intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Từ quan điểm của Louis Wirth nhìn về lối sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh

Chia sẻ: Hồng Hồng | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:8

81
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bài viết này đối chiếu và chỉ ra những mức độ phù hợp giữa các quan điểm của Louis Wirth với các đặc trưng về lối sống của người dân đô thị Sài Gòn - TPHCM. Các bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội đa dạng của các thành phố đã định hình lối sống xã hội đô thị đa dạng, bao gồm cả việc lưu giữ quá khứ ở những mức độ khác nhau trong lòng thành phố.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Từ quan điểm của Louis Wirth nhìn về lối sống của người dân thành phố Hồ Chí Minh

29<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015<br /> <br /> TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH NHÌN VỀ LỐI SỐNG<br /> CỦA NGƯỜI DÂN THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH<br /> TÔN NỮ QUỲNH TRÂN<br /> <br /> Với bài tiểu luận Urbanism as a Way of Life, Louis Wirth, một thành viên trong trường<br /> phái Chicago nổi tiếng vào nửa đầu thế kỷ XX, đã nêu lên các đặc trưng về lối sống<br /> đô thị như một sự tương phản với lối sống nông thôn trên nhiều khía cạnh cơ bản từ<br /> chính các nghiên cứu thực tế tại thành phố Chicago. Bài viết này đối chiếu và chỉ ra<br /> những mức độ phù hợp giữa các quan điểm của Louis Wirth với các đặc trưng về lối<br /> sống của người dân đô thị Sài Gòn - TPHCM. Các bối cảnh kinh tế, văn hóa, xã hội<br /> đa dạng của các thành phố đã định hình lối sống xã hội đô thị đa dạng, bao gồm cả<br /> việc lưu giữ quá khứ ở những mức độ khác nhau trong lòng thành phố.<br /> 1. TỪ CÁC QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS<br /> WIRTH VỀ LỐI SỐNG ĐÔ THị<br /> Trên nền tảng các nghiên cứu về đô thị,<br /> Louis Wirth (1938, tr. 1-24) cho rằng sự<br /> chuyển đổi từ xã hội nông thôn sang xã<br /> hội đô thị diễn ra trong vòng một thế hệ ở<br /> những khu vực công nghiệp hóa, đã kéo<br /> theo những sự thay đổi lớn lao trên hầu<br /> hết các khía cạnh của cuộc sống xã hội.<br /> Từ đó, đô thị và nông thôn có thể được<br /> coi như hai cực nếu xét ở khía cạnh bố<br /> trí sự định cư của con người. Ông đưa ra<br /> quan điểm rằng tại các thành phố càng<br /> lớn, càng đông đúc và càng không đồng<br /> nhất thì lối sống đô thị càng thể hiện rõ<br /> ràng những đặc điểm của nó. Mật độ dân<br /> số cao là sự thể hiện đầy đủ nhất sự<br /> đông đúc dân cư trong giới hạn của một<br /> vùng và là tiêu chí cần thiết để tạo nên<br /> Tôn Nữ Quỳnh Trân. Phó giáo sư tiến sĩ.<br /> Trung tâm Nghiên cứu Đô thị và Phát triển.<br /> Nghiên cứu này được tài trợ bởi Quỹ Phát<br /> triển Khoa học và công nghệ Quốc gia<br /> (NAFOSTED), mã số đề tài IV1.3-2011.<br /> <br /> một đô thị, còn tính không đồng nhất<br /> cũng là một tiêu chí thể hiện tính chất<br /> riêng biệt của cuộc sống đô thị.