đoàn của Việt Nam trong việc đầu tư cho DNKNST như
Quỹ đầu tư của FPT (FPT Ventures), Quỹ đầu tư của Viettel (Viettel Ventures),
Quỹ sáng tạo CMC.
Thống kê của Bộ Khoa học và Công nghệ cũng chỉ ra rằng, năm 2016 và
2017, hoạt động của các doanh nghiệp khởi nghiệp đổi mới sáng tạo Việt Nam
diễn ra rất sôi động. Chỉ tính riêng 5 thương vụ kêu gọi vốn thành công nhất đã có
tổng giá trị lên đến hơn 50 triệu USD (Momo-28 triệu USD, F88 – 10 triệu USD,
Got It! – hơn 9 triệu USD, Vntrip.vn – 3 triệu USD, Toong- 1 triệu USD). Mới
nhất là doanh nghiệp Foody – mạng xã hội về ẩm thực – đã được SEA mua lại
hơn 82% cổ phần với giá hơn 64 triệu USD, được coi là khoản đầu tư lớn nhất
trong năm 2017 tính đến thời điểm hiện tại. Những dòng tiền lớn đã và đang chảy
vào DNKNST Việt.[18]
Số lượng thương vụ đầu tư vào Việt Nam đang gia tăng, song số lượng
thương vụ dưới 1 triệu USD chiếm phần lớn. Số lượng thương vụ nhận được
đầu tư với số vốn hơn 10 triệu USD còn rất ít. Số lượng thương vụ M&A còn
rất nhỏ. Chưa có DNKNST nào tiến hành được IPO.
Về các tổ chức thúc đẩy kinh doanh, là tổ chức đào tạo, huấn luyện, phát
triển mô hình kinh doanh, gọi vốn đầu tư cho các DNKNST giai đoạn đầu, và
có thể tham gia đầu tư với các khoản đầu tư nhỏ từ một vài chục ngàn USD.
Một số tổ chức thúc đẩy kinh doanh tiêu biểu tại Việt Nam có thể kể đến
Vietnam Silicon Valley Accelerator (VSVA) được hỗ trợ bởi Bộ Khoa học và
Công nghệ (KH&CN); CLAS – Expara Vietnam Accelerator được đầu tư bởi
Microsoft Việt Nam và quỹ đầu tư KNST tại Đông Nam Á Expara; Quỹ tăng
tốc khởi nghiệp Việt Nam (VIISA) vừa là quỹ đầu tư KNST giai đoạn đầu, vừa
32
là tổ chức thúc đẩy kinh doanh với 4 nhà đầu tư chính là FPT, Dragon Capital
Group, Tập đoàn Hanwha (Hàn Quốc) và Công ty cổ phần Chứng khoán BIDV.
Tới hết năm 2017 có khoảng 40 quỹ đầu tư có hoạt động tại Việt Nam
với phần lớn là các quỹ đầu tư nước ngoài. Trong số đó, chỉ có một số quỹ đầu
tư có văn phòng đại diện ở Việt Nam như IDG Ventures, CyberAgent Ventures,
DJF-VinaCapital, 500 Startups. Ngoài ra, có những quỹ đầu tư doanh nghiệp
tư nhân (Private Equity Fund), không tập trung đầu tư vào DNKNST nhưng có
thể đầu tư vào giai đoạn chuyển tiếp từ DNKNST thành doanh nghiệp trưởng
thành như Quỹ Mekong Capital, Dragon Capital, VinaCapital.[14]
Về các nhà đầu tư thiên thần, số lượng các nhà đầu tư này tuy chưa nhiều
nhưng bắt đầu có xu hướng tăng. Hầu hết đây là doanh nhân đã thành công
mong muốn đầu tư cho các DNKNST ở thế hệ sau. Một số Việt Kiều, du học
sinh Việt tại nước ngoài đã và đang trở về Việt Nam tham gia vào đầu tư KNST
như nhà đầu tư Nhân Nguyễn, kỹ sư thành danh ở Google đã thực hiện đầu tư
vào một số DNKNST Việt bao gồm TechElite, JupViec, Beeketing, Ybox, v.v.;
doanh nhân Đỗ Hoài Nam, từng DNKNST thành công từ Thung lũng Silicon
Hoa Kỳ, đã đầu tư vào HDViet, 5S Online, v.v.; doanh nhân Vũ Duy Thức, tiến
sĩ từ Stanford, được vinh danh là một trong những nhà sáng lập DNKNST trẻ
tuổi tiêu biểu tại thung lũng Silicon, cũng đã tham gia dìu dắt và đầu tư cho
hàng loạt các DNKNST ở Việt Nam như Umbala và ELSA.6. Hoạt động của
các nhà đầu tư thiên thần ở Việt Nam đã bắt đầu có tính hệ thống hơn thông
qua việc kết nối, hình thành một số câu lạc bộ, mạng lưới đầu tư cho DNKNST
như VIC Impact, iAngel hay VCNetwork.co.
Hình 1.1: Số thương vụ đầu tư DNKNST 2011-2016
33
80
67
70
60
50
50
40
28
30
25
24
20
10
10
0
2011
2012
2013
2014
2015
2016
Số thương vụ đầu tư Startup 2011-2016
Số thương vụ đầu tư Startup 2011-2016
Nguồn: “2016 Startup Deal Vietnam”, Topica Founder Institute, 3/2017
Một điểm tích cực của thị trường là mô hình Accelerator (tăng tốc khởi
nghiệp) đang được đặc biệt quan tâm. Một số tổ chức nước ngoài đã hướng đến
thị trường Việt Nam như JFDI của Singapo, 500 DNKNST của Mỹ, 1337 của
Malaixia… Xu hướng này giúp hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam trở nên sôi
động hơn. Sự xuất hiện của các nhà đầu tư thiên thần ngày càng nhiều trong
các thương vụ đầu tư. Tuy nhiên, đa phần các thương vụ vẫn được thực hiện
bởi những quỹ đầu tư nước ngoài. Tình hình đầu tư mạo hiểm của Việt Nam
trong năm 2016 có chuyển biến so với năm 2015 nhưng những chuyển biến này
là không lớn. Các quỹ mới vẫn trong giai đoạn thăm dò thị trường. Các quỹ
đang hoạt động như IDG, Cyber agent không tiến hành đầu tư thêm nhiều
thương vụ mà chỉ tập trung cho các khoản đầu tư để có thể thoái vốn. Tính đến
năm 2016 chúng ta vẫn chưa có một quỹ đầu tư mạo hiểm nào của riêng mình.
Đến năm 2017, mặc dù có sự tăng trưởng tương đối mạnh mẽ, nhưng
nguồn vốn đầu tư cho doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo tại Việt Nam vẫn tương
đối khiêm tốn so với khu vực và trên thế giới. Theo Tech in Asia3, năm 2017,
34
khu vực Đông Nam Á đã thu hút 7,86 tỷ USD đầu tư vào khởi nghiệp, như vậy
số vốn đầu tư Việt Nam thu hút được chiếm tỷ phần rất nhỏ, chưa đến 5%. Theo
tạp chí uy tín về khởi nghiệp CBInsights, từ năm 2012 tới nay, Việt Nam, đứng
thứ tư về lượng vốn ĐTMH thu hút được, sau Singapore, Indonesia và Malaysia.
[14].
Tóm lại, thị trường vốn đầu tư cho DNKNST tại Việt Nam đang có
những hoạt động đa dạng, tương đối sôi nổi từ cả nguồn vốn trong và ngoài
nước. Tuy nhiên, quy mô vốn cũng như sự liên kết, hợp tác trong đầu tư KNST
tại Việt Nam vẫn còn nhỏ, chưa tương xứng với tiềm năng và nhu cầu của hệ
sinh thái KNST Việt Nam.
2.1.4. Hệ sinh thái khởi nghiệp và vườn ươm
Hệ sinh thái khởi nghiệp là cách thức một quốc gia hay một vùng lãnh
thổ thiết lập các tác nhân kinh doanh (như các công ty, các nhà đầu tư mạo
hiểm, các thiên thần đầu tư, các ngân hàng, trường đại học, các cơ quan thuộc
khu vực nhà nước, các thực thể tài chính) kết nối với nhau để thúc đẩy hoạt
động khởi nghiệp tại quốc gia hoặc địa phương đó. Vườn ươm DNKNST được
hiểu là một công ty, một tổ chức trợ giúp những người muốn lập DNKNST
bằng việc cung cấp những dịch vụ. Tổ chức này có chức năng, nhiệm vụ nuôi
dưỡng những doanh nghiệp khởi sự trong thời gian nhất định để doanh nghiệp
này có thể vượt qua những khó khăn trong thời gian đầu, khẳng định sự tồn tại
và phát triển với thị trường.
Về cơ bản hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đã dần hình thành với đầy
đủ các yếu tố thiết yếu: trung tâm hỗ trợ; không gian làm việc chung; quỹ đầu
tư mạo hiểm; các tập đoàn lớn; hệ thống các tổ chức hỗ trợ; truyền thông. Hệ
sinh thái khởi nghiệp hoạt động hiệu quả là tiền đề quan trọng để tinh thần kinh
doanh ngày càng phát triển, có nhiều DNKNST hiệu quả. Theo đánh giá chung,
hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam đang ở những giai đoạn đầu của cấp độ 3
35
(hệ sinh thái đang phát triển) về văn hóa khởi nghiệp, cũng như về mật độ khởi
nghiệp và các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp; Cấp độ 2 (hệ sinh thái nền tảng) về
chính sách nhà nước, môi trường pháp lý cũng như về nhân lực cho khởi nghiệp.
Hiện tại, cơ chế chính sách khuyến khích đầu tư cho khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo, cơ chế gọi vốn cộng đồng của Việt Nam đã và đang dần được hoàn thiện.
Xuất hiện ở Việt Nam hơn 10 năm nay, vườn ươm doanh nghiệp đã và
đang được chú trọng nhằm hỗ trợ các doanh nghiệp trong giai đoạn đầu phát
triển với phần lớn hoạt động trong lĩnh vực về công nghệ. Dù hoạt động của
vườn ươm khá sôi nổi trong khoảng 5 năm gần đây nhưng vẫn là “khái niệm”
khá mới mẻ tại Việt Nam. Vì vậy, dù đã có các cơ chế, chính sách hỗ trợ nhưng
vẫn chưa bắt kịp nhu cầu phát triển của các cơ sở này, nhất là các vườn ươm
công lập. Những kết quả ban đầu là đáng khích lệ khi có nhiều doanh nghiệp
ươm tạo thành công và có thị trường sản phẩm tốt. Tuy nhiên, với nhu cầu phát
triển mạnh mẽ hiện nay, đặc biệt là phong trào khởi nghiệp, các vườn ươm đã
bắt đầu bộc lộ những hạn chế, đòi hỏi phải đổi mới để phát triển.
Theo thống kê sơ bộ của Cục Phát triển Thị trường và Doanh nghiệp
Khoa học và Công nghệ, hiện cả nước có trên 20 cơ sở ươm tạo doanh nghiệp
công nghệ và hơn 15 tổ chức thúc đẩy kinh doanh, tập trung ở các trung tâm
lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh; trong đó các vườn ươm hình thành
sớm chủ yếu là các cơ sở ươm tạo của nhà nước. Hiện nay, các vườn ươm đang
thể hiện được năng lực “bà đỡ” giúp cho các DNKNST đủ sức khỏe để đi vào
hoạt động thương mại, đây là những chiếc nôi cho các DNKNST. Hiện nay ở
hầu hết các tỉnh trong cả nước đều có chính sách phát triển DNKNST, các địa
phương đều tạo lập môi trường các vườn ươm để phát triển DNKNST tạo nên
sắc thái sôi nổi trong ươm tạo và phát triển doanh nghiệp. Có thể kể đến 3 địa
phương có nhiều vườn ươm DNKNST hoạt động hiệu quả là Hà Nội, thành phố
Hồ Chính Minh và Đà Nẵng. Gần đây, nhiều vườn ươm được đưa vào hoạt động
36
ở các địa phương như Vườn ươm công nghệ công nghiệp Việt Nam – Hàn Quốc
(tại Cần Thơ), Vườn ươm doanh nghiệp công nghệ Đại học Cần Thơ và nhiều
vườn ươm của doanh nghiệp như các không gian làm việc: Up-Co, Dreamplex,
Circo, I.Value… Bên cạnh đó hoạt động của các quỹ đầu tư là điểm nhấn đối với
hệ sinh thái khởi nghiệp, đã có hơn 900 dự án khởi nghiệp được ươm tạo với 300
sản phẩm khởi nghiệp đã được kết nối đến với cộng đồng và các quỹ đầu tư. Hơn
40 quỹ đầu tư mạo hiểm đã có hoạt động tại Việt Nam, điển hình là IDG
Ventures, CyberAgent Ventures, Captii Ventures, Gobi Partners, 500
Startups…, tăng khoảng 30 % so với năm 2016. Hiện tại đã có 24 cơ sở ươm tạo
(BI), 10 tổ chức thúc đẩy kinh doanh (BA). Nhiều mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp
được hình thành như “Mạng lưới hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa,” chương trình
“Sáng kiến cố vấn khởi nghiệp Việt Nam”… [19]
2.2. Vai trò của doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo ở Việt Nam
2.2.1. Đóng góp cho tăng trưởng kinh tế và giải quyết việc làm
Các DNKNST ngày càng có đóng góp quan trọng trong sự tăng trưởng
kinh tế. Các DN này đóng góp vào sự gia tăng thu nhập quốc dân của các nước
trên thế giới, bình quân chiếm khoảng 52% GDP của mỗi nước. Theo đánh giá
tại Viện Nghiên cứu quản lý TW, thì hiện nay tại Việt Nam sự đóng góp của
các DNKNST chiếm khoảng 24% GDP.[20]
Ngoài ra, các DNKNST cũng có đóng góp lớn về giải quyết việc làm tại
chỗ cho lực lượng lao động. Với sự phát triển và khát khao vươn tầm ra thị
trường toàn cầu các DNKNST không chỉ sử dụng lao động trong nước, mà còn
có xu hướng tìm kiếm nhân sự ở nước ngoài để mở rộng lao động. Sự quan tâm
của các DNKNST đối với việc tuyển dụng lao động ở nước ngoài cho thấy thị
trường lao động ngày càng toàn cầu hóa. Điều này tạo cơ hội lớn về việc làm
cho đội ngũ lao động có trình độ chất lượng cao. Chính điều này mà các
DNKNST tạo ra nhiều cơ hội việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp trong nền kinh
37
tế, qua đó góp phần giải quyết các vấn đề xã hội mang lại lợi ích cho cộng đồng
dân cư.
