BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NỘI VỤ
…………/………… ……/……
HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH QUỐC GIA
VỪ Y XỨ
TÊN ĐỀ TÀI LUẬN VĂN
THỰC THI CHÍNH SÁCH DÂN SỐ TRONG ĐỒNG BÀO CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
Chuyên ngành : Chính sách công
Mã số: 8 34 04 02
TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ CHÍNH SÁCH CÔNG
HÀ NỘI – 2023
Công trình được hoàn thành tại: HỌC VIỆN HÀNH CHÍNH
QUỐC GIA
Người hướng dẫn khoa học: TS. Tạ Thị Hương
Phản biện 1: TS. Nguyễn Đức Thắng
Phản biện 2: PGS.TS. Đinh Thị Minh Tuyết
Luận văn được bảo vệ tại Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ,
Học viện Hành chính Quốc gia
Địa điểm: Phòng họp 8B, Nhà G - Hội trường bảo vệ luận
văn thạc sĩ, Học viện Hành chính Quốc gia
Số: 77 - Đường Nguyễn Chí Thanh – Quận Đống Đa – Hà Nội
Thời gian: vào hồi 8 giờ 30 tháng 6 năm 2023
Có thể tìm hiểu luận văn tại Thư viện Học viện Hành chính Quốc gia
hoặc trên trang Web Ban QLĐT Sau đại học, Học viện Hành chính
Quốc gia
1
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Dân số là một lĩnh vực quan trọng liên quan đến mọi mặt của
đời sống con người và sự phát triển bền vững của xã hội. Yếu tố cơ
bản của tăng trưởng và phát triển kinh tế - xã hội là nguồn nhân lực,
mà nguồn nhân lực luôn gắn liền sự biến đổi dân số cả về số lượng và
chất lượng. Mục tiêu của sự phát triển suy cho cùng là nhằm nâng cao
chất lượng cuộc sống và đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của con
người. Mục tiêu đó chỉ có thể đạt được khi quy mô dân số, tốc độ tăng
trưởng dân số, sự phân bố dân cư và nguồn nhân lực thật sự phù hợp
và tác động tích cực đến sự phát triển.
Sự phù hợp đó là yếu tố quan trọng kích thích sự phát triển
nhanh và bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, nâng cao tiềm lực của lực lượng sản xuất; là yếu tố cơ bản để xóa
đói, giảm nghèo, giảm tình trạng thất nghiệp, giảm tỷ lệ mù chữ, tỷ lệ
suy dinh dưỡng, nâng cao trình độ học vấn, nâng cao vị thế của người
phụ nữ, giảm rủi ro về môi trường, mở rộng dịch vụ y tế, xã hội và huy
động nguồn lực đầu tư cho phát triển sản xuất, kinh doanh, khoa học
và công nghệ; góp phần thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh. Dân số vừa là mục tiêu, vừa là động
lực của sự phát triển.
Chính sách dân số luôn là chính sách lớn của mọi quốc gia dân
tộc và với Việt Nam cũng không phải ngoại lệ. Chính sách dân số bảo
đảm cân bằng, hài hòa quyền và nghĩa vụ của mọi người dân giữa việc
tuyên truyền, vận động, nâng cao nhận thức, thay đổi hành vi với thực
thi nghiêm kỷ cương pháp luật; giữa việc mở rộng, ứng dụng các kỹ
thuật mới với việc nâng cao chất lượng dịch vụ, đáp ứng nhu cầu ngày
càng cao của nhân dân.
2
Tuy nhiên, ở các vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng miền
núi, vùng sâu, vùng xa do nhiều tác động khác nhau từ những phong
tục tập quán, văn hóa sinh hoạt, trình độ dân trí thấp, cũng như điều
kện kinh tế đặc biệt khó khăn làm ảnh hưởng sâu sắc đến quá trình
thực thi chính sách dân số. Đây cũng là một trong những nguyên nhân
dẫn đến tình trạng nghèo đói, nghèo bền vững của các dân tộc thiểu số
ở vùng núi, vùng sâu vùng xa, trong đó có huyện miền núi Kỳ Sơn,
Nghệ An.
Để làm rõ và góp phần làm đổi mới hoạt động thực thi chính
sách dân số đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp
hoá, hiện đại hoá ở huyện miền núi, vùng sâu vùng xa, tác giả đã chọn
đề tài “Thực thi chính sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu
số tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An’’.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận văn
Liên quan đến dân số, chính sách dân số và việc thực thi chính
sách dân số đã có nhiều nhà khoa học, nhà quản lý, hoạch định chính
sách quan tâm nghiên cứu. Đến nay đã có nhiều công trình được công
bố, dưới những góc độ tiếp cận và hình thức thể hiện khác nhau, tiêu
biểu như:
Trong cuốn Giáo trình Dân số và phát triển [8] của tác giả
Nguyễn Nam Phương (2011) đã cung cấp những kiến thức cũng như
những hiểu biết về sự vận động, biến đổi của các quá trình, các kết quả
dân số (sinh, chết, di dân, qui mô, cơ cấu, phân bố và chất lượng dân
số...) và đặt lồng ghép nó trong mối quan hệ tác động qua lại với các
biến số phát triển (kinh tế, xã hội, môi trường), nhận diện được xu
hướng, tính quy luật tác động qua lại giữa chúng là rất quan trọng và
cần thiết, nhất là đối với các nhà hoạch định chính sách và các nhà
quản lý nói chung. Lồng ghép các biến dân số với các biến phát triển
3
khi hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội là rất cần thiết. Nó
là tiền đề, điều kiện rất quan trọng để kiểm soát, khai thác, sử dụng
triệt để và có hiệu quả cao các nguồn lực về tài nguyên, thiên nhiên,
con người, nâng cao tính khả thi của các kế hoạch, chương trình phát
triển, hiệu lực, hiệu quả trong công tác quản lý XH, nhằm đạt tới mục
tiêu phát triển toàn diện con người - dân số.
