
30
những câu đó, và thêm một mệnh đề “Đúng như đồng chí... đã nói...” hoặc
“Nghị quyết... đã khẳng định rằng...”, thì câu đó sẽ “thiêng” hơn.
Có một đặc điểm nữa của các văn kiện về đường lối và chính sách là:
Hầu hết các văn bản của Nghị quyết đều phải thể hiện sự đoàn kết trong
Đảng và thể hiện tính thống nhất về chính trị tư tưởng trên các vấn đề
lớn. Chính vì thế, hầu hết các văn bản của Nghị quyết, Chỉ thị đều có một
số đặc điểm:
1/ Trong những thời kỳ trước đổi mới, các văn bản thường nặng về
những mong muốn chủ quan, do đó mỗi trang thường có hàng chục chữ
“phải”, “cần”, “ra sức”, “đẩy mạnh”, “kiên quyết”... Còn các biện pháp
cụ thể thì thường phải có các Thông tư hướng dẫn kèm theo.
2/ Để thể hiện được sự trung thành với những nguyên tắc cơ bản về
chính trị, bao giờ cũng phải dành một phần đáng kể để trình bày những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Marx-Lenin, trích dẫn các nhà kinh điển,
các lãnh tụ..., làm cơ sở cho việc đưa ra những đường lối chủ trương mới.
3/ Những đường lối và chủ trương mới dù còn có những cách nhìn
khác nhau về chi tiết, vẫn phải được thể hiện dưới hình thức thống nhất,
đồng thuận. Để thể hiện tính thống nhất những vấn đề còn có nhiều ý
kiến khác nhau thì văn bản phải được viết một cách “cân đối”, không
thiên lệch về bên này hay bên kia.
Thí dụ:“ưu tiên phát triển công nghiệp nặng một cách hợp lý,
đồng thời ra sức phát triển công nghiệp nhẹ và nông nghiệp...”,
“chống bảo thủ trì trệ đồng thời chống chủ quan nóng vội”...
Cách hành văn như thế không tránh khỏi tính chất nước đôi, không
rõ ràng trong các văn bản. Chính vì thế, sau khi đã có Nghị quyết, thường
phải tiến hành một bước tiếp theo là học tập Nghị quyết. Những cuộc học
tập này được tiến hành trong toàn Đảng, được phổ biến từ trên xuống tới
cơ sở. Trung ương Đảng thường cử những cán bộ thuộc các ngành tuyên
huấn, có khi chính là thành viên của Ban Bí thư, thấp hơn là các trợ lý
của Tổng Bí thư, xuống các cơ sở, các trường, các ngành, các địa phương
để phổ biến Nghị quyết. Giai đoạn này chính là nơi khắc phục tính chất
nước đôi, mập mờ. Đó là những lời giải thích cụ thể ý nghĩa trực tiếp của
Nghị quyết và Chỉ thị của Trung ương.
Trên cơ sở các Nghị quyết của Đảng, Chính phủ ban hành các chính
sách cụ thể. Một số quyết sách lớn thì phải đưa ra Quốc hội thông qua
(nhưng sự thông qua này dường như chỉ có ý nghĩa hình thức). Sau khi
được Quốc hội thông qua thì các chính sách đó được đưa vào thực thi...

Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong
31
Đó là xét về mặt nguyên tắc của mối quan hệ giữa lập pháp và hành
pháp, còn trong thực tế, thì trước đây đã có không ít những chủ trương
được đưa ra bởi một vài cá nhân, có khi chỉ là Chỉ thị miệng của một cán
bộ lãnh đạo cấp cao, không thông qua một tổ chức lập pháp nào, nhưng
cũng có giá trị pháp lệnh và được thi hành trong thực tế.
Có thể nêu lên hai thí dụ tiêu biểu trong vô số trường hợp:
1/ Chủ trương cho vượt biên “bán chính thức”, nộp vàng cho Nhà
nước để đóng tàu ra đi vào năm 1979, cho đến nay, không có một văn
bản nào của phía Đảng cũng như phía Chính phủ, nhưng đã được thực thi
gần như trên toàn miền Nam trong một số năm.
2/ Chủ trương tiến hành kiểm tra hành chính, tịch thu những ngôi nhà
bất minh vào năm 1983 cũng như vậy, cho đến nay không tìm thấy một
văn bản nào của phía Đảng cũng như phía Chính phủ về chủ trương này,
nhưng trong thực tế thì một số tỉnh và thành phố đã thực hiện chủ trương
này một cách khá triệt để, trong đó có Hà Nội. Đó chính là chiến dịch
Z.30 đã gây những nỗi kinh hoàng trong cả nước thời kỳ đó (sẽ trình bày
cụ thể vấn đề này trong các mục sau).