<br /> 1.1. Tính chất của đô thị<br /> Tính không đồng nhất: Do khả năng tự<br /> tái sản xuất dân số thấp, đô thị phải thu<br /> nhận thêm người nhập cư từ các nơi<br /> khác, đặc biệt là từ thôn quê. Do đó, về<br /> mặt lịch sử, thành phố là nơi trộn lẫn các<br /> chủng tộc, dân tộc và văn hóa khác nhau,<br /> đồng thời nó là nơi ươm mầm tốt nhất<br /> cho sự lai giống văn hóa. Thành phố đã<br /> kết hợp những con người từ mọi nơi trên<br /> đất nước và cả thế giới tạo ra sự khác<br /> biệt và hỗ trợ lẫn nhau, thay vì là đồng<br /> nhất và có cùng khuynh hướng tư duy<br /> như nhau. Số lượng cá nhân tham gia<br /> trong quá trình giao lưu hội nhập càng<br /> lớn thì sự khác biệt tiềm tàng giữa họ<br /> cũng càng cao. Do đó, đặc điểm cá nhân,<br /> nghề nghiệp, cuộc sống văn hóa và tư<br /> duy của các cư dân đô thị khác nhau rất<br /> nhiều so với dân cư ở vùng nông thôn.<br /> Mối quan hệ họ hàng và tình cảm láng<br /> <br /> 30<br /> <br /> TÔN NỮ QUỲNH TRÂN – TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH…<br /> <br /> giềng xuất phát từ việc sống chung nhau<br /> qua nhiều thế hệ theo một truyền thống<br /> dân gian chung sẽ không có, và hoặc giả<br /> nếu có thì sẽ rất yếu trong một tập hợp<br /> dân cư đông đảo với các nguồn gốc và<br /> nền tảng khác nhau. Trong những điều<br /> kiện như vậy, sự cạnh tranh và luật pháp<br /> sẽ tạo ra các quan hệ mới, thay thế cho<br /> những quan hệ đoàn kết vốn được giữ<br /> gìn tồn tại qua nhiều thế hệ, sự quen biết<br /> cá nhân vốn có giữa các cư dân đồng<br /> hương cũng sẽ mất đi. Sự cạnh tranh<br /> trong đô thị rất cao, và đô thị là nơi sống<br /> và làm việc của các cá nhân vốn không<br /> có quan hệ tình cảm với nhau. Những<br /> mối quan hệ dựa trên công việc cộng với<br /> khoảng cách xã hội lớn làm nổi bật sự<br /> không gắn bó giữa cá nhân này với cá<br /> nhân khác, con người sẽ trở nên cô độc.<br /> Họ làm việc để nâng cao vị thế của mình<br /> và lợi dụng lẫn nhau. Và để đối phó với<br /> sự mất trật tự có thể xảy ra trong thế giới<br /> cạnh tranh ấy, các hình thức kiểm soát<br /> xã hội đô thị được hình thành. Đồng hồ<br /> và đèn giao thông là những hình ảnh<br /> tượng trưng cho nền tảng của trật tự đô<br /> thị.<br /> Các yếu tố về mật độ dân số, giá trị đất<br /> đai, khả năng tiếp cận, lợi ích cho sức<br /> khỏe, giá trị thẩm mỹ, chất lượng môi<br /> trường quyết định giá trị của một vùng<br /> đất trong thành phố, và cũng vì thế, có<br /> những phân khúc cư dân khác nhau.<br /> Ngoài các yếu tố thuộc về vùng đất, còn<br /> có yếu tố thuộc về con người như là nơi<br /> làm việc, bản chất công việc, thu nhập,<br /> đặc điểm sắc tộc và dân tộc, địa vị xã hội,<br /> phong tục, tập quán, ý thích, thị hiếu và<br /> định kiến là những yếu tố quan trọng để<br /> các dạng dân cư trong đô thị chọn lựa<br /> <br /> nơi ở và như thế đô thị được phân bổ<br /> thành những vùng định cư ít nhiều có sự<br /> phân biệt. Do đó, đô thị gồm những<br /> thành phần dân cư khác nhau cư ngụ<br /> trong một bức tranh nhiều mảng của xã<br /> hội, trong đó sự khác nhau từ vùng này<br /> sang vùng khác rất đột ngột.