intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:10

45
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Năng lực tư vấn tâm lí là một trong những yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Năng lực này thuộc tiêu chí 7 của tiêu chuẩn 2 về phát triển chuyên môn, nghiệp vụ. Bài báo này đề cập đến kết quả nghiên cứu gần đây của chúng tôi trong khuôn khổ đề tài cấp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở

  1. HNUE JOURNAL OF SCIENCE DOI: 10.18173/2354-1075.2019-0028 Educational Sciences, 2020, Volume 65, Issue 4C, pp. 68-77 This paper is available online at http://stdb.hnue.edu.vn THỰC TRẠNG NĂNG LỰC TƯ VẤN TÂM LÍ CỦA GIÁO VIÊN TRUNG HỌC CƠ SỞ Nguyễn Thị Liên Trung tâm Nghiên cứu Tâm lí học, Sinh lí lứa tuổi, Viện Nghiên cứu Sư phạm, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội Tóm tắt. Năng lực tư vấn tâm lí là một trong những yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp giáo viên. Năng lực này thuộc tiêu chí 7 của tiêu chuẩn 2 về phát triển chuyên môn, nghiệp vụ. Bài báo này đề cập đến kết quả nghiên cứu gần đây của chúng tôi trong khuôn khổ đề tài cấp Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Khảo sát được thực hiện nhằm tìm hiểu mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học sơ sở (GVTHCS) trên mẫu gồm 207 GVTHCS thuộc một số trường trong khu vực nội thành của quận Thanh Xuân, thành phố Hà Nội và quận 12, thành phố Hồ Chí Minh. Kết quả nghiên cứu cho thấy, năng lực tư vấn tâm lí của GVTHCS ở địa bàn tham gia khảo sát hiện nay chỉ ở mức trung bình. Trong các năng lực thành phần, năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh và năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục ở mức tốt nhất, thấp nhất là năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh. Từ khóa: tư vấn tâm lí, khó khăn tâm lí, năng lực tư vấn tâm lí, giáo viên THCS, thực trạng. 1. Mở đầu Trong bối cảnh toàn cầu hóa, hội nhập quốc tế và cuộc cách mạng công nghiệp 4.0, con người phải đối mặt và giải quyết rất nhiều vấn đề có tính chất xã hội liên quan. Đặc biệt là thế hệ trẻ có vô số cơ hội nhưng cũng gặp không ít khó khăn, thách thức trong quá trình phát triển. Một số nghiên cứu ở Việt Nam gần đây cho thấy, học sinh trung học cơ sở gặp khó khăn nhiều nhất ở lĩnh vực giao tiếp thể hiện trong mối quan hệ ứng xử với thầy cô giáo, với cộng đồng và trong lĩnh vực học tập [1]. Theo đó, hoạt động tư vấn trong nhà trường chưa đáp ứng được nhu cầu tư vấn tâm lí của các em. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến kết quả này, trong đó giáo viên chưa được đào tạo chuyên sâu về kĩ năng tư vấn cho học sinh là một trong những yếu tố quan trọng nhất tác động đến hiệu quả của công tác tư vấn tâm lí trường học [2]. Trước tình hình đó, chuẩn nghề nghiệp giáo viên cơ sở giáo dục phổ thông được ban hành theo thông tư số 20/2018/TT – BGDĐT có hiệu lực từ 10/10/2018 đã quy định tư vấn và hỗ trợ học sinh là một trong những tiêu chí bắt buộc của tiêu chuẩn phát triển chuyên môn, nghiệp vụ của giáo viên. Với năng lực tư vấn và hỗ trợ tâm lí cho học sinh của giáo viên sẽ giúp học sinh nâng cao hiểu biết về bản thân, các mối quan hệ với gia đình, thầy cô, bạn bè, từ đó tăng cảm xúc tích cực, giúp các em tự đưa ra quyết định trong tình huống khó khăn bản thân gặp phải, làm giảm thiểu các tác động tiêu cực có thể xảy ra, góp phần xây dựng môi trường giáo dục an toàn, thân thiện, lành mạnh và phòng chống những vấn đề tiêu cực trong học đường. Tầm quan trọng của vấn đề này đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà tâm lí học giáo dục trong những năm gần đây. Ngày nhận bài: 25/2/2020. Ngày sửa bài: 13/3/2020. Ngày nhận đăng: 20/3/2020. Tác giả liên hệ: Nguyễn Thị Liên. Địa chỉ e-mail: liensupham@gmail.com 68