2.2.2. Đóng góp về thu hút đầu tư phát triển kinh tế
Theo Báo cáo Khởi nghiệp thường niên của Topica Founder Institute
(TFI) năm 2017 DNKNST Việt Nam thu hút 291 triệu USD, số lượng các
thương vụ nhận đầu tư là 92, tăng gần gấp đôi so với năm 2016. Sáu DNKNST
được rót vốn nhiều nhất, chiếm đến 198 triệu USD là Foody (82% cổ phần của
startup này được Sea Group mua lại với 64 triệu USD); Tiki (gọi vốn vòng
series C từ JD.com trị giá 54 triệu USD); một DNKNST không tiết lộ nhận 20
triệu USD từ TNB Ventures và Vntrip (gọi vốn vòng series B từ Hendale
Captital 10 triệu USD). Bên cạnh đó, Sea cũng mua lại hai DNKNST fintech
và logistic không được tiết lộ với giá 50 triệu USD. Các DNKNST lĩnh vực
thương mại điện tử dẫn đầu số lượng gọi vốn với 21 thương vụ, đạt xấp xỉ 83
triệu USD. Theo sau là các lĩnh vực công nghệ ẩm thực, fintech, truyền thông,
vận tải và du lịch trực tuyến.
Cũng trong năm 2017, lần đầu tiên hệ sinh thái khởi nghiệp Việt Nam
ghi nhận số lượng nhà đầu tư thiên thần nội và các quỹ trong nước “vượt mặt”
quỹ ngoại về số các thương vụ rót vốn. Sự vươn lên của các quỹ nội như VIISA,
ESP, VSV, 500 Startups Vietnam và chương trình Shark Tank- Thương vụ bạc
tỷ cũng chốt được 49 vụ đầu tư vào các DNKNST giai đoạn đầu. Tuy vậy, trị
giá các phi vụ từ nhà đầu tư nội chỉ đạt 46 triệu USD, trong khi con số tương
tự của các nhà đầu tư ngoại là 245 triệu USD.[21].
Hình 1.2: Số thương vụ đầu tư trong giai đoạn 2011-2017
38
Số thương vụ giá trị và giá trị giao dịch Giá trị (triệu đô) 137, 205, 291
92
67
50
28
25
24
10
100 90 80 70 60 50 40 30 20 10 0
2011
2012
2013
2014
2015
2016
2017
Số thương vụ giá trị và giá trị giao dịch Giá trị (triệu đô) 137, 205, 291
Nguồn: Báo cáo Khởi nghiệp thường niên của Topica Founder Institute (TFI)
năm 2017
Năm 2017 đánh dấu một năm sôi động cho cộng đồng DNKNST Việt
không chỉ về số lượng mà trên hết là về chất lượng kiến thức, sức ảnh hưởng
và tốc độ tăng trưởng so với cộng đồng toàn cầu.
Bước sang năm 2018, các DNKN sẽ tập trung các lĩnh vực công nghệ tài
chính, công nghệ lữ hành, trí tuệ nhân tạo/chatbot, Internet vạn vật, chăm sóc
sức khoẻ và tập hợp dữ liệu lớn theo xu hướng phát triển của cuộc cách mạng
công nghiệp 4.0.
2.2.3. Thúc đẩy phong trào khởi nghiệp quốc gia
Theo nghiên cứu của tập Đoàn Amway phối hợp cùng trường đại học
Technische Universitat Munchen (TUM), công ty nghiên cứu thị trường
Gesellschaft fuer Konsumforschung (GfK), thực hiện năm 2017 cho thấy: Việt
Nam dẫn đầu thế giới về tinh thần khởi nghiệp, đứng thứ 2 về thái độ tích cực
với khởi nghiệp. Cụ thể, 91% người Việt được khảo sát cho biết họ xem chuyện
bắt đầu một công việc kinh doanh mới như một cơ hội nghề nghiệp đáng ao
ước. 95% có thái độ tích cực với tinh thần khởi nghiệp, làm chủ. Tỷ lệ người
39
Việt có thái độ thích cực với khởi nghiệp cao hơn mức trung bình thế giới, vốn
chỉ dừng lại ở 77%.
Bên cạnh đó, 96% người Việt được khảo sát cũng cho rằng họ hoàn toàn
cảm thấy thoải mái với việc tìm kiếm và thu hút khách hàng tiềm năng. 76%
người Việt muốn khởi nghiệp “để được độc lập trong kinh doanh và tự chủ
trong công việc kinh doanh của mình [22].
Thực tiễn cho thấy từ năm 2016 trở lại đây, tinh thần doanh nhân ngày
càng phát triển mạnh mẽ ở Việt Nam. Những vườn ươm doanh nhân, doanh
nghiệp khởi nghiệp được phát triển mạnh mẽ đem lại sức nóng cho giới trẻ đặc
biệt là các bạn trẻ là sinh viên. Nhiều cuộc thi được mở ra dành cho sinh viên
hướng tới tinh thần doanh nhân giúp các em xây dựng ý tưởng, kế hoạch kinh
doanh của mình cũng như cách phát triển các ý tưởng phù hợp trong một bối
cảnh thương mại. Các sinh viên từ năm thứ hai trở đi cũng được khuyến khích
có dự án kinh doanh riêng, tự mở công ty, khởi nghiệp…Tất cả điều đó giúp học
sinh, sinh viên tại không còn lạ lẫm với thế giới doanh nghiệp sau này.
2.2.4. Thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế công nghệ 4.0
Thị trường Việt Nam đang ở tâm điểm của khu vực phát triển mạnh về
công nghệ Internet và thị trường cho DNKNST. Vai trò của nền kinh tế công
nghệ đang đóng góp ngày càng lớn trong cơ cấu kinh tế khu vực. Báo cáo
GSMA 2017 cho biết công nghệ và dịch vụ mobile đóng góp 1.300 tỷ USD
trong năm 2016 ở châu Á - Thái Bình Dương (tương đương 5,2% GDP) và con
số này đang tiếp tục tăng mạnh, đặc biệt sôi động ở Đông Nam Á và tại Việt
Nam.[23]
Việt Nam đang đứng trước nhiều cơ hội để bắt kịp sự phát triển của các
quốc gia trên thế giới từ cuộc cách mạng công nghệ 4.0. Các DNKNST của
Việt Nam cũng không nằm ngoài quy luật phát triển của cuộc cách mạng công
40
nghệ lần thứ 4. Các DNKNST có vai trò đóng góp sự phát triển kinh tế đất nước
đặc biệt là nền kinh tế công nghệ 4.0.
2.3. Thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo ở Việt Nam
2.3.1. Thực trạng việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
2.3.1.1. Các chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Với tinh thần Chính phủ đồng hành cùng doanh nghiệp, trong những năm
qua, Chính phủ đã có rất nhiều chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp, đặc biệt là
DNKNST. Tùy vào từng trường hợp mà các hỗ trợ liên quan đến thủ tục pháp
lý, mặt bằng sản xuất, văn phòng làm việc, công nghệ, đào tạo nhân lực, bảo
lãnh tín dụng, tiếp nhận vốn từ các quỹ đầu tư, thị trường tiêu thụ, xúc tiến
thương mại, kết nối đối tác, thuế thu nhập doanh nghiệp... Các hỗ trợ này được
củng cố thêm trong Luật Hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa được Quốc hội thông
qua và có hiệu lực vào ngày 1/1/2018.
Thực hiện chủ trương của Đảng, Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách
quan trọng, trong đó gần đây là Nghị quyết số 35/NQ-CP về hỗ trợ và phát triển
doanh nghiệp giai đoạn 2016-2020, đặt mục tiêu tới năm 2020 Việt Nam có 1
triệu doanh nghiệp (hiện nay mới có trên 500.000 doanh nghiệp).
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 844/QĐ-TTg ngày
18/05/2016 về việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới
sáng tạo quốc gia đến năm 2025” hướng tới cá nhân, nhóm cá nhân có dự án
khởi nghiệp, doanh nghiệp khởi nghiệp có khả năng tăng trưởng nhanh dựa trên
khai thác tài sản trí tuệ, công nghệ, mô hình kinh doanh mới; doanh nghiệp khởi
nghiệp có thời gian hoạt động không quá 5 năm kể từ ngày được cấp Giấy
chứng nhận đăng ký doanh nghiệp lần đầu; tổ chức cung cấp dịch vụ, cơ sở vật
41
chất - kỹ thuật, đầu tư, truyền thông cho khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, hoạt
động hiệu quả, đáp ứng các tiêu chí của Đề án.
Ngoài đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia
đến năm 2025”, Chính phủ còn nhiều các giải pháp, chính sách trọng tâm hỗ
trợ doanh nghiệp khởi nghiệp khác và đã triển khai thường xuyên và rầm rộ các
chương trình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới sáng tạo như Chương trình
Đối tác Đổi mới Sáng tạo Việt Nam - Phần Lan, Dự án đẩy mạnh đổi mới, sáng
tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ, Dự án xây dựng chính sách
đổi mới và phát triển các cơ sở ươm tạo Doanh nghiệp...; và các sự kiện cho
khởi nghiệp Techfest, Demoday, HatchFair,Venture Cup, StartupWeekend,
Startup Fair Danang…
Các văn bản chính sách cấp trung ương và địa phương, đưa ra các định
hướng, mục tiêu và giải pháp cơ bản về hỗ trợ, phát triển DNKNST trong phạm
vi toàn quốc và từng địa phương. Các chính sách này không có giá trị áp dụng
bắt buộc (không phải quy phạm pháp luật) nhưng lại tạo cơ sở để thúc đẩy các
cơ quan có thẩm quyền triển khai các hoạt động thực tế.
Cụ thể, các chính sách về hỗ trợ DNKNST ở Việt Nam bao gồm:
- Quyết định số 844/QĐ-TTg ban hành ngày 18/5/2016 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo
quốc gia đến năm 2025” (sau đây gọi là Đề án 844). Đây là văn bản chính sách
đầu tiên, bao quát nhất và là nền tảng về chính sách hỗ trợ đối với DNKNST
của Việt Nam. Đề án được xây dựng và chủ trì triển khai thực hiện bởi Bộ Khoa
học và Công nghệ, có phạm vi bao trùm toàn quốc;
- Quyết định 171/QĐ-BKHCN ngày 7/2/2017 của Bộ Khoa học và Công
nghệ phê duyệt danh mục nhiệm vụ đặt hàng thuộc Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái
khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025” bắt đầu thực hiện từ năm
2017 và Quyết định 3362/QĐ-BKHCN về việc ban hành quy định tạm thời xử
42
lý hồ sơ tham gia Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc
gia đến 2025”. Đây là 02 văn bản cấp Bộ nhằm triển khai Đề án hỗ trợ
DNKNST thông qua kênh đề tài, đề án, dự án khoa học và công nghệ cấp quốc
gia (nhiệm vụ hàng năm) thuộc phạm vi quản lý của Bộ Khoa học và Công
nghệ;
- Các Nghị quyết của các Hội đồng nhân dân tỉnh, các Quyết định, Kế
hoạch, Chương trình của Ủy ban nhân dân tỉnh về khởi nghiệp và khởi nghiệp
sáng tạo ở các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương. Phần lớn các văn bản này
được ban hành trong năm 2017, thực hiện Quyết định số 844/QĐ-TTg. Tính tới
10/2017, đã có 22 tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương có văn bản chính sách
về vấn đề này.
