
Tiểu luận:
Nhìn lại chính sách đối ngoại của
Việt Nam sau 20 năm đổi mới

Hai mươi năm trước đây Việt Nam bước vào công cuộc đổi mới trong bối cảnh
quốc tế có nhiều biến động hết sức phức tạp, nhất là sau khi chế độ XHCN bị xoá bỏ ở
Đông Âu, Liên Xô tan rã và phong trào cách mạng thế giới tạm thời rơi vào thoái trào.
Tương quan so sánh lực lượng nghiêng về phía có lợi cho CNTB - nhất là Mỹ - siêu
cường duy nhất còn lại sau trật tự thế giới hai cực đã từng tồn tại gần nửa thế kỷ. Dưới
tác động của cuộc cách mạng khoa học - công nghệ và xu thế toàn cầu hóa, các quốc gia
đều ưu tiên cho phát triển kinh tế, quá trình giao lưu và thâm nhập qua lại giữa các quốc
gia ngày càng trở nên sôi động và chặt chẽ. Sự đơn lẻ của mỗi quốc gia trở nên hết sức
mong manh trước những rủi ro, biến động của nền kinh tế thế giới, cũng như năng lực
quá nhỏ bé không thể giải quyết được những vấn đề mang tính toàn cầu như: môi trường
sinh thái, nạn nghèo đói, bệnh tật hiểm nghèo... Trong bối cảnh quốc tế như vậy cũng như
nhiều nước khác Việt Nam phải điều chỉnh lại chính sách đối ngoại của mình để thích
nghi với điều kiện mới, đây là đòi hỏi khách quan, cấp bách đặt ra cho cách mạng nước
ta. Chúng ta cùng nhìn lại chính sách đối ngoại của nước ta sau 20 năm đổi mới trên
những nội dung chính sau:
1. Điểm lại những nét chính của chính sách đối ngoại Việt Nam qua các giai
đoạn
Đối với nước nào cũng vậy, chính sách đối ngoại là sự tiếp nối của chính sách
đối nội, và phục vụ chính sách đối nội. Chính sách đối ngoại là một bộ phận của đường
lối chính trị, đường lối cách mạng của Đảng ta trong từng thời kỳ cách mạng. Chính sách
đối ngoại là tổng hoà của những quan điểm, biện pháp, hình thức đối ngoại nhằm làm cho
mục tiêu cách mạng trong nước phù hợp với xu hướng, quy luật vận động của thế giới.
a. Chính sách đối ngoại của Việt Nam giai đoạn 1986-1991
Đại hội VI (12/1986) đã khởi đầu sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước trong đó
có lĩnh vực đối ngoại. Đại hội xác định nhiệm vụ trong lĩnh vực đối ngoại là: "Ra sức kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh của thời đại... Phấn đấu giữ vững hoà bình ở Đông
Dương, góp phần giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới, tăng cường quan hệ
đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện
với Liên Xô và các nước trong cộng đồng XHCN, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi

cho sự nghiệp xây dựng CNXH và bảo vệ Tổ quốc; đồng thời tích cực góp phần vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và CNXH"(1).
Nhiệm vụ đối ngoại được đề ra tại Đại hội VI đã phản ánh nhận thức đúng đắn và tư duy
nhạy bén của Đảng ta trước những thay đổi lớn của thời cuộc.
"Ra sức kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại" là sự quán triệt
sâu sắc bài học của thời kỳ đấu tranh giải phóng dân tộc, nhưng trước những diễn biến
mới của tình hình: Kết hợp sức mạnh của dân tộc với sức mạnh của thời đại còn có nghĩa
là kết hợp yếu tố nội lực với yếu tố ngoại lực để tạo nên sức mạnh tổng hợp làm động lực
mạnh mẽ thúc đẩy nền kinh tế nước ta phát triển nhanh.
"Góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới" thể hiện
bản chất, lập trường đối ngoại hoà bình của Đảng và Nhà nước ta. Hoà bình mỗi khu vực
và hoà bình trên thế giới có quan hệ biện chứng với nhau. Thế giới có hoà bình thì khu
vực mới có hoà bình và hoà bình ở mỗi khu vực là bộ phận trong nền hoà bình thế giới.
Bên cạnh đó, hoạt động đối ngoại của Việt Nam còn phải "tranh thủ điều kiện
quốc tế thuận lợi" để thực hiện mục tiêu xây dựng CNXH, đồng thời phải "góp phần tích
cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại" vì các mục tiêu của thời đại. Hai yếu tố này
có quan hệ tương tác lẫn nhau bởi vì "tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi" sẽ góp phần
ổn định tình hình trong nước, khắc phục khó khăn, phát triển kinh tế - xã hội tạo tiền đề
cho những bước phát triển tiếp theo. Yếu tố này một phần cũng đóng góp tích cực vào
cuộc đấu tranh chung của nhân loại, mặt khác lại là cơ sở để nâng cao uy tín của Việt
Nam trên trường quốc tế và đem lại nhiều cơ hội để hội nhập và phát triển.
Sau Đại hội VI của Đảng, tình hình thế giới diễn biến nhanh và phức tạp. Nghị
quyết 13 khoá VI (5-1988) của Bộ Chính trị đã khẳng định "Lợi ích cao nhất của Đảng và
nhân dân ta là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung xây dựng và phát triển
kinh tế" vì "với một nền kinh tế mạnh, một nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở
rộng quan hệ quốc tế, chúng ta sẽ có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành
công CNXH" hơn. Phương châm chỉ đạo công tác đối ngoại được điều chỉnh là "thêm
(1) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứVI, Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1987, tr.99.

bạn bớt thù" ra sức tranh thủ các nước anh em bầu bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới,
nhằm phân hoá hàng ngũ đối phương, làm thất bại âm mưu bao vây, cô lập ta về kinh tế,
chính trị và chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ trạng thái đối đầu sang đối thoại, hợp tác
trong cùng tồn tại hoà bình. Đây được coi là một bước đột phá mới trong tư duy đối
ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Trên cơ sở quan điểm đổi mới của Đại hội VI và Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị,
Hội nghị Trung ương 6 (khóa VI) tiếp tục khẳng định: Kiên trì đường lối độc lập tự chủ,
giữ vững hoà bình, tranh thủ thời gian và điều kiện thuận lợi để từng bước ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội. "Chuyển mạnh hoạt động ngoại giao từ quan hệ chính trị sang
quan hệ chính trị - kinh tế, mở rộng quan hệ kinh tế phục vụ cho sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ đất nước"(2). Tiếp theo, Hội nghị lần thứ VII BCHTW (khoá VI) tiếp tục quán triệt
chủ trương "Sẵn sàng mở rộng quan hệ kinh tế với tất cả các nước, các công ty nước
ngoài trên cơ sở hai bên cùng có lợi và không có điều kiện chính trị ràng buộc, nhưng
phải chủ động phòng ngừa, tránh bị lệ thuộc, hạn chế đến mức thấp nhất cái giá phải
trả"(3).
Như vậy, Đại hội toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Nghị quyết 13 của Bộ Chính trị
cùng Nghị quyết Trung ương 6 và 7 (khóa VI) là những văn bản chỉ đạo hoạt động đối
ngoại có ý nghĩa sách lược và chiến lược đối với sự phát triển đất nước. Đây là những
định hướng rất quan trọng, thể hiện tư duy mới về con đường xây dựng CNXH, làm tiền
đề cho việc từng bước hoàn chỉnh chính sách đối ngoại của thời kỳ đổi mới.
b. Chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạn 1991-1996
Đại hội lần thứ VII của Đảng (6/1991) đã vạch ra những nét chủ yếu của chính
sách đối ngoại thể hiện trong Cương lĩnh xây dựng CNXH và các văn kiện khác.
Trước bối cảnh phức tạp của tình hình quốc tế cũng như tình hình trong nước,
Đại hội VII của Đảng đã xác định: chính sách đối ngoại phải phục vụ cho mục tiêu tổng
quát là đưa Việt Nam cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng. Do đó, văn kiện Đại hội
(2) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 6 BCHTW (khóa VI), Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1986, tr.40.
(3) Đảng Cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Hội nghị lần thứ 7 BCHTW (khóa VI), Nxb
Sự thật, Hà Nội, 1988, tr.17.

VII đã xác định nhiệm vụ đối ngoại bao trùm là "giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ
hữu nghị và hợp tác, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì
hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội"(4). Để cụ thể hoá mục tiêu bao trùm
này, Đại hội VII đã khẳng định chính sách ngoại giao rộng mở: "Việt Nam muốn là bạn
với tất cả các nước trong cộng đồng thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát
triển"(5). Với quan điểm này chúng ta chủ trương hợp tác bình đẳng và cùng có lợi với tất
cả các nước, không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên cơ sở các nguyên
tắc cùng tồn tại hoà bình.
Trước những diễn biến nhanh chóng, phức tạp của tình hình thế giới, một mặt
Đại hội VII vẫn chủ trương trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với Liên
Xô và các nước XHCN, mặt khác, Đảng kêu gọi thúc đẩy quá trình bình thường hoá quan
hệ với Trung Quốc, với Mỹ. Đồng thời, Đảng cũng nhận thức sâu sắc rằng phải "phát
triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam á theo hướng hoà bình, hữu nghị và
hợp tác"(6).
Chủ trương này là một bước hoàn thiện thêm quá trình đổi mới tư duy đối ngoại
của Đảng ta, bởi vì bình thường hoá quan hệ với các nước lớn tăng cường quan hệ với
các nước láng giềng và khu vực có ý nghĩa trực tiếp tới hoà bình, ổn định của Việt Nam
cũng như toàn khu vực. Đại hội VII còn chủ động mở rộng quy mô quan hệ đối ngoại,
Đảng tuyên bố: "sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các Đảng xã hội - dân chủ,
các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới"(7). Đây thực sự là những tín hiệu đầu tiên
đưa đất nước hội nhập vào các tổ chức quốc tế.
Đến Nghị quyết Trung ương 3 khóa VII (1991), Đảng đề ra tư tưởng chủ đạo cho
chính sách đối ngoại của Việt Nam là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và
CNXH; đồng thời phải rất sáng tạo, năng động, linh hoạt, phù hợp với vị trí, điều kiện và
(4) Đảng Cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ
lên CNXH, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.18.
(5) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.88.
(6) (7) Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII,
Nxb Sự thật, Hà Nội, 1991, tr.89.

