
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
-------***-------
ĐINH THỊ LAN HƯƠNG
HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA CHỦ SỞ
HỮU PHẦN VỐN NHÀ NƯỚC TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH – NGÂN HÀNG
HÀ NỘI – 2024

2
NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
-------***-------
ĐINH THỊ LAN HƯƠNG
HOÀN THIỆN MÔ HÌNH QUẢN LÝ CỦA CHỦ SỞ
HỮU PHẦN VỐN NHÀ NƯỚC TẠI CÁC NGÂN
HÀNG THƯƠNG MẠI VIỆT NAM
TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH TÀI CHÍNH NGÂN HÀNG
MÃ SỐ: 9340201
NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. MAI THANH QUẾ
2. TS. NGUYỄN TUẤN ANH
HÀ NỘI – 2024

3
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Trong quá trình đổi mới, cải cách và phát triển nền kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa từ năm 1986 và đến năm 2024, các DNNN của Việt Nam
luôn là một lực lượng quan trọng, có vai trò nòng cốt của nền kinh tế nhà nước, dẫn
dắt, tạo động lực phát triển đối với nền kinh tế. Với số lượng 1.861 doanh nghiệp nhà
nước tại thời điểm 31/12/2022 (chỉ chiếm 0,3 % tổng số doanh nghiệp toàn quốc)
nhưng nguồn vốn sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp nhà nước là 12,1 triệu
tỷ đồng, chiếm khoảng 20,5% tổng nguồn vốn của các doanh nghiệp Việt Nam, doanh
thu thuần đạt 4,3 triệu tỷ đồng, chiếm 12%, tạo ra lợi nhuận trước thuế 348,3 nghìn
tỷ đồng, chiếm 23,9% tổng doanh nghiệp toàn quốc (Sách trắng Việt Nam, 2024).
Doanh nghiệp nhà nước là công cụ để bảo đảm thực hiện có hiệu quả các chính sách
ổn định vĩ mô, kiềm chế lạm phát, tạo nguồn thu lớn cho NSNN; đóng góp quan trọng
trong xây dựng và phát triển hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội và chuyển dịch
cơ cấu kinh tế, thực hiện nhiệm vụ quốc phòng an ninh và chính sách an sinh xã hội.
Vì vậy, việc quản lý đối với các doanh nghiệp nhà nước, đặc biệt là quản lý, giám sát
nguồn vốn đầu tư vào doanh nghiệp nhằm đảm bảo doanh nghiệp hoạt động đúng
định hướng, có hiệu quả là một thách thức lớn đối với Nhà nước ta.
Sau khi Luật Quản lý, sử dụng vốn Nhà nước đầu tư vào sản xuất, kinh doanh
tại doanh nghiệp số 69/2014/QH13 được ban hành năm 2014, có hiệu lực từ
01/7/2015 đã đưa hoạt động quản lý của Nhà nước với vai trò chủ sở hữu vốn đầu tư
tại doanh nghiệp vào một khung khổ pháp lý rõ ràng, đầy đủ và nhất quán; thể hiện
rõ quan điểm quản lý của Nhà nước đối với nguồn lực nhà nước tại doanh nghiệp.
Sau khi ban hành Luật này và thành lập Ủy ban Quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp đã làm thay đổi về căn bản mô hình quản lý vốn nhà nước đầu tư tại doanh
nghiệp của Việt Nam. Bên cạnh các thành tựu đạt được, sau gần 10 năm triển khai
thực hiện Luật Quản lý, sử dụng vốn nhà nước, đã cho thấy một số tồn tại, hạn chế
và bất cập của Luật và tổ chức thực hiện Luật, ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nguồn
vốn nhà nước đầu tư tại các DNNN nói chung và NHTM nói riêng.
Hệ thống các TCTD Việt Nam được coi là các doanh nghiệp rất lớn với quy
mô tài sản lớn, mạng lưới rộng khắp và đóng vai trò rất trọng yếu trong sự phát triển
của nền kinh tế. Theo báo cáo của NHNN, tính đến 31/8/2024, hệ thống TCTD Việt
Nam có 1.308 TCTD, bao gồm: 7 NHTM do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều

4
lệ; 01 Ngân hàng chính sách xã hội; 01 Ngân hàng phát triển; 28 NHTMCP; 02 Ngân
hàng liên doanh; 09 ngân hàng 100% vốn nước ngoài; 50 Chi nhánh ngân hàng nước
ngoài; 26 công ty tài chính, cho thuê tài chính; 01 ngân hàng Hợp tác xã; 1.179 Quỹ
TDND và 04 Tổ chức tài chính vi mô. Tổng tài sản Có của toàn hệ thống TCTD là
20,986 triệu tỷ đồng, tổng vốn điều lệ là 1,077 triệu tỷ đồng.
Đối với các NHTM do NHNN làm đại diện chủ sở hữu nhà nước, trong năm
2024, bao gồm 7 Ngân hàng: Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt
Nam (Agribank), NHTMCP Công thương Việt Nam (Vietinbank), NHTMCP Ngoại
thương Việt Nam (Vietcombank-VCB), NHTMCP Đầu tư Việt Nam (BIDV) và 03
NHTM mua bắt buộc do Nhà nước sở hữu 100% vốn điều lệ là NHTM TNHH MTV
Dầu khí toàn cầu (GPBank), NHTM TNHH MTV Xây dựng (CB bank), NHTM
TNHH MTV Đại dương (Oceanbank). Ba NHTM mua bắt buộc là 03 NHTMCP yếu
kém, bị kiểm soát đặc biệt, lâm vào tình trạng vốn chủ sở hữu âm nên NHNN buộc
phải mua cổ phần bắt buộc với giá 0 đồng nhằm xử lý, cơ cấu lại một cách triệt để,
toàn diện. Các NHTM mua bắt buộc này cũng không hoạt động kinh doanh thông
thường như các NHTM khác mà chỉ hoạt động trong phạm vi được phép, theo các
điều kiện đảm bảo an toàn nhất định và có sự kiểm soát chặt chẽ của NHNN. Đến
tháng 10/2024, NHNN đã công bố Quyết định chuyển giao bắt buộc 02 ngân hàng là:
chuyển giao NHTM TNHH MTV Xây dựng Việt Nam cho NHTMCP Ngoại thương
Việt Nam và chuyển giao NHTM TNHH MTV Đại diện cho NHTMCP Quân đội;
đang thực hiện các quy trình, thủ tục chuyển giao NHTM TNHH MTV Dầu khí toàn
cầu cho một NHTM khác.
Như vậy, xét về bản chất là NHTM có vốn nhà nước do NHNN làm đại diện
chủ sở hữu chỉ xét đến 4 NHTM VCB, Vietinbank, BIDV và Agribank. Đây là các
ngân hàng hình thành lâu đời, có quy mô lớn, đóng vai trò then chốt, dẫn dắt thị
trường ngân hàng của Việt Nam. Tổng tài sản Có của 04 NHTM này là 8.755 nghìn
tỷ đồng, chiếm 41,7% % tổng tài sản của hệ thống TCTD và vốn điều lệ là 218,2
nghìn tỷ đồng, chiếm 20,25% vốn điều lệ của toàn hệ thống; có mạng lưới hoạt động
và chi nhánh rộng khắp trên toàn quốc và vươn ra các thị trường quốc tế. Với quy mô
tài chính và hoạt động lớn, các NHTM này có thể tác động đến hoạt động của thị
trường ngân hàng nên là kênh truyền dẫn các chính sách điều hành tiền tệ của NHNN
đến thị trường. Các NHTM cũng là các doanh nghiệp có đóng góp hiệu quả cho
NSNN với mức lợi nhuận hàng năm lớn, tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu cao.
Ngoài ra, các NHTM cung cấp nguồn vốn, tài chính cho số lượng lớn các doanh

5
nghiệp thuộc lĩnh vực khác trong quá trình sản xuất, kinh doanh, là “huyết mạch”
chính của nền kinh tế.
Tuy nhiên, trong những năm gần đây, 04 NHTM có vốn nhà nước đang mất
dần vị thế dẫn đầu về quy mô vốn và tài sản trong hệ thống ngân hàng Việt Nam do
một số NHTMCP tư nhân đã tăng nhanh quy mô vốn và tài sản, đầu tư nguồn lực đổi
mới công nghệ và sản phẩm mới, cải cách cơ chế quản trị doanh nghiệp để phù hợp
với cuộc cách mạng công nghệ và kỷ nguyên số. Với sự hạn chế về quy mô vốn, tài
sản sẽ dẫn đến nhiều khó khăn trong quá trình hoạt động và phát triển như hạn chế
trong gia tăng quy mô tín dụng, phát triển mạng lưới và đầu tư công nghệ, phát triển
các sản phẩm mới… Điều này không chỉ hạn chế hiệu quả kinh doanh, kìm hãm sự
phát triển của chính NHTM mà còn làm giảm hiệu quả đầu tư vốn nhà nước và đặc
biệt là kém hiệu quả trong việc truyền dẫn các chính sách quản lý nhà nước và điều
hành chính sách tiền tệ của NHNN do các NHTM không còn đủ khả năng dẫn dắt,
định hướng thị trường ngân hàng.
Với vai trò cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn nhà nước, NHNN đã triển khai
thực hiện quyền, trách nhiệm của chủ sở hữu đối với 04 NHTM và đạt được nhiều
thành tựu nhất định như: hoàn thiện cơ chế, quy định quản lý vốn nhà nước tại doanh
nghiệp; hình thành bộ máy tham mưu về quản lý, giám sát của chủ sở hữu; thực hiện
phê duyệt chiến lược, kế hoạch, nhân sự và các nội dung khác thuộc trách nhiệm của
chủ sở hữu,…góp phần hỗ trợ, thúc đẩy NHTM hoạt động hiệu quả và ngày càng phát
triển, đồng thời gia tăng lợi ích của Nhà nước từ các NHTM này. Bên cạnh các kết
quả đạt được, việc thực hiện quyền, trách nhiệm của cơ quan đại diện chủ sở hữu vốn
nhà nước tại các NHTM có một số tồn tại, hạn chế, đặc biệt là chưa có mô hình chuẩn
về quản lý của chủ sở hữu đối với phần vốn nhà nước tại NHTM Việt Nam, làm giảm
hiệu quả quản lý vốn nhà nước cũng như hiệu quả hoạt động của NHTM.
Do vậy, việc đổi mới mô hình và cơ chế quản lý của chủ sở hữu vốn nhà nước
đối với các ngân hàng là vấn đề quan trọng, có tính chất quyết định đến hiệu quả hoạt
động và thúc đẩy sự phát triển của các NHTM có vốn nhà nước, đồng thời, nâng cao
hiệu quả quản lý vốn nhà nước tại NHTM, tăng hiệu quả đầu tư vốn và nguồn thu
ngân sách nhà nước. Với các ý nghĩa quan trọng nêu trên, nghiên cứu sinh lựa chọn
đề tài: “Hoàn thiện mô hình quản lý của chủ sở hữu phần vốn nhà nước tại các
Ngân hàng thương mại Việt Nam” cho luận án Tiến sĩ chuyên ngành Tài chính –
Ngân hàng.

