intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Tiểu luận Triết học số 87 - Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

Chia sẻ: Phuc Nguyen | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:32

115
lượt xem
24
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Tiểu luận cung cấp cho người học các kiến thức: Tiểu luận Triết học, triết học Mac Lenin, mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam,... Hi vọng đây sẽ là một tài liệu hữu ích dành cho các bạn sinh viên đang theo học môn dùng làm tài liệu học tập và nghiên cứu. Mời các bạn cùng tham khảo chi tiết nội dung tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Tiểu luận Triết học số 87 - Mối quan hệ biện chứng giữa tự nhiên và xã hội phân tích vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam

  1. MỤC LỤC MỤC                                                                                                     TRANG PHẦN MỞ ĐẦU                                                                                 1 Vấn đề là gì?                                                                              1       Mục đích của đề tài                                                                   2                 PHẦN CHÍNH 1. Cơ sở lí luận                                                                                    3  1.1. Các khái niệm                                                                               3 1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội                          3 1.2.1. Xã hội ­ bộ phận đặc thù của tự nhiên                                       3 1.2.2. Tự nhiên ­ Con người ­ Xã hội  nằm trong                                 4            một chỉnh thể thống nhất          1.2.3. Tự nhiên ­ nền tảng của xã hội                                                   5 1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên                                               5  1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa                            6           tự nhiên và xã hội 1.2.6. Môi trường ­ vấn đề của chúng ta                                               7    2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam  7  2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của                  7        Việt Nam                      2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam                                                           12 2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam                                                        12 2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam                                              13 2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam                                   13 1
  2. 2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học                                         13 2.1.6. Vấn đề môi trường ở Việt Nam                                                  15   2.2. Nhìn ra thế giới ­ Những bài học                                                   17 2.2.1. Vấn đề môi trường trên thế giới                                                  17 2.2.2. Thế giới hành động ­ Lối thoát                                                   18   2.3. Việt Nam hành động                                                                      20 PHẦN KẾT                                                                                          22 TÀI LIỆU THAM KHẢO                                                                   23 2
  3. PHẦN CHÍNH  Vấn đề là gì?      Trái Đất một hành tinh kì diệu và khác biệt. Nó khác với mọi hành tinh  khác ở  chỗ  nó có sự  sống và nó là ngôi nhà duy nhất của chúng ta. Sự  sống trên   Trái Đất đã bắt đầu từ  những thành phần nhỏ  bé nhất. Sự  sống  ấy đã phát  triển lên ngày một lớn mạnh. Thế rồi con người xuất hiện. Kể từ lúc ấysự  sống trên Trái Đất đã thực khác trước. Con người đã làm biến đổi thế  giới  xung quanh họ một cách mạnh mẽ hơn bất kì sinh vật nào khác cùng tồn tại  trên Trái Đất này. Điều gì đã làm cho họ có được khả năng đó ­ đó là tư duy   để hành động.       