Tiểu luận:

TƯ TƯỞNG KINH TẾ TRONG KHẨU HIỆU CẦN,

KIỆM, LIÊM, CHÍNH VÀ MỐI QUAN HỆ GIỮA

CẦN, KIỆM, LIÊM, CHÍNH

VỚI CHỐNG THAM Ô LÃNG PHÍ

Mở đầu

Hiện nay để thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, phát triển nền kinh tế

nhiều thành phần theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh thực

hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đòi hỏi chúng ta phải ra sức phát huy nội

lực, thu hút nguồn ngoại lực, đồng thời phải xây dựng một đội ngũ cán bộ, đảng viên

ngày càng trong sạch vững mạnh, có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực chuyên môn

cao, thực sự là một động lực to lớn góp phần đưa đất nước tiến lên; thực hiện mục tiêu

dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

Hồ Chí Minh đã nói về mục tiêu xây dựng CNXH là nhằm sản xuất ra nhiều

của cải vật chất và tinh thần để nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.

Đây là quan điểm nhất quán, thường xuyên chi phối mọi suy nghĩ và hành động của

Người.

Xuất phát từ quan điểm đó, Hồ Chí Minh luôn đề cao và phát huy mọi nỗ lực

của từng người dân, của từng cán bộ, đảng viên trong việc đẩymạnh sản xuất để xây

dựng đất nước giàu mạnh và nâng cao đời sống của nhân dân.

Người luôn nhắc nhở và giáo dục mọi cán bộ, đảng viên phải thường xuyên

rèn luyện đức tính cần, kiệm, liêm, chính và phải xem đây là nền tảng của đời sống

mới, nền tảng của thi đua ái quốc.

Trong phạm vi tiểu luận này, tôi xin được trình bày một số nội dung để làm rõ

tư tưởng kinh tế của Hồ Chí Minh trong khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính và mối quan

hệ giữa cần, kiệm, liêm, chính với chống tham ô, lãng phí trong tình hình mới.

I. Cần, kiệm, liêm chính theo quan điểm của Hồ Chí Minh

1. Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính không thể thiếu của mỗi con

người Việt Nam

Trong lịch sử văn hóa nước ta, đã có những ảnh hưởng rất lớn của những tư

tưởng đạo đức Trung Quốc trong đó có tư tưởng của Khổng Tử và các học trò của

ông, khi đề cao đạo đức cá nhân dưới khẩu hiệu cần - kiệm - liêm - chính. Đây là bốn

đức tín của người quân tử.

Trong bối cảnh cách mạng Việt Nam thời kỳ đấu tranh giành độc lập dân tộc

và xây dựng xã hội mới, Hồ Chí Minh đã đề ra những đức tính cần thiết của công dân

tiêu biểu cho xã hội là:

"Trời có bốn mùa Xuân, Hạ, Thu, Đông,

Đất có bốn phương Đông, Tây, Nam, Bắc,

Người có bốn đức Cần, Kiệm, Liêm, Chính.

Thiếu một mùa thì không thành trời,

Thiếu một phương thì không thành đất,

Thiếu một đức thì không thành người".

(Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.5, tr.631).

Người khẳng định bốn đức tính cần, kiệm, liêm, chính, đó là nền tảng tất yếu

để tạo nên giá trị con người. Nếu thiếu một trong bốn đức tính đó thì cũng không trở

thành con người hoàn hảo được.

Để cho cần, kiệm, liêm, chính thực sự trở thành nền tảng đạo đức trong xã hội

mới, tại phiên họp Hội đồng Chính phủ đầu tiên ngay sau khi giành độc lập, ngày

03/9/1945 Hồ Chí Minh đã phát biểu "Tôi đề nghị mở một chiến dịch giáo dục lại tinh

thần nhân dân bằng cách thực hiện cần, kiệm, liêm, chính" (tập 4, tr.9).

ở đây Người dùng từ "giáo dục lại" vì Cần, Kiệm, Liêm, Chính đã là đạo lý

truyền thống của dân tộc Việt Nam từ bao đời nay, nhưng ngày nay nó không còn bó

hẹp trong lập trường phong kiến, mà đã được Hồ Chí Minh chọn lọc, từng bước đưa

nội dung mới theo lập trường của chủ nghĩa Mác - Lênin và yêu cầu của cuộc đấu

tranh giải phóng dân tộc để làm phong phú thêm nội dung của cần, kiệm, liêm, chính.

2. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của thi

đua ái quốc

Vào những năm 20 của thế kỷ XX, khi cách mạng Việt Nam còn ở giai đoạn

khó khăn, rất cần đội ngũ cán bộ, đảng viên có năng lực phẩm chất đặc biệt, những

người châm lửa cho cách mạng, Hồ Chí Minh đã đòi hỏi người cán bộ cách mạng phải

có tư cách, "tự mình phải cần, kiệm... vị công vong tư".

Sau khi chúng ta giành được chính quyền, ở mỗi thời kỳ cách mạng, cán bộ,

đảng viên luôn có vai trò quyết định. Vì vậy, Người thường nhắc nhở, giáo dục cán

bộ, đảng viên của Đảng phải thường xuyên rèn luyện để có đức tính cần, kiệm, liêm,

chính. Khi Hồ Chí Minh đề ra khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính thì có đại biểu cho là

cũ. Người đã nói: "Hàng ngày ta phải ăn cơm, uống nước, phải thở khí trời để mà

sống". Những việc đó, ngày xưa ông cha ta đã làm, bây giờ chúng ta phải làm, con

cháu sau này cũng phải làm. Vậy ăn cơm, uống nước và thở khí trời để đem lại cuộc

sống cho con người thì đó là những việc không khi nào trở thành cũ cả. "Cần, kiệm,

liêm, chính", "chí công vô tư" đối với đời sống mới cũng như vậy (Võ Nguyên Giáp -

Những năm tháng không thể nào quên).

Khi bắt đầu tiến hành xây dựng xã hội mới, Người không chỉ dừng lại ở việc

giáo dục cho mỗi cán bộ, đảng viên đức tính cần, kiệm, liêm, chính, mà người còn mở

rộng nội dung kinh tế của bốn đức tính đó, từ chỗ là đức tính của từng con người, từng

cán bộ, đảng viên đến chỗ nó là nền tảng đạo đức của cả một xã hội mới.

Người nói: "Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của

thi đua ái quốc". "Chúng ta muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình

đẳng, một xã hội cần, kiệm, liêm, chính" (T.6, tr.494). Để minh chứng cho quan điểm

của Hồ Chí Minh về cần, kiệm, liêm, chính trong thời đại mới, cố Thủ tướng Phạm

Văn Đồng đã viết trong tác phẩm "Hồ Chủ tịch- hình ảnh của dân tộc, tinh hoa của

thời đại' (Nxb Sự thật - Hà Nội, 1974, tr.29-30) như sau: "Bốn chữ này bao gồm

những mỹ đức cần thiết cho mọi người Việt Nam trong việc tu thân, tề gia, trị quốc,

bình thiên hạ, tiêu biểu lòng chí công vô tư đối với của công, việc công".

Học cần, kiệm, liêm, chính là phận sự của nhân viên Chính phủ. Đó là phận sự

của mọi người hoạt động trong các tổ chức nhân dân. Đó cũng là phận sự của mọi

người công dân Việt Nam. Cần, kiệm, liêm, chính là đặc điểm của một xã hội hưng

thịnh. Những điều trái lại là đặc điểm của một xã hội suy vong.

II. Nội dung kinh tế trong khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính của Hồ Chí Minh

Từ khi chính quyền về tay nhân dân, Đảng ta trở thành Đảng cầm quyền, lãnh

đạo nhân dân ta tiến hành xây dựng công cuộc XHCN, thì việc giáo dục cho cán bộ,

đảng viên và nhân dân đức tính cần, kiệm, liêm, chính càng trở nên cấp thiết. Vì lúc

này đây, bốn đức tính trên không những chỉ mang nội dung đạo đức làm người, rất

cần cho việc xây dựng con người mới, mà nó còn mang cả nội dung kinh tế để phục

vụ sự nghiệp xây dựng xã hội mới.

Qua các bài nói và viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh, thì nội dung kinh tế của

khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính thể hiện như sau:

1. Cần

Có nghĩa là phải làm việc siêng năng, chăm chỉ, dẻo dai, trung thực, vượt mọi

khó khăn, giữ nghiêm kỷ luật lao động để hoàn thành mọi nhiệm vụ.