- Ngoài ra, còn có một số Đề án khác mà Thủ tướng Chính phủ phê chuẩn
có liên quan tới khởi nghiệp. Các Đề án này không có liên hệ nào với Đề án
844 và mục tiêu đặt ra là tăng hiểu biết và hỗ trợ để các nhóm đối tượng liên
quan khởi sự kinh doanh (không nhất thiết gắn với sáng tạo). Tuy nhiên do tính
bao trùm về phạm vi, các hỗ trợ trong các Đề án này cũng có thể được sử dụng
một phần cho khởi nghiệp sáng tạo:
+ Quyết định 1665/QĐ-TTg ngày 30/10/2017 của Thủ tướng Chính phủ
phê duyệt Đề án “Hỗ trợ học sinh, sinh viên khởi nghiệp đến năm 2025”. Đây là
Đề án do Bộ Giáo dục và Đào tạo chủ trì, không có liên hệ nào với Đề án 844.
+ Quyết định 939/QĐ-TTg ngày 30/6/2017 của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt Đề án “Hỗ trợ phụ nữ khởi nghiệp giai đoạn 2017 – 2025”
Ngoài các chính sách trên, Chính phủ còn nhiều các giải pháp, chính sách
trọng tâm hỗ trợ DNKNST khác và đã triển khai chúng thường xuyên và rầm
rộ các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo và đổi mới sáng tạo như:
Chương trình đối tác đổi mới sáng tạo Việt Nam - Phần Lan, dự án đẩy mạnh
đổi mới, sáng tạo thông qua nghiên cứu, khoa học và công nghệ, Dự án xây
43
dựng chính sách đổi mới và phát triển các cơ sở ươm tạo DNKNST…; và các
sự kiện cho khởi nghiệp Techfest, Demoday, HatchFair…
2.3.1.2. Các văn bản hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Hoàn thiện hệ thống văn bản pháp luật hỗ trợ về DNKNST là một trong
các mục tiêu chính sách về DNKNST nêu trong Đề án 844. Thực hiện mục tiêu
này, chế định về DNKNST đã lần đầu tiên được hình thành trong Luật Hỗ trợ
doanh nghiệp nhỏ và vừa (Luật SME), thông qua 6/2017, có hiệu lực từ
1/1/2018.
Tiếp sau Luật này, hiện các cơ quan liên quan đang triển khai xây dựng
04 Dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật này, dự kiến sẽ được thông qua trước
ngày 1/1/2018 để có hiệu lực cùng thời điểm với Luật SME. Cụ thể, các Dự
thảo Nghị định này bao gồm:
Thứ nhất, Nghị định hướng dẫn một số Điều của Luật SME (là Nghị định
hướng dẫn chung về phần lớn các nội dung cần hướng dẫn trong Luật SME)
Thứ hai, Nghị định hướng dẫn về đầu tư khởi nghiệp sáng tạo
Thứ ba, Nghị định hướng dẫn về Quỹ Phát triển doanh nghiệp nhỏ và
vừa (SME).
Thứ tư, Nghị định hướng dẫn về Quỹ Bảo lãnh tín dụng cho SME vay
vốn tại tổ chức tín dụng
Khác với Đề án 844, các văn bản pháp luật liên quan tới DNKNST hiện
nay đều phần lớn không phải là văn bản riêng về DNKNST mà là về hỗ trợ
SME và DNKNST được đề cập tới với tính chất là một nhóm SME đặc thù.
Theo Luật SME, các DNKNST đáp ứng các tiêu chí liên quan có thể
được hưởng hỗ trợ thuộc các nhóm sau:
- Nhóm các hỗ trợ dành riêng cho startup (06 biện pháp):
44
+ Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị
tại cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng
dẫn thử nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới;
+ Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản
phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng;
+ Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới
khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo;
+ Hỗ trợ thực hiện thương mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát
triển công nghệ, khai thác và phát triển tài sản trí tuệ;
+ Cấp bù lãi suất thông qua các tổ chức tín dụng (tùy quyết định của
Chính phủ từng thời kỳ)
+ Hỗ trợ cho đầu tư vào DNKNST
- Nhóm các hỗ trợ chung cho các SME, trong đó có các DNKNST đáp
ứng điều kiện (07 biện pháp)
+ Hỗ trợ tiếp cận tín dụng, Quỹ bảo lãnh tín dụng doanh nghiệp nhỏ và
vừa
+ Hỗ trợ thuế, kế toán
+ Hỗ trợ mặt bằng sản xuất
+ Hỗ trợ công nghệ; hỗ trợ cơ sở ươm tạo, cơ sở kỹ thuật, khu làm việc
chung
+ Hỗ trợ mở rộng thị trường
+ Hỗ trợ thông tin, tư vấn và pháp lý
+ Hỗ trợ phát triển nguồn nhân lực
45
2.3.2. Kết quả thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp
sáng tạo
2.3.2.1. Cải thiện môi trường kinh doanh, gia nhập thị trường cho
doanh nghiệp
Nỗ lực cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh
tranh là điểm đáng ghi nhận trong thời gian qua. Các Bộ, cơ quan ngang bộ,
UBND cấp tỉnh đã tích cực thực hiện những nhiệm vụ, giải pháp chủ yếu cải thiện
môi trường kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh để tạo điều kiện thuận lợi cho
doanh nghiệp hoạt động và phát triển. Chính phủ đã ban hành 50 nghị định về điều
kiện đầu tư kinh doanh theo Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp, trong đó tập trung
cắt giảm nhiều thủ tục, giấy phép, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp. Một số lĩnh vực
được cải thiện rõ rệt về thủ tục hành chính. Điển hình là:
Thứ nhất, thủ tục về thuế và hải quan đã được đẩy mạnh thông qua việc áp
dụng hiện đại hoá, giảm thủ tục, thời gian và chi phí cho doanh nghiệp. Hệ thống
khai thuế qua mạng, nộp thuế điện tử đã được triển khai tại 63 Cục thuế và 100%
chi cục thuế trực thuộc. Doanh nghiệp kê khai điện tử đạt tỷ lệ 99,64 % và được hỗ
trợ nộp thuế xuất nhập khẩu bằng phương thức điện tử. Số thủ tục hành chính thuộc
lĩnh vực thuế năm 2016 đã giảm 85 thủ tục so với 2015.[24]
Thứ hai, cơ chế một cửa quốc gia của Việt Nam đã kết nối kỹ thuật thành
công với 04 nước ASEAN (Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Singapore) để trao
đổi Giấy chứng nhận xuất xứ mẫu D cho hàng hóa xuất khẩu có xuất xứ ASEAN.
Cơ chế một cửa quốc gia đã kết nối chính thức với 11/14 Bộ. Ngoài thủ tục thông
quan hàng hóa (Bộ Tài chính), 37 thủ tục hành chính của 09 Bộ còn lại đã được
thực hiện thông qua Cơ chế một cửa quốc gia. Tổng số bộ hồ sơ hành chính đã
được xử lý trên cổng là 264 nghìn bộ hồ sơ, với sự tham gia của hơn tám nghìn
hai tram doanh nghiệp.
Thứ ba, đăng ký doanh nghiệp qua mạng điện tử đã được đưa vào vận hành,
đáp ứng yêu cầu dịch vụ công trực tuyến mức độ 4, góp phần giảm thời gian, chi
46
phí thành lập doanh nghiệp và xây dựng một hệ thống đăng ký kinh doanh minh
bạch, hạn chế tối đa tiêu cực có thể phát sinh từ sự can thiệp của con người. Trong
lĩnh vực đăng ký doanh nghiệp, hiện có 95/115 quy trình đạt tiêu chuẩn dịch vụ
công trực tuyến mức độ 4. Tỷ lệ hồ sơ được chấp thuận ngay lần đầu tiên đạt gần
86%, tỷ lệ hồ sơ trả kết quả đúng hẹn đạt gần 90%.[25]
2.3.2.2. Tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho doanh nghiệp
Hệ thống tiếp nhận, xử lý phản ánh, kiến nghị của DNKNST trên cổng
Thông tin điện tử Chính phủ (tại địa chỉ http://doanhnghiep.chinhphu.vn) do Văn
phòng Chính phủ điều hành đã tiếp nhận tổng cộng 586 phản ánh, kiến nghị của
doanh nghiệp, trong đó, Văn phòng Chính phủ đã phân loại, chuyển 489 phản ánh,
kiến nghị tới các Bộ ngành, địa phương để xem xét, xử lý theo thẩm quyền. Đến
nay, đã có 372 phản ánh, kiến nghị đã được các Bộ ngành, địa phương xử lý và trả
lời doanh nghiệp, đạt tỷ lệ 76,1%. Đối với 97 phản ánh, kiến nghị còn lại thuộc thẩm
quyền giải quyết của Thủ tướng Chính phủ hoặc phải giải quyết theo quy trình khiếu
nại, tố cáo cũng đã được Văn phòng Chính phủ trình Thủ tướng Chính phủ giải
quyết, cũng như xử lý theo quy trình khiếu nại, tố cáo theo quy định. Các địa phương
thành lập, công khai đường dây nóng, hỏi đáp trực tuyến trên Cổng thông tin điện
tử của tỉnh, thành phố để tiếp nhận và giải đáp khó khăn của doanh nghiệp. Chủ tịch
UBND các tỉnh, thành phố đã tổ chức đối thoại, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc cho
doanh nghiệp; thành lập và công khai đường dây nóng, hỏi đáp trực tuyến trên Cổng
thông tin điện tử của tỉnh, thành phố để tiếp nhận phản ánh và hướng dẫn, giải đáp
cho doanh nghiệp. Nhiều địa phương triển khai nhiều sáng kiến trong đối thoại với
doanh nghiệp như cà phê doanh nhân (Quảng Ninh, Trà Vinh, An Giang, Sóc
Trăng…), khởi nghiệp doanh nhân (Kon Tum), mô hình Bác sỹ doanh nghiệp (Bắc
Ninh); thành lập Tổ điều hành thực hiện Nghị quyết 35 (Bà Rịa-Vũng Tàu), Tổ tư
vấn, hỗ trợ khởi sự doanh nghiệp và phát triển doanh nghiệp (Trà Vinh), Tổ công
tác hỗ trợ doanh nghiệp…[24]
47
Các Bộ, ngành và địa phương đã ban hành Chương trình hành động cụ
thể và tổ chức triển khai thực hiện. 63/63 tỉnh, thành phố đã ký cam kết với
VCCI về tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho doanh nghiệp. Một số địa
phương có sự vào cuộc trực tiếp của người đứng đầu, đem lại những chuyển biến,
đóng góp tích cực đến sự phát triển của doanh nghiệp trên địa bàn, điển hình là
Thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Đà Nẵng, Đồng Tháp... Một số địa phương đã
ban hành chương trình khởi nghiệp (Long An), thành lập Trung tâm hỗ trợ thanh
niên khởi nghiệp (An Giang), thành lập Tổ công tác hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo (Quảng Nam), kế hoạch hỗ trợ, khuyến khích khởi nghiệp (Vĩnh
Phúc, Đồng Tháp)…Với sự nỗ lực, chỉ đạo quyết liệt của Chính phủ, Thủ tướng
Chính phủ trong thực hiện Nghị quyết 35/NQ-CP cùng hàng loạt các giải pháp đồng
bộ khác, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam thời gian qua đã được cải
thiện đáng kể, được các tổ chức quốc tế đánh giá cao. Theo đánh giá của Ngân hàng
thế giới năm 2016, Việt Nam đứng thứ 82/190 quốc gia, tăng 9 bậc về chỉ số môi
trường kinh doanh (từ vị trí 91/189 lên 82/190) với 5 chỉ số tăng hạng. Theo khảo
sát của JETRO, Việt Nam tiếp tục là địa điểm đầu tư quan trọng của doanh nghiệp
Nhật Bản đang hoạt động tại Việt Nam, trên 66% doanh nghiệp có xu hướng “mở
rộng hoạt động kinh doanh” tại Việt Nam. Đây là tỉ lệ cao so với các quốc gia khác.
Việt Nam nổi bật với việc cải thiện lớn về môi trường kinh doanh, có 36% doanh
nghiệp Mỹ được khảo sát dự định mở rộng kinh doanh tại Việt Nam (so với 48% ở
Indonesia, 21% ở Thái Lan, 19%của Malaysia).[26]
2.3.3. Đánh giá việc thực hiện chính sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi
nghiệp sáng tạo
2.3.3.1. Đánh giá về mục tiêu chính sách
Rà soát nội dung văn bản liên quan cho thấy các chính sách ở trung ương
và địa phương liên quan tới DNKNST, có thể thấy duy nhất có Quyết định 844
đặt ra các mục tiêu định lượng cụ thể về phát triển DNKNST Việt Nam. Tuy
nhiên, tương tự như các Đề án khác, các mục tiêu này chỉ mang tính định hướng,
48
không ràng buộc trách nhiệm của bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không có
biện pháp xử lý nào trong trường hợp không đạt được mục tiêu.