Một trong số những vấn đề làm cho con người phải tư duy nhiều nhất,  có lịch sử lâu dài nhất là mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội. Tự nhiên và xã  hội là hai khái niệm lớn nhất và gần gũi nhất với con người. Con người  đồng thời tồn tại và là sản phẩm của tự nhiên và xã hội do đó con người  quan tâm đến hai thực thể này là lẽ đương nhiên.         Kể từ khi ra đời  quan điểm về mối quan hệ này đã thay đổi khá nhiều.   Trong một thời gian rất dài hai khái niệm này đã được đem đối lập nhau,   theo quan điểm đó tự nhiên và xã hội hoàn toàn tách rời nhau, không liên quan   đến nhau. Quan điểm này ngày nay vẫn còn tồn tại trong quan điểm nhiều  người đã dẫn đến nhiều hành vi phá hủy thiên nhiên mà họ không biết rằng   đang phá hủy tương lai chính con em mình.         Quan niệm này quả là một sai lầm lớn, thưc tế và lí luận khoa học đều  chứng tỏ rằng tự nhiên và xã hội có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, nó cùng  nằm trong một tổng thể bao gôm tự nhiên, con người và xã hội.        Con người và xã hội đã dựa trên nền tảng tự  nhiên mà tồn tại và phát  triển, nhưng chính trong quá trình tồn tại và phát triển  ấythì nền tảng tự  3
  4. nhiên lại bị phá hủy, đăc biệt là trong thời đại hiện nay khi khoa học kĩ thuật   phát triển mạnh mẽ  va dân số  toàn cầu đang bùng nổ  thì tự  nhiên và môi  trường càng bị  phá hủy mạnh mẽ  hơn. Các nhà bác học nhìn xa trông rộng   như  Z.Lamark, 1820 đã viết: "Mục đích của con người dường như  là tiêu   diệt nòi giống mình, trước hết là làm cho Trái Đất trở thành không thích hợp   với sự cư trú".      Nếu chúng ta không muốn tiên đoán oan nghiệt này trở  thành sự  thật thì  đã đến lúc để hành động trước khi quá muộn. Đã đến lúc con người cần xác  định rõ mối quan hệ  giữa xã hội của họ  vơí tự  nhiên và quan tâm đến các  vấn đề môi trường.      Việt Nam một nước đang trong quá trình CNH­HĐH đất nước, chúng ta  cũng có những vấn đề về môi trường, chúng ta cần phải có quan điểm đúng  đắn để giải quyết những vấn đề này trước khi mọi việc trở nên quá tồi tệ. Mục đích của đề tài         Tiểu luận này được viết nhằm nêu lại quan điểm của Triết học Mác­ Lênin về  mối quan hệ  giữa tự  nhiên và xã hội đồng thời trên cơ  sở:  Mối   quan hệ  biện chứng  giữa tự  nhiên và xã hội phân tích vấn đề  bảo vệ  môi   trường hiện nay ở Việt Nam.      Bên cạnh đó nó cũng được hi vọng có thể thay đổi được nhận thức xã hội   nhằm tạo ra những thay đổi tích cực trong hành động của mỗi cá nhân, tạo  thuận lợi cho việc bảo vệ môi trường ở Việt Nam. 4
  5. PHẦN MỘT  1. Cơ sở lí luận:      Mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội đã được con người quan tâm từ rất   sớm, cho đến nay quan niệm về  vấn đề  này đã trở  nên hoàn thiện hơn bao  giờ hết. 1.1. Các khái niệm:      Để bắt đầu chúng ta hãy làm rõ các khái niệm: Tự  nhiên: theo nghĩa rộng tự nhiên là toàn bộ  thế  giới vật chất vô cùng vô   tận. Theo nghĩa này thì con người vã xã hội loài người cũng là một bộ phận  của tự nhiên.       Chúng ta xem xét tự nhiên theo nghĩa này.  Xã hội: xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình, thái này lấy  mối quan hệ  của con người và sự  tác động lẫn nhau giữa người với người   làm nền tảng. Theo Mác: "Xã hội không phải gồm các cá nhân người. Xã hội  biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá nhân với nhau". 1.2. Mối quan hệ biên chứng giữa tự nhiên và xã hội:      Tự  nhiên và xã hội thực sự có một mối quan hệ rất chặt chẽ với nhau: 1.2.1 Xã hội ­ bộ phận đặc thù của tự nhiên: 5
  6.      Theo định nghĩa tự nhiên là toàn bộ thế giới vật chất tồn tại khách quan  vậy con người và xã hội loài người cũng là một bộ  phận của thế  giới vật   chất ấy ­ con người và xã hội ncũng là bộ phận của tự nhiên.      Nguồn gốc của con người là tự nhiên. Quá trình phát triển của tự nhiên đã   sản sinh ra sự  sống và theo quy luật tiến hóa, trong những điều kiện nhất   định, con người đã xuất hiên từ  động vật.   Con người sống trong giới tự  nhiên như  mọi sinh vật khác bởi con người là một sinh vật của tự  nhiên.  Ngay cả  bộ  óc con người, cái mà con người vẫn tự  hào cũng chính là sản  phẩm cao nhất của vật chất. Chính tự nhiên là tiền đề cho sự tồn tại và phát   triển của con người.      Con người ra đời không chỉ nhờ những quy luật sinh học mà còn nhờ lao   động. Lao động là một quá trình được tiến hành giữa con người với tự nhiên,  trong quá trình này con người khai thác và cải tiến giới tự nhiên để  đáp ứng  nhu cầu tồn tại của mình. Trong lao động cấu tạo cơ  thể  người dần hoàn   thiện và do nhu cầu trao đổi thông tin ngôn ngữ xuất hiện. Lao động và ngôn  ngữ  là hai kích thích chủ  yếu chuyển biến bộ  não động vật thành bộ  não   người, tâm lý động vật thành tâm lý người.      Sự hình thành con người đi kèm với sự hình thành các quan hệ giữa người  vứi người, cộng đồng người dần thay đổi từ  mang tính bầy đàn sang một   cộng đồng mới khác hẳn về  chất, ta gọi đó là xã hội. Đây cũng là quá trình  chuyển biến từ vận động sinh học thành vận động xã hội.      Vậy xã hội là gì?      Xã hội là hình thái vận động cao nhất của vật chất, hình thái này lấy mối  quan hệ  của con người và sự  tác động lẫn nhau giữa người với người làm   nền tảng. Xã hội biểu hiện tổng số mối liên hệ và những quan hệ của các cá  nhân với nhau, "là sản phẩm của sự tác động qua lại giữa những con người". 6
  7.      Như vậy xã hội cũng là một bộ phận của tự nhiên. Song bộ phận này có   tính đặc thù thể hiện ở chỗ: phần còn lại của tự nhiên chỉ có những nhân tố  vô thức và mù quáng tác động lẫn nhau; còn trong xã hội, nhân tố hoạt động  là của con người có ý thức, hành động có suy nghĩ và theo đuổi những mục   đích nhất định. Hoạt động của con người không chỉ tái sản xuất ra chính bản  thân mình mà còn tái sản xuất ra giới tự nhiên.  1.2.2. Tự  nhiên ­ Con người ­ Xã hội  nằm trong một chỉnh thể  thống   nhất:               Con người và xã hội không chỉ là một bộ phận của tự nhiên. Hơn thế tự  nhiên ­ con người ­ xã hội nằm trong một chỉnh thể thống nhất.      Theo nguyên lí về tính thống nhất vật chất của thế giới thì thế giới tuy vô  cùng phức tạp, đa dạng và được cấu thành từ  nhiều yếu tố  khác nhau song  suy đến cùng có ba yếu tố  cơ  bản là tự  nhiên, con người và xã hội loài  người. Ba yếu tố này thống nhất với nhau trong một hệ thống tự nhiên ­ con  người ­ xã hội bởi chúng đều là những dạng thức khác nhau, những trạng   thái, đặc tính, mối quan hệ khác nhau của vật chát đang vận động.      Thế giới vật chất luôn luôn vận động theo những qui luật, tất cả các quá   trình trong tự nhiên, con người và xã hội đều chịu sự chi phối của những qui  luật phổ  biến nhất định. Sự  hoạt động của các qui luật đó đã nồi liền các  yếu tố  của thế  giới thành một chỉnh thể thống nhất vĩnh viễn và phát triển  không ngừng trong không gian và theo thời gian. Con người là hiện thân của sự thống nhất giữa tự nhiên và xã hội:            Con người là sản phẩm của tự  nhiên. Con người tạo ra xã hội. Con   người vốn tồn tại trong tự  nhiên nhưng sau khi tạo ra xã hội thì lại không   thể  tách rời xã hội. Để  trở  thành một con người đích thực con người cần   được sống trong môi trường xã hội, trong mối quan hệ  qua lại giữa người   7
  8. với người với người.Con người mang trong mình bản tính tự  nhiên và bản  chất xã hội.       Chính vì thế ta có thể nói rằng con người còn là hiện thân của sự  thống   nhất giữa xã hội và tự nhiên. 1.2.3. Tự nhiên ­ nền tảng của xã hội:       Xã hội và tự nhiên thống nhất với nhau nên nó tương tác với nhau. Đây là  một mối quan hệ  biện chứng hai chiều, trước hết ta xét chiều thứ  nhất là  những tác động của tự nhiên lên xã hội loài người.      Tự nhiên vô cùng quan  trọng với  xã hội .Tự nhiên vừa là nguồn gốc của  sự xuất hiện xã hội vừa là môi trường  tồn tại và phát triển của xã hội.      Tự nhiên là nguồn gốc của  sự xuất hiện xã hội vì xã hội đựoc hình thành   trong sự tiến hóa của thế giới vật chất.      Tự nhiên là môi trường tồn tại và phát triển của xã hội vì chính tự nhiên  đã cung cấp những điều kiện cần thiết nhất cho sự sống của con người và  cũng chỉ có tự nhiên mới cung cấp được những điều kiện cần thiết cho các  hoạt động sản xuất xã hội. Theo Mác, con người không thể sáng tạo ra được   cái gì nếu không có giới tự nhiên, nếu không có thế giới hữu hình bên ngoài.  Đó là vật liệu trong đó lao động của con người được thực hiện, trong đó lao  động của con người tác động, từ  đó và nhờ  đó, lao độn của con người sản  xuất ra sản phẩm.       Tóm lại tự nhiên đã xung cấp mọi thứ cho sự tồn tại của xã hội, mọi thứ  mà lao động của con người cần. Mà chính lao động đã tạo ra con người và xã  hội do đó vai trò của tự  nhiên với xã hội là vô cùng to lớn. Tự  nhiên có thể  tác động thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất xã hội; có thể  thúc đẩy  hoặc kìm hãm xã hội phát triển bởi nó là nền tảng của xã hội. 1.2.4. Tác động của xã hội đến tự nhiên: 8