Như vậy, trong thời kỳ này, trên con đường vận động từ tư duy đến
thực tiễn, vai trò của luật pháp có phần mờ nhạt. Đó là lý do giải thích tại
sao ở Việt Nam suốt một thời gian rất dài không có trường đại học Luật,
thậm chí không có bộ Tư pháp. Đó cũng là một trong những lý do làm
cho có những nơi, những lúc tình trạng tuỳ tiện, duy ý chí có những ảnh
hưởng khá sâu rộng trên nhiều mặt của đời sống kinh tế.
Sau khi đã hình thành các chính sách và đưa vào thực thi, thì các tổ
chức hữu quan thuộc Trung ương Đảng cùng với các cơ quan nghiên cứu,
báo chí, theo dõi tình hình, đánh giá hiệu quả của chính sách, phát hiện
những chỗ chưa hợp lý, từ đó đề xuất ra biện pháp để đẩy mạnh việc thực
hiện hoặc điều chỉnh chính sách nếu cần thiết.
Quy trình kể trên chính là quy trình đi từ tư duy kinh tế đến chính
sách kinh tế suốt từ thập kỷ 60 cho tới trước đổi mới. Những văn bản quy
định mối quan hệ này thì có rất nhiều, nhưng có thể kể đến một số văn
bản thể hiện đầy đủ nhất quy trình này.
Trước hết là bản Chỉ thị của Ban Bí thư vào năm 1978:
“Giữ nguyên tổ chức các Ban Kinh tế của Trung ương như hiện
nay:

32
- Ban Kinh tế – kế hoạch Trung ương: Theo dõi các mặt công tác
kế hoạch, thống kê, vật tư, lao động, tài chính, ngân hàng, vật giá,
nội thương và ngoại thương.
- Ban Công nghiệp Trung ương: Theo dõi cơ khí luyện kim, điện
than, hóa chất, dầu khí, địa chất, hải sản, lương thực thực phẩm,
công nghiệp nhẹ, thủ công nghiệp, xây dựng cơ bản, giao thông vận
tải và bưu điện.
- Ban Nông nghiệp Trung ương: Theo dõi nông nghiệp thủy lợi,
lâm nghiệp, công tác vận động nông dân và xây dựng nông thôn.
- Viện Nghiên cứu Quản lý Kinh tế Trung ương là cơ quan trực
thuộc Trung ương Đảng và Hội đồng Chính phủ, tương đương như
một Ban của Trung ương và một bộ của Hội đồng Chính phủ đã được
quy định theo Quyết định của Ban Bí thư số 04 ngày 10-11-1977.
Theo dõi quá trình chuẩn bị những vấn đề kinh tế sẽ đưa ra bàn
ở Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư tập hợp các chuyên gia có
kinh nghiệm, tổ chức nghiên cứu và chuẩn bị đề án.
Mọi hoạt động của các ban đều phải gắn với các hoạt động về
kinh tế chung và công tác lãnh đảo của Bộ Chính trị và Ban Bí thư
giúp Trung ương xây dựng và quyết định chương trình công tác về
kinh tế:
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư thường xuyên giao nhiệm vụ, nghe báo
cáo và giải quyết các kiến nghị của các Ban Kinh tế.
- Đại diện các Ban Kinh tế được dự những buổi họp của Trung
ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư bàn về vấn đề kinh tế có liên quan.
- Các Ban Kinh tế được cung cấp tình hình và được dự cuộc họp
của các cơ quan Nhà nước khi bàn những vấn đề kinh tế có liên quan.
Sáu tháng hoặc một năm, các Ban Kinh tế Trung ương triệu tập
các Ban Kinh tế tỉnh, thành phố họp một lần để trao đổi về tình hình,
kinh nghiệm, hướng dẫn và cải tiến công tác.
Các Ban Kinh tế tỉnh, thành phố thường xuyên hằng tháng, ba
tháng, sáu tháng và một năm phải gửi báo cáo cho các Ban Kinh tế
Trung ương có liên quan.”4
4 Chỉ thị của Ban Bí thư, số 34-CT/ TW, ngày 3 tháng 2 năm 1978, về kiện toàn các Ban
Kinh tế của Đảng, tr.49-50-55.

Bản quyền © 2008 Nhà xuất bản Tri thức & tác giả Đặng Phong
33
Đến Hội nghị Trung ương lần thứ 2, khoá 5, tháng 7-1982 thì Trung
ương Đảng đã quy định một cách cụ thể hơn nữa mối quan hệ giữa những
cơ quan nghiên cứu, tham mưu để tập hợp những thông tin và ý kiến tới
những cơ quan hoạch định chính sách. Hội nghị cũng quy định mối quan
hệ giữa các cơ quan bên Đảng và các cơ quan Nhà nước trong việc hình
thành các chính sách kinh tế. Ngoài ra, để thu hút trí tuệ của đông đảo
quần chúng nhân, của các địa phương, các nhà nghiên cứu, Hội nghị còn
đề ra những quy chế về việc tiếp xúc giữa các cán bộ lãnh đạo của Đảng
với cơ sở:
Có thể kể đến một số điều quy định rất cơ bản nêu ra trong Nghị
quyết của Hội nghị Trung ương 2 như sau:
“Điều 20: Về chế độ chuẩn bị các quyết định:
- Bộ Chính trị, Ban Bí thư sử dụng hệ thống tổ chức của Đảng,
của Nhà nước và đoàn thể để chuẩn bị đề án theo chức năng của
từng tổ chức. Phải bảo đảm về cơ bản đề án đã được thống nhất ý
kiến trước khi tiến hành hội nghị.
