intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận: So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến Pháp 1946 và Hiến Pháp 1959

Chia sẻ: Trần Nam | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:14

629
lượt xem
44
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài tiểu luận này có 7 phần được trình bày như sau: Hoàn cảnh ra đời của bộ máy nhà nước (BMNN); Các cấp hành chính của BMNN theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959; Hệ thống các cơ quan thành lập của BMNN theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959; Điểm khác biệt nữa trong BMNN theo Hiến pháp 1946 so với Hiến pháp 1959 là về nguyên thủ quốc gia; Con đường hình thành hệ thống các cơ quan quyền lực; Nguyên tắc tổ chức và hoạt động;

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận: So sánh bộ máy nhà nước theo Hiến Pháp 1946 và Hiến Pháp 1959

  1. 1. HOÀN CẢNH RA ĐỜI CỦA BỘ MÁY NHÀ NƯỚC Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946 ra đời sau khi nhân dân ta đập tan   bộ máy thực dân phong kiến giành chính quyền nhà nước trong cuộc cách mạng   tháng Tám năm 1945. Ngay tại phiên họp đầu tiên (03/9/1945), Chính phủ  lâm   thời đã xác định sáu nhiệm vụ cấp bách của Nhà nước và nhân dân ta trong việc   bảo tồn nền độc lập dân tộc và xây dựng chính quyền dân chủ  nhân dân. Trên  tinh thần của phiên họp này, các văn bản pháp luật làm cơ sở cho việc xây dựng  bộ  máy Nhà nước kiểu mới – Nhà nước dân chủ  nhân dân được ban bố. Ngày   08/9/1945, Sắc lệnh số 14 quy định về thể lệ tổng tuyển cử để bầu ra Quốc hội   được ban hành. Tháng 3/1946, Quốc hội họp kì đầu tiên và bầu ra ban thường vụ  Quốc hội, Chủ tịch nước, Phó chủ tịch nước, Thủ tướng chính phủ và các thành  viên của Chính phủ. Tháng 11/1946, tại kì họp thứ hai, Quốc hội đã thảo luận và  thông qua bản Hiến pháp đầu tiên của nhà nước ta đồng nghĩa với việc thông  qua bộ máy nhà nước mà Hiến pháp 1946 là cơ sở pháp lý. Tuy nhiên, do chưa có   kinh nghiệm cũng như điều kiện của nước ta sau cách mạng tháng Tám 1945 nên  cơ  cấu tổ  chức cũng như  nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ  quan nhà nước còn  nhiều điểm chưa phù hợp với tính chất và vị  trí của nó. Bộ  máy nhà nước theo   Hiến pháp 1946 chỉ tồn tại trong một thời gian ngắn. Đến năm 1959, bộ máy Nhà   nước mới ra đời trên cơ  sở  Hiến pháp 1959 đã thay thế  cho bộ  máy nhà nước   theo Hiến pháp 1946. Sau thắng lợi Điện Biên Phủ lẫy lừng, nhân dân Việt Nam  đã đánh bại đế quốc Pháp và can thiệp Mỹ. Hiệp định Giơ­ne­vơ năm 1954 được   ký kết trên cơ  sở  công nhận độc lập, chủ  quyền, thống nhất và lãnh thổ  toàn  1
  2. vẹn của nước ta. Từ  khi hoà bình lập lại,  ở  miền Bắc được hoàn toàn giải  phóng, nhân dân đã hoàn thành cách mạng dân chủ  nhân dân. Nhưng miền Nam   còn bị  đế  quốc và phong kiến thống trị, nước nhà tạm thời còn bị  chia làm hai   miền. Cách mạng nước ta bước sang giai đoạn mới: xây dựng chủ  nghĩa xã hội  ở miền Bắc, hoàn thành nhiệm vụ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền   Nam;   đấu   tranh   thống   nhất   đất   nước.   Trong   điều   kiện   đó,   với   những   kinh   nghiệm tích lũy của quá trình xây dựng chính quyền nhân dân, Nhà nước ta đã  bước đầu củng cố  lại bộ  máy nhà nước và cho ra đời bộ  máy Nhà nước mới   theo Hiến pháp 1959. Như  vậy, cả  hai bộ  máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp  1959 đều ra đời sau những chiến thắng lớn (cách mạng tháng Tám năm 1945 đưa  đến sự ra đời của bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Điện Biên Phủ năm  1954 thúc đẩy sự  ra đời của bộ  máy Nhà nước theo Hiến pháp 1959), phù hợp  với quy luật phát triển chung của xã hội. Đây đều là những bộ  máy nhà nước   hoạt động trong thời kì chiến tranh khốc liệt nhất của dân tộc, vận hành với  mục tiêu đánh đổ thực dân Pháp và đế quốc Mỹ, giành những chiến thắng quyết   định đem lại hòa bình, độc lập cho dân tộc. 2.   CÁC   CẤP   HÀNH   CHÍNH   CỦA   BỘ   MÁY   NHÀ   NƯỚC   THEO  HIẾN PHÁP 1946 VÀ HIẾN PHÁP 1959 Theo Hiến pháp 1946, bộ  máy Nhà nước được phân thành 5 cấp quản lý hành  chính: cấp Trung  ương, cấp Bộ (Bắc bộ, Trung bộ, Nam bộ), cấp tỉnh và thành  phố  trực thuộc trung  ương, cấp huyện, cấp xã và cấp tương đương. Đến Hiến  pháp 1959, bộ máy Nhà nước được củng cố  và sửa đổi. Các cấp hành chính chỉ  còn lại 4 cấp: Trung ương; cấp tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương và khu tự  trị; cấp huyện, thành phố  trực thuộc tỉnh; cấp xã, thị  trấn và tương đương; cấp  Bộ bị bãi bỏ. 2
  3. Như vậy, hoàn cảnh lịch sử mới đã dẫn đến sự thay đổi của các cấp quản   lý hành chính. Từ  5 cấp quản lý hành chính theo Hiến pháp 1946 xuống còn 4   cấp theo Hiến pháp 1959. 3. HỆ  THỐNG CÁC CƠ  QUAN THÀNH LẬP CỦA BỘ  MÁY NHÀ  NƯỚC THEO HIẾN PHÁP 1946 VÀ HIẾN PHÁP 1959 Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp năm 1946 có ba hệ thống: Hệ thống các   cơ  quan đại diện, hệ  thống các cơ  quan chấp hành và hệ  thống các cơ  quan tư  pháp. Đến bộ máy nhà nước theo Hiến pháp năm 1959, bộ máy Nhà nước ta gồm   có 4 hệ  thống, vẫn bao gồm: Hệ thống các cơ  quan đại diện, hệ  thống các cơ  quan chấp hành, hệ thống các cơ quan xét xử và có thêm hệ thống cơ quan kiểm   sát. Hệ  thống cơ  quan kiểm sát là một hệ  thống mới trong Bộ  máy Nhà nước  theo Hiến pháp 1959.  3.1. Hệ thống các cơ quan đại diện:  3.1.1. Của Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946 bao gồm: Nghị viện  nhân dân (tức Quốc hội khóa I) và hội đông nhân dân ở hai cấp (cấp tỉnh và cấp   xã). Còn  ở  cấp bộ  và cấp huyện không có hội đồng nhân dân. Nghị  viện nhân   dân do nhân dân cả nước bầu ra còn hội đồng nhân dân của địa phương nào là do  nhân dân địa phương  ấy bầu ra theo bốn nguyên tắc: phổ  thông tự do, trực tiếp  và kín. Nghị viện nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất còn hội đồng  nhân dân là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương. 3.1.2. Hệ  thống cơ  quan đại diện của Bộ  máy Nhà nước theo Hiến   pháp 1959 được thành lập ở cả 4 cấp . Nghị viện nhân dân được đổi tên thành  Quốc hội. Ban thường vụ Quốc hội được đổi tên thành Ủy ban thường vụ Quốc   hội. Trong tổ  chức của quốc hội được thành lập một số  cơ  quan chuyên môn  3
  4. như Ủy ban kinh tế kế hoạch và ngân sách, Ủy ban dự án pháp luật... Hội đồng  nhân dân được thành lập  ở  các địa phương (tỉnh, huyện, xã và tương đương ).   Nhiệm vụ  quyền hạn của Quốc hội và hội đồng nhân dân được tăng cường và  quy định cụ thể hơn. 3.1.3. Nhận xét:  Như vậy, hệ  thống các cơ  quan đại diện của Bộ  máy Nhà nước từ  Hiến  pháp 1946 đến Hiến pháp 1959 về  cơ  bản vẫn gồm Nghị  viện nhân dân (hay   Quốc hội) và Hội đồng nhân dân. * Về  Quốc hội:  Ở  cả  hai bản Hiến pháp đều quy định Quốc hội là cơ  quan quyền lực nhà nước cao nhất có quyền lập ra pháp luật. Vai trò của Quốc hội  ở bản Hiến pháp sau ngày càng được khẳng định so  với bản Hiến pháp trước. Hiến pháp 1946 quy định giải quyết mọi vấn đề chung  cho toàn quốc, đặt ra pháp luật, chuẩn y hiệp ước Chính phủ kí với nước ngoài.  Nghị viện nhân dân là cơ  quan thay mặt cho toàn thể nhân dân. Đến Hiến pháp  1959, Quốc hội là cơ  quan duy nhất có quyền lập pháp. Quyền hạn của Quốc   hội được quy định cụ thể tại điều 50 của Hiến pháp trong đó có quyền làm luật;  làm và sửa đổi Hiến pháp. Đồng thời quy định rõ cả  quyền của Ủy ban thường  vụ Quốc hội, trong đó bao gồm cả quyền giải thích pháp luật. Trong tổ chức của  Quốc hội,  Ủy ban thường vụ  Quốc hội theo Điều 53 Hiến pháp 1959 có thêm  nhiều quyền hạn hơn so với Ban Thường vụ  Quốc hội theo Hiến pháp 1946   (Điều 36). Ngoài ra, Quốc hội theo Hiến pháp 1959 còn thành lập thêm một số  cơ quan chuyên môn: Ủy ban dự án pháp luật, Ủy ban kinh tế kế hoạch và ngân  sách… * Về Hội đồng nhân dân: ­ Trong chương V Hiến pháp 1946 có quy định về  Hội đồng nhân dân và  ủy ban hành chính gồm 6 điều (Điều 57 đến Điều 62) quy định những vấn đề  thành lập Hội đồng nhân dân và ủy ban hành chính ở các đơn vị hành chính trong  4
  5. cả  nước. Tuy nhiên Hiến pháp 1946 chưa xác định rõ vị  trí tính chất của Hội  đồng nhân dân và Ủy ban hành chính. Những mối liên hệ cơ bản giữa Hội đồng   nhân dân với cấp trên và ủy ban hành chính được xác định tại Điều 59 là : “Hội   đồng nhân dân quyết định những vấn đề  thuộc địa phương mình. Những nghị  quyết đấy không được sai trái với chỉ  thị  của cấp trên.  Ủy ban hành chính có  nhiệm vụ  thi hành mệnh lệnh câp trên, thi hành các nghị  quyết của Hội đồng   nhân dân địa phương mình sau khi cấp trên chuẩn y” và “Ủy ban hành chính chịu   trách nhiệm với cấp trên và đối với Hội đồng nhân dân địa phương mình” (Điều   60).  ­ Chương VII Hiến pháp 1959 có quy định về  tổ  chức và hoạt động của  Hội đồng nhân dân, các chế  độ  hoạt động các mối quan hệ  của Hội đồng nhân  dân... So với Hiến pháp 1946 Hiến pháp 1959 đã có những quy định cụ  thể  hơn   về  Hội đồng nhân dân. Nếu Hiến pháp 1946 chỉ  quy định những vấn đề  có tính  nguyên tắc về  tổ  chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và  Ủy ban hành  chính, còn những vấn đề  khác do luật định thì đến Hiến pháp 1959 vấn đề  tổ  chức hoạt động của Hội đồng nhân dân được quy định cụ thể hơn. Điều đó thể  hiện rõ ở những quy định về vị trí tính chất của Hội đồng nhân dân, chế độ hoạt   động và các mối quan hệ  công tác của Hội đồng nhân dân. Hiến pháp 1959 đã   quy định một số căn bản về  tổ chức cơ quan chính quyền địa phương. Tại đây  lần đầu tiên trong Hiến pháp đã xác định “Hội đồng nhân dân là cơ quan quyền  lực nhà nước ở địa phương” (Điều 80) và “Ủy ban hành chính các cấp là cơ quan  chấp hành của Hội đồng nhân dân địa phương” (Điều 87). Bộ  máy Nhà nước  theo Hiến pháp 1946, Hội đồng nhân dân chỉ có ở 2 cấp (tỉnh và xã) còn Bộ máy   Nhà nước theo Hiến pháp 1959 thì Hội đồng nhân dân được thành lập ở cả cấp  tỉnh, huyện, xã và tương đương. 3.2. Hệ thống các cơ quan chấp hành:  5
  6. 3.2.1. Của Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946 bao gồm: Chính phủ  (trong đó có Chủ tịch nước là người đứng đầu Chính phủ, Phó chủ tịch nước và   nội các),  ủy ban hành chính các cấp. Chính phủ  do nghị  viện bầu ra chịu trách  nhiệm trước nghị viện. Chính phủ  là cơ quan hành chính cao nhất. Ủy ban hành  chính địa phương do hội đồng nhân dân cùng cấp bầu ra,  Ủy ban hành chính bộ  do hội đồng nhân dân các tỉnh trong bộ bầu ra. Còn với ủy ban hành chính huyện   do hội đồng nhân dân các xã trong huyện đó bầu ra. Ủy ban hành chính phải chịu   trách nhiệm trước hội đồng nhân dân cùng cấp và  ủy ban hành chính cấp trên.   Ủy ban hành chính huyện chịu trách nhiệm trước ủy ban hành chính tỉnh.  3.2.2. Theo Hiến pháp 1959: Hệ thống cơ quan chấp hành cũng có sự thay  đổi cơ bản. chính phủ được đổi tên thành Hội đồng chính phủ (nhấn mạnh tính  tập thể). Trong thành phần của Hội đồng chính phủ có Thủ  tướng, các Phó thủ  tướng, các Bộ  trưởng và tương đương. Đứng đầu và lãnh đạo Hội đồng chính   phủ  là thủ  tướng chính phủ. Các  ủy ban hành chính vẫn được thành lập  ở  ba   cấp. Như  vậy, trong thành phần của Hội đồng Chính phủ  không có Chủ  tịch  nước, Phó chủ  tịch nước và các thứ  trưởng như  trong Bộ  máy Nhà nước theo   Hiến pháp 1946. Số lượng các bộ, thành viên của Hội đồng chính phủ cũng tăng  lên đáng kể (18 bộ). Hoạt động quản lý của Hội đồng chính phủ bắt đầu theo xu   hướng đi sâu vào chuyên ngành. Số  lượng các ty (sở), phòng, ban cũng như  các  thành viêc của  Ủy ban hành chính cũng tăng lên. Ủy ban hành chính cấp trên chỉ  có quyền đình chỉ đối với nghị quyết của hội đồng nhân dân cấp dưới trực tiếp   mà không có quyền hủy bỏ như trong Hiến pháp 1946. 3.2.3. So sánh cụ  thể  về  quy định vị  trí vai trò của Chính phủ  qua hai   bản Hiến pháp: * Vị trí vai trò, chức năng của Chính phủ theo Hiến pháp 1946. 6
  7. ­ Vị trí: Hiến pháp năm 1946 quy định Chính phủ là cơ quan hành chính cao  nhất của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà (Điều 43 Hiến pháp 1946).  ­ Chức năng của Chính phủ theo Hiến pháp 1946: Tuy không trực tiếp quy   định các chức năng của Chính phủ, nhưng thông qua việc quy định quyền hạn  của Chính phủ, chúng ta có thể biết được Chính phủ có các chức năng sau đây: + Chính phủ thống nhất quản lí việc thực hiện các nhiệm vụ chính trị, văn   hoá, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. + Bảo đảm hiệu lực của Bộ máy Nhà nước từ Trung ương tới cơ sở. + Bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và pháp luật.  + Phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Nhiệm vụ  quan trọng nhất của Chính phủ  kháng chiến là đảm bảo sự  thống nhất các lực lượng quốc dân về  mọi phương diện, tổng động viên nhân  lực và tài sản quốc gia để  đưa cuộc kháng chiến đi đến thắng lợi, nước nhà   được hoàn toàn độc lập. Các chức năng của Chính phủ  được cụ  thể  hoá thông qua quyền hạn của  Chính phủ quy định tại Điều 52 Hiến pháp năm 1946. Thông qua việc thực hiện  chức năng, quyền hạn của mình, Chính phủ  khẳng định vai trò cơ  quan Hành  chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ Cộng hoà. Đồng thời qua  Hiến pháp năm 1946, cho thấy nền hành chính Việt Nam có một vấn đề nổi bật   đó là Chính phủ  luôn là cơ  quan hành chính Nhà nước cao nhất, hoạt động trên   cơ sở Hiến pháp và pháp luật, là trung tâm điều hành hoạt động quản lí của các   cơ quan Nhà nước. Điều này cũng được thể hiện rõ qua các bản Hiến pháp sau   này. * Hiến pháp năm 1959 quy định vị trí vai trò, chức năng của chính phủ như  sau: Lúc này, Chính phủ có tên gọi là Hội đồng Chính phủ. ­ Vị trí, tính chất của Hội đồng Chính phủ theo Hiến pháp 1959: Theo điều  71 hiến pháp năm 1959: “Hội đồng Chính phủ là cơ quan chấp hành của cơ quan   7
  8. quyền lực Nhà nước cao nhất, và là cơ quan hành chính Nhà nước cao nhất của  nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà...” Như  vậy có thể  thẩy rằng, trong Hiến pháp năm 1959, Hội đồng Chính  phủ  lần đầu tiên được xác định là cơ  quan chấp hành của Quốc hội, và cũng là   cơ quan Hành chính Nhà nước cao nhất của nước Việt Nam dân chủ  Cộng hoà.  Đây là điểm mới so với Hiến pháp năm 1946, cho thấy bắt đầu từ đây tư tưởng  tập quyền xã hội chủ  nghĩa đã được thể  chế  hoá trong pháp luật nước ta. Nếu   như   ở  Hiến pháp năm 1946, tổ  chức Bộ  máy Nhà nước có những nét giống với  chính thể Cộng hoà lưỡng tính, giống với nguyên tắc phân quyền trong bộ  máy  Nhà nước của các nước tư  sản khi thể hiện sự  phân công các quyền lập pháp,  hành pháp và tư pháp một cách tương đối rõ ràng và độc lập, đặc biệt là Chính  phủ  có vị  trí tương đối độc lập và đối trọng với Nghị  viện nhân dân, thì đến  Hiến pháp 1959, nguyên tắc tập quyền lại được thể  hiện rõ. Các cơ  quan đại  diện của nhân dân được tăng cường về  quyền lực (Quốc hội, Hội đồng nhân  dân các cấp), Hội đồng Chính phủ và Uỷ ban hành chính các cấp đóng vai trò là  cơ quan chấp hành của các cơ quan đại diện của nhân dân. ­ Chức năng của Hội đồng Chính phủ  theo Hiến pháp 1959: Hiến pháp  1959 không có điều luật quy định chức năng của Hội đồng Chính phủ, nhưng   chúng ta có thể  thấy rõ thông qua những nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng  Chính phủ. Hội đồng Chính phủ có bốn chức năng, mỗi chức năng được cụ thể  hoá bởi những nhiệm vụ và quyền hạn nhất định: + Thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm vụ  chính trị, văn hoá, xã  hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại của Nhà nước. Bảo đảm hiệu lực của bộ  máy Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở + Bảo đảm việc tôn trọng và chấp hành Hiến pháp và Pháp luật.  8
  9. + Phát huy quyền làm chủ của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo  vệ Tổ quốc, bảo đảm sự ổn định và nâng cao đời sống vật chất và văn hoá của  nhân dân. Phân tích chức năng, nhiệm vụ  và quyền hạn của Hội đồng Chính phủ  được quy định trong Hiến pháp năm 1959, chúng ta thấy Hội đồng Chính phủ có  quyền hạn rộng lớn, đầy đủ  hơn, bao hàm nhiều lĩnh vực, đặc biệt trong lĩnh  vực kinh tế so với chế định Chính phủ trong Hiến pháp 1946. Đây là một sự thay  đổi phù hợp với hoàn cảnh lịch sử  của nước ta lúc bấy giờ, đó là một mặt đưa   miền Bắc đi lên xã hội chủ nghĩa, một mặt tiếp tục hoàn thành Cách mạng dân  tộc dân chủ  nhân dân  ở  miền Nam tiến tới thống nhất nước nhà. Sự  cần thiết   phải phát triển các quyền hạn của Hội đồng Chính phủ chính là nhằm xây dựng   miền Bắc thành một hậu phương vững mạnh thúc đẩy Cách mạng miền Nam,  đồng thời để  có thể  thực hiện công cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà tiến  lên. Và xét về  cách thức tổ  chức quyền lực Nhà nước, nhìn vào vị  trí, tính chất  và chức năng của Hội đồng Chính phủ, thì Hiến pháp năm 1959 như là một bước  chuẩn bị cho tư tưởng tập quyền, quyền lực thống nhất tập trung vào Quốc hội  sau này. 3.3. Hệ thống các cơ quan xét xử: ­ Trong Bộ máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946, Hệ thống các cơ quan tư  pháp bao gồm: Tòa án nhân dân tối cao, các tòa án phúc thẩm, các tòa đệ nhị cấp  (xét xử hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm) và tòa sơ cấp (chỉ xét xử sơ thẩm) là các  cơ  quan xét xử của nước ta. Thẩm phán của các tòa án (kể cả  thẩm phán buộc  tội và thẩm phán xét xử) đều do chính phủ bổ  nhiệm và hoạt động độc lập với   các cơ quan nhà nước khác. ­ Theo Hiến pháp 1959, hệ thống các cơ quan này cũng có sự thay đổi nhất  định. Tòa án được đổi tên là tòa án nhân dân và được thành lập theo nguyên tắc  lãnh thổ. Ở trung  ương có Tòa án nhân dân tối cao, ở địa phương có tòa án nhân   9
  10. dân tỉnh, huyện và tương đương. Nguyên tắc bổ  nhiệm thẩm phán được thay   bằng bầu thẩm phán. Thẩm phán tòa án nhân dân cấp nào do cơ quan quyền lực  nhà nước cấp đó bầu và bãi miễn. Phụ thẩm nhân dân được đổi tên là hội thẩm  nhân dân. Các tòa án nhân dân đều đặt dưới sự giám sát của cơ quan quyền lực   nhà nước cùng cấp… Thêm vào đó, hoạt động xét xử, kiểm sát được tách thành  hai hệ thống cơ quan: hệ thống cơ quan xét xử và hệ thống cơ quan kiểm sát. Hệ  thống cơ quan kiểm sát là một hệ  thống mới trong bộ  máy nhà nước   theo Hiến pháp 1959. Chức năng quan trọng nhất của là công tác kiểm sát. Thành  lập theo nguyên tắc lãnh thổ  như  hệ  thống cơ  quan xét xử. Viện trưởng Viện  kiểm sát nhân dân tối cao là do Quốc hội bầu ra và bãi miễn. Phó viện trưởng và   kiểm sát viên Viện kiểm sát nhân dân tối cao là do Ủy ban thường vụ Quốc hội   cử. Còn viện trưởng, phó viện trưởng và kiểm sát viên của viện kiểm sát địa  phương do Viện trưởng VKSNDTC bổ nhiệm, miễn nhiệm, cách chức. Nói chung, bộ  máy nhà nước theo Hiến pháp 1959 có nhiều điểm mới so  với bộ  máy nhà nước theo Hiến pháp 1946. Trong đó các cơ  quan đại diện của   nhân dân được tăng cường về quyền lực; về tổ chức cũng được củng cố lại theo   hướng mở rộng dân chủ và đi sâu vào hoạt động quản lý theo chuyên ngành. Các  cơ quan tư pháp trong tổ chức và hoạt động không còn lệ thuộc các cơ quan hành  pháp. 4. ĐIỂM KHÁC BIỆT NỮA TRONG BỘ  MÁY NHÀ NƯỚC THEO  HIẾN PHÁP 1959 SO VỚI HIẾN PHÁP 1946 LÀ VỀ NGUYÊN THỦ QUỐC  GIA 4.1. Hiến pháp 1946 gọi nguyên thủ  quốc gia là Chủ  tịch nước. Theo  quy định của hiến pháp Chủ  tịch nước vừa là người đứng đầu nhà nước vừa là   người đứng đầu Chính phủ. Chủ  tịch nước theo Hiến pháp 1946 do Nghị  viện   (Quốc hội) bầu ra và phải được 2/3 tổng số  nghị  viên bỏ  phiếu thuận. Chỉ  tịch  10
  11. nước được bầu trong 5 năm và có thể bầu lại. Nội dung này được thể  hiện tại  điều 45 ­ Hiến pháp 1946. Chủ  tịch nước được Hiến pháp 1946 ghi nhận quyền hạn rất lớn ( Điều  49): có quy định Chủ tịch nước là người thay mặt cho nhà nước; giữ quyền tổng  chỉ  huy quân đội toàn quốc; chỉ  định hoặc cách chức các tướng soái trong lục  quân, hải quân, không quân; ký sắc lệnh bổ nhiệm thủ tướng, nhân viên nội các  và nhân viên cao cấp thuộc các cơ quan Chính phủ; chủ tọa Hội đồng Chính phủ;  ban bố  các đạo luật đã được Nghị  viện quyết nghị; thưởng huy chương và các  bằng cấp danh dự; đặc xá; ký hiệp  ước với các nước; phái đại biểu Việt Nam   đến nước ngoài và tiếp nhận đại biểu ngoại giao của các nước; tuyên chiến hay   đình chiến khi Nghị viện không họp được. Vai trò của Chủ tịch nước còn được đề  cao tại Điều 36 ­ Hiến pháp 1946  khi có quyền yêu cầu Nghị  viện thảo luận những luật đã được Nghị  viện biểu   quyết. Quy định này của Hiến pháp nhằm tạo ra cơ chế kiềm chế đối trọng giữa   các quyền lực trong cơ cấu quyền lực để tránh sự lạm quyền của Nghị viện và  đảm bảo tính hợp pháp, hợp lý và tính khả thi của các đạo luật. Với cương vị là  người đứng đầu cơ  quan hành pháp ­ cơ  quan trực tiếp thự  hiện pháp luật thì   việc Hiến pháp quy định quyền này cho Chủ tịch nước thực sự là một tư tưởng   mềm dẻo về  sự phân công quyền lực. Tuy nhiên việc quy định này chỉ phù hợp   trong điều kiện lúc đó. Nhiệm kỳ của Chủ tịch nước là 5 năm. Điều 1 đến Điều 70). Xét về  hình thức, việc ghi nhận chế  định nguyên   thủ quốc gia thành một chương riêng trong Hiến pháp chứng tỏ Hiến pháp 1959   có sự đổi mới rõ rệt so với Hiến pháp 1946. Nguyên thủ quốc gia tại Hiến pháp   1959 vẫn được coi là Chủ tịch nước. Hiến pháp 1959 coi Chủ tịch nước và Chính  phủ  là hai chế  định khác nhau, lúc này Chủ  tịch nước không còn là người đứng   đầu Chính phủ nữa mà chỉ là người thay mặt Nhà nước về đối nội và đối ngoại. 11
  12. Tuy nhiên, trong Hiến pháp 1959 quyền hạn của Chủ  tịch nước vẫn rất   lớn như thống lĩnh các lực lượng vũ trang toàn quốc, giữ  chức vụ  chủ  tịch Hội   đồng quốc phòng (Điều 65); Chủ  tịch nước khi xét thấy có quyền tham dự  và   chủ toạ các phiên họp của Hội đồng chính phủ (Điều 66); Chủ tịch nước khi xét  thấy cần thiết thì triệu tập và chủ toạ hội nghị chính trị đặc biệt (Điều 67). Hiến pháp 1959 với mục đích đề cao vai trò của tập thể đã chuyển một số  quyền hạn của Chủ  tịch nước được ghi nhận tại Hiến pháp 1946 sang cho Uỷ  ban Thường vụ Quốc hội, bên cạnh đó lại quy định những quyền hạn khác của  Chủ tịch nước mang tính chất thủ tục như công bố luật, pháp lệnh, công bố các  lệnh tổng động viên hoặc động viên cục bộ, công bố  lệnh giới nghiêm (Điều  63). Nhìn chung, Hiến pháp 1959 không quy định Chủ  tịch nước có quyền giải  quyết những vấn đề  cụ  thể  mà Chủ  tịch nước chỉ  có quyền công bố  các quyết  định được thông qua bởi cơ quan khác.  Tại điều 62 Hiếp pháp 1959 quy định Chủ  tịch nước do Quốc hội bầu ra,   có nhiệm kỳ bằng nhiệm kỳ của Quốc hội là 4 năm. Đây là điểm khác biệt của  Hiến pháp 1959 với Hiếp pháp 1946. Trong Hiến pháp 1959, chế  định Chủ  tịch   nước còn hạn chế  bởi việc không quy định  ứng cử  viên Chủ  tịch nước phải là   đại biểu Quốc hội, được chọn trong số các nghị sỹ của Nghị viện nhân dân như  Hiến pháp 1946. Với việc quy định và ghi nhận chế  định Chủ  tịch nước, Hiến  pháp 1959 thực sự  là bản hiến pháp được xây dựng theo mô hình hiến pháp xã  hội chủ nghĩa, thể hiện được bản chất nhà nước ta là nhà nước của nhân dân lao  động, do dân lao động và vì nhân dân, quyền lực thuộc về nhân dân. Như  vậy, trong Bộ  máy Nhà nước theo Hiến pháp 1946 thì nguyên thủ  quốc   gia   (chủ   tịch   nước)   thuộc   cơ   cấu   chính   phủ   và   đứng   đầu   Chính   phủ.  Nhưng trong Hiến pháp 1959, chủ tịch nước được quy định thành một chế  định  riêng tại “Chương V. Chủ  tịch nước Việt Nam dân chủ  cộng hòa”. Chủ  tịch   nước vẫn là nguyên thủ  quốc gia, chỉ  thay mặt nhà nước về  mặt đối nội đối   12
  13. ngoại mà không đứng đầu chính phủ, lãnh đạo chính phủ  như  trước. Vì vậy,   thẩm quyền của Chủ  tịch nước theo Hiến pháp năm 1959 bị  hạn chế  nhiều so   với Hiến pháp 1946. Những đặc quyền của Chủ  tịch nước được quy định trong   Hiến pháp 1946 như: quyền yêu cầu nghị viện thảo luận lại những luật và nghị  quyết mà Nghị  việc đã thông qua; quyền không phải chịu một trách nhiệm nào  ngoài tội phản bội Tổ quốc… đến Hiến pháp năm 1959 không còn nữa. 5.   CON   ĐƯỜNG   HÌNH   THÀNH   HỆ   THỐNG   CÁC   CƠ   QUAN  QUYỀN LỰC Các cơ  quan quyền lực nhà nước (còn được gọi là các cơ  quan đại biểu,   đại diện hoặc dân cử), bao gồm Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Đây là  những cơ quan đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân,  do cử tri cả nước hoặc từng địa phương trực tiếp bầu ra thông qua tuyển cử phổ  thông đầu phiếu. Cả bộ máy nhà nước theo Hiến pháp 1946 và Hiến pháp 1959, các cơ quan  quyền lực đều hình thành trên cở sở do nhân dân bầu ra.  6. NGUYÊN TẮC TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG Nguyên tắc tổ chức và hoạt động của bộ  máy nhà nước Cộng hòa xã hội  chủ  nghĩa Việt nam là những nguyên lý, tư  tưởng chỉ đạo, là cơ  sở  cho toàn bộ  quá trình tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước. Bộ máy nhà nước ta nhìn   chung hoạt động dựa trên 5 nguyên tắc cơ bản sau: Nguyên tắc đảm bảo sự lãnh  đạo của Đảng đối với nhà nước, nguyên tắc tất cả  quyền lực nhà nước thuộc   về nhân dân, nguyên tắc tập trung dân chủ, nguyên tắc bình đẳng đoàn kết tương  trợ giữa các dân tộc và nguyên tắc pháp chế.  Nhìn chung Bộ máy Nhà nước theo hai bản hiến pháp đều tổ chức và hoạt   động trên cơ sở 5 nguyên tắc này. Tuy nhiên, ở Hiến pháp năm 1946, tổ chức Bộ  máy Nhà nước có những nét giống với chính thể Cộng hoà lưỡng tính, giống với   13
  14. nguyên tắc phân quyền trong bộ  máy Nhà nước của các nước tư  sản khi thể  hiện sự phân công các quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp một cách tương đối   rõ ràng và độc lập, đặc biệt là Chính phủ có vị trí tương đối độc lập và đối trọng   với Nghị viện nhân dân, thì đến Hiến pháp 1959, nguyên tắc tập quyền đã được   thể  hiện rõ. Bắt đầu từ  đây tư  tưởng tập quyền xã hội chủ  nghĩa đã được thể  chế hoá trong pháp luật nước ta. 7. KẾT LUẬN Qua những phân tích ở trên ta có thể thấy được phần nào sự phát triển của   Bộ máy Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Từ việc so sánh có thể  thấy, tuy định hướng nhưng tổ  chức quyền lực Nhà nước vẫn nhất quán thể  hiện bản chất nhân dân, dân tộc giai cấp một cách quyện chặt nhằm “thực hiện   chính quyền mạnh mẽ và sáng suốt của nhân dân” thể hiện tính kế thừa trong sự  phát triển và tính phát triển trong sự kế thừa của Bộ máy Nhà nước. 14
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0