  9.      Tự nhiên tác động đế  xã hội nhiều như thế nào thĩ xã hội cũng tác động  lại vào tự nhiên như thế.      Trước hết phải khẳng định lại rằng xã hội là một bộ phận của tự nhiên   như vậy mỗi thay đổi của xã hội cũng có nghĩa là tự nhiên thay đổi.      Bên cạnh đó xã hội còn tương tác với phần còn lại của tự nhiên một cách   mạnh mẽ. Sự  tương tác này thông qua các hoạt động thực tiễn của con   người trước hết là quá trình lao động sản xuất. Lao động là đặc trưng cơ  bản đầu tiên phân biệt hoạt động của con người với động vật. Song lao   động cũng là yếu tố đầu tiên, cơ bản nhất, quan trọng nhất tạo nên sự thống  nhất hữu cơ  giữa xã hội và tự  nhiên. Bởi "lao động trước hết là một quá  trình diễn ra giữa con người và tự  nhiên, một quá trình trong đó bằng hoạt  động của chính mình, con người làm trung gian, điều tiết và kiểm soát sự  trao đổi chất giữa họ và tự nhiên".      Sự trao đổi chất giữa con người và tự nhiên thể hiện ở chỗ: tự nhiên cung   cấp cho con người điều kiện vật chất để con người sống và tiến hành hoạt  động sản xuất. Cũng chính trong quá trình sử  dụng những nguồn vật chất   này con người đã làm biến đổi nó  và các điều kiện môi trường xung quanh  tức là làm biến đổi tự  nhiên một cách mạnh mẽ. Hoạt động sống và lao  động sản xuất của con người trong xã hội là vô cùng phong phú nên sự  tác   động vào tự nhiên cũng vô cùng phong phú nên sự tác động vào tự nhiên cũng  vô cùng phong phú như  khai thác khoáng sản, đánh bắt cá hay kể  cả  đốt   rừng, đẩy trả rác thải ra tự nhiên...      Thực tế xã hội luôn tác động tự  nhiên. Giờ  đây với sức mạnh của khoa  học công nghệ, một lực lượng dân số  khổng lồ, sự  tác động này trở  nên  mạnh mẽ hơn bao giờ hết.       Vấn đề hiện nay là trong quá trình tác động nàycon người cần kiểm tra,   điều tiết việc sử dụng khai thác, bảo quản các nguồn vật chất của tự nhiên,  9
  10. nếu không thì khủng hoảng sẽ xảy ra, sự cân bằng của hệ thống tự nhiên ­   xã hội sẽ bị đe dọa. Ấy vậy mà hiện nay con người lại đang đi ngược lại với   những điều đúng đắn: Con người chính là sinh vật có khả năng làm biến đổi  tự  nhiên nhiều nhất ­ Chính vì vậy họ  đang là sinh vật tàn phá thiên nhiên  khủng khiếp nhất.      Tóm lại trong mối quan hệ với môi trường tự nhiên xã hội có vai trò ngày   càng quan trọng. Để  giữ  gìn môi trường tồn tại và phát triển của mình con  người cần nắm chắc các qui luật tự nhiên, kiểm tra điều tiết  sử  dụng hợp   lí, bảo quản khai thác  có hiệu quả đảm bảo khả năng tái tạo các nguồn vật   chất của tự nhiên, đảm bảo cân bằng hệ thống tự nhiên ­ xã hội. 1.2.5. Những yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội:      Có nhiều yếu tố tác động đến mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội trong  đó quan trọng nhất là trình độ phàt triển của xã hội và sự độ nhận thức, vận   dụng qui luật tự nhiên, xã hội vào hoạt động thực tiễn của con người.        Mối quan hệ tự  nhiên và xã hội phụ  thuộc vào trình độ  phát triển  của xã hội:           Thông qua các hoạt động của con người lịch sử tự nhiên và lịch sử xã   hội  đã trở nên gắn bó và quy định lẫn nhau. Sự gắn bó và quy định này phụ  thuộc vào trình độ  phát triển của xã hội mà tiêu chí để  đánh giá là phương  thức sản xuất. Sự  ra đời của những phương thức sản xuất mới quyết định   sự biến chuyển về chất của xã hội loài người. Chính phương thức sản xuất   quy định tính chất của mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội vì mỗi phương   thức sản xuất khác nhau sẽ  có những công cụ  lao động khác nhau để  khai  thác giới tự nhiên, sẽ có những mục đích tiến hành sản xuất khác nhau. Khi  công cụ  thay đổi, mục đích sản xuất của mỗi chế  độ  sản xuất thay đổi thì  tính chất của mối quan hệ giữa xã hội và tự nhiên cũng thay đổi theo. 10