<br /> Tính di động xã hội cao: Sự tương tác<br /> giữa các cá nhân có nguồn gốc khác<br /> nhau trong xã hội đô thị đưa đến nhiều<br /> khả năng phá vỡ biên giới của các giai<br /> tầng xã hội. Con người trong đô thị có cơ<br /> hội di động xã hội cao hơn, có cơ may<br /> nhiều hơn trong việc thay đổi việc làm,<br /> thay đổi vị trí xã hội. Con một người tài<br /> xế taxi có nhiều cơ hội trở thành một<br /> người bác sĩ hơn con một người nông<br /> dân sống ở nông thôn. Tính di động xã<br /> hội cao đã làm cho việc giữ gìn sự gắn<br /> bó của một tổ chức nào đó, quan hệ gần<br /> gũi lâu dài giữa các thành viên trở nên<br /> vô cùng khó khăn. Hiện tượng các cá<br /> nhân rời khỏi các cơ quan đã từng gắn<br /> bó tạo thành một dòng chảy thay đổi, làm<br /> cho các hành vi trong đô thị khó đoán<br /> trước và khó giải quyết.<br /> Sự phân đoạn trong quan hệ giữa các cá<br /> nhân: Trong xã hội đô thị với mật độ dân<br /> cư cao, mối quan hệ toàn vẹn giữa các<br /> cá nhân không thể thực hiện được,<br /> người đô thị gặp nhau trong những vai<br /> trò mang tính phân đoạn cao. Điều này<br /> không có nghĩa là cư dân đô thị có ít<br /> quan hệ quen biết hơn cư dân nông thôn,<br /> mà có nghĩa là trong quan hệ với số<br /> người mà họ gặp gỡ, họ biết ít hơn về<br /> người đó. Các cá nhân ở đô thị biết một<br /> cá nhân nào đó dưới tư cách là con<br /> người công chức, con người kinh doanh,<br /> con người hoạt động xã hội, mấy ai biết<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015<br /> <br /> đến chính con người đó dưới góc cạnh<br /> là người cha, người mẹ trong gia đình,<br /> người láng giềng trong cộng đồng.<br /> 1.2. Con người đô thị<br /> Kết luận về lối sống đô thị, Louis Wirth<br /> cho rằng trong xã hội đô thị, mối quan hệ<br /> của nhóm sơ cấp (là những nhóm nhỏ<br /> với số lượng ít người, gặp nhau thường<br /> xuyên và có nhân tố cảm xúc cụ thể, là<br /> nhóm gia đình, bạn bè, đồng nghiệp<br /> cùng cơ quan) bị thay thế bằng mối quan<br /> hệ của nhóm thứ cấp (nhóm có số lượng<br /> người đông đảo như đảng phái, các tổ<br /> chức xã hội, trong đó tình cảm thân<br /> thuộc gắn bó ít được thể hiện), các quan<br /> hệ họ hàng bị suy yếu, giá trị gia đình bị<br /> suy thoái, tình cảm láng giềng bị xóa sổ<br /> và các nền tảng truyền thống của sự<br /> đoàn kết xã hội bị xói mòn.<br /> Trong khi thu nhập của người dân thành<br /> phố trung bình cao hơn người dân ở<br /> thôn quê, nhưng giá sinh hoạt ở thành<br /> phố cũng cao hơn. Nhà cửa đắt đỏ hơn<br /> và cũng hiếm hoi hơn. Tiền thuê nhà cao<br /> hơn và chiếm tỷ lệ lớn trong các khoản<br /> chi tiêu. Mặc dù cư dân đô thị được<br /> hưởng lợi từ những dịch vụ công cộng,<br /> người dân đô thị lại phải dành ra một<br /> khoản khá lớn cho những thứ như giải trí,<br /> còn khoản chi tiêu cho lương thực ít hơn.