  2. Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở Nghiên cứu của Kline và Silver (2004) cho thấy, khi học sinh gặp phải những vấn đề khúc mắc về tâm lí, học tập, các mối quan hệ trong cuộc sống thì giáo viên chính là những người lắng nghe và giúp các em vượt qua được những vấn đề khó khăn đó [3]. Giáo viên, nhất là giáo viên chủ nhiệm, là người gần gũi với học sinh, tiếp xúc trực tiếp với học sinh hàng ngày trong các tiết học và các hoạt động giáo dục, do vậy có thể phát hiện sớm các học sinh có nhu cầu trợ giúp để có hướng giải quyết kịp thời và phù hợp. Một số nghiên cứu khác của các nhà tâm lí học cũng chỉ ra rằng, giáo viên có nhiều thời gian với học sinh, có nhiều cơ hội để hiểu học sinh và họ cũng đã được đào tạo cơ bản về tâm lí – giáo dục nên có thể hỗ trợ và giúp học sinh tìm ra hướng giải quyết vấn đề mà các em đang gặp phải [3, 4]. Bên cạnh đó, với vai trò của giáo viên kiêm nhà tư vấn, giáo viên ngoài việc tập trung giải quyết, khắc phục các vấn đề của học sinh, còn có nhiệm vụ phòng ngừa, ngăn chặn các vấn đề tiêu cực có thể xảy đến với học sinh [5-7]. Ở Việt Nam, tuy chưa đề cập nhiều đến vai trò của giáo viên trong hoạt động tư vấn tâm lí ở trường phổ thông, nhưng nhiều nghiên cứu của các nhà tâm lí học cũng đã đề cập đến những khía cạnh có liên quan đến tư vấn tâm lí học đường. Theo đó, vấn đề kết quả nghiên cứu của Trần Thị Mỵ Lương (2016) cho thấy mức độ thực hiện các kĩ năng chăm sóc, tư vấn tâm lí cho học sinh của giáo viên đã được họ thực hiện chính xác và đúng thời điểm, trong đó các kĩ năng “hỏi”, “quan sát”, “thấu hiểu”, “lắng nghe”; kĩ năng “thiết lập mối quan hệ trong hỗ trợ tâm lí cho học sinh”, “tìm kiếm giải pháp trong tư vấn”, “thấu hiểu”, “lắng nghe” được GV ở Hà Nội thực hiện tốt nhất [8]. Nghiên cứu của Hoàng Gia Trang (2018) cho thấy, kĩ năng giao tiếp và tiếp theo là kĩ năng hỗ trợ tìm kiếm giải pháp lần lượt xếp vị trí thứ nhất và thứ hai trong các nhóm kĩ năng tư vấn tâm lí của giáo viên chủ nhiệm cấp trung học cơ sở. Đồng thời, nghiên cứu này cũng đưa ra yếu tố chủ quan ảnh hưởng nhiều nhất đến năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên chủ nhiệm là sự nhiệt tình với công tác tư vấn, yếu tố khách quan ảnh hưởng nhiều nhất là sự phối hợp của cha mẹ với giáo viên chủ nhiệm để giải quyết khó khăn của học sinh [9]. Các kết quả nghiên cứu trên dù đã cho thấy bức tranh khá sinh động về hoạt động tư vấn tâm lí cho học sinh của GVTHCS. Tuy nhiên, các nghiên cứu mới chỉ ra năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên ở khía cạnh các kĩ năng được thể hiện khi họ trực tiếp tư vấn cho học sinh, hoặc là nhu cầu được bồi dưỡng nâng cao năng lực tư vấn tâm lí; việc tìm hiểu mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí của GVTHCS như là một hoạt động tương tác còn mờ nhạt. Do đó, nghiên cứu này đi sâu đi sâu đánh giá thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của GVTHCS của một số trường trên địa bàn Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Những kết quả thu được sẽ là gợi ý hữu ích cho việc xây dựng các chương trình bồi dưỡng nâng cao năng lực tư vấn tâm lí cho giáo viên đáp ứng yêu cầu của chuẩn nghề nghiệp. 2. Nội dung nghiên cứu 2.1. Khái niệm năng lực tư vấn tâm lí Trước tiên cần hiểu thế nào là tư vấn tâm lí và năng lực tư vấn tâm lí, trên cơ sở đó xác định các tiêu chí cụ thể để đánh giá thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên. Trong tâm lí học, tư vấn tâm lí được hiểu là hình thức trợ giúp tâm lí thực tế ở dạng các lời khuyên, các chỉ dẫn, hướng dẫn của nhà tâm lí. Các chỉ dẫn tâm lí này được đưa ra trên cơ sở nhà tâm lí nghiên cứu sơ bộ những “vấn đề” tâm lí của một cá nhân hay một nhóm người nào đó gặp phải, nghiên cứu trực tiếp tâm lí và các mối quan hệ của họ với người khác và với môi trường xung quanh [10]. Từ quan niệm này, tư vấn tâm lí là loại hình tương tác từ hai phía, bao gồm người trợ giúp chuyên nghiệp và một người hay nhóm người cần được giúp đỡ. Ở đó, nhà tư vấn cung cấp sự giúp đỡ cho người cần được giúp trong việc giải quyết vấn đề của họ liên quan đến công việc và người khác. Để làm tốt những công việc tư vấn đòi hỏi nhà tư vấn phải có những năng lực mang 69
  3. Nguyễn Thị Liên tính chuyên nghiệp, bởi đây là hoạt động có mục đích giáo dục, bởi qua đó người được trợ giúp phát triển đời sống tinh thần ổn định để tiếp tục thích ứng với cuộc sống và các mối quan hệ xã hội. Như vậy, có thể hiểu tư vấn tâm lí là quá trình tương tác giữa người có chuyên môn với người gặp khó khăn tâm lí thông qua trao đổi, chia sẻ, định hướng , gợi mở và tìm kiếm nguồn lực để trên cơ sở đó, người gặp khó khăn tâm lí tự lựa chọn cách thức giải quyết vấn đề có hiệu quả nhất cho chính mình. Năng lực là một khái niệm phức tạp, có rất nhiều cách hiểu khác nhau phụ thuộc vào những cách tiếp cận và quan điểm, trường phái, lĩnh vực khác nhau. Trong nghiên cứu này, dựa vào tiếp cận tâm lí học, năng lực được hiểu là tổ hợp các đặc điểm tâm lí của từng người chuyển tiềm năng, khả