  11.      Ngày nay, khi có khoa học và kĩ thuật phát triển song với chế độ sở hữu   tư nhân tư bản chủ nghĩa thì con người coi tự nhiên không chỉ là môi trường  sống mà còn là đối tượng chiếm đoạt nhằm mục đích lợi nhuận. Khủng   hoảng môi trường đã xảy ra  ở  nhiều nơi và đang đe dọa sự  sống của nhân   loại. Để tồn tại và phát triển con người phải chung sống hòa bình với thiên   nhiên, thay đổi cách đối xử  với tự nhiên mà quan trọng nhất là phải xóa bỏ  chế  độ  tư  hữu tư  nhân tư  bản chủ  nghĩa ­ nguồn gốc sâu xa của việc phá  hoại tự nhiên nhằm tối đa hóa lợi nhuận. Nhiệm vụ này là nhiệm vụ của tất  cả mọi người.      Mối quan hệ  giữa tự  nhiên và xã hội phụ  thuộc vào trình độ  nhận   thức và vận dụng các quy luật trong hoạt động thực tiễn:         Mối quan hệ giữa tự nhiên và con người được thể  hiện thông qua hoạt   động của con người. Song con người hành động theo suy nghĩ do đó mối  quan hệ giữa tự nhiên và xã hội phụ thuộc vào trình độ nhận thức, trước hết   là nhận thức các quy luật và việc vận dụng nó trong các hoạt động thực tiễn.          Một nhận thức tốt đi kèm với những hành động theo quy luật thì con   người đã tạo ra một thế giới hài hỏa, thuận lợi cho sự phát triển lâu dài của  xã hội. Ngược lại, nếu làm trái quy luật, chỉ khai thác, chiếm đoạt những cái  có sẵn trong giới tự nhiên thì sự  nghèo nàn đi của giới tự nhiên và việc phá   vỡ  cân bằng hệ  thống tự  nhiên ­ xã hội là không tránh khỏi. Con người sẽ  phải trả giá và chịu diệt vong.      Việc nhận thức quy luật tự nhiên cần đi kèm việc nhận thức quy luật của   xã hội và đồng thời vận dụng chúng trong thực tiễn.      Thời đại ngày nay khoa học kĩ thuật phát triển, nhận thức đã được nang   lên nhiều vấn đề còn lại là phải hành động cho đúng.       Để  tuân theo các quy luật tự  nhiên thì việc xóa bỏ  chế  độ  tư  bản chủ  nghĩa là con đường duy nhất. 11
  12. 1.2.6. Môi trường ­ vấn đề của chúng ta:          Nằm trong mối quan hệ  giữa tự  nhiên và xã hội, môi trường và  ảnh  hưởng của nó đến sự  tồn tại và phát triển của xã hội có lẽ  là vấn đề  quen   thuộc nhất, nó thường xuyên được nhắc đến quanh ta.      Môi trường là gì?      Môi trường là toàn bộ những điều kiện mà trong đó con người sinh sống.   Khái niệm này bao hàm cả môi trường tự nhiên và môi trường xã hội. Ở đây  chúng ta sẽ chỉ chủ yếu xét đến môi trường tự nhiên.      Môi trường tự nhiên được sử dụng với nhiều tên gọi khác nhau như môi  trường sinh thái, môi trường sinh quyển. Môi trường sinh thái là điều kiện  thường xuyên và tất yếu đối với sự tồn tại và phát triển của xã hội.       Như vậy trong mối quan hệ giữa tự nhiên và xã hội thì môi trường sinh   thái đại diện cho bộ  phận còn lại của tự  nhiên bên cạnh bộ  phận đặc thù   của tự nhiên là xã hội.      Vai trò của môi trường sinh thái đối với xã hội trong quá trình lịch sử   ở  những giai đoạn khác nhau cũng được thể hiện một cách khác nhau.      Khi xã hội còn ở trình độ mông muội ­ khi con người chủ yếu chỉ biết săn  bắt hái lượm những sản phẩm có sẵn trong tự nhiên thì hầu như con người   hoàn toàn bị  giới tự  nhiên chi phối, thống trị. Cuộc sống xã hội hoàn toàn  phụ thuộc môi trường tự nhiên.      Khi con người văn minh hơn ­ nhất là khi khoa học kĩ thuật phát triển thì  con người đã từng bước chế  ngự  được tự  nhiên. Con người đã từng bước   chế  ngự  , khai thác tự  nhiên phục vụ  cho nhu cầu của mình. Nhiều ngành  nghề ra đời từ những điều kiện tự nhiên như nông nghiệp, lâm nghiệp, khai  thác khoáng sản, đồng thời có những ngành ít phụ thuộc tự nhiên hơn cũng ra  đời như điện tử, phần mềm (mới ra đời trong thời gian gần đây). 12
  13.          Tuy nhiên cho đến nay xã hội vẫn phụ  thuộc môi trường tự  nhiên rất   nhiều, nó có thể tạo điều kiện thuận lợi hoặc gây khó khăn cho sản xuất, do  đó ảnh hưởng đến năng suất lao động, tốc độ phát triển của xã hội.       Ta có thể lấy một ví dụ về sự ảnh hưởng của môi trường đối với sự phát  triển của xã hội,  hãy xem những sự  phụ  thuộc vào môi trường tự  nhiên từ  xa xưa của các xã hội đã ảnh hưởng đến tận ngày nay như thế nào:      Đây là một đoạn trích từ bài viết "Jared Diamond và vận mệnh của   các nền văn minh" của tác giả  Trần Hữu Dũng đăng trên tạp chí Tia  Sáng số 3, tháng 3, năm 2005:           Trong cuốn "Súng, Vi trùng, và Thép: Định mệnh của các Xã hội Loài  người" (Guns, germs and Steel: The Fates of Human Societies", New York:   Norton, 1997) Jared Diamond viện dẫn những yếu tố môi trường và cấu trúc  để  giải thích tại sao các nước Tây phương trổ  nên thống trị  thế  giới. Mục  đích của ông, Diamond bộc bạch ngay từ đầu, là nhằm triệt hạ những ý kiến   cho rằng chủng tộc, văn hóa và truyền thống có  ảnh hưởng quyết định đến  những khác biệt về công nghệ của những xã hội khác nhau, trên những châu  lục khác nhau, trong suốt lịch sử.       Diamond tóm tắt phát hiện của ông như  sau: Lịch sử  của các nhóm dân   khác nhau không phải vì sự  khác biệt sinh học (biological) giữa các sắc dân   mà vì sự  khác biệt về  môi trường sinh sống ngay từ đầu. Nói cách khác, lý   do căn bản của sự bất bình đẳng trong thế giới ngày nay bắt nguồn từ rất xa   trong quá khứ.     Hãy lấy năm 1500 sau công nguyên làm điểm mốc. Có thể xem năm này là   khởi điểm thời kỳ các nước châu Âu đi chinh phục các châu lục khác. Lúc ấy  thì các nước đã có sự  khác biệt về  trình độ  công nghệ  và tổ  chức chính trị.  Phần lớn Âu, Á và Bắc Phi đã có những quốc gia ở vào thời kỳ đồ sắt thậm   chí vài nước đã sắp sang thời kỳ công nghiệp hóa. Hai nhóm ở châu Mỹ (Inca  13
  14. và Aztec) đã là những đế  quốc có dụng cụ  bằng đá và bắt đầu thử  nghiệm  với đồng. Những dân tộc khác thì kém phát triển hơn: Đa số dân ở châu Úc,   châu Mỹ  và châu Phi (vùng dưới Sahara) vẫn còn hoàn toàn dựa vào nông  nghiệp, thậm chí vài nhóm vẫn còn sống nhờ săn bắn và lượm nhặt với khí  cụ bằng đá.      Lẽ dĩ nhiên, những khác biệt ấy về trình độ  công nghệ  vào khoảng năm   1500 là nguyên do gần gũi nhất đưa đến sự  chênh lệch hiện nay trên thế  giới. Những đế quốc có khí cụ bằng sắt sẽ chinh phục hoặc tiêu diệt những  nhóm dân chỉ có khí cụ bằng đá. Nhưng Jared Diamond không hoàn toàn thỏa  mãn với cách trả lời này. Ông gặng hỏi: Nhưng tại thế giới lại có tình trạng  ấy vào năm 1500?       Ngược dòng lịch sử  xa hơn nữa, từ  khi thời đại băng hà chấm dứt cho   đến 11000 năm trước tây lịch, mọi người ở khắp các châu lục đều sống nhờ  săn bắn và hái nhặt. Như  vậy, chính sự  khác biệt về  tốc độ  phát triển (cụ  thể là giữa lục địa Âu Á và những lục địa khác) từ năm 11000 trước tây lịch   đến 1500 năm sau tây lịch đã đưa đến sự chênh lệch mà ta thấy khoảng năm  1500.      Diamond đơn cử  trường hợp châu Âu thuộc địa hóa Tân Thế  giới. Hiển   nhiên, đó là vì người châu Âu có tàu bè, có tổ  chức chính trị, có súng, có   gươm thép, có ngựa, rồi cơ  may lại đem theo những loại vi trùng bệnh tật   giết thổ  dân da đỏ  ngay trước khi những người này đứng lên chống cự  (vì  thế  sách có tên "Súng, Vi trùng và Thép"). Song Diamond không dừng lại  ở  đó, ông tra hỏi thêm. Thế  thì tại sao dân châu Âu có những lợi điểm  ấy mà   thổ dân châu Mỹ không có (đặc biệt, tại sao các vi trùng của dân châu Âu lại  độc địa đối với thổ  dân châu Mỹ  thay vì ngược lại?). Càng truy gặng, càng   lùi ngược về  quá khứ, Diamond càng thấy các yêu tố  môi trường là quan  trọng. 14
  15.      Cụ thể,  Diamond phân biệt bốn cách khác nhau về môi trường: 1.Khác nhau thứ nhất giữa các đại lục là về các giống thảo mộc và động   vật hoang dã mà con người có thể  đem về  nuôi trồng. Ông lý luận   rằng khả năng nuôi trồng là quyết định khả năng có lương thực thặng   dư, và chỉ khi lương thực có thặng dư thì xã hội mới "nuôi" được một  thành phần "chuyên viên" giúp xã phát triển những lĩnh vực như  công nghệ, văn  hóa, v.v...Chính những phát triển này sẽ  tạo cho xã hội liên hệ  những  ưu thế chính trị và quân sự so với láng giềng. 2.Khác nhau thứ hai là về những yếu tố ảnh hưởng đến sự chuyển dịch   (cả người lẫn vật) trong cùng một lục địa. Những sự chuyển dịch này  là dễ dàng nhất ở lục địa Âu Á, bởi vì hướng chính của lục địa này là   đông tây, tương đói ít ngăn trở môi sinh và địa lý. 3.Khác nhau thứ ba là về những yếu tố  ảnh hưởng đến sự  chuyển dịch  giữa các lục địa. Vì những ngăn cản địa lý, nhiều lục địa không nhận   được những công nghệ  hay thú vật, thảo mộc từ  các lục địa khác.  Song, Diamond cũng nhìn nhận, sự biệt lập này lắm khi cũng có lợi vì   nó khuyến khích phát triển những giống vật nuôi trồng tại địa phương,  cũng như các công nghệ bản địa. 4.Cái khác nhau cuối cùng là về dân số và diện tích đất đai. Lục địa càng  rộng càng đông dân thì càng có nhiều người phát minh. Hơn nữa, trong  một lục địa như  vậy sẽ  có nhiều xã hội tranh đua hơn, rồi chính sự  tanh đua giữa các xã hội gần gũi nhau đó sẽ  gây áp lực phát minh và  cải cách, bởi lẽ  những quốc gia "tụt hậu" sẽ  bị  các quốc gia khác  thống trị, thậm chí tiêu diệt.     Một đoạn thích thú trong quyển sách là sự so sánh của Diamond về sự tiến   bộ  công nghệ  giữa Trung Quốc và Tây phương. Trung Quốc đã có những   15
  16. hạm  đội  viễn dương  vào những năm  đầu của thế  kỷ  XV nhưng sau   đó   không lâu thì lại giải thể hạm đội này, chấm dứt mọi hoạt động viễn du, vì   lệnh triều đình (cụ  thể  là do sự  tranh chấp quyền lực giữa các phe trong   triều đình lúc ấy). Ở châu Âu, trái lại, nhà thám hiểm Columbus đã tìm được  tài trợ cho chuyến đi của ông từ triều đình Tây Ban Nha sau khi bị nhiều nơi   khác từ  chối. Theo Diamond, sự  thống nhất của Trung quốc cho phép nước  này canh tân trước phương Tây, song cũng chính sự  thống nhất sớm của   Trung quốc đã làm giảm đi khả  năng đổi mới của nước này. Triều đình ra   lệnh một cái là mọi hoạt động canh tân dừng lại ngay!  Ở  châu âu thì khác:  Một tiến bộ bị ngăn chặn ở nước này có thể được tiếp tục ở nước khác. các  nước châu Âu đủ  gần gũi nhau để  chia sẻ  những ý kiến mới, nhưng quyền   hành lại không tập trung đến độ có thể hoàn toàn giết chết một ý mới...      Có nhiều người có thể không thấy thực sự bị thuyết phục bởi trọng tâm ý  kiến của ông (mà họ  cho rằng) theo đó mọi việc đều là hậu quả  tất nhiên  của địa lí, cộng với tình trạng dân số  ngày càng cao. Nhiều người cho rằng  Diamond coi nhẹ  vai trò của trí tuệ  và do đó không thấy hết được sự  quan   trọng  của khoa học trong tiến trình lịch sử. Tuy nhiên trong lời bạt viết thêm khi   cuốn                                                   sách này tái bản năm 2003, Diamond khẳng  định ông không hề  xem nhẹ  những  yếu tố về con người, tư tưởng hay văn hóa. Ông chỉ muốn nói rằng nhìn suốt  nhiều nghìn năm lịch sử thì vai trò của môi trường và địa lí thực có tính quyết   định.           Vài nét về  Jared Diamond:   Jared Diamond (người Mỹ, sinh năm 1937)   hiện là giáo sư địa lí của trường Đại học California tại Los Angeles (UCLA).   Tuy  ông có bằng tiến sĩ về  sinh lí học, nhưng kiến thức của ông bao trùm   16
  17. hầu như  mọi ngành, từ  kiến trúc, ngôn ngữ, khảo cổ, đến động vật học, y   học. Ông cũng không phải là một học giả  "tháp ngà": ông đã đi khắp châu   lục, thậm chí sống nhiều năm  ở  những nơi "gần như  tận cùng thế  giới"   (như  đảo Tân Ghi­nê, đảo Phục Sinh). Hai cuốn sách của ông (một cuốn ra   năm 1997, đoạt giải Pulitzer, thuộc hàng "best seller", và một cuốn vừa ra   cuối năm 2004) đã đặt ông vào hàng ngũ những nhà tư  tưởng hiện đại có   nhiều ảnh hưởng nhất ở Mỹ.       Bài trích trêm được đưa ra chỉ nhằm đưa thêm một ý kiến khẳng định tầm  quan trọng của môi trường tự  nhiên với xã hội chứ  không có ý định bác bỏ  vai trò của con người. Sự bùng nổ dân số:            Khi nói đến vấn đề môi trường, tự nhiên và xã hội có một điểm ta không  thể không đề cập, đó là sự bùng nổ dân số.       Mỗi cá thể người đều có những nhu cầu của riêng nó, nó cần tiêu thụ các   nguồn tài nguyên thiên nhiên, và gây ra các  ảnh hưởng nhất định đến môi  trường. Khi dân số  phát triển ngày càng cao thì như  cầu với tự  nhiên càng   lớn; những nhu cầu thiết yếu như   ăn mặc, thực phẩm, thuốc men, nước   sạch ngày càng thiếu thốn. Đồng thời nhiều vấn đề  môi trường cũng nảy  sinh như ô nhiễm nguồn nước, rác thải đặc biệt là việc tăng cường khai thác  các nguồn đến cạn kiệt các nguồn tài nguyên nhằm đáp ứng các nhu cầu của  con người. Áp lực lên môi trường ngày càng lớn và thực sự  khả  năng chịu   đựng của môi trường là có hạn.      Sự bùng nổ  dân số  thực tế là sự  tăng lên rất nhanh của số  lượng cá thể  của quần thẻ người là một ví dụ cho sự  phát triển vốn có ở  tất cả các loài.  Một quy luật kèm theo là: Khi số  lượng cá thể  của quần thể  vượt quá khả  năng   chịu   đựng   của   môi   trường   thì   sự   chết   hàng   loạt   sẽ   xảy   ra   nhưng  17