- Khi xét cần thiết, đề án đã được cơ quan có trách nhiệm chuẩn
bị được đưa ra một Tiểu ban gồm các Ủy viên Trung ương có liên
quan đến nội dung của đề án, hoặc am hiểu vấn đề đó, thảo luận để
xem xét và góp ý kiến chu đáo trước khi trình Bộ Chính trị hoặc Ban
Chấp hành Trung ương.
- Những đề án quan trọng về kinh tế, cần tổ chức lấy ý kiến của
các ngành, các cấp và cơ sở, các cơ quan nghiên cứu và chuyên gia
khoa học (bằng cách mở hội nghị hoặc gửi văn bản để góp ý kiến).
- Đến Hội nghị Trung ương, Bộ Chính trị trình bày những nội
dung chính của đề án.
- Hội nghị Trung ương có thể thảo luận ở hội trường hoặc kết
hợp chuẩn bị ở Tiểu ban. Đoàn Chủ tịch kết luận các vấn đề đã thảo
luận và lấy biểu quyết.
- Ban Bí thư hoặc Hội đồng Bộ trưởng mở hội nghị cán bộ để
truyền đạt hoặc chỉ gửi văn bản kèm theo kế hoạch hướng dẫn.
- Những vấn đề về chính sách, chủ trương của Trung ương, thấy
cần bổ sung, sửa đổi cho phù hợp với tình hình thực tế của ngành và
địa phương thì phải kịp thời báo cáo xin chỉ thị của Bộ Chính trị,
Ban Bí thư, Hội đồng Bộ trưởng.

34
- Ban Bí thư tổ chức kiểm tra một số địa phương, cơ sở quan
trọng, theo dõi việc thực hiện sơ kết, tổng kết để báo cáo kết quả.
Nếu thấy có những điểm thiếu sót của Nghị quyết, Chỉ thị thì đề nghị
lên Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Hội đồng Bộ trưởng ý kiến cần bổ
sung, sửa đổi.
Điều 30: Về chế độ liên hệ thực tế, tiếp xúc với quần chúng và
gặp cán bộ:
- Hàng năm, mỗi Ủy viên Trung ương dành khoảng 1/4 thời gian
xuống cấp dưới, xuống cơ sở, gặp cán bộ.
- Mỗi Ủy viên Trung ương phải có chế độ tiếp xúc với quần
chúng công nhân, nông dân, trí thức để nắm được thực chất của tình
hình, hiểu tâm tư, nguyện vọng của quần chúng. Qua liên hệ thực tế,
phản ánh cho Ban Bí thư các vấn đề thấy cần.
Điều 31: Chế độ làm việc với các cấp Ủy tỉnh, thành phố trực
thuộc.
- Ban Bí thư định chế độ làm việc để nghe báo cáo, chỉ đạo, kiểm
tra, nhận xét, công tác của các cấp ủy trực thuộc và với một số
huyện, một số cơ sở.
- Mỗi năm hai lần Bộ Chính trị, Ban Bí thư, Thường vụ Hội đồng
Bộ trưởng có chế độ vào công tác ở miền Nam để chỉ đạo các địa
phương ở miền Nam.
- Các cơ quan tham mưu của Ban Chấp hành Trung ương và của
Hội đồng Bộ trưởng, Văn phòng Trung ương và Văn phòng Hội đồng
Bộ Trưởng làm công tác thông tin tổng hợp trực tiếp phục vụ công
việc hàng ngày của Trung ương và Chính phủ.
- Kiện toàn hệ thống thống kê, các Bộ Kinh tế, Ủy ban Kế hoạch,
Ủy ban Khoa học Kỹ thuật Nhà nước và các cơ quan tài chính, ngân
hàng, vật giá, các viện nghiên cứu khoa học, các cơ quan pháp
chế.”5
Về mối quan hệ giữa cơ quan Đảng và cơ quan Chính phủ trong việc
hình thành chính sách, Hội nghị đã quy định:
“Các cơ quan nhà nước (Quốc hội, Hội đồng Nhà nước, Hội
đồng Bộ trưởng) mà trực tiếp và thường xuyên nhất là Hội đồng Bộ
5 Văn kiện Đảng toàn tập, tập 43, 1982, tr.488-497.