Giáo trình giáo dục dân số sức khỏe sinh sản (2009) (Dành cho
sinh viên ngành Tâm lý - Giáo dục các trường đại học sư phạm) [4] do
nhóm tác giả PGS.TS. Trần Quốc Thành (Chủ biên), TS. Nguyễn Thị
Mùi, ThS. Lê Thị Hồng An biên soạn cũng đã đưa ra các nội dung cơ
bản về giáo dục dân số- sức khoẻ sinh sản và sức khỏe sinh sản vị
thành niên; vấn đề tình bạn tuổi thiếu niên và tình bạn, tình yêu tuổi
đầu thanh niên; vấn đề tình dục an toàn, các phương pháp phòng tránh
thai để có thể tự giáo dục mình và có kiến thức sau này giáo dục học
sinh, sinh viên.
Trong Báo cáo điều tra lao động và việc làm Việt Nam [15] của
Tổng cục Thống kê, Hà Nội (2018) cũng đã trình bày các kết quả chủ
yếu của cuộc Điều tra lao động và việc làm năm 2018 để cung cấp các
thông tin về lao động và việc làm cho người sử dụng. Bên cạnh đó, kết
quả điều tra cũng bao gồm một số chỉ tiêu chủ yếu về thiếu việc làm
và thất nghiệp đối với những người trong độ tuổi lao động. Số liệu
điều tra lao động và việc làm được tổng hợp theo quý cho cấp vùng
cấp và toàn quốc; số liệu tổng hợp theo năm cho cấp tỉnh/thành phố.
“Bài học kinh nghiệm từ chính sách dân số Việt Nam”, tạp chí Ban
tuyên giáo Trung ương [2], tác giả Nguyễn Đình Cử (2021) đã đưa ra
những bài học kinh nghiệm phong phú, đa dạng của 60 năm xây dựng và
triển khai chính sách dân số là một trong những chìa khóa giúp Việt Nam
vượt qua những thách thức mới trong lĩnh vực Dân số, đồng thời mang
4
lại niềm tin Việt Nam sẽ thực hiện thắng lợi Nghị quyết số 21-NQ/TW
góp phần thúc đẩy đất nước phát triển nhanh, bền vững.
Chất lượng dân số quận Bình Tân (Thành phố Hồ Chí Minh)
trong quá trình đô thị hóa [9], Luận văn thạc sĩ chuyên ngành địa lý
học của tác giả Lê Thị Hồng Quế (2013) cũng đã hệ thống hóa cơ sở
lý luận về khái niệm, thành phần, tiêu chí đo lường chất lượng dân số
và các nhân tố đặc trưng của quá trình đô thị hóa tác động đến chất
lượng dân số, luận văn này phân tích làm rõ thực tiễn về chất lượng
dân số thành phố Hồ Chí Minh và quận Bình Tân trong quá trình đô
thị hóa trên các lĩnh vực: thể lực – sức khỏe; giáo dục; tinh thần và đời
sống văn hóa; cơ cấu dân số; đời sống vật chất và khả năng tiếp cận
các dịch vụ xã hội cơ bản của toàn bộ dân số. Qua đó, luận văn đề xuất
các định hướng và giải pháp chất lượng dân số quận Bình Tân trong
quá trình đô thị hóa.
Thực hiện chính sách dân số và phát triển từ thực tiễn thị xã
Điện Bàn, tỉnh Quảng Nam [1], Luận văn Thạc sĩ chính sách công của
tác giả Cù Thị Ba (2019) cũng đã nghiên cứu lý luận về thực hiện
chính sách công và tìm hiểu quá trình triển khai thực hiện chính sách
dân số và phát triển tại thị xã Điện Bàn, để từ đó đề xuất một số giải
pháp phù hợp trong việc tổ chức thực hiện chính sách dân số trên địa
bàn thị xã, nhằm góp phần nâng cao chất lượng dân số, mang lại hiệu
quả trực tiếp cho sự nghiệp phát triển kinh tế- xã hội của thị xã.
Bên cạnh đó còn rất nhiều các Luận Văn, Luận án, các công
trình nghiên cứu liên quan đến đề tài dân số và chính sách dân số như
Tình hình thực hiện và quản lý kế hoạch hóa gia đình tại huyện Hòa
Vang, thành phố Đà Nẵng của tác giả Nguyễn Thị Hoa (2017); Thực
hiện chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình từ thực tiễn huyện Bình
Sơn, tỉnh Quảng Ngãi của tác giả Võ Thị Anh Thoa (2015);….qua
5
phân tích thực trạng thực thi chính sách dân số ở từng địa phương khác
nhau, các tác giả đã đưa ra những đề xuất, kiến nghị và giải pháp góp
phần đảm bảo việc thực thi chính sách dân số.
Mỗi công trình nghiên cứu tiếp cận mỗi góc độ, phạm vi khác
nhau; mặt khác, việc thực thi chính sách dân số tại mỗi vùng, địa
phương, đối tượng thụ hưởng khác nhau sẽ phát sinh những vấn đề
cần giải quyết cụ thể khác nhau. Song, đến nay vẫn chưa có công trình
nào nghiên cứu về quá trình thực thi chính sách dân số trong đồng bào
các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An. Chính vì vậy,
tác giả đã lựa chọn đề tài “Thực thi chính sách dân số trong đồng
bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An” để nghiên
cứu, nhằm đề xuất một số giải pháp đổi mới thực thi chính sách dân
số trong đồng bào các dân tộc thiểu số (DTTS) trong giai đoạn hiện
nay trên địa bàn huyện. Tác giả có kế thừa kết quả nghiên cứu của các
công trình trước đó, nhưng đề tài này có nội dung mới và không trùng
lắp với các công trình khoa học đã công bố trước đây.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích nghiên cứu:
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận và thực tiễn thực thi chính sách
dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số, luận văn đề xuất các giải
pháp tăng cường thực thi chính sách dân số trong đồng bào các DTTS
tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để hoàn thành mục đích đặt ra, đề tài tập trung giải quyết một
số nhiệm vụ cơ bản sau:
+ Hệ thống hoá một số vấn đề lý luận và thực tiễn về thực thi
chính sách dân số.