năng thành sức mạnh thực - tổ chức sắp xếp các thành tố tâm lí tương ứng, tạo nên “công cụ tâm lí” đóng vai trò là điều kiện bên trong tạo thuận lợi cho việc thực hiện tốt một công việc nhất định [11]. Theo cách hiểu này, năng lực bao giờ cũng gắn liền với hoạt động, hành động cụ thể nào đó; trong giáo dục gọi đó là năng lực thực hiện. Từ quan niệm tư vấn tâm lí hay năng lực ở trên, chúng tôi cho rằng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên là sự vận dụng có hiệu quả các tri thức, kĩ năng của nhà tư vấn thông qua quá trình tương tác với học sinh hay lực lượng có liên quan nhằm hỗ trợ các em giải quyết được những khó khăn trong học tập, trong tình cảm và trong quan hệ ứng xử với người khác. Qua khái niệm trên, chúng ta thấy, để đảm bảo quá trình tư vấn tâm lí có hiệu quả, giáo viên cần có nhiều các năng lực được cho là cơ bản và cốt lõi bao gồm năng lực hiểu đặc điểm và tính cách học sinh, năng lực chẩn đoán khó khăn tâm lí, năng lực tương tác với học sinh, năng lực hợp tác với các lực lượng liên quan đến học sinh, năng lực đánh giá, năng lực tổ chức thực hiện các hoạt động tư vấn tâm lí [12, 13]. Như vậy, có rất nhiều các thành tố năng lực tư vấn tâm lí được xác định trong năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên. Trong nghiên cứu này, chúng tôi chỉ tập trung nghiên cứu ba nhóm năng lực tư vấn tâm lí thành phần với các tiêu chí cụ thể, đó là: - Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh. - Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh. - Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục. Trên cơ sở ba nhóm năng lực trên, chúng tôi xác định hệ thống tiêu chí cụ thể để đánh giá thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của GV THCS (Bảng 1). Bảng 1. Tiêu chí đánh giá thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên THCS Nhóm năng lực Stt Tiêu chí đánh giá tư vấn tâm lí Năng lực xây Lựa chọn vấn đề cần thiết, phổ biến để tổ chức các chương trình dựng và tổ chức phòng ngừa hiệu quả và có thể huy động được các nguồn lực hoạt động phòng Thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai toàn trường, 1 ngừa khó khăn khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định mục tiêu, đối tượng, xây tâm lí ở học sinh dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện Đánh giá hiệu quả hoạt động/chương trình Năng lực lập và Thiết kế biểu mẫu hồ sơ tâm lí học sinh rõ ràng, khoa học lưu trữ hồ sơ tâm Thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí mật lí học sinh 2 Cập nhật thường xuyên những thay đổi của học sinh hoặc những can thiệp của giáo viên Tìm kiếm và sử dụng dữ liệu về học sinh theo cách dễ dàng, nhanh chóng khi cần thiết 70
  4. Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở Năng lực phối Hợp tác với phụ huynh học sinh hợp với các lực Hợp tác với các lực lượng xã hội lượng giáo dục 3 Hợp tác với Ban giám hiệu và các giáo viên chuyên trách nhà trường (tổng phụ trách, cán bộ y tế học đường) Hợp tác với các nhà tâm lí trị liệu chuyên nghiệp 2.2. Phương pháp và khách thể nghiên cứu Nghiên cứu này được thực hiện dựa trên phương pháp chính là điều tra bằng bảng hỏi. Với các tiêu chí được xác định ở trên, nội dung của bảng hỏi được thiết kế thành phiếu hỏi nhằm đánh giá mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí của GVTHCS . Phiếu khảo sát được xây dựng theo quy trình các bước như sau: + Bước 1: Phác thảo các câu hỏi và nội dung các câu hỏi dựa trên các tiêu chí đánh giá + Bước 2: Xin ý kiến chuyên gia, sau đó điều chỉnh + Bước 3: Khảo sát thử trên 30 giáo viên tại TP Hà Nội nhằm kiểm tra độ tin cậy, độ hiệu lực và điều chỉnh nội dung các câu hỏi. + Bước 4: Khảo sát chính thức Cách đánh giá và phân loại dựa vào lí thuyết xác suất thống kê, phân loại nhóm các mức độ năng lực tư vấn tâm lí được xác định dựa vào kết quả điểm trung bình cộng ( X ) và độ lệch chuẩn (SD) của phân bố kết quả thu được ( X ± SD), để chia làm 3 mức độ là: thấp điểm, trung bình và cao. Tương ứng với các mức độ, điểm được quy ước như sau: thấp = 1 điểm; trung bình = 2 điểm; cao – 3 điểm. Mẫu khách thể được thực hiện trong nghiên cứu này bao gồm 101 giáo viên (GV) thuộc trường trung học cơ sở (THCS) Trần Quang Khài quận 12, TP Hồ Chí Minh; 106 GV thuộc các trường THCS Nguyễn Trãi, THCS Phan Đình Giót và THCS Khương Đình quận Thanh Xuân, TP Hà Nội. 2.3. Kết quả nghiên cứu 2.3.1. Kết quả về thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên Trung học cơ sở Năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên THCS biểu hiện ở nhiều khía cạnh và mức độ khác nhau. Dựa vào hoạt động tư vấn tâm lí được coi như là một hoạt động nghề nghiệp, ở đó giáo viên thực hiện quá trình trợ giúp học sinh vượt qua những khó khăn về mặt tâm lí bằng nhiều cách, đòi hỏi nhiều yếu tố về năng lực của người giáo viên. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tìm hiểu về mức độ thể hiện năng lực tư vấn tâm lí của GV ở các mặt biểu hiện: xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh, lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí của học sinh, sự phối hợp với các lực lượng giáo dục. Bảng 2. Năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở Điểm trung Độ lệch Stt Năng lực Xếp loại bình ( X ) chuẩn (SD) 1 Năng lực xây dựng và tổ chức Trung bình hoạt động phòng ngừa khó khăn 2,00 0,67 tâm lí ở học sinh 2 Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ Trung bình 2,04 0,65 tâm lí học sinh 3 Năng lực phối hợp với các lực 2,04 0,64 Trung bình 71
  5. Nguyễn Thị Liên lượng giáo dục 4 Tổng chung về năng lực tư vấn Trung bình 2,04 0,59 tâm lí Bảng 2 cho thấy, năng lực tư vấn tâm lí của GVTHCS ở mức trung bình, trong đó “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” xếp thứ bậc thấp nhất trong nhóm các thành tố của năng lực tư vấn tâm lí mà chúng tôi khảo sát. Phân tích kết quả theo địa bàn: Ở cả hai thành phố tham gia nghiên cứu, nếu như mức độ biểu hiện năng lực tư vấn của GVTHCS thuộc TP Hồ Chí Minh ở mức trung bình, thì mức độ biểu hiện năng lực tư vấn thuộc thành phố Hà Nội biểu hiện ở mức dưới trung bình (thành phố Hà Nội: X = 1,82 ± 0,56; thành phố Hồ Chí Minh: X = 2,27 ± 0,53). Sự khác biệt này có ý nghĩa về mặt thống kê, với p = 0,00. Phân tích sâu hơn cho thấy, có sự khác biệt đáng kể và có ý nghĩa thống kê ở các thành tố của năng lực tư vấn tâm lí giữa GVTHCS tại hai địa bàn tham gia nghiên cứu; trong đó, các nhóm năng lực thành phần của năng lực tư vấn tâm lí ở GVTHCS tại thành phố Hồ Chí Minh có điểm trung bình cao hơn so với Hà Nội, xếp thứ bậc cao nhất là “Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục” với X = 2,31 ± 0,54, ở thứ bậc thấp nhất là “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” với X = 2,13 ± 0,76; trong khi đó, nhóm năng lực thành phần của năng lực tư vấn tâm lí ở GVTHCS tại thành phố Hà Nội xếp thứ nhất là “Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh” với X = 1,90 ± 0,54, thấp nhất là “Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục” với X = 1,82 ± 0,56. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Phân tích kết quả theo giới tính: Nhìn chung, mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí của GV nam cao hơn so với GV nữ (GV nam: X = 2,13 ± 0,55); GV nữ: X = 2,01 ± 0,60) tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê với p = 0,24. Phân tích kết quả theo môn dạy: Mức độ biểu hiện nhóm các năng lực thành phần của năng lực tư vấn tâm lí ở GV dạy các môn học thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội và nhóm môn nghệ thuật thể dục thể thao có sự khác biệt, trong đó có những khía cạnh sự khác biệt có ý nghĩa thống kê. Tuy nhiên, nhìn chung, năng lực tư vấn tâm lí của GVTHCS dạy ở các môn học khác nhau về cơ bản đều ở mức độ trung bình và không có sự khác biệt thống kê. Xem xét kĩ hơn, “Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục” của GV dạy các môn thuộc nghệ thuật, thể dục thể thao, ngoại ngữ, tin học, công nghệ (NTTT) có điểm trung bình cao nhất so với GVTHCS dạy các môn thuộc lĩnh vực khoa học tự nhiên (KHTN) và khoa học xã hội (KHXH), cụ thể: nhóm môn NTTT: X = 2,33 ± 0,48; nhóm môn KHTN: X = 2,06 ± 0,60; nhóm môn KHXH: X = 1,96 ± 0,69. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,03. Tương tự, “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” ở GVTHCS thuộc nhóm môn NTTT có điểm trung bình cao nhất so với GV dạy các nhóm môn khác, trong đó GV dạy các nhóm môn KHTN có điểm trung bình thấp nhất (nhóm môn NTTT: X = 2,20 ± 0,72; nhóm môn KHTN: X = 1,82 ± 0,70; nhóm môn KHXH: X = 2,08 ± 0,62). Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,01. Phân tích kết quả theo nhiệm vụ được phân công: Thực tế cho thấy, với chức năng và nhiệm vụ được giao, giáo viên đóng vai trò can thiệp, hỗ trợ và phòng ngừa khó khăn tâm lí mà học sinh gặp phải thường sẽ là giáo viên chủ nhiệm. Tuy nhiên, kết quả khảo sát của chúng tôi cho thấy, có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí giữa các giáo viên có chức danh (không phải là chức danh quản lí giáo dục, mà là chức năng/nhiệm vụ đặc trưng) khác nhau với p = 0,02. Cụ thể, giáo viên làm công tác phụ trách Đội, Đoàn có điểm trung bình cao nhất so với các giáo viên chủ nhiệm và giáo viên bộ môn, trong đó giáo 72
