
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
ĐÀO THỊ THU HIỀN
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH TIẾP TỤC
SỬ DỤNG NGÂN HÀNG DI ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
TP HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12 NĂM 2024

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGÂN HÀNG TP.HỒ CHÍ MINH
ĐÀO THỊ THU HIỀN
CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN Ý ĐỊNH TIẾP TỤC
SỬ DỤNG NGÂN HÀNG DI ĐỘNG TẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
Chuyên ngành: Quản trị kinh doanh
MÃ SỐ: 9 34 01 01
TP HỒ CHÍ MINH, THÁNG 12 NĂM 2024

1
CHƯƠNG 1. TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU
1.1. Sự cần thiết thực hiện nghiên cứu
1.1.1. Bối cảnh nghiên cứu
Kinh tế số và thương mại di động toàn thế giới tăng nhanh những năm gần đây
do sự phát triển của công nghệ thông tin (CNTT) và các thiết bị di động thông minh, tác
động của cuộc cách mạng công nghiệp 4.0 và quá trình chuyển đổi số toàn cầu.
Sự tăng trưởng của thương mại di động làm cho số lượng giao dịch thực hiện
qua điện thoại di động năm 2021 đạt 2,08 tỷ giao dịch với giá trị trên 23,6 triệu tỷ, tăng
lần lượt 76% và 87,5% so với năm 2020 (Báo cáo thường niên của Ngân hàng nhà nước
Việt Nam năm 2021).
Ngân hàng di động (NHDĐ) là phương thức tài chính đang trở nên phổ biến
theo sự phát triển của thương mại di động, cho phép người dùng thực hiện các giao dịch
ngân hàng bằng thiết bị di động, dễ dàng và thuận tiện (Muhammad Turki và ctg, 2021).
Theo Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, năm 2023 tỷ lệ dân số sử dụng NHDĐ đạt 69%
(Ngân hàng nhà nước Việt Nam, 2022).
Thị trường Việt Nam có nhiều tiềm năng cho thanh toán di động phát triển với
tốc độ tăng trưởng hàng năm dự kiến 15,7% vào năm 2025 (Baijal và ctg, 2022). Quyết
định số 810/QĐ-NHNN Thống đốc ngân hàng nhà nước Việt Nam đặt mục tiêu đến năm
2025 là có ít nhất 50% người dân trưởng thành sử dụng dịch vụ thanh toán điện tử, đến
năm 2030 mục tiêu này là 80%.
Ngân hàng di động đang thay đổi phương thức kinh doanh, cách tương tác và
giữ chân người dùng của các ngân hàng. Các ngân hàng trên toàn cầu hiện nay đang nỗ
lực đầu tư, áp dụng công nghệ hiện đại để nhanh chóng chuyển đổi sang mô hình kinh
doanh số, bên cạnh việc duy trì và giảm dần cung cấp dịch vụ theo cách truyền thống,
nhằm tiến đến một nền tảng công nghệ vững mạnh, với các hoạt động mới đem đến lợi
nhuận, an toàn và bảo mật cao cho khách hàng (Montero và Finger, 2017).
Bất chấp những lợi ích của ứng dụng di động đem lại, các báo cáo gần đây
khẳng định rằng, sau lần đầu áp dụng các ứng dụng di động, nhiều người tiêu dùng không
tiếp tục sử dụng và doanh nghiệp cũng khó giữ chân họ. Theo đó, ứng dụng di động chỉ
có thể hiệu quả khi khách hàng tiếp tục sử dụng. Việc giữ chân người dùng trở nên quan
trọng đối với các doanh nghiệp trong lĩnh vực ngân hàng khi đầu tư vào việc ứng dụng
công nghệ nhằm tạo ra một hệ sinh thái mở, tích hợp liền mạch các dịch vụ tài chính với