6
+ Phân tích thực trạng thực thi chính sách dân số trong đồng bào
các DTTS tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, giai đoạn năm 2019 –
2021.
+ Đề xuất một số giải pháp đổi mới thực thi chính sách dân số
trong đồng bào DTTS tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An, góp phần nâng
cao chất lượng dân số, mang lại hiệu quả trực tiếp cho sự phát triển
kinh tế- xã hội trên địa bàn huyện.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Lý luận và thực tiễn về thực thi chính
sách dân số trong đồng bào các DTTS.
- Phạm vi nghiên cứu
+ Không gian nghiên cứu: tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An.
+ Thời gian: nghiên cứu thực trạng thực thi chính sách dân số
trong đồng bào các DTTS từ năm 2019 – 2021, từ đó đề xuất giải
pháp trong giai đoạn hiện nay.
+ Về nội dung: Luận văn nghiên cứu thực trạng quá trình thực
thi chính sách dân số trong đồng bào các DTTS.
5. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Phương pháp luận
Trong quá trình nghiên cứu luận văn, tác giả sử dụng phương
pháp duy vật biện chứng và lịch sử của chủ nghĩa Mác – Lê nin và tư
tưởng Hồ Chí Minh làm cơ sở phương pháp luận.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
5.2.1. Phương pháp phỏng vấn: Đề tài tiến hành các cuộc phỏng
vấn trực tiếp với 20 CB, CC thực thi chính sách dân số ở huyện Kỳ
Sơn, để có đánh giá toàn diện về thực trạng thực thi chính sách dân số
trong đồng bào các DTTS.
7
5.2.2. Phương pháp điều tra xã hội học: Đề tài tiến hành điều
tra xã hội với 30 người dân, chủ yếu là đồng bào các DTTS ở huyện
Kỳ Sơn để có đánh giá khách quan trong quá trình thực thi chính sách
dân số.
5.2.3. Phương pháp quan sát: Sử dụng phương pháp quan sát
để thu thập thông tin về hành vi, thái độ, điều kiện làm việc của đội
ngũ công chức trong quá trình thực thi chính sách dân số trong đồng
bào các dân tộc thiểu số.
5.2.4. Phương pháp nghiên cứu tài liệu:
Sử dụng, kế thừa các số liệu thông tin dữ liệu trong các báo cáo,
thống kê của huyện Kỳ Sơn.
Kế thừa có chọn lọc một số tài liệu, giáo trình, luận án đã được
công bố.
Cùng với đó đề tài sử dụng một số phương pháp khác như: thống
kê, so sánh, quy nạp... kết hợp nghiên cứu lý luận với tổng kết thực
tiễn, nhằm làm rõ nội dung cơ bản của đề tài luận văn, bảo đảm tính
khoa học và logic giữa các vấn đề được nêu ra.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Luận văn góp phần hệ thống hóa một số cơ sở lý luận về thực
thi chính sách dân số từ góc độ nghiên cứu của chuyên ngành chính
sách công. Cụ thể nêu rõ các khái niệm như dân số, chính sách dân số,
thực thi chính sách dân số và quy trình thực thi chính sách dân số.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Kết quả nghiên cứu cùng những đề xuất của luận văn có thể là
tài liệu tham khảo cho việc xây dựng và thực thi chính sách dân số
trong đồng bào các DTTS trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
nói riêng, trên cả nước nói chung.
8
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục, danh mục tài liệu tham
khảo, luận văn gồm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về thực thi chính sách dân số trong
đồng bào các dân tộc thiểu số
Chương 2: Thực trạng thực thi chính sách dân số trong đồng
bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
Chương 3: Quan điểm, định hướng và một số giải pháp đổi mới
thực thi chính sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại
huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An
9
CHƯƠNG 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÊ THỰC THI CHÍNH SÁCH DÂN SỐ
TRONG ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ
1.1. Một số khái niệm cơ bản.
1.1.1. Khái niệm dân số
Dân số có liên quan đến nhiều hoạt động, nhiều khía cạnh khác
nhau của đời sống kinh tế - xã hội.
Dân số thường được hiểu là một tập hợp người sinh sống tại một
vùng lãnh thổ nhất định. Tập hợp này không chỉ là số lượng mà cả cơ
cấu và chất lượng. Tập hợp này bao gồm nhiều cá nhân hợp lại, nó
không cố định mà thường xuyên biến động. Ngay bản thân mỗi cá
nhân cũng thường xuyên biến động: sinh ra, lớn lên, trưởng thành, già
hóa và tử vong [8; tr.3].
Như vậy có thể hiểu, dân số là tập hợp những người sinh sống
trong một quốc gia, khu vực, một đơn vị hành chính hoặc vùng địa lý
kinh tế.
1.1.2. Khái niệm thực thi chính sách dân số
Thực thi chính sách công là toàn bộ hoạt động tham gia của các
chủ thể trong quá trình tổ chức triển khai chương trình hành động bằng
các giải pháp, công cụ đã được xác lập trong các quyết định mang tính
pháp lý để hiện thực hóa mục tiêu định hướng của nhà nước nhằm cải
thiện và phát triển xã hội.