Một con người, nếu có tính "cần" thì bất cứ việc gì dù khó đến đâu cũng làm

được, đảm bảo giờ giác, chấp hành kỷ luật lao động.

Người nói: "Cần tức là siêng năng, chăm chỉ, cố gắng, dẻo dai". "Cần: làm

việc gì cũng phải đúng giờ, chớ đi trễ về sớm, làm cho chóng, cho chu đáo, việc ngày

nào nên làm xong ngày ấy, chớ để ngày mai".

Khi giải nghĩa tính Cần, Người chú ý nhấn mạnh một số điều sau:

"Cần và Chuyên phải đi đôi với nhau. Chuyên là dẻo dai bền bỉ. Nếu không

chuyên, nếu một ngày Cần mà mười ngày không Cần thì cũng vô ích".

"Cần không phải là làm xởi", tức là "luôn luôn chăm chỉ, cả năm, cả đời,

nhưng không làm quá trớn, phải biết nuôi dưỡng tinh thần và lực lượng của mình, để

làm việc cho lâu dài".

Người còn nhắc nhở chúng ta về công tác tổ chức khi nói đến chữ Cần, đó là

"phải theo nguyên tắc là có việc mới cần đến người, chứ không phải là có sẵn người

nên phải tìm việc cho làm". Đã có nhiều trường hợp chúng ta vì người mà bố trí việc,

cho nên bộ máy trở nên cồng kềnh, kém hiệu quả.

Không dừng lại ở từng cá nhân, mà Người còn mở rộng đến tập thể, cộng

đồng và cả nước. Người nói:

"Người siêng năng thì mau tiến bộ

Cả nhà thương nhau thì chắc ấm no

Cả làng siêng năng thì làng phồn thịnh

Cả nước siêng năng thì nước mạnh giàu".

Như vậy, chữ Cần không chỉ mang ý nghĩa đạo đức của con người, mà nó còn là

vấn đề kinh tế, nếu lao động siêng năng thì sẽ tăng năng suất lao động, làm giàu cho đất

nước. Do đó, Người cũng lên án tính lười biếng:

"Lười biếng là kẻ địch của chữ Cần.

Vì vậy, lười biếng cũng là kẻ địch của dân tộc".

Người còn đề cập đến nghĩa của chữ Cần là tăng năng suất lao động. Người

nói:

"Năng suất lao động là nguồn của cải to lớn nhất". Để có năng suất lao động

cao, Người nhắc nhở các điều sau đây:

- Cần phải đi liền với kế hoạch, bởi vì "Công việc bất kỳ to nhỏ, đều có điều

nên làm trước, điều nên làm sau. Nếu không có kế hoạch, điều nên làm trước mà để

lại làm sau, điều nên làm sau mà đưa làm trước, như thế thì sẽ hao tổn thì giờ, mất

công nhiều mà kết quả ít... Vì vậy, siêng năng và kế hoạch phải đi đôi với nhau".

- "Phải cố gắng học tập dùng kỹ thuật mới, xây dựng cơ sở kỹ thuật mới, kiên

quyết từ bỏ lối làm ăn lạc hậu". Do đó, Người rất coi trọng vai trò của công nghệ,

công nghệ có vị trí quan trọng để cải tạo nền kinh tế quốc dân, nếu công nghệ được

trang bị phù hợp thì sẽ góp phần thúc đẩy tăng năng suất lao động.

- "Phải tổ chức lao động cho tốt", đồng thời phải "củng cố và phát triển các

HTX nông nghiệp, phải tiếp tục cải tiến quản lý các xí nghiệp".

- Phải tuyên truyền động viên mọi người ăhng say lao động, coi lao động là

nghĩa vụ thiêng liêng, là nguồn sống, nguồn hạnh phúc của mọi người. Người nói:

"Muốn làm ra nhiều của cải, phải có hai điều kiện: một là phải có nhiều người sản

xuất; hai là mỗi người phải sản xuất được nhiều. Hai điều này thật ra không hề tách

rời nhau".

2. Kiệm

Có nghĩa là tiết kiệm, không xa xỉ, không hoang phí, không bừa bãi.