Bảng 1.2: Các mục tiêu chính sách phát triển DNKNST của Việt Nam
Loại Pháp luật Thông tin
Số lượng dự án được hỗ trợ Số lượng doanh nghiệp được hỗ trợ
Mục tiêu Hoàn thiện hệ thống pháp lý hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo Thiết lập được Cổng thông tin khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia Giai đoạn đầu (không rõ mốc): 800 dự án Giai đoạn 2 (2025): 2000 dự án Giai đoạn đầu (không rõ mốc): 200 doanh nghiệp, trong đó 50 doanh nghiệp gọi vốn thành công, tổng giá trị 1000 tỷ đồng Giai đoạn 2 (2025): 600 doanh nghiệp, trong đó 100 doanh nghiệp gọi vốn thành công, tổng giá trị 2000 tỷ đồng
Nguồn: Tác giả tổng hợp từ Đề án 844
Nhìn chung các văn bản chính sách về DNKNST đều nhắc đến các biện
pháp hỗ trợ thuộc 09 nhóm chính.
Về phạm vi, có những nội dung chỉ đề cập trong Đề án 844 do là vấn đề
thuộc phạm vi thẩm quyền của trung ương (ví dụ các vấn đề về ưu đãi thuế), có
những vấn đề về chi tiết mang tính thủ tục, thường chỉ nêu trong chính sách của
các địa phương (ví dụ cải cách hành chính, tư vấn hỗ trợ về thủ tục).
Về tính chi tiết, văn bản cấp địa phương mang tính hướng dẫn nên có
nhiều biện pháp cụ thể hơn Đề án 844, tuy nhiên cũng có trường hợp văn bản
cấp địa phương chỉ đơn thuần là lựa chọn và nhắc lại một số nội dung của Đề
án 844.
Về nội dung, các nhóm hỗ trợ được đề cập trong Đề án 844 cũng như ở
các địa phương gần tương tự với các biện pháp hỗ trợ DNKNST mà nhiều nước
49
đang áp dụng, bao gồm cả các nước được đánh giá là có hệ sinh thái hiệu quả
cho DNKNST như Ấn Độ, Malaysia, Singapore, Hàn Quốc…
Một điểm nhấn nổi bật là việc chiến lược khởi nghiệp quốc gia được các
DNKNST đánh giá cao. Cụ thể, chiến lược khởi nghiệp quốc gia được các
doanh nghiệp tham gia đánh giá là phù hợp và hỗ trợ tích cực cho hoạt động
của khởi nghiệp và kinh doanh của họ. Có đến 74,24% doanh nghiệp đánh giá
các chính sách này phù hợp và hỗ trợ tích cực hoạt động khởi nghiệp. Điểm
trung bình của yếu tố này là 3,38/5. Bên cạnh đó, đa phần các doanh nghiệp
cũng đồng ý rằng chiến lược khởi nghiệp quốc gia gắn kết chặt chẽ với các
chính sách hỗ trợ sản xuất kinh doanh khác nhà nước với 77,27% số DNKNST
tham gia hài lòng và chấp nhận được. Tuy nhiêu 32,32% DNKNST cho rằng
chiến lược khởi nghiệp quốc gia chưa thực sự chú trọng vào lĩnh vực và nguồn
nhân lực phục vụ khởi nghiệp, điểm đánh giá trung bình của yếu tố này chỉ đạt
3,12/5.[26]
2.3.3.2. Đánh giá hệ thống pháp lý và chính sách
Như đã đề cập, Quyết định 844/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo quốc gia đến 2025”
là văn bản đầu tiên, cũng là nền tảng cho hệ thống chính sách đối với DNKNST ở
Việt Nam.
Đề án này được thông qua cho thấy vấn đề DNKNST đã nhận được sự
quan tâm của Chính phủ, các định hướng và công cụ hỗ trợ cũng đã được nhận
diện. Hơn thế nữa, sau khi Đề án được thông qua, một loạt các tỉnh, thành triển
khai rầm rộ thông qua các văn bản cấp địa phương như với Đề án này. Đây là
điều khá hiếm thấy ở Việt Nam và là dấu hiệu khả quan cho thấy chủ đề khởi
nghiệp đang thực sự trở thành mối quan tâm chung, một phong trào kinh tế có
triển vọng ở Việt Nam.
50
Các quy định pháp luật và chính sách hỗ trợ khởi nghiệp tại Việt Nam
còn thiếu đồng bộ, cụ thể và vẫn tồn tại nhiều xung đột, mâu thuẫn. Các quy
định chủ yếu còn mang tính chung chung như hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, tham
gia mua sắm, cung ứng dịch vụ công, hỗ trợ đào tạo… Phần lớn các chính sách
này có phạm vi đối tượng rộng, dàn trải với đối tượng được hỗ trợ là gần như
toàn bộ các DNNVV mà chưa có sự định hướng riêng cho nhóm đối tượng đặc
thù, đặc biệt là các DNKNST.
Cho tới hiện tại chưa có đủ căn cứ để cho rằng DNKNST đã trở thành
một ưu tiên của Chính phủ hay một mục tiêu mũi nhọn trong định hướng phát
triển kinh tế Việt Nam thời gian tới bởi:
- Ở cấp trung ương, Chính phủ có nhiều Đề án tương tự trong nhiều lĩnh
vực khác nhau của đời sống kinh tế - xã hội. Vấn đề DNKNST vì vậy không phải
nhiệm vụ đặc biệt, cũng không có quy mô hay phạm vi ưu tiên so với các nhiệm
vụ khác.
Về phía Đơn vị chủ trì (Bộ Khoa học và Công nghệ), mặc dù hiện Bộ đã
có các văn bản hướng dẫn triển khai Đề án nhưng chưa có tổng kết kết quả thực
hiện; về mặt nội dung thì việc triển khai cũng gần tương tự như các Đề án khác
của Bộ, chưa thấy có khác biệt nào đáng kể. Ngoài ra, một Bộ quan trọng trong
triển khai Đề án là Bộ Tài chính (với trách nhiệm hướng dẫn về kinh phí từ
ngân sách Nhà nước cho các hoạt động hỗ trợ DNKN thuộc Đề án và bố trí
kinh phí sự nghiệp để thực hiện các nội dung Đề án) hiện chưa có văn bản nào
về việc này.
Các Bộ, cơ quan, tổ chức khác được giao nhiệm vụ xây dựng các kế
hoạch hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hàng năm và 5 năm trên cơ sở Đề
án cũng chưa có hoạt động nào cụ thể để triển khai Đề án.
- Ở cấp địa phương, mặc dù đối với Đề án này, các địa phương tỏ ra khá sốt
sắng trong việc ban hành các văn bản, kế hoạch thực thi Đề án nhưng dường như việc
51
triển khai trên thực tế còn mới ở bước đầu, chưa thể đánh giá được kết quả. Đó là
chưa kể tới việc một số địa phương kế hoạch triển khai khá sơ sài, nhắc lại các hoạt
động của Đề án là chủ yếu, không có biện pháp cụ thể. Một số trường hợp khác, kế
hoạch hoạt động thực chất là các biện pháp để hỗ trợ khởi sự kinh doanh nói chung,
không có hoặc rất ít những yếu tố đặc thù liên quan tới DNKNST.
- Ở cả hai cấp trung ương và địa phương, việc thực thi các văn bản chính
sách không có giá trị bắt buộc từ góc độ pháp luật như thế này thường sẽ phụ
thuộc vào quyết tâm của đơn vị chủ trì và sự tích cực, chủ động, nhiệt tình và
năng lực của các đơn vị thừa hành. Kinh nghiệm từ nhiều Đề án khác cho thấy,
hiệu quả thực tế của các chính sách dạng này là rất khó đoán định mà phần nhiều
là từ các lý do chủ quan.
Việc triển khai thực hiện CS hỗ trợ DNKNST đồng bộ từ Chính phủ, các
Bộ ngành, đến các địa phương đã có tác động tích cực đến số lượng DNKNST
và các doanh nghiệp thành lập mới, đầu tư nước ngoài trong những tháng cuối
năm 2016 và đầu năm 2017; góp phần quan trọng đạt được các mục tiêu của
chính sách đề ra.
Mặc dù khi cụ thể hóa các quy định, hướng dẫn để triển khai hoạt động
hỗ trợ khởi nghiệp trên địa bàn các địa phương đã rõ ràng hơn, song phần lớn
các quy định, hướng dẫn vẫn chưa đảm bảo được yêu cầu về tính cụ thể, đặc
biệt là đối với việc thu hẹp, tập trung vào các nhóm đối tượng nhất định. Không
ít trường hợp, các quy định, hướng dẫn của các địa phương chỉ đơn thuần là lựa
chọn và nhắc lại một số nội dung của Đề án “Hỗ trợ hệ sinh thái khởi nghiệp
đổi mới sáng tạo quốc gia đến năm 2025”.
Đề án ban hành theo Quyết định số 844/QĐ-TTg gần như là văn bản duy
nhất đặt ra các mục tiêu cụ thể mang tính định lượng về phát triển DNKNST
với các mục tiêu ngắn hạn và trung hạn. Tuy nhiên, tương tự như phần lớn các
đề án khác, các mục tiêu này chỉ mang tính định hướng, không ràng buộc trách
52
nhiệm đối với bất kỳ cơ quan, tổ chức nào, cũng không có biện pháp xử lý nào
trong trường hợp không đạt được mục tiêu.
Bên cạnh đó, mặc dù hệ thống quy định và chính sách đã và đang ngày
càng được hoàn thiện, nhiều nội dung cần được hướng dẫn cụ thể vẫn chưa có,
dẫn đến tình trạng khó triển khai các quy định và chính sách trên thực tế.
Các quy định và chính sách hiện nay còn thiếu, chưa đồng bộ và còn
những mâu thuẫn; Thiếu các quy định liên quan đến khung pháp lý cho hoạt
động của các tổ chức hỗ trợ tài chính cho hoạt động khởi nghiệp, đó là quỹ đầu
tư mạo hiểm và quỹ đầu tư “thiên thần”.
2.3.3.3. Đanh giá về tính khả thi và hiệu quả của hoạt động hỗ trợ
Về cơ bản, hệ thống quy định và chính sách hỗ trợ hoạt động khởi nghiệp
đang dần được hoàn thiện, tuy nhiên tính khả thi của các quy định và chính sách
này còn rất hạn chế. Cụ thể:
- Về định mức hỗ trợ cho các DNKNST đã được quy định khá rõ trong
các nghị định, tuy nhiên hai vấn đề ảnh hưởng tới tính khả thi của các chính
sách hỗ trợ tài chính, đầu tư là: Tiêu chí lựa chọn và sự phối hợp của các cơ
quan nhà nước vẫn còn rất hạn chế.
- Mặc dù Cổng thông tin quốc gia về khởi nghiệp đã chính thức ra đời
nhưng các nội dung, thông tin và tính liên kết đến các cổng thông tin liên quan
còn hạn chế. Vẫn thiếu các thông tin liên quan để kết nối các tổ chức hỗ trợ
khởi nghiệp và các nhà khởi nghiệp. Một số hoạt động như TechFest 2017 đã
được triển khai và đạt được một số kết quả nhất định, tuy nhiên các hỗ trợ thực
chất cho DNKNST còn ít, vì hạn chế về kinh phí.
- Hướng dẫn cụ thể về hỗ trợ kinh phí cho hoạt động khởi nghiệp từ
nguồn ngân sách nhà nước chưa được ban hành, vì vậy các hoạt động hỗ trợ
khởi nghiệp từ các quỹ có nguồn gốc ngân sách gần như chưa thể triển khai.
53
- Các bộ, ban, ngành, tổ chức liên quan được giao nhiệm vụ xây dựng
các kế hoạch hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo hàng năm và 5 năm trên cơ
sở Đề án cũng chưa cụ thể về cấp địa phương, việc triển khai trên thực tế mới ở
bước đầu, chưa thể đánh giá được kết quả. Đó là chưa kể tới, một số địa phương
kế hoạch triển khai khá sơ sài, nhắc lại các hoạt động của Đề án là chủ yếu, không
có biện pháp cụ thể. Ở cả hai cấp trung ương và địa phương, việc thực thi các
văn bản chính sách không có giá trị bắt buộc từ góc độ pháp luật như thế này
thường sẽ phụ thuộc vào quyết tâm của đơn vị chủ trì và sự tích cực, chủ động,
nhiệt tình và năng lực của các đơn vị thừa hành. Kinh nghiệm từ nhiều Đề án
khác cho thấy, hiệu quả thực tế của các chính sách này rất khác biệt ở các địa
phương khác nhau về hoạt động triển khai.
Về cơ bản, các cơ quan nhà nước có liên quan chưa đáp ứng được yêu
cầu phát triển của thực tiễn hoạt động khởi nghiệp, nhất là về nhận thức, kỹ
năng của cán bộ, khả năng đánh giá, giám sát.
Hỗ trợ từ phía cơ quan nhà nước cho DNKNST còn hạn chế và dàn trải,
chồng chéo, kém hiệu quả. Trong khi đó, thực tế cho thấy, phần lớn các hoạt
động hỗ trợ từ khu vực tư nhân đem lại hiệu quả tốt đối với cả hai phía là người
hỗ trợ và DNKNST mặc dù khung pháp luật cho hoạt động này vẫn còn thiếu và
nhiều bất cập.
Một số hạn chế từ phía các DNKNST cũng ảnh hưởng không nhỏ đến khả
năng được tiếp nhận các hỗ trợ, ví dụ như kỹ năng quản trị, điều hành kinh doanh,
xúc tiến, quảng bá phát triển. Bên cạnh đó, cơ sở hạ tầng kém phát triển, thủ tục
hành chính rườm rà cũng là những rào cản cho sự phát triển của hoạt động khởi
nghiệp.
2.3.3.4. Đánh giá về các chính sách tiếp cận tài chính
Các chính sách hỗ trợ tiếp cận tài chính cho khởi nghiệp chưa thực sự đáp
ứng được nhu cầu của các doanh nghiệp. Theo báo cáo của Bộ tài chính năm 2017
54
có đến 77,78% doanh nghiệp tham gia khảo sát đánh giá các chính sách về tiếp
cận tài chính cho khởi nghiệp góp phần nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ tài
chính của họ. Tuy nhiên, một số doanh nghiệp cho rằng các chính sách về tiếp cận
tài chính hiện nay của Nhà nước chưa chú trọng vào việc tài trợ đổi mới công nghệ
(35,36%), chưa hỗ trợ quá trình đào tạo tài chính cho doanh nghiệp khởi nghiệp
(43,94%). Đáng chú ý, các chính sách về nâng cao năng lực của các tổ chức tài
chính được các doanh nghiệp khởi nghiệp đánh giá cao, có đến 56,57% doanh
nghiệp chấp nhận được các chính sách này.[27]
Do tốc độ phát triển nhanh của hệ sinh thái khởi nghiệp với các cấu phần
mới nên cơ chế chính sách và khung pháp lý chưa được bổ sung kịp thời để
điều chỉnh sự hình thành và phát triển của những DNKNST theo phương thức
mới như Quỹ Đầu tư mạo hiểm Việt Nam, sự công nhận giá trị bằng tiền của
tài sản vô hình trong góp vốn thành lập công ty hay bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ
đối với DN khởi nghiệp... Cụ thể:
- Các chính sách tài chính đối với việc khởi sự kinh doanh tại Việt Nam
vẫn còn chung chung, chỉ là một cấu phần nhỏ trong một số chương trình, chưa
tập trung cụ thể vào đối tượng là DNKNST. Chính sách thuế hiện hành theo
hướng hỗ trợ DN theo địa bàn, lĩnh vực nên bất kỳ DN nào đáp ứng được các
điều kiện ưu đãi thì sẽ được hưởng các ưu đãi tương ứng. Do đó, nếu DNKNST
không thực hiện kinh doanh tại các địa bàn ưu đãi thuế, không đáp ứng được
các tiêu chuẩn trong các lĩnh vực khuyến khích đầu tư hiện hành thì cũng không
được hỗ trợ về thuế.
- Chính sách tín dụng khó tiếp cận do hầu hết các DNKNST ban đầu đều
có quy mô nhỏ, siêu nhỏ, nguồn vốn nội sinh ít, tài sản để thế chấp vay ngân
hàng hầu như không có. Bên cạnh đó, bản chất của các DNKNST, đặc biệt là
DNKNST là rủi ro cao nên các kênh huy động vốn truyền thống qua các ngân
hàng thương mại rất khó khăn.
55
Kết luận chương 2
Hiện nay, Chính phủ đang quyết tâm đẩy mạnh việc thực hiện chính sách
hỗ trợ DNKNST, và coi việc hỗ trợ các DNKNST là mục tiêu chính trị tiên
quyết và quan trọng trong thời kì mới. Với những ưu tiên của nhà nước số lượng
DNKNST ở Việt Nam phát triển mạnh mẽ trên cả số lượng và quy mô trong
giai đoạn từ năm 2011 đến 2018 và mạnh mẽ nhất trong giai đoạn năm 2016-
2018. Đặc biệt DNKNST Việt Nam đã có những bước đi đột phá về trình độ
phát triển và khả năng gọi vốn của mình. Cả nước đã và đang sục sôi khí thế
khởi nghiệp biến Việt Nam thành quốc gia.
Mặc dù trên thực tế còn chưa có một luật riêng dành cho DNKNST
nhưng nhà nước cũng đã đưa ra nhiều chương trình hành động cụ thể để hỗ trợ
DNKNST. Việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST đã đạt được nhiều thành
quả đáng ghi nhận, góp phần phát triển kinh tế cả nước và giúp các DNKNST
“vươn mình ra biển lớn”. DNKNST thể hiện được vai trò to lớn của mình vào
những đóng góp cho tăng trưởng kinh tế, cho thu hút đầu tư và thúc đẩy phong
trào KNST của cả nước.
Bên cạnh kết quả đạt được, việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
vẫn còn những hạn chế nhất định, làm ảnh hướng đến sự phát triển của
DNKNST. Việc chưa có luật dành riêng cho DNKNST ảnh hưởng rất lớn đến
việc thực hiện chính sách, làm cho việc thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư mạo
hiểm, các nhà đầu tư thiên thần chưa đạt được hiệu quả như mong muốn. Tại
một số địa phương việc thực hiện chính sách còn chung chung mang tính chất
phong trào chưa đi vào thực tiễn, phong trào KNST chỉ diễn ra mạnh mẽ ở các
thành phố lớn đem lại hiệu quả chưa cao cho việc kết nối các DNKNST trên cả
nước.
56
Trên cơ sở thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt
Nam, khái quát những kết quả đạt được và rút ra những hạn chế còn gặp phải,
đồng thời cũng xác định những nguyên nhân hạn chế nhằm tạo cơ sở để đưa ra
phương hướng và giải pháp phù hợp, hướng đến thực hiện hiệu quả hơn nữa
chính sách hỗ trợ DNKNST.
57
PHƯƠNG HƯỚNG, GIẢI PHÁP NÂNG CAO
HIỆU QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH HỖ TRỢ DOANH NGHIỆP
KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO
3.1. Phương hướng nâng cao hiệu quả thực hiện chính sách hỗ trợ
doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Trong những năm gần đây, khi KNST thực sự trở thành trào lưu mạnh
mẽ, các biện pháp hỗ trợ các DNKNST của Chính phủ càng lúc càng đa dạng
và tập trung hơn, cả về mục tiêu, cách thức triển khai lẫn quy mô hỗ trợ. Lý do
đằng sau các nỗ lực hỗ trợ DNKNST của Chính phủ ngày nay bên cạnh các
mục tiêu truyền thống còn có áp lực của cách mạng công nghiệp 4.0, định
hướng tương lai kinh tế số và nhu cầu đổi mới, thậm chí tái cơ cấu nền kinh tế,
để cải thiện năng lực cạnh tranh trong bối cảnh kinh tế kết nối toàn cầu.
Một điều dễ nhận thấy khi rà soát các tài liệu về DNKNST là ở hầu khắp
các nước, DNKNST thường gặp phải những vấn đề khá tương tự nhau. Xem xét
kỹ hơn từ góc độ nguyên nhân sẽ cho thấy sự tương đồng này có lý do xuất phát
từ các đặc điểm rất đặc trưng của các DNKNST, dù là ở nền kinh tế đang phát
triển hay đã phát triển, đó là những khó khăn về tài chính; khó khăn trong quản
trị kinh doanh; khó khăn trong tuân thủ các thủ tục hành chính.
Từ việc nghiên cứu, rà soát những khó khăn của DNKNST tác giả rút ra
những phương hướng để thực hiện tốt CS hỗ trợ DNKNST như sau:
Thứ nhất, phân tích và đánh giá đúng thực trạng. Chúng ta cần xem xét
và đánh giá đúng thực trạng triển khai hoạt động khởi nghiệp ở nước ta, nhằm
làm rõ những đặc trưng của hoạt động này, những ngành hoặc lĩnh vực mà khởi
nghiệp có nhiều khả năng thành công, trình độ cũng như mức độ áp dụng công
58
nghệ trong những ngành/lĩnh vực đó. Trên cơ sở đó, xem xét và áp dụng kinh
nghiệm phù hợp của các quốc gia khởi nghiệp đi trước vào thực tiễn ở Việt
Nam mới có hiệu quả.
Thứ hai, xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp. Chúng ta cần cụ thể hóa chủ
trương xây dựng quốc gia khởi nghiệp bằng một chương trình quốc gia khởi
nghiệp tổng thể, theo đó, nêu rõ những bước triển khai cụ thể để hình thành hệ
sinh thái khởi nghiệp. Cụ thể như: Khuôn khổ thể chế hỗ trợ cho hoạt động khởi
nghiệp bao gồm chính sách về thủ tục thành lập, đầu tư, thuế, thương mại hóa
sản phẩm công nghệ. Điểm cần lưu ý là các chính sách ưu đãi không chỉ dành
riêng cho DNKNST, mà còn bao gồm cả NĐT bỏ vốn vào các quỹ đầu tư khi
họ rót vốn cũng như thoái vốn; Chu trình hỗ trợ vốn đầu tư tương ứng với các
giai đoạn phát triển của DNKNST; Quy định hỗ trợ hoạt động của NĐT đặc
biệt là NĐT thiên thần và NĐT mạo hiểm; Các biện pháp tăng cường năng lực
và hoạt động của các tổ chức hỗ trợ khởi nghiệp như hệ thống vườn ươm công
nghệ hay các trung tâm thúc đẩy DNKN.
Thứ ba, xây dựng sàn chứng khoán chuyên biệt cho DNKNST. Việt Nam
có thể cân nhắc xây dựng Sàn chứng khoán chuyên biệt cho DNKN theo mô
hình Sàn KONEX của Hàn Quốc. Sự thành công sau 3 năm hoạt động của Sàn
KONEX cho thấy, việc tạo dựng một sàn giao dịch chuyên biệt có vai trò quan
trọng hỗ trợ cho DN khởi nghiệp tiếp cận trực tiếp nguồn vốn cần thiết cho sự
phát triển của mình. Mặt khác, hình thức Sàn KONEX cũng cung cấp một sàn
giao dịch thuận tiện để người mua người bán gặp nhau được dễ dàng hơn, cũng
như tạo khả năng thoái vốn cho các NĐT, đặc biệt là các NĐT thiên thần nhỏ
lẻ.
Tóm lại, phương hướng để nâng cao hiệu quả của CS hỗ trợ DNKNST
cũng như khuyến khích các hoạt động khởi nghiệp là việc điều chỉnh chính sách
59
một cách hữu hiệu, nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong việc thực hiện chính
sách.
3.2. Một số giải pháp thực hiện nhằm thực hiện hiệu quả chính
sách hỗ trợ doanh nghiệp khởi nghiệp sáng tạo
Nhận diện được các vấn đề của các DNKNST, Nhà nước thực hiện
chính sách hỗ trợ, can thiệp để giúp đỡ các DNKNST. Qua đó, thúc đẩy sự
phát triển của các DNKNST, các biện pháp hỗ trợ mà các Chính phủ đã hoặc
đang thực hiện đều tập trung vào việc giúp giải quyết hoặc xử lý các vướng
mắc, khó khăn, hạn chế của DNKNST.
Trên cơ sở kết quả nghiên cứu lý luận và thực tiễn, tác giả đề xuất một
số giải pháp hoàn thiện chính sách khởi nghiệp tại Việt Nam, cụ thể:
3.2.1. Hoàn thiện chính sách, môi trường pháp lý
Hoàn thiện việc xây dựng chiến lược khởi nghiệp quốc gia: Tùy vào
thế mạnh riêng, mỗi quốc gia và địa phương chọn cho mình những lĩnh vực ưu
tiên phù hợp, sau đó Nhà nước sẽ hỗ trợ các doanh nghiệp khởi nghiệp hoạt động
hiệu quả. Nhà nước cần nghiên cứu kỹ để có thể đưa ra một chiến lược quốc gia
hỗ trợ tích cực cho hoạt động khởi nghiệp, phù hợp với các chính sách khác của
quốc gia cũng như chính sách quốc tế, đồng thời vẫn chú trọng vào các lĩnh vực,
ngành mục tiêu khởi nghiệp.
Chiến lược khởi nghiệp quốc gia phải được thực hiện mạnh mẽ, nơi bắt đầu
là từ các trường đại học, để trong một tương lai rất ngắn chúng ta sẽ có một thành
phố khởi nghiệp và sau một thời gian ngắn, chúng ta sẽ trở thành một quốc gia
khởi nghiệp.