<br /> Những thứ nào dịch vụ công ích không<br /> mang đến được, người đô thị phải mua,<br /> và trên thực tế, không có nhu cầu nào<br /> của con người đô thị mà không được<br /> khai thác ở góc độ thương mại. Việc phục<br /> vụ cho các nhu cầu cảm giác mạnh và<br /> cung cấp các phương tiện thoát ly khỏi<br /> thực tế công việc vất vả, đơn điệu đã trở<br /> thành một trong những chức năng chính<br /> của ngành công nghiệp giải trí ở đô thị.<br /> <br /> 31<br /> <br /> Có một tính chất nữa đáng chú ý trong<br /> lối sống đô thị mà Louis Wirth đề cập đến<br /> là sự khoan dung rộng rãi nhất (broadest<br /> tolerance) của con người đô thị đối với<br /> bối cảnh sống. Tình trạng kế cận nhau<br /> của những lối sống khác biệt nhau tại<br /> các đô thị tạo ra một tính chất thông cảm,<br /> tạo nên khả năng chấp nhận cái mới, cái<br /> khác biệt một cách dễ dàng hơn.<br /> Tóm lại, dưới mắt Louis Wirth, những<br /> thay đổi to lớn về cơ cấu và thiết chế<br /> trong quá trình đô thị hóa đã mang lại<br /> những hậu quả nghiêm trọng cho người<br /> dân. Thần kinh của họ bị kích thích, tâm<br /> lý bị căng thẳng trong một đô thị quá<br /> chuyên biệt, quá nhiều thông tin. Những<br /> người ở thành phố gặp nhau trong các<br /> vai trò bị cắt rời, không phải trong quan<br /> hệ toàn bộ con người đó. Họ xem trọng<br /> cơ chế chính thức. Sự tiếp xúc với nhiều<br /> người khác nhau tạo cơ hội cho sự phát<br /> triển của nhiều mối quan hệ đưa đến tình<br /> trạng là không ai trung thành với một tổ<br /> chức nào cả. Con người thị dân lúc ấy<br /> dường như là một con người bị tha hóa<br /> và có phần bất hạnh (Trịnh Duy Luân,<br /> 2004, tr. 40).<br /> Luận điểm của Louis With đã từng là chủ<br /> đề của nhiều nghiên cứu phản hồi, tranh<br /> luận, phản biện, bổ sung. Harry Gold<br /> (1982, tr. 25-26) cho rằng Louis Wirth đã<br /> quá bi quan về đời sống đô thị, bị ám<br /> ành bởi các vấn đề tiêu cực của đô thị<br /> như tình trạng vô tổ chức của các cá<br /> nhân, sự suy sụp tinh thần, tệ nạn, tội ác,<br /> tham nhũng… Stanley Milgram trong bài<br /> viết The Urban Experience a Psychological<br /> Analysis (1996, tr. 35-46) từ góc nhìn<br /> của một nhà tâm lý học cho rằng dân số<br /> đông, mật độ dân số cao và tính chuyên<br /> <br /> 32<br /> <br /> TÔN NỮ QUỲNH TRÂN – TỪ QUAN ĐIỂM CỦA LOUIS WIRTH…<br /> <br /> biệt là những yếu tố thuộc về nhân khẩu<br /> học, là những yếu tố nằm bên ngoài của<br /> cá nhân, cần phải xem xét sự liên quan<br /> của các yếu tố ấy đến tính cách của cá<br /> nhân. Tác giả cho rằng chính sự quá tải<br /> của cá nhân, chính sự tiếp xúc quá nhiều,<br /> “đầu vào” quá lớn đã làm rối loạn “đầu<br /> ra”. Đời sống đô thị là một chuỗi những<br /> chạm trán liên tục với sự quá tải và từ đó<br /> xuất hiện tình huống mà các cá nhân<br /> phải thích nghi.<br /> 2. NHÌN VỀ LỐI SỐNG CỦA NGƯỜI ĐÔ<br /> THỊ SÀI GÒN - TPHCM<br /> 2.1. Đối chiếu<br /> Sự không đồng nhất: Dù không rập<br /> khuôn như hình ảnh đô thị mà Louis<br /> Wirth đưa ra, TPHCM hiện nay và Sài<br /> Gòn trước đây cũng là một đô thị mang<br /> tính không đồng nhất về lối sống khá cao.