Đẩy mạnh sản xuất đi đôi với thực hành tiết kiệm là một nét nổi bật trong tư

duy kinh tế của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Theo quan điểm của Người, sản xuất và tiết

kiệm luôn gắn liền với nhau. Đẩy mạnh tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm là

trách nhiệm, là nghĩa vụ thiêng liêng của mỗi người công dân đối với đất nước. Chúng

ta phải hiểu rằng thực hành tiết kiệm góp phần xây dựng nền kinh tế nước nhà tức là

yêu nước.

Về vấn đề tiết kiệm, Người chỉ rõ: " Tiết kiệm không phải là bủn xỉn, không

phải là xem đồng tiền to bằng cái nong" mà là "khi không nên tiêu xài thì một đồng xu

cũng không nên tiêu, khi có việc đáng làm, việc ích lợi cho đồng bào, cho Tổ quốc, thì

dù bao nhiêu công, tốn bao nhiêu của, cũng vui lòng. Như thế mới đúng là kiệm".

Tiết kiệm với mục đích giúp sản xuất phát triển, là để cải thiện đời sống vật

chất, tinh thần của nhân dân, phục vụ yêu cầu của sự nghiệp cách mạng. Người phê

phán cách thức tiết kiệm cứng nhắc, nặng nề như: "ép bộ đội, cán bộ và nhân dân nhịn

ăn, nhịn mặc". Như vậy, quan điểm về tiết kiệm của Người mang nội dung khoa học

đó là tích luỹ, được coi như một nguyên tắc cơ bản để tái sản xuất mở rộng XHCN.

Tiết kiệm là để có nhiều sản phẩm và để được tiêu dùng nhiều hơn. Tiết kiệm để sử

dụng thời gian, nhân lực, tài lực, trí tuệ của con người một cách đạt hiệu quả hơn. Tiết

kiệm là hình thức giáo dục, bồi dưỡng đạo đức cách mạng và huy động nguồn lực để

xây dựng cơ sở vật chất của CNXH. Cho nên tiết kiệm mang ý nghĩa hết sức tích cực.

Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn luôn động

viên, khích lệ cán bộ, nhân dân ra sức tăng gia sản xuất và thực hành tiết kiệm. Người

thường xuyên nhắc nhở: "Chúng ta chỉ có thể xây dựng CNXH bằng cách tăng gia sản

xuất và thực hành tiết kiệm. Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà

trống".

Kết quả của tăng gia sản xuất cộng với kết quả của thực hành tiết kiệm sẽ tạo

ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nền kinh tế nước nhà, nâng cao đời sống, vật chất, tinh

thần của nhân dân, vì thế Người thường dạy rằng: "Tăng gia sản xuất phải đi đôi với

tiết kiệm. Phải tiết kiệm sức lao động, phải tiết kiệm thì giờ, phải tiết kiệm tiền của để

tăng gia. Tiết kiệm giúp cho tăng gia và tăng gia giúp cho tiết kiệm, để đi đến kết quả

tốt" (Hồ Chí Minh: Toàn tập, tập 6, tr.393-394).

3. Liêm

Có nghĩa là trong sạch, không tham lam, không tham ô và giữ gìn của công.

Người đã nhắc nhở: "Những người ở các công sở, từ làng cho đến Trung ương, đều dễ

tìm dịp phát tài, hoặc xoay tiền của Chính phủ, hoặc đục khoét của nhân dân. Đến khi

lộ ra, bị phạt thì mất hết cả danh giá, mà của phi nghĩa đó cũng không được hưởng. Vì

vậy, những người trong công sở phải lấy chữ liêm làm đầu".

Người đặc biệt nhấn mạnh những cán bộ có chức, có quyền, nếu không chịu

rèn, không có lương tâm, rất dễ trở thành bất liêm. "Trước nhất là cán bộ các cơ quan,

các đoàn thể, cấp cao thì quyền to, cấp thấp thì quyền nhỏ. Dù to hay nhỏ, có quyền

mà thiếu lương tâm là có dịp đục khoét, có dịp ăn của đút lót, có dịp dĩ công vi tư".

Người nêu rõ quan hệ giữa Kiệm và Liêm: "Chữ Liêm phải đi đôi với chữ

Kiệm. Có Kiệm mới Liêm được. Vì xa xỉ mà sinh tham lam".