Thực thi chính sách dân số được hiểu là toàn bộ hoạt động tham
gia của các chủ thể trong quá trình tổ chức triển khai chương trình
hành động về lĩnh vực dân số bằng các giải pháp, công cụ đã được xác
lập trong các quyết định mang tính pháp lý nhằm hiện thực hóa các
10
mục tiêu định hướng của nhà nước về dân số - sức khỏe và dân số -
phát triển, vì một xã hội ổn định và phát triển bền vững.
1.1.3. Khái niệm dân tộc thiểu số
Dân tộc thiểu số là những dân tộc có số dân ít, chiếm tỷ lệ thấp
trong tổng dân số cả nước, đa số các dân tộc thiểu số đều tập trung
sinh sống ở những khu vực giáp biên giới, vùng sâu vùng xa, có điều
kiện kinh tế khó khăn, vấn đề giáo dục, chăm sóc sức khỏe người dân
còn nhiều hạn chế.
1.2. Hoạt động thực thi chính sách dân số
1.2.1. Xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực thi chính
sách dân số
1.2.2. Tổ chức công tác tuyên truyền phổ biến và vận động thực
thi chính sách dân số
1.2.3. Phân công, phối hợp thực thi chính sách dân số
1.2.4. Duy trì và điều chỉnh chính sách dân số
1.2.5. Theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực thi chính sách dân số
1.2.6. Sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực thi chính sách dân số
1.3. Những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình thực thi chính sách
dân số
1.3.1. Vị trí địa lý tự nhiên
1.3.2. Yếu tố văn hóa, xã hội
1.3.3. Yếu tố kinh tế, khoa học công nghệ
1.3.4. Yếu tố chính trị, pháp lý
1.3.5. Năng lực của chủ thể tổ chức thực thi chính sách dân số
11
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG THỰC THI CHÍNH SÁCH DÂN SỐ TRONG
ĐỒNG BÀO CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI
HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
2.1. Đặc điểm chung của huyện Kỳ Sơn
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế, văn hóa, xã hội của huyện Kỳ Sơn
2.1.1.1. Đặc điểm tự nhiên
Kỳ Sơn là huyện miền núi cao, biên giới phía Tây của tỉnh Nghệ An, diện tích tự nhiên là 2.095 km2; đường biên giới dài 203,409 km
tiếp giáp với bốn huyện, ba tỉnh của nước Cộng hòa dân chủ nhân dân
Lào (Huyện Nọong Hét, Huyện Mường Mọc tỉnh Xiêng Khoảng;
Huyện Mường Quắn, tỉnh Hủa Phăn và Huyện Viêng Thoong tỉnh
Bôlykhămxay).
2.1.1.2. Đặc điểm kinh tế, văn hóa, xã hội
Trên con đường hội nhập và phát triển, Đảng bộ và nhân dân các
dân tộc huyện Kỳ Sơn đoàn kết, chung sức xây dựng quê hương ngày
càng giàu đẹp, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, coi nhiệm vụ phát triển
kinh tế là trọng tâm, phát triển nông – lâm nghiệp là cơ sở hàng đầu.
Các mô hình sản xuất phù hợp với điều kiện của địa phương được nhân
rộng và đã phát huy được hiệu quả như: Chăn nuôi bò, gà đen, lợn đen
ngày càng có giá trị kinh tế cao; cây chè Tuyết San ở Huồi Tụ từ mô
hình của Tổng đội thanh niên xung phong nay đã được nhân dân trồng
đồng loạt theo hướng chuyên canh sản xuất hàng hóa; các mô hình
trồng gừng, dong riềng ở Na Ngoi, Đọoc Mạy; mận Tam Hoa ở các xã
Mường Lống, Tây Sơn; trồng lạc ở Na Loi, Bắc Lý, Hữu Lập đã và
đang mang lại hiệu quả kinh tế và xóa nghèo bền vững.
12
2.2. Thực trạng dân số huyện Kỳ sơn
2.2.1. Quy mô, cơ cấu và phân bố dân số
2.2.1.1. Quy mô dân số
Dân số huyện Kỳ Sơn có xu hướng tăng dần qua các năm, năm
2019 tổng dân số huyện là 65.881 người, năm 2020 tăng lên 70.420
người và tổng dân số huyện Kỳ sơn năm 2021 đã tăng lên đến 80.288
người, với hơn 90% dân số là đồng bào các DTTS , trong đó có 5 đồng
bào dân tộc sinh sống (Mông, Thái, Khơ Mú, Kinh, Hoa).
2.2.1.2. Cơ cấu dân số
Cơ cấu dân số huyện Kỳ Sơn có sự biến đổi mạnh, cơ cấu dân số
theo thành phần dân tộc có sự thay đổi hàng năm, năm 2019 Dân tộc
Mông mới 20.154 người chiếm 30,59%, năm 2021 tăng lên 26.184
người chiếm 32,61%; Dân tộc Khơ Mú năm 2019 có 25.630 người
chiếm 38,90% tăng lên 28.990 chiếm 36,11% năm 2021; Dân tộc Thái
năm 2019 có 17.473 người chiếm 26,52% tăng lên 20.663 người
chiếm 25,73% năm 2021; Dân tộc Kinh-Hoa-Khác năm 2019 có 2.624
người chiếm 3,98% tăng lên 4.451 người chiếm 5,55% năm 2021.
Cơ cấu dân số theo nhóm tuổi của huyện dần bước sang cơ cấu dân
số già, từ 9,8 % năm 2019 tăng lên 10,8 % năm 2021; Về cơ cấu giới tính
của huyện đang ở mức khá ổn định, tỷ số giới tính khi sinh (bé trai/100
bé gái) có xu hướng giảm từ 113,7 % năm 2019 xuống 107,2 % năm
2021; Về cơ cấu dân số theo lao động, nguồn lao động của huyện dồi dào
và gia tăng khá nhanh, năm 2019 số người trong độ tuổi lao động là
63.102 người (chiếm 78.59 % dân số) [9]….. Lực lượng lao động dồi dào
cũng là một thế mạnh thúc đẩy sự phát triển nền kinh tế, nhưng đây
vừa là lực lượng tạo ra những thách thức trong sự phát triển.
13
2.2.1.3. Phân bố dân số
Mật độ dân số giữa các xã không đồng đều, các xã nội địa thì mật
độ dân số cao, các xã biên giới thì mật độ dân số lại thấp. Dân số huyện
Kỳ Sơn tập trung đông nhất ở thị trấn Mường Xén (5195 người, mật độ dân số là 4156 người/km2) và các xã nội địa, những vùng có điều
kiện kinh tế xã hội phát triển hơn. Phân bố thưa thớt ở những xã biên
giới, những vùng điều kiện kinh tế xã hội đang kém phát triển.
2.2.2. Chất lượng dân số
Về thể lực và sức khỏe:
Kỳ Sơn đạt vượt hầu hết các chỉ tiêu DS-KHHGĐ đề ra qua các
năm. Việc thực hiện cung cấp dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ được
nâng cao chất lượng đồng đều ở các chỉ tiêu. Mức sinh hằng năm đã
giảm, năm 2019 mức giảm tỷ suất sinh 0.14%o và có 2,12 con/phụ nữ
(đáp ứng chỉ tiêu theo tinh thần NQ số 21-NQ/TW về công tác dân số
trong tình hình mới); tỷ lệ 107,2 bé trai/100 bé gái sinh sống… đều đạt
so với chỉ tiêu kế hoạch [11]; tỷ lệ các cặp vợ chồng trong độ tuổi sinh
đẻ áp dụng các biện pháp tránh thai cũng không ngừng tăng từ 52%
năm 2019 lên 60,3% năm 2021; và giữ khoảng cách giữa các lần sinh
một cách hợp lý.
Tuy nhiên, trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng về thể trạng còn cao,
tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết thống tại địa bàn huyện lại
không đạt chỉ tiêu đề ra.
Về trí lực, trình độ học vấn, trình độ chuyên môn kỹ thuật:
Tình trạng đi học của dân số huyện Kỳ Sơn năm 2021 đã có sự
chuyển biến tốt hơn năm 2019. Tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên theo giới
tính đang đi học năm 2021 đã tăng nam 28,0%, nữ 27,2% so với năm
2019 nam 26,3%, nữ 25,1%; tỷ lệ dân số từ 5 tuổi trở lên theo giới tính
đã thôi học năm 2021 có giảm nam 60,9%, nữ 47,2% so với năm 2019
14
nam 62,8%, nữ 48,2% nhưng tỉ lệ giảm không đáng kể; tỷ lệ dân số từ
5 tuổi trở lên theo giới tính chưa bao giờ đi học năm 2021 cũng có
giảm so với năm 2019 nhưng cũng chỉ giảm 0,1-0,2%.
Trình độ học vấn của người dân huyện Kỳ sơn cũng đã từng bước
được cải thiện, tỉ lệ số người tốt nghiệp trình độ Đại học năm 2021
chiếm 5,3% so với trình độ Sơ cấp 0,6%, trình độ Trung cấp 2,4%,
trình độ Cao đẳng 2,2%.
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, năm 2021 tỷ lệ dân số từ 15 tuổi trở
lên không có trình độ chuyên môn kỹ thuật toàn huyện chiếm 89,4%, tỷ
lệ có trình độ chuyên môn kỹ thuật mới chiếm 10,6%. Tuy nhiên, năm
2021 toàn huyện có 1.589 người được đào tạo nghề. Hầu hết lao động sau
khi đào tạo nghề đã biết vận dụng kiến thức được học áp dụng vào sản
xuất, trồng trọt, chăn nuôi làm tăng năng suất cây trồng, vật nuôi; biết
cách phòng trừ các loại bệnh cho cây trồng, vật nuôi...
Về đời sống văn hóa, vật chất của người dân:
Hoạt động văn hóa tinh thần tiếp tục được đẩy mạnh. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây đời sống văn hóa” được duy trì và phát triển
sâu rộng ở các địa phương. Tỷ lệ thôn, bản đạt chuẩn văn hóa đạt 45.9
% năm 2021, tỷ lệ gia đình đạt chuẩn văn hóa đạt 51,8 % năm 2021.
Theo kết quả Tổng điều tra dân số và nhà ở của huyện Kỳ Sơn năm
2019, hầu hết dân số huyện đều có nhà ở, số hộ có nhà kiên cố chiếm
53,7 %, nhà bán kiên cố chiếm 42,8 %, nhà thiếu kiên cố 2,2 %, và
nhà đơn sơ chiếm 1,4 %. Về điều kiện sinh hoạt của người dân như
điện, nước sạch, nhà vệ sinh, các đồ dùng gia dụng,...hiện nay đã được
trang bị đầy đủ, hầu như đến từng thôn, bản.
2.3. Phân tích thực trạng quá trình thực thi chính sách dân số
trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn giai đoạn
2019-2021.