  6. Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở viên chủ nhiệm có mức điểm trung bình thấp nhất (GV tổng phụ trách: X = 2,29 ± 0,50; GV bộ môn: X = 2,05 ± 0,57; GV chủ nhiệm: X = 1,91 ± 0,60). Xem xét sâu hơn, năng lực thành phần giúp cho giáo viên làm công tác phụ trách Đội, Đoàn ở mức cao hơn so với nhóm các GV còn lại chính là “Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục”, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,00. Kết quả khảo sát này có thể là gợi mở về công tác tập huấn bồi dưỡng đội ngũ tư vấn tâm lí học đường trong giai đoạn hiện nay ở các nhà trường phổ thông. Phân tích kết quả theo thâm niên công tác cho thấy, tuy có sự khác nhau về mức độ điểm trung bình đạt được giữa các nhóm thâm niên từ thấp (từ 1 năm đến 10 năm) hay nhóm thâm niên cao nhất (trên 30 năm), trong đó số liệu thu thập được từ thực tế thì nhóm có thâm niên thấp lại có mức điểm trung bình về năng lực tư vấn tâm lí cao nhất so với các nhóm còn lại. Sự khác biệt này tuy không có ý nghĩa thống kê, nhưng cũng có thể coi đây là gợi ý chăng khi thâm niên kéo theo kinh nghiệm công tác chưa hẳn đã quyết định đến hiệu quả tư vấn tâm lí cho học sinh THCS, đây là giai đoạn lứa tuổi được coi là “biến đổi” rõ rệt nhất sẽ phụ thuộc vào độ “linh hoạt, nhạy bén” trong khả năng của GV hơn là bề dày tuổi nghề chăng. 2.3.2. Kết quả mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên Trung học cơ sở trên từng tiêu chí đánh giá * Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh Bảng 3. Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh của GVTHCS Stt Năng lực X SD Xếp loại 1 Lựa chọn vấn đề cần thiết, phổ biến để tổ chức các Trung chương trình phòng ngừa hiệu quả và có thể huy 2,00 0,49 bình (TB) động được các nguồn lực 2 Thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai TB toàn trường, khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định 2,00 0,61 mục tiêu, đối tượng, xây dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện 3 Đánh giá hiệu quả hoạt động/chương trình 2,01 0,41 TB Kết quả số liệu thu được tại Bảng 3 cho thấy, nhìn chung “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” của GVTHCS tại địa bàn tham gia nghiên cứu đạt mức trung bình. Giáo viên “Đánh giá hiệu quả hoạt động/chương trình” ở mức tốt hơn so với “Lựa chọn vấn đề cần thiết, phổ biến để tổ chức các chương trình phòng ngừa hiệu quả và có thể huy động được các nguồn lực” và “Thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai toàn trường, khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định mục tiêu, đối tượng, xây dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện”. Phân tích kết quả theo địa bàn: Tiến hành kiểm định thống kê này cho thấy có sự khác biệt giữa mức độ biểu hiện của tất cả các thành tố trong “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” của TP. Hồ Chí Minh và TP. Hà Nội. Theo đó, GVTHCS ở TP. Hồ Chí Minh có điểm trung bình đạt được cao hơn so với GVTHCS tại TP. Hà Nội. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Cụ thể: Năng lực “Thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai toàn trường, khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định mục tiêu, đối tượng, xây dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện” của GVTHCS ở TP. Hồ Chí Minh đạt điểm trung bình là 2,30 thì GVTHCS ở TP. Hà Nội đạt ở mức thấp hơn một bậc là 1,80; sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,00. Phân tích kết quả theo giới tính: Phân tích các mặt biểu hiện “Năng lực xây dựng và tổ chức 73