Người nhắc nhở mọi cán bộ, đảng viên phải luôn luôn tôn trọng giữ gìn của

công và của dân, không xâm phạm một đồng xu, hạt thóc của nhà nước, của nhân dân.

Phải "trong sạch, không tham lam", "không tham địa vị, không tham tiền tài, không

tham sung sướng, không ham người tâng bốc mình. Vì vậy mà quang minh chính đại,

không bao giờ hủ hóa". "Chỉ có một thứ ham là ham học, ham làm, ham tiến bộ".

Người cũng chỉ rõ những hành vi trái với chữ Liêm, để mọi người tránh xa, đó

là "... Cậy quyền thế mà đục khoét dân, ăn của đút lót hoặc trộm của công làm của

tư..." hoặc là "dìm người giỏi để giữ địa vị và danh tiếng của mình là đạo vị (trộm).

Gặp việc phải mà sợ khó nhọc nguy hiểm không dám làm, là tham vật uý lao. Gặp

giặc mà rút ra không dám đánh là tham sinh uý tử".

4. Chính

Nghĩa là không tà, thẳng thắn, đứng đắn.

Người có đức chính thường thể hiện như sau:

Đối với mình: Không tự cao, tự đại, luôn chịu khó học tập cầu tiến bộ, luôn tự kiểm

điểm để phát triển điều hay, sửa đổi điều dở của bản thân mình.

Đối với người: Không nịnh hót người trên, không xem khinh người dưới, luôn

giữ thái độ chân thành, khiêm tốn, đoàn kết, thật thà, không dối trá, lừa lọc.

Đối với công việc: Phải để việc công lên trên, lên trước việc tư, việc nhà. Đã

phụ trách việc gì thì quyết làm cho kỳ được, cho đến nơi đến chốn, không sợ khó

khăn, nguy hiểm, việc thiện thì dù nhỏ mấy cũng làm, việc ác thì dù nhỏ mấy cũng

tránh. Mỗi ngày cố làm một việc lợi cho nước, cho dân.

Người cho rằng, để thành người có đức chính thì phải: "Công tâm, công đức.

Chớ đem của công dùng vào việc tư. Chớ đem người tư dùng vào việc công. Việc gì

cũng phải công bình, chính trực, không nên vì tư ân, tư huệ hoặc tư thù, tư oán. Mình

có quyền dùng người thì phải dùng những người có tài năng, làm được việc. Chớ vì bà

con, bầu bạn mà kéo vào chức nọ chức kia". Điều này rất phù hợp trong điều kiện hiện

nay, đòi hỏi người cán bộ, đảng viên phải có đức tính công bằng và chính trực, không

lấy của công làm của tư, không kéo bè, kéo cánh, tạo ra nạn ô dù, gây mất đoàn kết

nội bộ. Phải thường xuyên gần gũi và gắn bó với quần chúng nhân dân, phải một lòng

một dạ vì dân, vì nước.

III. Mối quan hệ giữa cần, kiệm, liêm, chính với chống tham ô, lãng phí

1. Thế nào là tham ô, lãng phí?

Hồ Chí Minh cho rằng, tham ô không chỉ biểu hiện ở những cán bộ, những

người có chức, có quyền mà ngay cả quần chúng nhân dân đều có thể tham ô.

Đối với cán bộ, tham ô là: "Ăn cắp của công làm của tư. Đục khoét của nhân

dân... Tiêu ít mà khai nhiều. Lợi dụng của chung, của chính phủ để làm quỹ riêng cho

địa phương mình, đơn vị mình".

Đối với nhân dân, thì tham ô là: "Ăn cắp của công, khai gian, lậu thuế".

Hay nói cách khác: Tham ô về thực chất là bóc lột nhân dân lao động, bóc lột

của cải do con người làm ra, bóc lột của cải của tập thể, của xã hội. Do đó, tham ô là

một tội ác lớn trong khi nhân dân ta đang đòi hỏi phải cần kiệm trong sản xuất, tiết

kiệm trong tiêu dùng, dành vốn đầu tư cho phát triển nền kinh tế nước nhà.