15
2.3.1. Xây dựng chương trình, kế hoạch triển khai thực thi chính
sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn
2.3.2. Tổ chức tuyên truyền phổ biến và vận động thực thi chính
sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn
2.3.3. Phân công, phối hợp thực thi chính sách dân số trong đồng
bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn
2.3.4. Duy trì và điều chỉnh các chương trình, kế hoạch thực thi chính
sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn
2.3.5. Theo dõi, kiểm tra và đôn đốc thực thi chính sách dân số
trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn
2.3.6. Sơ kết, tổng kết đánh giá việc thực thi chính sách dân số
trong đồng bào các dân tộc thiểu số tại huyện Kỳ Sơn
2.4. Đánh giá chung về việc thực thi chính sách dân số trên địa
bàn huyện Kỳ Sơn
2.4.1. Những kết quả đạt được
Hầu hết các tổ chức Đảng, chính quyền trên địa bàn huyện đã coi
công tác dân số là bộ phận quan trọng trong chiến lược phát triển KT
– XH. Hàng năm, các cấp chính quyền huyện Kỳ Sơn đã đưa nội dung,
mục tiêu về DS-KHHGĐ vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội của
địa phương để chỉ đạo, điều hành; xem đó là tiêu chí đánh giá của các
cấp, các ngành trên địa bàn huyện. Công tác tuyên truyền phổ biến
chính sách dân số, đặc biệt là đối với đồng bào các DTTS trên địa bàn
Kỳ Sơn được chú trọng dưới nhiều hình thức, góp phần nâng cao nhận
thức của nhân dân về chính sách dân số, quy mô gia đình có một hoặc
hai con được chấp nhận ngày càng rộng rãi. Qua đó, bước đầu đã tạo
được những cơ sở cho việc thay đổi hành vi một cách bền vững, hạn
chế được tác động tiêu cực của tâm lý xã hội.
16
Việc tổ chức phân công, phối hợp thực hiện công tác dân số giữa
các cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức, cá
nhân tham gia công tác dân số trên địa bàn huyện Kỳ Sơn đã được coi
trọng hơn trước; đồng thời từng bước chú trọng việc kết nối, hợp tác
có hiệu quả giữa các cơ sở cung cấp dịch vụ trong và ngoài công lập.
Việc duy trì chính sách dân số hiện hành đã được huyện Kỳ Sơn đã
được chú trọng, kể từ năm 2019 đến nay. Huyện đã tập trung củng cố
Ban Chỉ đạo công tác dân số - KHHGĐ cả cấp huyện, cấp xã và tập
trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết 21-NQ/TW. Đội ngũ cán
bộ, công chức, viên chức phần lớn có trình độ chuyên môn, trong đó
đạt 100% viên chức dân số từ huyện đến xã đều đạt chuẩn nghiệp vụ
tốt nghiệp lớp bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ dân số với chương
trình học 3 tháng (đối với cán bộ y tế làm công tác chăm sóc
SKSS/KHHGĐ về căn bản đã được tập huấn về kỹ thuật cung cấp dịch
vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ); mặt khác, cán bộ, công chức và viên
chức dân số về cơ bản là có tinh thần trách nhiệm trong phối hợp thực
hiện nhiệm vụ, đã gương mẫu thực hiện Pháp lệnh Dân số, tích cực
vận động gia đình và toàn dân thực hiện tốt chính sách dân số.
Gần đây, chính quyền huyện căn cứ vào đặc điểm dân số thực tế
của địa phương cũng đã từng bước triển khai Chương trình điều chỉnh
mức sinh phù hợp các vùng, đối tượng đến năm 2030 với các giải pháp
điều chỉnh, bổ sung tương đối phù hợp với tình hình thực tế. Các hoạt
động theo dõi, đôn đốc, giám sát, kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ
theo kế hoạch chương trình công tác dân số được duyệt trên địa bàn
huyện được quan tâm hơn. Hằng năm Trung tâm DS-KHHGĐ cấp
huyện luôn duy trì tham mưu BCĐ xây dựng Kế hoạch giám sát các
hoạt động DS-KHHGĐ trên địa bàn huyện theo quí, 6 tháng, năm;
đồng thời vai trò giám sát của Hội đồng nhân dân cấp huyện và cấp
17
xã, vai trò của các đoàn thể nhân dân được coi trọng, nên thường xuyên
nắm chắc tình hình dân số ở cơ sở. Người dân thông qua các kênh
thông tin đa dạng, báo điện tử và mạng internet, họ ngày càng chủ
động tham gia nhiều hơn vào việc theo dõi, giám sát quá trình thực thi
chính sách dân số. Các hoạt động sơ kết, tổng kết đánh giá và rút kinh
nghiệm trong công tác dân số - KHHGĐ đã được các ngành, đơn vị
trên địa bàn huyện Kỳ Sơn thực hiện đúng quy định, đã tiến hành theo
định kỳ và lộ trình kế hoạch được duyệt.
Nhờ sự quan tâm chỉ đạo kịp thời của các cấp ủy đảng, chính quyền
cùng sự nỗ lực cố gắng của toàn bộ hệ thống cán bộ làm công tác DS-
KHHGĐ trên toàn huyện. Và qua một vài buổi phỏng vấn của tác giả
với đội ngũ CB, CC thực thi chính sách dân số trong đồng bào các
DTTS tại huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An với đại đa phần các CB, CC
đều nắm khá rõ về quy trình thực thi, nắm được tình hình, chuyển biến,
và những khó khăn khúc mắc chưa giải quyết được trong quá trình
thực thi, đồng thời đề xuất những giải pháp hữu hiện phù hợp với thực
tế. Nên công tác DS-KHHGĐ trong thời gian qua cũng đã gặt hái được
một số kết quả tương đối khả quan
2.4.2. Những hạn chế và nguyên nhân
2.4.2.1. Những hạn chế
Một số địa phương trên địa bàn huyện đã xuất hiện những dấu hiệu
của sự chủ quan, thỏa mãn với những thành tích bước đầu trong công
tác DS - KHHGĐ. Việc thiết lập kế hoạch chương trình thực thi chính
sách dân số cũng chưa hạch toán các nguồn lực đầu tư tương thích: về
nhân sự, điều kiện cơ sở trang thiết bị vật chất, kinh phí, thời gian...
Việc lồng ghép các biến dân số vào hoạch định chính sách, lập quy
hoạch, kế hoạch phát triển KT-XH còn thiếu hiệu quả. Ngân sách đầu
tư cho công tác DS-KHHGĐ còn thấp.