  7. Nguyễn Thị Liên hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” của GV nam có mức điểm trung bình cao hơn so với GV nữ. Tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05. Phân tích kết quả theo môn dạy: Nhìn chung, GV thuộc các môn KHTN có điểm trung bình là thấp nhất ở tất cả các năng lực thành phần (điểm thấp nhất X = 2,01 ± 0,56 “Năng lực thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai toàn trường, khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định mục tiêu, đối tượng, xây dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện”) so với GV ở nhóm môn học NTTT ( X = 2,25 ± 0,60 “Năng lực thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai toàn trường, khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định mục tiêu, đối tượng, xây dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện”). Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê với p > 0,05. Như vậy, năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh không phụ thuộc vào chuyên môn của giáo viên. Phân tích kết quả theo nhiệm vụ được phân công: Xem xét theo chức năng nghiệp vụ mà giáo viên đảm nhiệm trong trường học có thể thấy, giáo viên ở vị trí tổng phụ trách Đội, Đoàn có điểm trung bình ở các khía cạnh của “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” cao nhất so với GV làm công tác chủ nhiệm hay GV dạy các môn học., trong khi đó GV các môn học ở mức điểm trung bình thấp nhất. Tuy nhiên, sự khác biệt này chỉ có ý nghĩa về mặt thống kê với “Năng lực thiết kế các chương trình phòng ngừa và triển khai toàn trường, khối lớp, nhóm học sinh gồm xác định mục tiêu, đối tượng, xây dựng nội dung, thời gian, cách thức thực hiện” (p = 0,01) Phân tích kết quả theo thâm niên công tác: Mức độ biểu hiện “Năng lực xây dựng và tổ chức hoạt động phòng ngừa khó khăn tâm lí ở học sinh” có khác nhau rõ rệt. Tuy nhiên, sự khác biệt có ý nghĩa thống kê này cũng không phụ thuộc vào việc GV có thời gian công tác dài hay ngắn. Có thể thấy rõ qua kết quả của nhóm GV có thâm niên từ 10 năm trở xuống và nhóm GV có thâm niên trên 20 năm trở lên có điểm trung bình cao hơn so với GV có thâm niên từ trên 10 năm đến 20 năm ở “ Năng lực lựa chọn vấn đề cần thiết, phổ biến để tổ chức các chương trình phòng ngừa hiệu quả và có thể huy động được các nguồn lực” (p = 0,01) và “Năng lực đánh giá hiệu quả hoạt động/chương trình” (p = 0,00). * Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh Để đảm bảo công tác tư vấn đúng đối tượng và đạt hiệu quả, đòi hỏi GV phải xác định được chính xác những khó khăn tâm lí nào mà học sinh gặp phải. Chính vì thế, việc lập và lưu trữ hồ sơ là việc làm cần thiết và ngay từ đầu khi bắt đầu hoạt động tư vấn tâm lí. Trong nghiên cứu này, chúng tôi tiến hành tìm hiểu năng lực đó của GV ở các mặt: Thiết kế biểu mẫu hồ sơ tâm lí học sinh rõ ràng, khoa học; Thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí mật; Cập nhật thường xuyên những thay đổi của học sinh hoặc những can thiệp của giáo viên; Tìm kiếm và sử dụng dữ liệu về học sinh theo cách dễ dàng, nhanh chóng khi cần thiết. Bảng 4. Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh của GVTHCS Stt Năng lực X SD Xếp loại 1 Thiết kế biểu mẫu hồ sơ tâm lí học sinh rõ ràng, khoa Dưới TB 1,97 0,43 học 2 Thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí Dưới TB 1,99 0,75 mật 3 Cập nhật thường xuyên những thay đổi của học sinh TB 2,16 0,73 hoặc những can thiệp của giáo viên 4 Tìm kiếm và sử dụng dữ liệu về học sinh theo cách dễ TB 2,06 0,48 dàng, nhanh chóng khi cần thiết 74
  8. Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở Kết quả khảo sát thu được tại Bảng 4 cho thấy: Năng lực hiết kế biểu mẫu hồ sơ tâm lí học sinh rõ ràng, khoa học và năng lực thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí mật của GV còn ở mức dưới trung bình. Năng lực cập nhật thường xuyên những thay đổi của học sinh hoặc những can thiệp của giáo viên ở mức cao nhất cũng chỉ xếp loại trung bình. Kết quả này là do GV chưa thực sự cố gắng nỗ lực rèn luyện, hay do công atcs đào tạo, bồi dưỡng GV còn hạn chế? Đây là vấn đề gợi mở để tìm ra yếu tố tác động và đề xuất biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả công tác bồi dưỡng năng lực cho GV. Phân tích kết quả theo giới tính cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ biểu hiện “Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh” của GV nam và GV nữ (P > 0,05). Phân tích kết quả theo môn dạy cho thấy, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê về mức độ biểu hiện “Năng lực lập và lưu trữ hồ sơ tâm lí học sinh” của GV dạy ở các lĩnh vực môn học khác nhau (p > 0,05). Phân tích kết quả theo nhiệm vụ được phân công: Kết quả so sánh cho thấy, GV làm công tác tổng phụ trách Đội, Đoàn thể hiện “Năng lực thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí mật” tốt hơn so với GV chủ nhiệm và GV dạy môn học với điểm TB là 2,20 trong khi GV chủ nhiệm có điểm TB thấp nhất là 1,86. Sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p = 0,04. Phân tích kết quả theo thâm niên công tác cũng cho thấy “Năng lực thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí mật” không phụ thuộc vào kinh nghiệm thể hiện ở thâm niên công tác dài hay ngắn của GV. * Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục Bảng 5. Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục của GVTHCS Stt Năng lực X SD Xếp loại 1 Hợp tác với phụ huynh học sinh 2,06 0,84 TB 2 Hợp tác với các lực lượng xã hội 2,01 0,46 TB 3 Hợp tác với BGH và các giáo viên chuyên trách nhà TB 2,31 0,67 trường (tổng phụ trách, cán bộ y tế học đường) 4 Hợp tác với các nhà tâm lí trị liệu chuyên nghiệp 2,16 0,84 TB Chúng tôi tìm hiểu năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục trong công tác tư vấn tâm lí cho học sinh của GVTHCS ở các mặt: phối hợp với các lực lượng ngoài nhà trường bao gồm phụ huynh học sinh và các lực lượng có liên quan khác, phối hợp giữa GV với Ban giám hiệu (BGH) và các giáo viên phụ trách Đoàn Đội, cán bộ y tế học đường. Kết quả khảo sát tại Bảng 5 cho thấy, các năng lực thành phần của năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục trong công tác tư vấn tâm lí cho học sinh của GVTHCS chỉ ở mức độ trung bình; trong đó “năng lực hợp tác với BGH và các tổng phụ trách, cán bộ y tế học đường” có điểm trung bình cao nhất so với các thành phần năng lực còn lại. Ở vị trí thấp nhất là “Năng lực phối hợp với các lực lượng xã hội”. Phân tích cụ thể hơn cho thấy, tuy có sự chênh lệch về điểm trung bình giữa GV nam và GV nữ, trong đó GV nam có điểm số cao hơn so với GV nữ, nhưng sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p> 0,05. Phân tích theo địa bàn khảo sát cho thấy, GV ở thành phố Hồ Chí Minh thể hiện “Năng lực phối hợp với các lực lượng giáo dục” tốt hơn GV ở thành phố Hà Nội, theo đó phải kể đến “Năng lực hợp tác với BGH và GV chuyên trách” của GV ở thành phố Hồ Chí Minh thể hiện tốt nhất, còn ở mức thấp nhất là “Năng lực hợp tác với các lực lượng giáo dục” bên ngoài nhà trường. Ở Hà Nội, kết quả khảo sát cũng cho thấy giống như vậy. Sự khác biệt giữa các thành phần năng lực của GV ở hai địa bàn khảo sát này có ý nghĩa thống kê với p < 0,05. Phân tích theo môn học mà GV đảm nhiệm: GV thuộc nhóm môn học NTTT có điểm trung bình cao nhất về tất cả các năng lực hợp tác với phụ huynh, với lực lượng giáo dục, với 75
  9. Nguyễn Thị Liên Ban giám hiệu và GV chuyên trách hay với cả các nhà tâm lí trị liệu chuyên nghiệp so với GV thuộc nhóm môn khoa học xã hội (KHXH) và khoa học tự nhiên (KHTN). Tuy nhiên, sự khác biệt này không có ý nghĩa về mặt thống kê với p > 0,05. Tương tự, khi xem xét theo thâm niên công tác, không có sự khác biệt có ý nghĩa thống kê giữa những GV có ít năm giảng dạy so với GV có nhiều năm giảng dạy về năng lực hợp tác với phụ huynh, với lực lượng giáo dục, với BGH và GV chuyên trách hay với cả các nhà tâm lí trị liệu chuyên nghiệp (p>0,05). Nhưng khi xem xét theo nhiệm vụ được phân công, thì GV làm công tác chuyên trách là tổng phụ trách hoặc cán bộ y tế thể hiện khả năng phối hợp và huy động các nguồn lực tham gia vào công việc tốt hơn so với các GV bộ môn và kể cả GV chủ nhiệm, sự khác biệt này có ý nghĩa thống kê với p=0,00. Các năng lực hợp tác với các nguồn lực trong nahf trường và chuyên gia tâm lí của GV chuyên trách cũng có điểm trung bình cao hơn so với GV môn học và GV chủ nhiệm, tuy nhiên sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p > 0,05 3. Kết luận Từ việc phân tích thực trạng mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí của 207 giáo viên trung học cơ sở thuộc thành phố Hồ Chí Minh và thành phố Hà Nội theo các năng lực thành phần và theo các biến so sánh (địa bàn, giới tính, tuổi, môn dạy, chức năng được phân công, thâm niên công tác) có thể rút ra kết luận: Nhìn chung, năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở ở mức trung bình. Tuy nhiên, còn một số năng lực thành phần là “Thiết kế biểu mẫu hồ sơ tâm lí học sinh rõ ràng, khoa học” và “Thu thập và lưu thông tin học sinh một cách an toàn bí mật” nghiêng về phía dưới trung bình. Có sự khác biệt có ý nghĩa về mức độ biểu hiện năng lực tư vấn tâm lí theo địa bàn khảo