Còn lãng phí thì khác tham ô. Khác ở chỗ là không ăn cắp, ăn trộm của công

làm của tư. Nhưng tổn thất thì vô cùng to lớn. Lãng phí biểu hiện trên nhiều mặt: lãng

phí sức lao động "Việc gì ít người cũng làm được mà vẫn dùng nhiều người". Lãng

phí thời giờ "Việc gì có thể làm trong một ngày, một buổi cũng kéo dài đến mấy

ngày". Lãng phí của cải vật chất, tài nguyên thiên nhiên của nhân dân, của đất nước.

Người cho rằng, lãng phí không chỉ xảy ra ở cán bộ, các cơ quan mà còn biểu

hiện phổ biến trong nhân dân như bỏ đất hoang hóa, bán trâu, cầm ruộng để làm đám

cưới, đám ma, đốt vàng mã... gây ra lãng phí rất lớn.

2. Vì sao phải chống tham ô, lãng phí?

Tham ô, lãng phí là những hành vi trái ngược với cần, kiệm, liêm, chính, nó là

kẻ thù của nhân dân, là lực cản cho sự phát triển của nền kinh tế. Bác Hồ ví tham ô,

lãng phí như là một thứ cỏ dại. Người nói: "Muốn lúa tốt thì phải nhổ cỏ cho sạch, nếu

không thì dù cày bừa kỹ, bón phân nhiều, lúa vẫn xấu vì bị cỏ át đi. Muốn thành công

trong việc tăng gia sản xuất và tiết kiệm cũng phải nhổ cỏ cho sạch, nghĩa là phải tẩy

sạch nạn tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu. Nếu không thì nó sẽ làm hại đến công

việc của ta" (Bài nói chuyện của Chủ tịch Hồ Chí Minh năm 1952 nhân dịp phát động

phong trào thi đua sản xuất và tiết kiệm).

Tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu là kẻ thù của nhân dân, của chế độ. Nó là

kẻ thù nguy hiểm, vì nó không mang gươm, mang súng, mà nó nằm trong các tổ chức

của ta, để làm hỏng công việc của ta, làm hỏng tinh thần trong sạch và ý chí khắc khổ

của cán bộ ta, phá hoại đạo đức cách mạng của ta là cần, kiệm, liêm, chính. Nó gây

trở ngại cho sự phát triển nền kinh tế, ảnh hưởng không tốt đến phong trào đẩy mạnh

sản xuất, thực hành tiết kiệm của nhân dân. Nó là một thứ giặc trong lòng, "giặc nội

xâm". Vì những tác hại và nguy cơ đó, đấu tranh chống tham ô, lãng phí là một cuộc

cách mạng quan trọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận. Bác Hồ khẳng định:

"Đây là mặt trận tư tưởng và chính trị".

Quan điểm của Người về đấu tranh chống tham ô, lãng phí là triệt để: "phải

kiên quyết nhổ cỏ".

Cuộc đấu tranh chống các tệ nạn này là "một cuộc cách mạng cán bộ, một

cuộc đấu tranh gay go giữa cái tốt và cái xấu, cái cũ và cái mới, giữa đạo đức cách

mạng là cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư và kẻ địch là nạn tham ô, lãng phí,

quan liêu".

3. Mối quan hệ giữa Cần, Kiệm, Liêm, Chính đối với chống tham ô, lãng

phí

- Mối quan hệ giữa Cần, Kiệm với chống lãng phí

Cần, Kiệm là yếu tố quan trọng để tạo ra của cải, vật chất cho xã hội. Một xã

hội mà không có Cần, Kiệm thì không thể nào có điều kiện để phát triển.

Còn lãng phí thì gây ra những tổn thất vô cùng to lớn về tiền bạc, của cải, thời

giờ và sức lao động, làm cho xã hội ngày càng nghèo đi.

Do đó, nếu Cần, Kiệm thì phải chống lãng phí, và ngược lại: lãng phí thì

không thể Cần, Kiệm được.

- Mối quan hệ giữa Liêm, Chính với chống tham ô

Liêm, Chính là những yếu tố tạo cho con người sự trong sạch, chính trực, luôn

đặt lợi ích của tập thể, của đất nước lên trên, còn tham ô là hành vi ăn cắp của công

làm của tư, đục khoét của nhân dân làm nghèo cho đất nước.