18
Còn nhiều xã và một số cơ quan chức năng chưa tập trung kiên
quyết trong khâu tổ chức thực hiện. Trách nhiệm giải trình của người
đứng đầu cơ quan đơn vị tham gia thực thi chính sách dân số trong
đồng bào các DTTS trên địa bàn Kỳ Sơn còn yếu; cùng với cơ chế
phối hợp đồng trách nhiệm giữa các cơ quan chưa được đề cao trong
tổ chức thực hiện; các hoạt động phối hợp trao đổi, chia sẻ, công khai
thông tin cũng còn chậm và chưa thường xuyên. Chính quyền các cấp
có lúc, có nơi chưa quán triệt đầy đủ và chưa tiến hành thường xuyên
chỉ đạo, kiểm tra đôn đốc. Việc xử lý các trường hợp vi phạm chính
sách dân số chưa kịp thời, đúng mức. Trong đánh giá tổng kết ở một
số mặt chính sách dân số còn thiếu đầy đủ, đôi khi còn thiên về báo
cáo thành tích, nên các giải pháp đưa ra trong việc tổ chức thực thi
chính sách này còn chung chung, yếu về tính khả thi.
Công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục về dân số và kế hoạch
hoá gia đình trên địa bàn huyện chưa đồng bộ, chậm đổi mới. Chủ yếu
do một số cán bộ xã năng lực hạn chế, chưa triển khai đúng vầ đầy đủ
nội dung; chưa chú ý đúng mức đến việc phát triển các mô hình truyền
thông tại cộng đồng. Đồng thời công tác vận động, tuyên truyền trong
vùng đồng bào DTTS còn gặp nhiều khó khăn do mỗi dân tộc có những
nét văn hóa, lối sống và ngôn ngữ riêng.
Việc thực hiện các chủ trương xã hội hoá (giáo dục, y tế, thể dục,
thể thao...) liên quan đến việc nâng cao chất lượng dân số còn chậm.
Việc tư vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân còn gặp nhiều khó khăn.
Tỷ lệ tầm soát trước sinh và sơ sinh còn thấp.
Phòng Dân số tập trung vào mục tiêu giảm nhanh mức sinh trong
thời gian dài, nên các vấn đề quan trọng và cấp thiết về cơ cấu dân số,
chất lượng dân số, phân bố dân số vẫn chưa được đề cập/chưa quan
19
tâm đúng mức. Điển hình là tình trạng dân số trong độ tuổi lao động
đi làm ăn xa huyện hàng năm tăng lên.
Một bộ phận đồng bào DTTS vẫn chưa nhận thức được đầy đủ
trách nhiệm của việc sinh con, nuôi dạy con đối với bản thân, gia đình
và xã hội. Việc thực hiện pháp luật dân số cho thấy, tư duy DS-
KHHGÐ đã ăn sâu trong xã hội, trong mỗi gia đình và từng thôn xóm,
song vẫn còn lỗ hổng kiến thức lớn về sức khỏe sinh sản, sức khỏe
tình dục đối với người phụ nữ. Tình trạng tảo hôn ở đồng bào các dân
tộc đang có xu hướng tăng và bạo hành gia đình vẫn còn phổ biến.
2.4.2.2. Nguyên nhân chủ yếu dẫn đến những hạn chế
Nhận thức về vị trí, vai trò của công tác DS-KHHGĐ trong sự phát
triển KT-XH ở một số cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở và một bộ phận
nhân dân chưa đầy đủ; còn tư tưởng chủ quan, thoả mãn, buông lỏng
lãnh đạo, chỉ đạo công tác DS-KHHGĐ.
Mô hình tổ chức bộ máy, cán bộ làm công tác DS-KHHGĐ trong
những năm qua có nhiều thay đổi, thiếu ổn định. Mặt khác, cán bộ dân
số cơ sở thường xuyên biến động, thay đổi, một số cán bộ năng lực
còn hạn chế. Nhận thức chưa đúng, chưa đồng bộ của một bộ phận cán
bộ đảng viên trong việc hiểu, thực thi Pháp lệnh Dân số.
Xử lý không nghiêm và thiếu kiên quyết đối với người vi phạm
chính sách dân số nhất là đối với đảng viên, cán bộ, công chức, viên
chức đã ảnh hưởng xấu đến phong trào thi đua, ảnh hưởng không tốt
đến tâm lý người dân trong thực thi chính sách dân số.
Công tác tuyên truyền, vận động chậm đổi mới, thiếu tính chủ
động, sáng tạo và có lúc chưa kịp thời. Tư tưởng trọng nam khinh nữ
vẫn còn chi phối mạnh trong nhân dân; hệ thống phúc lợi, an sinh xã
hội còn thấp, hiện nay phần lớn người cao tuổi sống nhờ vào nguồn
nuôi dưỡng của con cháu.
20
Nguồn lực đầu tư (nhân lực, cơ sở vật chất, trang thiết bị, kinh phí)
chưa tương xứng với nhiệm vụ, chưa đáp ứng được đầy đủ nhu cầu
ngày càng cao của nhân dân trong dịch vụ chăm sóc SKSS/KHHGĐ.
Do trình độ dân trí thấp không nhận thức đầy đủ những kiến thức
về sức khỏe sinh sản. Một số thách thức đặt ra do chất lượng cuộc sống
của người đồng bào DTTS miền núi Kỳ Sơn còn thấp, nhất là giải
quyết vấn đề đói nghèo và việc làm, không am hiểu đầy đủ pháp luật
nên tình trạng tảo hôn vẫn xảy ra.