<br /> Đây là một đô thị đa hợp, cư dân được<br /> hình thành từ nhiều đợt nhập cư khác<br /> nhau, mang theo nhiều lối sống khác<br /> nhau, đồng thời ảnh hưởng qua lại lẫn<br /> nhau nên đã tạo ra một lối sống đô thị<br /> phức hợp. Nhờ vào môi trường thoáng<br /> mở vốn có của đô thị, người Sài Gòn<br /> luôn có nhiều mối quan hệ rộng rãi,<br /> phạm vi giao tiếp rộng, cường độ giao<br /> tiếp cao và đa chiều. Người dân Sài Gòn<br /> - TPHCM có những giao lưu dựa trên<br /> các nhóm sở thích, nhóm đồng nghiệp,<br /> nhóm làm ăn… chứ không phải theo địa<br /> bàn dân cư nơi cư trú. Đây là một lối<br /> sống có những điểm đối chọi nhau. Điểm<br /> tích cực toát ra trong môi trường giao lưu<br /> đó là con người sẽ phát huy được nhiều<br /> ưu điểm của bản thân để học hỏi và phát<br /> triển, dễ dàng gặp được nhiều cơ hội<br /> trong cuộc sống, thoải mái vô tư trong<br /> các mối quan hệ rộng rãi… Nhưng đồng<br /> <br /> thời lối sống đó làm cho quan hệ xã hội<br /> trên địa bàn cư trú sẽ trở nên lỏng lẻo,<br /> láng giềng sống theo kiểu đèn nhà ai nấy<br /> rạng, không như lối sống truyền thống<br /> “bán anh em xa, mua láng giềng gần”.<br /> Từ đó, ta có thể nhận thấy rằng lối sống<br /> ấy quả thật khác xa với truyền thống tối<br /> lửa tắt đèn có nhau của người Việt Nam.<br /> Quan điểm của Louis Wirth có vẻ khá<br /> đúng khi xem xét mối quan hệ láng giềng<br /> của cư dân đô thị Sài Gòn - TPHCM. Mối<br /> quan hệ có phần lỏng lẻo, không mặn<br /> nồng như ở nông thôn. Tuy nhiên, Sài<br /> Gòn - TPHCM vẫn có những đặc trưng<br /> riêng. Mới thoạt nhìn, cảnh quan tại các<br /> con hẻm nhỏ ở thành phố, nơi mà các<br /> ngôi nhà san sát nhau, chung tường,<br /> chung lối đi, cửa đóng im ỉm, không<br /> người qua lại, không tiếng em bé vui đùa,<br /> hiếm tiếng chó sủa… Dân cư thì người<br /> lớn đi làm việc, trẻ con được gửi đến nhà<br /> trẻ, học sinh sinh viên đi đến trường,<br /> người nội trợ đi chợ hoặc làm lụng trong<br /> nhà, khiến chúng ta nghĩ những con hẻm<br /> thật yên ắng, bị chia cắt, mỗi gia đình<br /> một cuộc sống. Nhưng không phải thế,<br /> đấy chỉ là cái nhìn từ bên ngoài. Thật sự,<br /> giữa các ngôi nhà im ắng ấy vẫn có một<br /> mối quan hệ láng giềng, không đậm đà,<br /> dễ thấy, nhưng nhẹ nhàng và khá bền<br /> vững. Họ được ràng buộc với nhau bởi<br /> nhiều cái chung, như vấn đề an ninh, vệ<br /> sinh, môi trường sinh sống của con hẻm.<br /> Sống trong đô thị, những con người này<br /> biết tự điều tiết để đừng xảy ra xô xát<br /> giữa láng giềng vì rốt cuộc không ai<br /> được hưởng lợi gì mà đi về vẫn phải<br /> chạm mặt nhau hàng ngày.<br /> Lưu Phương Thảo (2006, tr. 55) cho<br /> rằng: “Môi trường sống nơi hẻm phố<br /> <br /> 33<br /> <br /> TẠP CHÍ KHOA HỌC XÃ HỘI số 3 (199) 2015<br /> <br /> thân thiện và đoàn kết. Khái niệm ‘hàng<br /> xóm láng giềng’ tưởng như không còn có<br /> thể tìm thấy ở nơi đô thị, vốn là nơi đặc<br /> thù với lối sống đứt đoạn và vô danh…”<br /> vẫn còn tồn tại nơi đây.