  18. thường là từng vùng chứ không phải là quy mô toàn cầu (I.M. Barrett and oth,   1986)       Nếu điều này xảy ra với loài người thì quả là tai họa. Mà những cách ứng   xử sai của con người với tự nhiên hiện nay đang làm giảm đi sức chịu đựng   của tự nhiên. Do đó chúng ta cần giải quyết tốt vấn đề môi trường va cư xử  đúng với tự nhiên.      Nguyên nhân của sai lầm này là do chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa, cần   xóa bỏ nó, khi xây dựng đựoc chế độ xã hội chủ nghĩa, con người sẽ cư xử  tốt hơn với tự nhiên vì không còn bị lợi nhuận chi phối.    2. Vấn đề bảo vệ môi trường hiện nay ở Việt Nam:       Qua phần trên chúng ta thấy rõ ràng cần phải bảo vệ môi trường, gìn giữ  sự  cân bằng của hệ thống tự nhiên ­ xã hội nhằm đảm bảo sự  tồn tại phát   triển lâu dài và  ổn định cho xã hội loài người. Giờ  chúng ta sẽ  xem xét vấn   đề trong điều kiện cụ thể của Việt Nam. 2.1. Khái quát về môi trường và các nguồn tài nguyên của Việt Nam:  Việt Nam: Những số liệu thống kê chính Thủ đô                                                          : Hà Nội Ngôn ngữ chính thức                                    : tiếng Việt Đơn vị tiền tệ                                                : đồng Diện tích                                                       : 329.566 km2 Dân số ước tính (năm 1998)                         : 78 triệu người Tốc độ tăng trưởng dân số                            : 2,3% Mật độ dân cư         : 210 người/km2 18
  19. Thời gian tăng gấp đôi số dân         : 31 năm Diện tích bảo tồn trên tổng số diện tích        : 7  % Tổng số diện tích được bảo tồn                     : 22.976 km2 Số khu vực được bảo tồn                               : 101   Nguồn: UNFPA, Cục kiểm lâm, Bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn Các nguồn tài nguyên Việt Nam: 2.1.1. Tài nguyên đất Việt Nam:      Quỹ đất của việt Nam có tổng diện tích hơn 33 triệu ha, tổng diện tích   đất bình quân đầu người là 0,6 ha (đứng thứ 159 trên thế giới).      Tổng số có hơn 16 triệu ha đất feralit, 3 triệu ha đất phù sa, đất mùn vàng   đỏ hơn 3 triệu ha, đất xám bạc màu hơn 3 triệu ha... Tổng tiềm năng dự trữ  quỹ đất nông nghiệp của Việt Nam là 10 ­ 11 triệu ha, trong đó gần 7 triệu   ha được sử  dụng vào nông nghiệp, 3 trên 4 trong số  đó là trồng cây hàng  năm.      Mặn hóa, chua phèn hóa, bạc màu hóa, cát lấn , đất trũng úng nước, đất  dễ bị thoái hóa, đất khó phục hồi là những vấn đề cần phải lưu ý. 2.1.2. Tài nguyên nước Việt Nam:      Việt Nam có khoảng 2345 con sông (dài từ 10 km trở lên).      Tổng dòng chảy của hệ thống sông Cửu long là 520 km3 /năm, của sông   Hồng và sông Thái bình 120 km3/năm.      Nước ngầm có thể khai thác khoảng 2,7 triệu km3/ngày.      Đến năm 2000 lượng nước lấy đi cho tiêu dùng ở Việt nam tổng số  khoảng 90 đến 100 km3 (xấp xỉ 30% lượng nước sản sinh ra trong lãnh thổ. 2.1.3. Tài nguyên khoáng sản Việt Nam: 19
  20.        Nước ta nằm giữa hai vành đai tạo khoáng lớn của thế giới là Thái Bình  Dương và Địa Trung Hải.      Việt nam có hơn 3500 mỏ  gồm 80 loại khoáng sản. Mới chỉ  có 270 mỏ  được khai thác gồm 32 loại khoáng sản.      Khoáng sản chủ yếu: Than trữ lượng 3 đến 3,5 tỷ tấn; dầu mỏ trữ lượng   Vịnh Bắc bộ  là 500 triệu tấn, Nam Côn sơn 400 triệu tấn, Cửu long 300  triệu tấn, Vịnh Thái lan 300 triệu tấn; quặng sắt trữ lượng 700 triệu tấn; khí   đốt thiên nhiên có trữ lượng lớn.       Tài nguyên khoáng vật của Việt nam được đánh giá là to lớn, đủ  cơ  sở  cho công nghiệp hóa. 2.1.4. Môi trường và tài nguyên biển Việt Nam:      Việt Nam có vùng biển rộng trên 1 triệu km2 có nhiều tiềm năng về kinh   tế và có độ đa dạng sinh học cao.      Việt Nam có trên 100 loài cá có sản lượng cao, còn có nhiều hải sản quý   như: cua, mực, sò huyết, trai, hàu, hải sâm, bào ngư, rùa biển, đồi mồi, ngọc   trai. Ven bờ  có sò, ngao , điệp, hàu, phi, don với sản lượng hàng chục vạn  tấn một năm.      Biển Việt Nam nằm trong một trong 5  ổ bão của hành tinh. Hơn 100 năm  gần đây có 493 cơn bão, trung bình 4,7 cơn một năm. 2.1.5. Tài nguyên rừng và đa dạng sinh học:          Việt Nam là nước có nguồn tài nguyên rừng lớn và có giá trị. Nhiều   người dân sống phụ thuộc vào rừng: Việt Nam có từ 7 đến 8 triệu dân sống   ở rừng, 18 triệu dân có cuộc sống gắn với rừng.      Rừng cho vật liệu xây dựng, năng lượng, dược liệu, gien động vật hoang   dã. Rừng ngập măn là cái nôi của tôm cá biển, bảo tồn sinh học, chống sói   mòn đất, điều hòa khí hậu, tăng nước ngầm, chống lũ lụt, xâm thực. Thảm   thực vật  20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
3=>0