Nếu người có đức Liêm, Chính thì không bao giờ có hành vi tham ô. Và ngược

lại có hành vi tham ô thì không bao giờ có đức tính Liêm, Chính.

4. Những biện pháp chủ yếu để chống tham ô, lãng phí

Bệnh tham ô, lãng phí là một hiện tượng xã hội mang tính lịch sử. Nó chỉ xuất

hiện khi xã hội loài người có phân chia giai cấp, có nhà nước, thể hiện sự tha hóa của

nhà nước. Tuy nhiên, ở mỗi chế độ xã hội khác nhau, thì tính chất quy mô của nó

cũng khác nhau.

ở nước ta, căn bệnh này đã len lỏi vào bộ máy Đảng và Nhà nước ngay từ thời

kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp.

Vì vậy, từ năm 1952, nhân dịp Đảng và Chính phủ phát động phong trào thực

hành tiết kiệm và chống tham ô, lãng phí. Bác Hồ đã coi việc chống tham ô, lãng phí

cũng quan trọng và cần kíp như đánh giặc trên mặt trận.

Để cuộc đấu tranh chống tham ô, lãng phí có hiệu quả theo tinh thần NQ Đại

hội Đảng lần thứ IX, chúng ta cần tập trung thực hiện một số biện pháp chủ yếu sau

đây:

- Tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính trị, rèn luyện đạo đức cách

mạng, chống chủ nghĩa cá nhân. Toàn Đảng phải nghiêm túc học tập chủ nghĩa Mác -

Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, nhằm tăng cường giáo dục cán bộ, đảng viên và công

chức về chính trị, tư tưởng, đạo đức cách mạng, biểu dương những cán bộ, công chức

liêm khiết, tích cực đấu tranh chống tham nhũng, tiêu cực trong bộ máy nhà nước và

trong xã hội.

- Thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, công khai các vấn đề có liên quan

đến nhân dân, nhằm thực hiện phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm

tra". Đây là biện pháp tích cực nhằm phát huy vai trò giám sát của nhân dân.

- Bổ sung, hoàn thiện các cơ chế chính sách, quy định của Nhà nước về quản

lý kinh tế - tài chính, quản lý tài sản công, các thủ tục hành chính nhằm khắc phục

những sơ hở không để cho kẻ xấu lợi dụng.

- Thanh tra, kiểm tra, kiểm kê và kiểm soát chặt chẽ việc sử dụng ngân sách

Nhà nước, tài sản công, tài chính của các doanh nghiệp nhà nước, tài chính của Đảng,

đoàn thể, các quỹ vận động nhân dân đóng góp và do nước ngoài tài trợ. Cụ thể hóa và

thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức, trước hết là cán bộ chủ

chốt, cán bộ quản lý. Thực hiện công khai tài chính ở cơ sở, kê khai tài sản của cán bộ

lãnh đạo, cán bộ quản lý trước khi bổ nhiệm vào cương vị lãnh đạo, quản lý.

- Cải cách cơ bản chế độ tiền lương nhằm nâng cao đời sống của những người

hưởng lương, xóa bỏ các chế độ mang tính đặc quyền, đặc lợi.

- Phát động mạnh mẽ phong trào đấu tranh chống tham ô, lãng phí trong toàn

Đảng, các tổ chức đoàn thể nhân dân, các cơ quan thông tin địa chúng và toàn xã hội

tích cực tham gia giám sát, kiểm tra cán bộ, công chức, phát hiện tố cáo lên án những

kẻ tham nhũng. Đồng thời các cơ quan pháp luật phải xử lý nghiêm minh, kịp thời

những cán bộ, công chức lợi dụng chức quyền để tham nhũng dù người đó ở cấp nào,

lĩnh vực nào.

Kết luận

Đất nước ta đang bước vào thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong điều

kiện nền kinh tế đất nước còn nhiều khó khăn, đặc biệt là vốn và nguồn nhân lực.

Do đó, hơn bao giờ hết những đức tính cần, kiệm, liêm, chính trong mỗi con

người và toàn xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Chúng ta phát động mọi ngành,

mọi nhà và mọi người hãy ra sức thi đua, lao động sản xuất và công tác với trình độ

lao động kỹ thuật cao, chuyên môn giỏi để tạo ra năng suất lao động ngày càng cao,

nên đòi hỏi đức tính Cần. Trong điều kiện nước nhà còn nghèo, trình độ sản xuất còn

thấp kém, nếu sản xuất ra bao nhiêu mà chi tiêu hết bấy nhiêu thì không thể có tích

luỹ để tái sản xuất hoặc là chi tiêu lãng phí, xa hoa sẽ gây tổn thất cho nền kinh tế.