Cải thiện môi trường kinh doanh là điều kiện vô cùng quan trọng để hỗ
trợ các DNKNST trong chiến lược khởi nghiệp quốc gia. Cải thiện môi trường
kinh doanh giúp DNKNST thành công trong hội nhập kinh tế trước những cạnh
tranh gay gắt hiện nay. Điều này đảm bảo cho việc phát triển các thị trường yếu
60
tố sản xuất một cách lành mạnh, linh hoạt, giảm thiểu chi phí giao dịch, nhất là
đối với thị trường bất động sản, thị trường tài chính...
Tối ưu hóa môi trường pháp lý: Qua nghiên cứu kinh nghiệm của Nhật
Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Hoa Kỳ, Vương quốc Anh, Pháp và một số nước
phát triển khác, tác giả rút ra những bài học cho Việt Nam về tạo lập cơ chế,
chính sách hỗ trợ DNKNST như: Cần có nhận thức đầy đủ, quan điểm toàn diện,
coi trọng vai trò và vị trí của DNKNST trong phát triển kinh tế - xã hội; Đồng thời,
hoàn thiện xây dựng thể chế, chính sách cho DNKNST, sớm hoàn thiện, cụ thể
hóa hơn về DNKNST trong Luật DNNVV; Xây dựng chính sách hỗ trợ DNKNST
một cách toàn diện, có sự tham gia của các tổ chức tài chính, ngân hàng và các cơ
quan nhà nước.
Song song với với ban hành hệ thống chính sách hỗ trợ, cần sớm thiết
lập hệ thống (cơ quan, tổ chức) để triển khai và thực thi cơ chế chính sách này;
Hỗ trợ xây dựng hệ thống cung cấp dịch vụ cho DNKNST, nâng cao việc chỉ
đạo và dịch vụ công của Chính phủ dành cho các DNKNST. Đặc biệt, tăng
cường vai trò của Nhà nước trong xây dựng quan hệ hợp tác nhiều mặt giữa các
DNKNST với các DN lớn và các quỹ đầu tư mạo hiểm.
Cần đánh giá lại toàn diện hoạt động của khu vực DNKNST; tạo một khí
thế mới cho cộng đồng DNKNST trên cơ sở các cam kết của Chính phủ về việc
minh bạch hoá, công bằng hoá sự phát triển kinh tế nói chung. Đặc biệt, phát huy
hơn nữa vai trò của DN tư nhân, tôn trọng và bảo đảm quyền tự do kinh doanh
theo pháp luật, bảo hộ quyền sở hữu tài sản hợp pháp, tuân thủ các nguyên tắc và
thông lệ quốc tế.
Nhà nước có thể thực hiện các biện pháp giảm thuế, thay đổi cách tính
thuế GTGT. Cụ thể, Nhà nước cần giảm thuế hoặc không đánh thuế từ 1-3 năm
từ khi thành lập doanh nghiệp, thuế doanh nghiệp và khu vực tư nhân được
giảm thấp hơn, và ưu đãi về thuế. Đồng thời, cần đơn giản hóa thủ tục nhà nước,
61
loại bỏ tính quan liêu. Cụ thể, Nhà nước cần tổ chức lại hệ thống hành chính,
quản lý tài chính liên quan đến công quỹ, và đơn giản hóa thủ tục thành lập/đóng
cửa doanh nghiệp. Khung pháp lý mới cũng cần đặt ra cho các doanh nghiệp khởi
nghiệp thúc đẩy cơ hội tái khởi động sau khi doanh nghiệp phá sản, đẩy nhanh thủ
tục phá sản, đẩy mạnh hệ thống phòng ngừa phá sản. Nhà nước cũng cần đề cao
yếu tố minh bạch trong hoạt động hỗ trợ DNKNST như: xoá bỏ tham nhũng, số
liệu được chính phủ công bố, chia sẻ thông tin sớm.
Tiếp tục hoàn thiện thể chế, chính sách hỗ trợ; cơ chế chính sách thúc đẩy
phát triển hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo. Trong đó, đặc biệt chú ý:
- Đẩy mạnh việc sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản không còn phù hợp,
xây dựng bộ máy quản lý nhà nước trong sạch; Nâng cao trình độ nắm vững và
thi hành pháp luật của đội ngũ công chức quản lý nhà nước có liên quan trực
tiếp đối với DNKNST; Thay đổi tư duy quản lý sang trách nhiệm phục vụ,
hướng dẫn DNKNST phát triển, giảm sự nhũng nhiễu, thờ ơ, thiếu trách nhiệm
của công chức, đảm bảo cho các cơ quan quản lý nhà nước từ Trung ương đến
địa phương thực sự là chỗ dựa vững chắc, là người trợ giúp thật hiệu quả đối
với DNKNST.
- Có những tiêu chí để phân loại, đánh giá hoạt động của DNKNST cụ
thể rõ ràng, tránh đánh giá chung, phân biệt rõ thế nào là DNKNST. Đồng thời,
có chiến lược ưu tiên tháo gỡ khó khăn, xây dựng những nhân tố nòng cốt,
nhằm tôn vinh và nhân rộng các điển hình tiên tiến; Tạo môi trường để các
DNKNST Việt Nam tăng cường liên kết với nhau, khích lệ họ có niềm tin và
sự cống hiến hết mình vì một đất nước Việt Nam thịnh vượng.
- Tăng cường xúc tiến thương mại và quản lý thị trường; Có cơ chế để
đẩy mạnh việc xuất khẩu hàng hoá dịch vụ và đầu tư vào các nước đã ký các
hiệp định thương mại và đầu tư; Loại bỏ những rào cản gây ảnh hưởng tiêu cực
62
đến sự tham gia hiệu quả các chuỗi giá trị toàn cầu, kể cả việc xuất khẩu lao
động.
Cần có chính sách tăng cường giáo dục tinh thần khởi nghiệp và phát
triển các kỹ năng: Hiện nay, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn quá trẻ so
với thế giới nhưng có nhiều tiềm năng để khởi dậy tinh thần khởi nghiệp mạnh
mẽ. Nhà nước cần quan tâm đến các chính sách đẩy mạnh giáo dục như: tài trợ
các chương trình đào tạo khởi nghiệp, đào tạo miễn phí trong ngành lên kế
hoạch kinh doanh, đào tạo sau đại học về khởi nghiệp, học vị Thạc sĩ. Ngoài
ra, cần thay đổi hệ thống giáo dục, các biện pháp giáo dục, thay đổi tổ chức các
trường đại học và toàn bộ hệ thống trường trung học, nâng cao kiến thức khởi
nghiệp. Cải cách hệ thống giáo dục từ phổ thông đến đại học theo hướng gắn
với giáo dục – đào tạo với hoạt động thực tiễn, đề cao tinh thần làm chủ, thúc
đẩy văn hóa khởi nghiệp là điều kiện tiên quyết để bản thân mỗi người hình
thành ý chí tự thân lập nghiệp.
Cần chuẩn bị nguồn nhân lực cho khởi nghiệp sáng tạo bền vững từ
trường phổ thông thông qua giáo dục khởi nghiệp. Cần đưa chương trình giáo
dục khởi nghiệp vào giảng dạy trong các chương trình học trung học phổ thông,
đặc biệt là trong giáo dục cao đẳng, đại học. Gần đây, một số trường đại học đã
thiết kế, giảng dạy các bộ môn liên quan đến giáo dục khởi nghiệp, giúp cho
sinh viên nắm bắt cơ hôi khởi nghiệp và quản lý điều hành DNKNST. Cải cách
hệ thống đào tạo, đặc biệt là đào tạo khởi nghiệp tại các trường, các trung tâm
đào tạo…, mời những nhà DN nổi tiếng, các doanh nhân trẻ giảng dạy, để chia
sẻ kinh nghiệm, kiến thức để đem đến những bài học quý cho những doanh
nhân tương lai khi bắt đầu khởi nghiệp.
Hệ thống giáo dục cũng phải có những chuyển biến mạnh về mục tiêu,
nội dung và phương pháp đào tạo, giảng dạy để giảm thiểu tinh thần học để làm
“thầy”, làm “quan”; tăng cường các hoạt động hướng nghiệp để học sinh ra
63
trường biết chọn hướng đi thích hợp với khả năng của mình; khơi gợi khả năng
sáng tạo thay vì cách học nhồi sọ, một chiều như hiện tại vốn chỉ tạo ra những
con người thụ động, phục tùng và ỷ lại vào người khác... Có thể nói, hệ thống
giáo dục là một trong những mắt xích quan trọng nhất trong hệ thống các yếu
tố nuôi dưỡng và thúc đẩy tinh thần khởi nghiệp hiện đang là điểm rất yếu ở
Việt Nam.
Cần có chính sách tạo điều kiện trao đổi và đổi mới công nghệ: Để có
một hệ sinh thái khởi nghiệp công nghệ cao, Nhà nước cần nâng cao cơ sở hạ
tầng trực tuyến và trực tiếp như tạo ra các cơ chế để tăng cường hợp tác giữa các
doanh nghiệp khởi nghiệp, xây dựng nền tảng cho việc tìm kiếm đối tác, nền tảng
giao kết và các sự kiện, cổng thông tin ảo. Bên cạnh đó, cũng cần xây dựng cơ sở
dữ liệu của bên yêu cầu, tạo lập các vườn ươm doanh nghiệp có chất lượng, đầu
tư các khu công nghệ cao, không gian công cộng cho mạng lưới liên kết và làm
việc nhóm; cần tăng cường trao đổi kiến thức và chia sẻ bằng cách tăng cường
hợp tác giữa các tổ chức giáo dục và khởi nghiệp, viện nghiên cứu và khu công
nghiệp, chuyển giao và đổi mới công nghệ trong môi trường kinh doanh, chia sẻ
và hợp tác với các doanh nghiệp khởi nghiệp nước ngoài.
Thiết lập quan hệ đối tác giữa Nhà nước và DNKNST để làm chủ công
nghệ trong các mảng kinh tế - xã hội chiến lược. Trong giai đoạn toàn cầu hóa
mạnh hiện nay, quan hệ giữa Chính phủ và DNKNST nên được đẩy mạnh lên
thành quan hệ đối tác. Bởi, chính DNKNST là những đầu mối có thể tiếp cận
nhanh nhất các thành tựu phát triển toàn cầu và vì thế có thể mang những thành
tựu đó phát triển lên, làm chủ công nghệ để đóng góp cho sự phát triển của đất
nước.
Chính phủ cần tiến hành các biện pháp thúc đẩy nhanh việc triển khai
Chương trình đổi mới công nghệ quốc gia và hoạt động của Quỹ Đổi mới công
nghệ quốc gia, hướng vào các hoạt động phục vụ các lĩnh vực nông nghiệp
64
công nghệ cao và công nghiệp phụ trợ nhằm hỗ trợ tốt nhất về môi trường công
nghệ cho DNKNST.
3.2.2. Tăng cường hỗ trợ tài chính
Đây là nhóm biện pháp nhằm giúp các DNKNST vượt qua khó khăn
được cho là lớn nhất của mình – thiếu vốn.
Hỗ trợ trực tiếp từ Chính phủ: Nếu Việt Nam muốn tập trung phát triển
DNKNST để làm đòn bẩy kinh tế, Chính phủ cần tham gia đầu tư trực tiếp để
kích thích tăng trưởng về số lượng và chất lượng các DNKNST, đặc biệt là giai
đoạn đầu. Đồng thời qua đó thu hút khối tư nhân đầu tư vào DNKNST. Việc
làm này sẽ thu hút không chỉ DNKNST và nhà đầu tư tư nhân ở Việt Nam và
còn trong khu vực và trên toàn thế giới.
Biện pháp này là rất đa dạng, phụ thuộc vào nguồn lực của Chính phủ cũng
như đặc điểm vận hành hệ thống ở mỗi giai đoạn phát triển. Thông thường sẽ bao
gồm:
- Các khoản hỗ trợ tài chính cho các DNKNST: Các hỗ trợ này thường
dưới dạng khoản tài trợ trực tiếp vào các startups (thường ở giai đoạn “ươm
mầm” (seeds), ý tưởng hoặc giai đoạn đầu của quá trình phát triển sản phẩm).
Chính phủ có thể thực hiện hỗ trợ tiền mặt, dựa trên cân đối thu, chi NSNN,
Chính phủ nghiên cứu, xem xét giải pháp hỗ trợ các DNKNST thông qua hỗ
trợ một lượng tiền mặt theo một tỷ lệ nhất định trên vốn tự có của DNKNST;
- Các khoản cho vay, bảo lãnh tín dụng: Chính phủ đứng ra bảo lãnh tín
dụng cho những DNKNST đi kèm các cam kết về sử dụng khoản vay, vốn đối
ứng tối thiểu. Ví dụ các khoản tín dụng dành cho DNKNST từ các quỹ, tổ chức
tín dụng của Nhà nước hoặc các biện pháp bảo lãnh cho các DNKNST vay tín
dụng tại các ngân hàng, tổ chức tín dụng tư nhân.
- Các khoản đầu tư mạo hiểm: việc đầu tư này có thể được thực hiện
thông qua các quỹ đầu tư Nhà nước hoặc đầu tư gián tiếp thông qua việc phối
65
hợp đầu tư với các nhà đầu tư/quỹ đầu tư tư nhân hoặc cung cấp các chương
trình bảo lãnh đầu tư cho các nhà đầu tư/quỹ đầu tư tư nhân đầu tư vào
DNKNST.
- Miễn, giảm các nghĩa vụ tài chính với Nhà nước: Ở nhóm biện pháp
này Nhà nước hỗ trợ startup thông qua việc giảm các nghĩa vụ về tài chính phải
nộp của DNKNST (ví dụ miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, thuế giá trị
gia tăng, giảm các mức đóng góp cho bảo hiểm xã hội…).
- Phát triển thêm các kênh huy động vốn cho DNKNST, chú trọng huy
động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nghiên cứu và triển khai sàn giao
dịch chứng khoán dành cho các DNKNST, giúp các DN huy động vốn trực tiếp
từ xã hội góp phần tích cực trong việc tháo gỡ khó khăn về vốn cho DNKNST.
Mô hình này đã rất thành công trong việc hỗ trợ cho DNKNST, góp phần giảm
bớt áp lực huy động nguồn tài chính - thường là gánh nặng đối với các
DNKNST mới thành lập. Cần xây dựng một thị trường vốn chuyên dành cho
các DNKNST. Việc xây dựng một thị trường chứng khoán tập trung cung cấp
vốn cho các DNKNST, tách bạch với thị trường niêm yết có thể có lợi đặc biệt
đối với nền kinh tế đang tăng trưởng của Việt Nam. Thị trường này sẽ cung cấp
cơ hội cho DNKNST có thể tiếp cận các nguồn vốn với những tiêu chuẩn đặt
ra ở mức thấp hơn chẳng hạn tiêu chuẩn công khai về đặc tính của sản phẩm,
báo cáo đánh giá tác động của sản phẩm đến thị trường, báo cáo triển vọng của
sản phẩm….
Nhà nước khuyến khích các nhà đầu tư thiên thần, thành lập các quỹ đầu
tư mạo hiểm, đây là nhóm biện pháp kêu gọi khu vực tư nhân tham gia vào hoạt
động đầu tư mạo hiểm cho DNKNST. Xây dựng Quỹ đầu tư cho DNKNST
theo mô hình hợp tác công - tư thuộc Chính phủ nhằm mục đích kêu gọi vốn
đầu tư, tài trợ từ các thành phần xã hội cho các dự án khởi nghiệp đổi mới sáng
tạo tiềm năng. Quỹ đầu tư này sẽ được đăng ký hoạt động theo mô hình Công
66
ty đầu tư tài chính và ủy thác đầu tư. Phần lợi nhuận tạo ra từ nguồn đầu tư của
Nhà nước và các nhà tài trợ sẽ được sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động ươm
tạo công nghệ, ươm tạo DNKNST cũng như đầu tư trực tiếp cho DNKNST
tiềm năng.
Hỗ trợ từ khu vực tư nhân: Để thực hiện được hệ sinh thái khởi nghiệp,
doanh nghiệp lớn đi trước nên cấp vốn cho DNKNST. Những doanh nghiệp
lớn coi trách nhiệm hỗ trợ DNKNST là những mục tiêu phát triển cộng đồng
lớn nhất. Vai trò của doanh nghiệp đi trước rất lớn, cùng với đó nguồn lực trên
thị trường còn rất nhiều, do đó, cần cố gắng khơi dậy những nguồn lực từ các
doanh nghiệp, tập đoàn quay lại đầu tư vào khởi nghiệp.
Các chương trình hỗ trợ khởi nghiệp, vườn ươm DNKNST thường là
hình thức hỗ trợ khởi nghiệp được thành lập bởi các tổ chức chính phủ, các
trường đại học, các DN lớn… Các mô hình này cung cấp vốn vay với lãi suất
ưu đãi, vốn tài trợ cho các dự án tham gia; đồng thời, cung cấp cơ sở vật chất,
hạ tầng sản xuất, công nghệ, kỹ thuật, các khóa học về kinh doanh hoặc hệ
thống tư vấn pháp luật miễn phí hoặc với chi phí ưu đãi.
Phát triển các quỹ đầu tư mạo hiểm để làm “cầu nối” giữa bên cần vốn
với bên có vốn nhàn rỗi. Với mục tiêu hỗ trợ tài chính cho DNKNST thì nhiều
loại hình định chế tài chính trung gian đã ra đời. Một trong số đó là quỹ đầu tư.
Là một dạng doanh nghiệp đặc biệt, quỹ đầu tư không dùng vốn để mua máy
móc thiết bị phục vụ các hoạt động sản xuất kinh doanh, mà dùng vốn để đầu
tư trực tiếp (góp cổ phần, mua cổ phiếu phát hành lần đầu với tư cách là cổ
đông sáng lập); hoặc gián tiếp (kinh doanh chứng khoán nhằm hưởng chênh
lệch giá hay cổ tức từ các công ty hoặc lợi tức trái phiếu).
Phát triển thị trường dịch vụ tư vấn trong các lĩnh vực tài chính, quản lý,
công nghệ, luật pháp... Tại các nước có nền công nghiệp đầu tư vốn mạo hiểm
phát triển, quá trình gia tăng giá trị tài sản của nhà đầu tư mạo hiểm trong các đối
67
tác được tài trợ không thể thiếu vai trò của các nhà tư vấn. Hơn nữa hoạt động tư
vấn phát triển sẽ tạo ra mạng lưới thông tin hiệu quả giúp các nhà đầu tư hạn chế
được rủi ro và có thể dự báo hợp lý về xu hướng phát triển trong các lĩnh vực công
nghệ mới.
Thành lập hiệp hội các nhà đầu tư vốn mạo hiểm Việt Nam. Hiệp hội là
nơi kết nối và tập trung các luồng thông tin có giá trị liên quan đến hoạt động
đầu tư vốn mạo hiểm. Hơn nữa, hiệp hội còn mở ra nhiều cơ hội cho các nhà
đầu tư mạo hiểm tham gia hợp tác kinh doanh trong cùng một thương vụ nhằm
chia sẻ rủi ro. Đây cũng là một xu thế phổ biến trên thế giới hiện nay.
Các DNKNST cố gắng liên kết lại với nhau để hỗ trợ nhau về công nghệ,
thị trường và nguồn vốn. Tuy nhiên, liên kết giữa các startup trên thị trường
không chỉ là liên kết của doanh nghiệp khởi nghiệp với nhau mà nó còn là sự
liên kết từ các cơ quan tổ chức khác nhau từ Chính phủ, trường đại học, nhà
đầu tư…
3.2.3. Đẩy mạnh hoạt động tư vấn, hỗ trợ kinh doanh
Các giải pháp này nhằm giúp các DNKNST vượt qua được các khó khăn
về kinh doanh do thiếu các kiến thức cần thiết về kinh tế, quảng bá và kết nối
mạng lưới. Ở một góc độ nhất định, các biện pháp thuộc nhóm này cũng góp
phần hỗ trợ cho DNKN vượt qua các khó khăn về vốn của mình (thông qua
việc giảm bớt các chi phí về quản lý, thuê dịch vụ…).
Do các thị trường có đặc điểm tương đối khác biệt (thị trường hàng hóa,
thị trường địa lý, hành chính…), dẫn tới nhu cầu tư vấn, hỗ trợ khác nhau. Vì
vậy các biện pháp hỗ trợ thuộc nhóm này cũng rất đa dạng, tuy nhiên chủ yếu
vẫn là:
- Hỗ trợ ứng dụng, chuyển giao công nghệ; hỗ trợ sử dụng trang thiết bị tại
cơ sở kỹ thuật; hỗ trợ tham gia cơ sở ươm tạo, khu làm việc chung; hướng dẫn thử
nghiệm, hoàn thiện sản phẩm mới, dịch vụ và mô hình kinh doanh mới;
68
- Hỗ trợ thông tin, truyền thông, xúc tiến thương mại, kết nối mạng lưới
khởi nghiệp sáng tạo, thu hút đầu tư từ các quỹ đầu tư khởi nghiệp sáng tạo;
- Hỗ trợ tư vấn về pháp lý và quản trị miễn phí hoặc được tài trợ một
phần phí.
- Hỗ trợ marketing cho DNKNST, bao gồm cả quảng bá, giới thiệu, xúc
tiến thương mại cho sản phẩm của DNKNST. Giúp DNKNST thực hiện thương
mại hóa kết quả nghiên cứu khoa học và phát triển công nghệ, khai thác và phát
triển tài sản trí tuệ.
- Hỗ trợ đào tạo, huấn luyện chuyên sâu về xây dựng, phát triển sản
phẩm; thu hút đầu tư; tư vấn về sở hữu trí tuệ; thực hiện các thủ tục về tiêu
chuẩn, quy chuẩn kỹ thuật, đo lường, chất lượng. Hỗ trợ kết nối để các DNKN
có thể tiếp cận được mạng lưới các nhà đầu tư, các đơn vị, chương trình, dự án
hỗ trợ khởi nghiệp sáng tạo.
Nhà nước cần tập trung đẩy mạnh chính sách phát triển hệ thống vườn
ươm công nghệ: Cần coi trọng việc phát triển hệ thống vườn ươm công nghệ
như là một công cụ đòn bẩy quan trọng trong hỗ trợ phát triển DNKNST bằng
KHCN, thương mại hoá công nghệ và thúc đẩy đổi mới, chuyển giao công nghệ,
liên kết khoa học với sản xuất, thị trường. Nhà nước đóng vai trò “bà đỡ” cho
các DNKNST. Nguồn kinh phí hỗ trợ các cơ sở ươm tạo cũng như DNKNST
thực hiện theo cơ chế Nhà nước hỗ trợ 50%, 50% còn lại là kinh phí của các tổ
chức.
Thúc đẩy việc phát triển các mô hình vườn ươm đặc thù như vườn ươm
tại các trường đại học, hoặc vườn ươm cho chuyên gia kiều bào, hay mô hình
vườn ươm DNKNST được thành lập ngay trong DN nhà nước, nhất là các tập
đoàn, tổng công ty lớn.
Xây dựng và kết nối trang thông tin điện tử Vườn ươm doanh nghiệp đổi
mới sáng tạo trong các lĩnh vực để hỗ trợ và cung cấp thông tin cần thiết cho
69
các cá nhân, nhóm cá nhân, doanh nghiệp trong các lĩnh vực. Hỗ trợ các vườn
ươm quảng bá công nghệ, các DNKNST thông qua các hình thức tổ chức hội
chợ công nghệ, xúc tiến thương mại điện tử…
3.2.4. Hỗ trợ việc xây dựng cơ sở hạ tầng
Xây dựng khu tập trung dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo tại
các Bộ, ngành, địa phương có tiềm năng phát triển hoạt động khởi nghiệp, trong
đó hỗ trợ một phần kinh phí sửa chữa và áp dụng mức phí ưu đãi trong khai
thác cơ sở hạ tầng (diện tích, không gian sẵn có) tại các địa điểm thuận lợi cho
cung cấp dịch vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo, ưu tiên khu vực gần các
trường đại học, tổ chức kinh tế, tài chính; hỗ trợ kinh phí lắp đặt hạ tầng công
nghệ thông tin và cung cấp dịch vụ Internet miễn phí trong Khu tập trung dịch
vụ hỗ trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Thu hút tư nhân đầu tư sửa chữa, trả phí khai thác cơ sở hạ tầng, lắp đặt
trang thiết bị cần thiết và tổ chức quản lý, khai thác Khu tập trung dịch vụ hỗ
trợ khởi nghiệp đổi mới sáng tạo; cung cấp các dịch vụ đào tạo, huấn luyện, tư
vấn; kết nối đầu tư, khách hàng; cung cấp nguồn nhân lực, không gian làm việc,
thiết bị dùng chung cho hoạt động khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.
Phần lớn các DNKNST có nhu cầu cao mặt bằng hoạt động, cơ sở vật
chất, trang thiết bị hiện đại để nghiên cứu nhưng lại không có đủ nguồn lực
trang trải cho các cơ sở vật chất này. Vì vậy, hầu như ở tất cả các nước nơi Nhà
nước có biện pháp hỗ trợ DNKN đều sử dụng biện pháp hỗ trợ này.
Hỗ trợ về mặt bằng sản xuất, kinh doanh thông qua các chính sách
khuyến khích về các nhà đầu tư xây dựng các khu dịch vụ dùng chung cho các
DNKNST, như hỗ trợ một phần chi phí xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật, chi
phí vận hành, chi phí thuê mặt bằng.