sát. Còn xét theo các biến so sánh khác về cơ bản sự khác biêt không có ý nghĩa thống kê. Kết quả của nghiên cứu này có thể gợi mở cho những nghiên cứu tiếp theo với địa bàn và mẫu đại diện phổ rộng hơn để có được bức tranh về năng lực tư vấn tâm lí trong “cái nhìn tổng thể” của thực trạng năng lực nghề nghiệp của giáo viên THCS nói riêng, giáo viên phổ thông nói chung. Lời cảm ơn: Bài báo là sản phẩm của đề tài “Phát triển năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên Trung học cơ sở”, mã số SPHN19-01 VNCSP. TÀI LIỆU THAM KHẢO [1] Phạm Thanh Bình, 2014. Nhu cầu tham vấn tâm lí học đường của học sinh Trung học cơ sở. Luận án Tiến sĩ, Trường ĐHSP Hà Nội. [2] Bùi Thu Huyền, Hoàng Anh Phước, 2019. Nhu cầu bồi dưỡng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên phổ thông hiện nay. Tạp chí Khoa học, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, Vol. 64, Issue 9, pp 13-24. [3] Georgiana D., 2015. Teacher’s Role as a Counsellor. Procedia - Social and Behavioral Sciences, No. 180, pp.1080-1085. [4] Gerich M., 2016, Teachers’ Counseling Competence in Parent-Teacher Talks - Modeling, Intervention. Behavior-Based Assessment, Springer Fachmedien Wiesbaden. [5] Gerich M., Schmitz B., 2016. Using Simulated Parent-Teacher Talks to Assess and Improve Prospective Teachers’ Counseling Competence. Journal of Education and Learning, Vol. 5, No. 2, pp. 285-301. [6] Gerich M., Trittel M., Schmitz B., 2016. Improving Prospective Teachers’ Counseling Competence in Parent-Teacher Talks: Effects of Training and Feedback, Journal of Educational and Psychological Consultation, DOI: 10.1080/10474412.2016.1220862. 76
  10. Thực trạng năng lực tư vấn tâm lí của giáo viên trung học cơ sở [7] Olubusayo A. 2014. Teachers’ psychological strategies and competencies in enhancing the quality of teaching- learning in secondary schools, Global Science Research Journals, Vol. 2 (2), pp. 150-154. [8] Trần Thị Mỵ Lương, 2016. Kĩ năng tư vấn tâm lí cho học sinh của giáo viên trung học cơ sở. Tạp chí Giáo dục, số 394, tr. 32-39. [9] Hoàng Gia Trang, 2018. Phát triển năng lực tư vấn tâm lí cho giáo viên chủ nhiệm ở trường trung học cơ sở. Đề tài khoa học và công nghệ cấp Bộ, Viện Khoa học giáo dục Việt Nam. [10] Vũ Dũng (chủ biên), 2012. Từ điển Thuật ngữ Tâm lí học. Nxb Từ điển Bách khoa. [11] Phạm Minh Hạc, 2016. Tâm lí học Đại cương. Nxb Giáo dục Việt Nam. [12] Olubusayo A., 2014. Teachers’ psychological strategies and competencies in enhancing the quality of teaching - learning in secondary schools. Global Science Research Journals, Vol. 2 (2), pp. 150-154. [13] Gerich M., Bruder S., Hertel S., Trittel M., Schmitz B., 2015. What skills and abilities are essential for counseling on learning difficulties and learning strategies? Modeling teachers’ counseling competence in parent-teacher talks measured by means of a scenario test, Zeitschrift für Entwicklungspsychologie und Pädagogische Psychologie, 47, pp.62-71. ABSTRACT Situation of psychological consulting competency of teachers in secondary school Nguyen Thi Lien Reseach Centre for Psychology and Age-gpoup Physiology Institute for Educaitional Research, Hanoi National University of Education Psychological counseling competence is one of the requirements of Teacher Professional Standards. This competence belongs to criterion 7 of standard 2 for professional development. This article refers to our recent research results within the Hanoi National University of Education’s project. The survey was conducted to find out the level of psychological counseling ability of secondary school teachers among the sample of 207 teachers belong to Thanh Xuan district, Hanoi city and 12th district, Ho Chi Minh city. The research results show that the psychological counseling competence of secondary school teachers in the survey area is currently at an average level. In particular, among the component competencies, the ability to create and store students' psychological records and the ability to coordinate with the educational forces at the best level, the lowest is the competency to build and organize room operations which helps prevent psychological difficulties in students. Keywords: psychological consulting, psychological difficulties, psychological consulting competency, secondary teachers, situation. 77
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2