2
thương mại điện tử, thanh toán, truyền thông xã hội, du lịch, và chăm sóc sức khỏe. Do
đó, cần phải làm rõ về những yếu tố ảnh hưởng đến việc người tiêu dùng tiếp tục sử dụng
ứng dụng ngân hàng di động (Stocchi và ctg, 2020; Fang, 2019).
1.1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Phần nhiều các nghiên cứu tập trung vào việc tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới
việc áp dụng ngân hàng di động. Tuy việc tiếp tục (duy trì và tăng cường) sử dụng sau khi
thử dùng là rất quan trọng trong việc xác định sự thành công của ngân hàng di động, nhưng
phân tích cho thấy chỉ có ít nghiên cứu thực hiện liên quan đến vấn đề này.
Đánh giá những nghiên cứu trước, các công trình về ý định tiếp tục sử dụng
CNTT được phân loại thành ba nhánh nghiên cứu chính khi cho rằng ý định tiếp tục (1)
là hành vi có mục đích hoặc có kế hoạch, (2) bị ảnh hưởng thêm bởi yếu tố thói quen,
hành vi lặp lại và hành vi tự động được thực hiện bởi người dùng và (3) bị ảnh hưởng bởi
hành vi thích ứng và quá trình thích ứng của người dùng dẫn đến kết quả hay quyết định
tích cực. Hầu hết nghiên cứu hiện đang tập trung việc áp dụng kết hợp nhánh nghiên cứu
thứ nhất và thứ hai. Vì vậy, các tác giả cho rằng hành vi thích ứng nhất thiết và cần được
tìm hiểu đầy đủ hơn nữa trong nghiên cứu về ý định tiếp tục sử dụng CNTT (Rubel và
ctg, 2020), đặc biệt là bối cảnh ngân hàng di động.
Báo cáo tổng quan tài liệu của Yan và ctg, 2021 cho rằng các công trình có
nghiên cứu hành vi tiếp tục sử dụng công nghệ di động của người dùng đề cập đến tính
đổi mới cá nhân khá ít. Do đó, mặc dù có vai trò quan trọng trong việc hình thành ý định
tiếp tục sử dụng của người dùng, tính đổi mới cá nhân vẫn chưa được nghiên cứu sâu với
vai trò đa dạng của một biến số và của bối cảnh.
Một số nghiên cứu đã sử dụng, kết hợp các lý thuyết, mô hình phổ biến về chấp
nhận hệ thống thông tin và các lý thuyết hành vi trong nghiên cứu liên quan đến ngân
hàng di động: mô hình chấp nhận công nghệ (TAM) (Davis và ctg, 1989) và lý thuyết về
hành vi có kế hoạch (TPB) (Ajzen, 1991). Mô hình xác nhận kỳ vọng gốc (ECM)
(Bhattacherjee, 2001b) đã bắt đầu được sử dụng kết hợp với biến từ các mô hình TAM.
Trong bối cảnh nghiên cứu về ý định tiếp tục sử dụng NHDĐ, hiện chưa có nghiên cứu
nào kết hợp mô hình ECM và các lý thuyết hành vi UTAUT và DTPB để dự đoán ý định
sau sử dụng của người dùng.
Như vậy, về mục tiêu nghiên cứu, các nghiên cứu về ngân hàng di động hiện
nay vẫn đang tập trung vào tìm hiểu các yếu tố ảnh hưởng tới quyết định sử dụng (lần

3
đầu) ứng dụng của người dùng, do đó, cần có thêm nghiên cứu khám phá ý định tiếp tục
sử dụng ngân hàng di động và các yếu tố tác động tới ý định tiếp tục sử dụng như hành vi
thích ứng, yếu tố đổi mới cá nhân (Jaride, 2021; Ashique Ali và Subramanian, 2022b;
Shaikh và ctg, 2023).
1.1.3. Lý do lựa chọn đề tài nghiên cứu
Tìm hiểu về ý định tiếp tục sử dụng của người dùng ngân hàng di động là cần
thiết đối với cả nghiên cứu và thực tiễn quản trị.
Ứng dụng ngân hàng di động ngày càng phát triển để thu hút người dùng tiếp
tục sử dụng. Nghiên cứu hiện nay về ngân hàng di động mới chỉ khám phá các khía cạnh
thanh toán, và vẫn cần nhiều hơn nghiên cứu tìm hiểu về ý định tiếp tục sử dụng ngân
hàng di động một các toàn diện với các dịch vụ cung cấp của một siêu ứng dụng, bao gồm
cả các dịch vụ tài chính và phi tài chính.
Các mô hình, lý thuyết về chấp nhận sử dụng công nghệ và lý thuyết hành vi
cần kết hợp với đặc tính cá nhân và thích ứng để giải thích đầy đủ hơn ý định tiếp tục sử
dụng ngân hàng di động của người dùng.
Việt Nam có tiềm năng phát triển ngân hàng di động, Chính phủ Việt Nam ưu
tiên, thúc đẩy các hoạt động số hóa trong nhiều lĩnh vực, bao gồm cả tài chính thông qua
các chính sách hỗ trợ và khuyến khích sự phát triển của ứng dụng ngân hàng di động. Do
đó, ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng di động tại Việt Nam là vấn đề cần được tìm hiểu.
Từ các vấn đề cấp thiết trong bối cảnh thực tiễn và lý thuyết đặt ra như đã phân tích,
nghiên cứu sinh chọn đề tài “Các yếu tố ảnh hưởng đến ý định tiếp tục sử dụng ngân hàng
di động tại Việt Nam” để thực hiện Luận án này.
1.2. Mục tiêu nghiên cứu
1.2.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của luận án là dựa trên khung lý thuyết đầu vào – quá trình
- kết quả, xác định các yếu tố ảnh hưởng và đánh giá mức độ ảnh hưởng của các yếu tố
đến ý định tiếp tục sử dụng NHDĐ với vai trò điều tiết của yếu tố tính đổi mới cá nhân.
Từ đó, khuyến nghị các hàm ý quản trị nhằm gia tăng ý định tiếp tục sử dụng NHDĐ của
người dùng tại Việt Nam.
1.2.2. Mục tiêu cụ thể
Để đạt được mục tiêu tổng quát, luận án đặt ra các mục tiêu cụ thể sau:

