Thuốc dùng trong rối loạn tiểu tiện Hành vi tiểu tiện được kiểm soát do cơ trơn bức niệu của bàng quang (được kích thích chủ yếu bởi các dây thần kinh đối giao cảm) và cơ vòng bên ngoài (kích thích thần kinh giao cảm). Rối loạn tiểu tiện có thể xảy ra qua tác dụng tại chỗ trên bàng quang hay niệu đạo hoặc có thể do sự rối loạn kiểm soát dây thần kinh bao gồm: đái dầm ban đêm, không kiềm chế được tiểu tiện và bí tiểu tiện.

Đái dầm ban đêm

Nước tiểu tràn ra không chủ tâm khi ngủ (gọi là đái dầm ban

đêm) là hiện tượng xảy ra bình thường ở trẻ nhỏ, bệnh tự khỏi

nhưng có một số tồn tại dai dẳng đến tuổi lên 10. Đái dầm ban

đêm được xác định là sơ phát nếu kéo dài quá 6 tháng, là tái phát

khi trẻ khô ráo một thời gian trước khi đột ngột bị đái dầm trở

lại. Cách điều trị bao gồm tập nhịn đi tiểu, khuyến khích và thay

đổi cách ứng xử hay điều trị có điều kiện bằng cách sử dụng báo

động cảm giác bị ẩm ướt. Điều trị bằng thuốc ban đầu tạo ra sự

đáp ứng nhanh, nhưng việc huấn luyện người sử dụng báo động

thường thấy có hiệu quả hơn vì tỷ lệ tái phát thấp hơn. Nhiều

người cho điều trị bằng thuốc là không thích hợp với trẻ dưới 7

tuổi. Điều trị bằng thuốc có lẽ hữu ích nhất khi sử dụng gián

đoạn định kỳ. Việc dùng thuốc kéo dài để chữa dái dầm đang

còn tranh cãi.

Sử dụng desmopressin ban đêm có thể có hiệu quả khi kiểm soát

ngắn hạn đái dầm ban đêm và nhiều người coi đó là thuốc lựa

chọn an toàn. Tuy nhiên không nên dùng thuốc này nếu đái dầm

kèm theo uống nhiều nước vì desmopressin có thể gây quá tải

nước và co giật do natri thấp trong máu.

Thuốc chống trầm cảm 3 vòng được sử dụng nhiều nhất là

imipramin. Cơ chế tác dụng thuốc với đái dầm ban đêm chưa

được làm rõ. Có thể một phần do tác dụng kháng muscarin và

chống co thắt.

Các thuốc kháng muscarin như oxybutynin làm giảm co bàng

quang không bị ức chế, mặc dù chúng có lợi trong điều trị đái

dầm ban đêm.

Tiểu tiện không kiềm chế được và bí tiểu tiện

Các dạng tiểu tiện không kiềm chế được (TTKKCĐ):

Kích ứng TTKKCĐ là dạng phổ biến nhất ở phụ nữ. Người bệnh

thiếu khả năng co thắt niệu đạo, mất nước tiểu kết hợp với sự gia

tăng áp suất bên trong bụng như khi đứng hoặc ho. Việc điều trị

có hiệu quả với các biện pháp như luyện tập đứng chậu hông,

kích thích bằng điện hay tác động ngược sinh học và sử dụng

thiết bị như nón âm đạo, phẫu thuật hay dùng thuốc.

Các thuốc chủ vận alpha adrenalin như ephedrin,

phenylpropanolamin và pseudoephedrin đã được sử dụng để

tăng trương lực của các cơ của niệu đạo và đáy của bàng quang.

Những thuốc này chỉ có tác dụng phòng ngừa trong một số

trường hợp dùng ngắn hạn. Các estrogen được dùng với một chủ

vận alpha adrenalin như phenylpropanolamin tỏ ra hiệu quả ở

một số phụ nữ sau tuổi mãn kinh.

TTKKCĐ cấp bách là dạng phổ biến nhất ở người già và thường

khó điều trị. Khi có bệnh, có nghĩa là thần kinh đã bị tổn thương

ở noron vận động, tổn thương tủy sống hoặc bệnh xơ cứng rải

rác, đó là phản xạ ở cơ bức niệu. Có thể kiểm soát được các triệu

chứng nhẹ của bệnh bằng cách giảm đưa chất lỏng vào cơ thể

quá mức và tránh các nước uống có chứa alcol và cafein. Có thể

hỗ trợ bằng điều trị vật lý, cách tập luyện bàng quang, tác động

ngược sinh học, liệu pháp thôi miên, châm cứu và kích thích

điện.

Chưa tìm ra cách điều trị nào bằng thuốc có hiệu lực vạn năng.

Các thuốc có tác dụng muscarin có thể ức chế sự co cơ bức niệu

không bền vững nhưng phản ứng phụ có thể xảy ra nhiều. Vì các

thuốc này có thể gia tăng thể tích của bàng quang, chúng không

thể sử dụng được cho bệnh nhân bí đái. Thuốc oxybutynin

kháng muscarin cũng có tính chất thư giãn trực tiếp cơ trơn,

nhưng phản ứng phụ cũng phổ biến. Tolterodin, trospium và

propiverin đã được đưa vào để thay thế cho oxybutynin.

Desmopressin cũng được sử dụng nhiều trong bệnh đái dầm đêm

và chứng tiểu tiện đêm.

Bí tiểu: chảy nhỏ giọt nước tiểu, thường là nguyên nhân của

bàng quang căng phồng do bí đái gây nên, có thể còn do vài

dạng tắc nghẽn niệu đạo khi dùng thuốc, tình trạng co thắt cơ

bức niệu hay ảnh hưởng của sự thư giãn niệu đạo. Bệnh ít gặp ở

phụ nữ và người già bị tắc nghẽn niệu đạo do tăng sản tuyến tiền

liệt thể nhẹ. Tuy nhiên, bí đái còn có thể xảy ra sau khi đẻ hay

sau khi phẫu thuật. Việc điều trị tùy theo tình trạng, thông bằng

ống nong thường được sử dụng để làm giảm đau do bí đái hay

chưa tìm ra nguyên nhân. Các kỹ thuật ngoại khoa thường được

sử dụng để hiệu chỉnh bất kỳ sự tắc nghẽn nào.

Các thuốc ức chế thụ thể alpha adrenalin như alfuzosin,

doxazoxin, indoramin, prazoxin, tamsulosin và terazoxin có thể

dùng cho bệnh nhân đang chờ phẫu thuật hay các bệnh nhân

không thích hợp với phẫu thuật.

v