21
CHƯƠNG 3
QUAN ĐIỂM, ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP ĐỔI MỚI
THỰC THI CHÍNH SÁCH DÂN SỐ TRONG ĐỒNG BÀO CÁC
DÂN TỘC THIỂU SỐ TẠI HUYỆN KỲ SƠN, TỈNH NGHỆ AN
3.1. Quan điểm và mục tiêu về chính sách dân số của Việt Nam
trong giai đoạn mới
Nghị Quyết 21/NQ-TW ngày 25/10/2017 của Hội nghị lần thứ sáu
Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khóa XII) đã nêu rõ quan điểm chỉ
đạo, mục tiêu về công tác dân số trong tình hình mới.
3.2. Định hướng chung của tỉnh Nghệ An về thực thi chính sách
dân số
Thứ nhất, tiếp tục quán triệt và nhận thức đầy đủ, toàn diện và sâu
sắc nội dung các chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước về tầm quan trọng và ý nghĩa chiến lược của công tác dân số.
Thứ hai, tăng cường công tác truyền thông, giáo dục đến tất cả các
tầng lớp nhân dân đặc biệt là đồng bào các DTTS với những hình thức
phù hợp để nâng cao nhận thức, hành động về dân số và phát triển,
giảm chênh lệch mức sinh giữa các vùng, các nhóm đối tượng; xoá bỏ
tình trạng tảo hôn, hôn nhân cận huyết; tận dụng hiệu quả cơ cấu dân
số vàng, tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển đất nước nhanh, bền
vững; thích ứng với già hóa dân số, đẩy mạnh chăm sóc sức khỏe
người cao tuổi.
Thứ ba, chỉ đạo triển khai thực hiện tốt các mô hình, đề án nâng
cao chất lượng dân số như sàng lọc trước sinh và sơ sinh; mô hình tư
vấn và khám sức khỏe tiền hôn nhân; mô hình giảm tỷ lệ tảo hôn, hôn
nhân cận huyết và đề án tư vấn và chăm sóc người cao tuổi dựa vào
cộng đồng.
22
Thứ tư, tập trung củng cố, kiện toàn, ổn định tổ chức bộ máy và đội
ngũ cán bộ làm công tác dân số từ tỉnh đến thôn, bản để có đủ năng
lực chỉ đạo, điều hành và tổ chức thực hiện công tác này.
Thứ năm, xây dựng và triển khai thực hiện cơ chế lồng ghép yếu tố
dân số trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, dự án phát triển kinh
tế – xã hội; đẩy mạnh nghiên cứu về dân số và phát triển.
3.3. Định hướng của huyện Kỳ Sơn về thực thi chính sách dân số
Một là, phải quán triệt sâu sắc quan điểm của Nghị quyết số 21-
NQ/TW ngày 25-10-2017 Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành Trung
ương Ðảng khóa XII về công tác dân số trong tình hình mới đến từng
CB, CC thực thi chính sách dân số.
Hai là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền
địa phương đối với công tác phối hợp của các cơ quan, ban, ngành, tổ
chức chính trị-xã hội để đảm bảo yêu cầu đồng bộ hóa trong phối hợp
thực thi chính sách dân số; đưa công tác dân số thành một nội dung
trọng tâm trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy Đảng, chính
quyền.
Ba là, chú trọng sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, chính quyền các
cấp trong việc lồng ghép nhiệm vụ nâng cao chất lượng dân số trong
các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch phát triển của cả nước, của từng
ngành, từng địa phương.
3.4. Một số giải pháp đổi mới thực thi chính sách dân số trong
đồng bào các DTTS trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ An giai
đoạn hiện nay
3.4.2. Đổi mới công tác tuyên truyền phổ biến và vận động thực
thi chính sách dân số trong đồng bào các dân tộc thiểu số
3.4.3. Nâng cao trình độ nhận thức của đồng bào dân tộc thiểu số
3.4.4. Tăng cường đầu tư nguồn lực
23
3.4.5. Tăng cường theo dõi, kiểm tra và xử lý vi phạm
3.4.6. Thường xuyên sơ kết, tổng kết đánh giá quá trình thực thi
chính sách dân số
3.5. Một số khuyến nghị
3.5.1. Đối với Chính Phủ
3.5.2. Đối với Bộ Y Tế
3.5.3. Đối với đội ngũ cán bộ, công chức thực thi chính sách dân số
3.5.4. Đối với đồng bào dân tộc thiểu số
24
KẾT LUẬN
Từ việc hệ thống hóa làm rõ hơn cơ sở lý luận thực thi chính sách
dân số, để đánh giá thực trạng thực thi chính sách dân số trong đồng
bào các DTTS trên địa bàn huyện Kỳ Sơn thời gian qua, luận văn đã
khái quát đặc điểm chung của huyện Kỳ Sơn và tập trung phân tích
làm rõ thực tiễn của quá trình thực thi chính sách dân số trong đồng
bào các DTTS trên địa bàn huyện Kỳ Sơn giai đoạn 2019-2021 thông
qua 6 giai đoạn của hoạt động thực hiện chính sách dân số trên địa bàn
huyện. Từ đó đề xuất năm giải pháp nhằm đổi mới thực thi chính sách
dân số trong đồng bào các DTTS trên địa bàn huyện Kỳ Sơn, tỉnh Nghệ
An giai đoạn hiện nay, đó là: đó là: (1) Đổi mới công tác tuyên truyền
phổ biến và vận động thực thi chính sách dân số trong đồng bào các
DTTS; (2) Nâng cao trình độ nhận thức của đồng bào các DTTS; (3)
Tăng cường đầu tư nguồn lực; (4) Tăng cường theo dõi, kiểm tra và
xử lý vi phạm; (5) Thường xuyên sơ kết, tổng kết đánh giá quá trình
thực thi chính sách dân số. Và đưa ra một số khuyến nghị đối với
Chính Phủ, Bộ Y Tế, đội ngũ CB, CC thực thi chính sách dân số, và
với đồng bào các DTTS.