Nhóm này bao gồm các biện pháp như:
70
- Xây dựng cơ sở hạ tầng, thiết lập các khu làm việc chung, các công
viên công nghệ, vườn ươm khoa học của Nhà nước, từ đó cung cấp không gian
làm việc và trang thiết bị với giá hợp lý, hoặc miễn giảm phí thuê cho các
startup;
- Hỗ trợ các chi phí về cơ sở hạ tầng cho startup tại các khu làm việc,
vườn ươm tư nhân
3.2.5. Tăng cường truyền bá tạo động lực, cảm hứng
Giải pháp này được biết tới chủ yếu thông qua các hoạt động mang tính
chất bề nổi, truyền thông rộng rãi, qua đó tạo cảm hứng, thúc đẩy tinh thần sáng
tạo khởi nghiệp, xây dựng nhận thức, văn hóa tích cực của xã hội đối với
startup, lựa chọn các startup mục tiêu để tập trung hỗ trợ hiệu quả.
Nhóm biện pháp này được sử dụng hầu như ở tất cả các nước, với ưu
điểm là chi phí thấp, lại tạo hiệu quả lan tỏa rộng:
- Các cuộc thi, giải thưởng cho các startup
- Các hoạt động quảng bá, truyền thông (chuyên mục báo chí… nhằm
tăng cường nhận thức của công chúng đối với startup
- Bảo trợ, thúc đẩy thành lập các tổ chức kết nối, đại diện (ví dụ các câu
lạc bộ, cộng đồng, nhóm tương trợ…) cho các startup.
Hiện nay, môi trường khởi nghiệp Việt Nam còn rất non trẻ so với thế
giới nhưng chúng ta vẫn có nhiều tiềm năng để khơi dậy tinh thần khởi nghiệp
một cách mạnh mẽ: còn đang ở trong (cuối) thời kì dân số vàng, nền kinh tế
đang phát triển, hơn nửa triệu doanh nghiệp đang hoạt động, hàng trăm trường
đại học và trung tâm nghiên cứu đang hoạt động trên khắp cả nước. Cần phải
hình thành tinh thần khởi nghiệp cho giới trẻ ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà
trường. Bài học từ các quốc gia phát triển trên thế giới cho thấy, ý chí tự làm
chủ của con người phải được tôi luyện trong hệ thống giáo dục và xã hội ngay
từ khi còn nhỏ.
71
Theo số liệu công bố của nhà nước, trong những năm gần đây, số lượng
các công ty mới thành lập bình quân khoảng 80.000 doanh nghiệp/năm (riêng
năm 2016 có thể tăng đến gần 100.000 công ty); nhưng cũng đã có bình quân
khoảng 50.000 công ty ngừng hoạt động/mỗi năm. Điều này chứng tỏ tinh thần
khởi nghiệp của giới trẻ Việt Nam có tiềm năng phát triển, thị trường khởi
nghiệp Việt Nam đang có sức sống. [27]
3.2.6. Đẩy mạnh hoạt động giáo dục đào tạo
Giải pháp này bao gồm các biện pháp nhằm xây dựng các kỹ năng mà
các DNKNST thường bị hạn chế, qua đó thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc khởi
nghiệp sáng tạo.
Mục tiêu là tạo dựng tinh thần khởi nghiệp - đổi mới - sáng tạo trong học
đường, các trường đại học cao đẳng cần có nhiều chương trình học và làm thiết
thực, cung cấp kiến thức và truyền cảm hứng làm chủ sự nghiệp, làm chủ bản
thân cho sinh viên. Phát triển khởi nghiệp trong trường đại học, cần tạo diễn
đàn chung cho sinh viên các ngành khác nhau, phải có một nơi cho các em đến
giao lưu, gặp gỡ, trao đổi ý tưởng. Vai trò cốt lõi của đại học là tạo ra hạt giống
và ươm tạo các ý tưởng khởi nghiệp. Nhà trường có điều kiện tạo môi trường
thuận lợi để sinh viên tham gia các hoạt động đổi mới, sáng tạo và nghiên cứu
khoa học, tổ chức các cuộc thi ý tưởng khởi nghiệp, tạo sự kết nối giữa các
nhóm nhằm hình thành các dự án khởi nghiệp.
Đối với giai đoạn khi hệ sinh thái khởi nghiệp ngay trong trường phát triển
tốt, các trường đại học phát huy tối đa vai trò kết nối. Đó là sự kiến tạo liên kết
giữa sinh viên với DNKNST để tạo việc làm; giữa nhà khoa học với DNKNST,
đưa tri thức, dự án nghiên cứu vào đời sống - xã hội, sản xuất, kinh doanh; kết nối
các nguồn lực hỗ trợ sinh viên khởi nghiệp sáng tạo. Với hoạt động này, trường
đại học không chỉ là nơi ươm mầm cho các dự án kinh doanh đổi mới, sáng tạo
tiềm năng mà còn tạo cơ hội thu hút những tài năng đến tăng trải nghiệm cọ xát
với môi trường thực tiễn cho sinh viên trong trường.
72
Các trường đại học, cao đẳng phải đóng vai trò tiên phong trong việc
nghiên cứu ứng dụng, đáp ứng nhu cầu của doanh nghiệp nhằm phục vụ cho
cộng đồng và đời sống xã hội. Đồng thời, tiên phong trong việc tiếp cận các
thành tựu khoa học tiên tiến của thế giới, thử nghiệm và truyền tải những kiến
thức đó đến các thế hệ, đưa ra các định hướng phù hợp với tiến bộ của thế giới.
Vai trò của đại học cũng rất quan trọng trong chuyển giao kết quả nghiên cứu
thành công đến với doanh nghiệp, tạo ra các kết nối giữa doanh nghiệp và nhà
trường.
Về cơ bản nhóm giải pháp về thông qua giáo dục để phát triển DNKNST
thường bao gồm:
- Các chương trình đào tạo, hướng dẫn khởi nghiệp tại các trường đại
học, các cơ sở giáo dục bậc cao (đào tạo, tập huấn các kiến thức kinh doanh,
các kỹ năng, điều kiện, quy trình để sinh viên có thể khởi nghiệp)
- Các chương trình đào tạo kỹ năng quản trị, quản lý tài chính, lao động…
cho các sáng lập viên của các DNKNST.
73
Kết luận chương 3
Phát triển DNKNST được Chính phủ coi là nhiệm vụ trọng tâm, thường
xuyên và liên tục. Theo đó, các cơ quan thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST
đã tạo ra những bước tiến rõ rệt, các DNKNST được hỗ trợ về thủ tục pháp lý,
hỗ trợ tư vấn cũng như tạo điều kiện hỗ trợ vốn hoặc kêu gọi các nhà đầu tư
thiên thần.
Để thực hiện được tốt nhất việc hỗ trợ DNKNST cần có phương hướng
và giải pháp thực hiện cụ thể hơn nữa, cần sự quyết liệt của cả hệ thống chính
trị. Việc thực hiện đồng loạt các nhóm giải pháp sẽ tác động trực tiếp và có hiệu
quả cao đến DNKNST. Với việc tham gia hàng loạt các FTA thế hệ mới việc
hỗ trợ DNKNST sẽ mở ra nhiều cơ hội cho DNKNST có cơ hội tiếp cận với
vốn, với thị trường quốc tế, nhằm tránh trường hợp DNKNST bị “chết” từ trong
chính thị trường Việt Nam khi không cạnh tranh được với các doanh nghiệp
nước ngoài.
Qua thực tiễn việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam.
Những tồn tại, hạn chế đã được chỉ ra, đề tài đề xuất phương hướng, giải pháp
nhằm đẩy mạnh thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam
những năm tiếp theo như hoàn thiện pháp lý, hỗ trợ tài chính, tư vấn, hỗ trợ cơ sở
vật chất, truyền bá tinh thần khởi nghiệp và giáo dục đào tạo về KNST.
74
KẾT LUẬN
Với việc hội nhập ngày càng sâu rộng, Việt Nam đã và đang nhận được sự
quan tâm và đầu tư từ các doanh nghiệp trên khắp thế giới. Hệ sinh thái khởi
nghiệp theo đó cũng dần được hình thành, hướng tới mục tiêu quốc gia khởi
nghiệp với khởi nghiệp sáng tạo là trung tâm. Việc nghiên cứu về thực hiện chính
sách hỗ trợ DNKNST là cần thiết lúc này nhằm đánh giá khách quan, chính xác
vai trò đóng góp của DNKNST, đồng thời đề ra được phương hướng, giải pháp
nhằm hỗ trợ DNKNST.
Nghiên cứu về thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST tại Việt Nam là một
đề tài còn mới, tuy nhiên thời gian gần đây đã được nhiều tác giả nghiên cứu.
Mỗi tác giả, mỗi bài viết đưa ra những quan điểm nội dung khác nhau về thực
hiện chính sách hỗ trợ DNKNST nhưng có một mục tiêu chung là đưa việc thực
hiện chính sách có hiệu quả tốt hơn cho DNKNST và hoàn thiện hơn chính sách
hỗ trợ DNKNST.
Trong quá trình toàn cầu hóa, thời đại của cách mạng công nghiệp 4.0
các DNKNST có giá trị vô cùng to lớn trong việc đưa hình ảnh đất nước, đưa
nền kinh tế vươn tầm. Với hoạt động ngày càng mạnh mẽ, sự phát triển nhanh
của các DNKNST đã có tác động không nhỏ đến nền kinh tế. Luận văn đã
khái quát nội dung cơ bản của DNKNST như khái niệm, đặc điểm, vai trò và
sự khác biệt giữa DNKNST và DNVVN và nhấn mạnh sự cần thiết phải có
cơ chế hỗ trợ từ phía Nhà nước đối với loại hình doanh nghiệp này. Luận
văn cũng đã trình bày được những nội dung cơ bản trong thực hiện chính
sách hỗ trợ, phát triển DNKNST của Việt Nam và phân tích một số yêu cầu
đặt ra đối với Nhà nước trong công tác hỗ trợ DNKNST trước những cơ hội
75
và thách thức mà các DNKNST Việt Nam phải đối mặt trong quá trình hội
nhập kinh tế quốc tế.
Những phân tích đánh giá trong luận văn đã phần nào phản ánh được
hiện trạng thực hiện các chính sách hỗ trợ DNKNST ở Việt Nam hiện nay. Cụ
thế, nó là những yếu tố chủ yếu gây trở ngại đối với DNKNST Việt Nam là
hành lang pháp lý chưa rõ ràng và hoàn thiện, khả năng kêu gọi vốn, các hệ
sinh thái hỗ trợ DNKNST… Luận văn cũng đã đề cập, phân tích và đánh giá
việc thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong thời gian qua để rút ra những
bài học kinh nghiệm trong công tác thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST trong
thời gian tới. Qua phân tích cho thấy được mục tiêu chính sách của Nhà nước
tập trung chủ yếu vào hỗ trợ tài chính, đào tạo và phát triển nguồn nhân lực, hỗ
trợ phát triển đổi mới công nghệ, giúp doanh nghiệp gọi vốn và tiếp cận nguồn
vốn từ những quĩ đầu tư mạo hiểm trong và ngoài nước.
Qua việc phân tích thực trạng thực hiện chính sách hỗ trợ DNKNST, luận
văn đề xuất phương hướng và giải pháp hỗ trợ DNKNST trong thời gian tới.
Theo đó Nhà nước cần hoàn thiện về chính sách môi trường pháp lý; hỗ trợ về
tài chính; tư vấn hỗ trợ cho DNKNST; hỗ trợ về cơ sở vật chất, đất đai, văn
phòng; truyền bá tinh thần và văn hóa khởi nghiệp tạo làn sóng khởi nghiệp
quốc gia mạnh mẽ hơn nữa; thông gia giáo dục đào tạo đưa khởi nghiệp là một
môn học mới.
Phát triển DNKNST là chủ trương đúng đắn và kịp thời hội nhập của Đảng
và Nhà nước nhằm phát huy mọi nguồn lực phục vụ cho sự phát triển kinh tế xã
hội. Nhờ có chính sách đúng đắn mà chúng ta đã thấy được sự chuyển mình mạnh
mẽ của các DNKNST trong thời gian qua, hàng loạt các DNKNST gọi được vốn
và vươn mình ra biển lớn, một số DNKNST đã làm nên thương hiệu trên toàn thế
giới. Khi nền kinh tế càng hội nhập sâu rộng hơn với nền kinh tế thế giới, các
76
DNKNST phải đương đầu với sự cạnh tranh quyết liệt từ các DN đến từ các nước
trong khu vực và thế giới. Chỉ bằng sự nỗ lực đơn lẻ của các DNKNST thì không
thể thành công trước những thách thức của hội nhập. Các DNKNST cần được hỗ
trợ tích cực hơn của Nhà nước, đặc biệt trong việc giảm thiểu rủi ro, các rào cản
cản từ phía cơ chế chính sách, tạo môi trường kinh doanh thực sự mở, bình đẳng,
thuận lợi, rõ ràng, minh bạch.