Sản xuất mà không tiết kiệm thì khác nào gió vào nhà trống, cho nên phải thực hành

tiết kiệm. Một nền kinh tế mà mọi người đều sản xuất giỏi và tiết kiệm hợp lý sẽ là

một nền kinh tế phát triển và có hiệu quả cao. Nhưng muốn thực hành tiết kiệm có

hiệu quả thì phải chống cho được nạn tham ô, lãng phí, xây dựng đội ngũ cán bộ, đảng

viên giữ gìn được đức tính liêm, chính. Do đó, Bác Hồ đã từng khẳng định: "Chúng ta

muốn xây dựng một xã hội mới, một xã hội tự do, bình đẳng, một xã hội cần, kiệm,

liêm, chính, thì chúng ta phải tẩy cho sạch hết những thói xấu của xã hội cũ".

Những nội dung kinh tế trong khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính nêu ra trên đây

thực chất là tư tưởng tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô lãng phí,

quan liêu.

Trong sự nghiệp đổi mới hiện nay, việc học tập và quán triệt những quan điểm

của Chủ tịch Hồ Chí Minh về đẩy mạnh sản xuất, thực hành tiết kiệm, chống tham ô

lãng phí và quan liêu là một vấn đề vừa có ý nghĩa chiến lược, vừa có ý nghĩa thời sự

cấp bách để phát triển kinh tế một cách bền vững và có hiệu quả cao.

Vấn đề giải phóng các tiềm năng nhằm đẩy mạnh sản xuất, đẩy mạnh qúa

trình phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và đẩy mạnh công nghiệp hóa,

hiện đại hóa đất nước phải gắn liền với quá trình tiết kiệm, chống tham ô, lãng phí và

quan liêu của bộ máy nhà nước và trong nhân dân.

Tình trạng lãng phí và đặc biệt là tình trạng tham nhũng đang trở thành "quốc

nạn", là mối lo lắng, rất bức xúc của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, là một trong

những nguy cơ có thể làm biến dạng chế độ chính trị xã hội ở nước ta.

Để khắc phục, đẩy lùi và tiến tới chiến thắng các tệ nạn đó, trước hết toàn

Đảng, toàn dân ta quyết tâm quán triệt và thực hiện tốt tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí

Minh về chống tham ô, lãng phí và bệnh quan liêu, đi đôi với việc nêu gương cần,

kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Kiên trì thực hiện đồng bộ các biện pháp giáo dục,

hành chính và tổ chức thực hiện nghiêm luật pháp mà trọng tâm là thực hiện tốt cuộc

vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo NQ TW 6 (2), thực hiện pháp lệnh cán bộ,

công chức, pháp lệnh thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, pháp lệnh chống tham

nhũng được Quốc hội khóa X thông qua ngày 26/02/1998 phấn đấu vì mục tiêu: Dân

giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ và văn minh.

Mục lục

Trang

1 Mở đầu

2 I. Cần, kiệm, liêm, chính theo quan điểm của Hồ Chí Minh

1. Cần, kiệm, liêm, chính là bốn đức tính không thể thiếu của mỗi con 2

người Việt Nam

2. Cần, kiệm, liêm, chính là nền tảng của đời sống mới, nền tảng của 3

thi đua ái quốc

4 II. Nội dung kinh tế trong khẩu hiệu cần, kiệm, liêm, chính của Hồ

Chí Minh

4 1. Cần

6 2. Kiệm

8 3. Liêm

9 4. Chính

9 III. Mối quan hệ giữa cần, kiệm, liêm, chính với chống tham ô,

lãng phí

1. Thế nào là tham ô, lãng phí? 9

2. Vì sao phải chống tham ô, lãng phí? 10

3. Mối quan hệ giữa cần, kiệm, liêm, chính đối với chống tham ô, lãng 11

phí

4. Những biện pháp chủ yếu để chống tham ô, lãng phí 12

14 Kết luận