<br /> Chứng minh cho sự hiện diện của mối<br /> thân thiện láng giềng trong các hẻm phố,<br /> Lưu Phương Thảo đưa ra kết quả một<br /> cuộc điều tra định lượng được tiến hành<br /> vào năm 2005 đối với 500 hộ về mối<br /> quan hệ giữa các gia đình ở trong hẻm<br /> thông qua việc có mời hay không các<br /> láng giềng đến nhà dự đám tiệc, như<br /> Bảng 1.<br /> Kết quả trên cho thấy có 12,8% hộ không<br /> mời láng giềng đến dự đám tiệc do gia<br /> đình tổ chức, tương ứng với kiểu sống<br /> phân đoạn, hời hợt mà Wirth phân tích,<br /> nhưng đồng thời có đến 21,2% hộ mời<br /> hầu hết các hộ trong hẻm cùng tham dự<br /> và 56,8% mời một ít hộ thân nhất trong<br /> hẻm. Như vậy, tỷ lệ số có mời láng giềng<br /> lên đến 78%. Đây là một con số khá lớn,<br /> bên cạnh đó, theo phong tục Việt Nam,<br /> các mối quan hệ thường “có qua có lại”,<br /> người được mời bao giờ cũng sẽ mời lại<br /> người đã mời mình, tạo ra các quan hệ<br /> xã hội đan cài nhau. Qua đó, ta có thể<br /> hình dung mối quan hệ giữa các láng<br /> <br /> giềng của người đô thị ở đây không lợt<br /> lạt, phân đoạn như mô tả của Wirth, mà<br /> trái lại sự giao lưu giữa cư dân sống<br /> cùng trên địa bàn khá dày.<br /> Giá trị của mối quan hệ sơ cấp (gia đình,<br /> bạn bè) trong cư dân đô thị không bị mối<br /> quan hệ thứ cấp thay thế như Wirth mô<br /> tả. Dù quy mô gia đình có nhỏ đi, gia<br /> đình ba thế hệ có ít đi, con người đô thị<br /> của TPHCM có bị cuộc mưu sinh chi<br /> phối quá nhiều đi, nhưng truyền thống<br /> gia đình vẫn còn được duy trì và giá trị<br /> của tình bạn vẫn được ca tụng.<br /> Cuộc sống bôn ba ở đô thị, người đi làm<br /> việc, người đi học, người đi công tác,<br /> người làm ca trực, bữa ăn gia đình<br /> không còn là “một ngày ba bữa quây<br /> quần” như trước, nhưng bữa cơm gia<br /> đình vào buổi chiều hay vào ngày cuối<br /> tuần vẫn là dịp để các thành viên trong<br /> gia đình gặp gỡ, trò chuyện. Hàng năm,<br /> dân cư TPHCM vẫn tôn vinh Ngày gia<br /> đình 28/6 một cách rộn rã. Các nơi đưa<br /> ra nhiều hình thức chào mừng khác nhau,<br /> như Hội thi Nấu ăn, Hội thi Gia đình và<br /> pháp luật, Hội thi Kiến thức gia đình nuôi<br /> con khỏe, Hội thi Gia đình thời hội nhập,<br /> Vận động bữa cơm gia đình…<br /> Bên cạnh gia đình, bạn bè luôn là nơi mà<br /> <br /> Bảng 1. Thống kê dựa trên câu hỏi: Có mời các gia đình trong hẻm dự đám tiệc<br /> Một ít hộ thân Hầu hết các Chỉ mời bà<br /> nhất<br /> hộ trong hẻm con dòng họ<br /> Nghề<br /> Phân Dân tộc<br /> loại hẻm Tôn giáo<br /> Dân cư<br /> Tổng<br /> <br /> Không mời<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> n<br /> 88<br /> <br /> %<br /> 52,4<br /> <br /> n<br /> 58<br /> <br /> %<br /> 34,5<br /> <br /> n<br /> 12<br /> <br /> %<br /> 7,1<br /> <br /> n<br /> 10<br /> <br /> %<br /> 6,0<br /> <br /> n<br /> 168<br /> <br /> %<br /> 100<br /> <br /> 82<br /> <br /> 66,1<br /> <br /> 32<br /> <br /> 25,8<br /> <br /> 2<br /> <br /> 1,6<br /> <br /> 8<br /> <br /> 6,5<br /> <br /> 124<br /> <br /> 100<br /> <br /> 8<br /> <br /> 44,4<br /> <br /> 8<br /> <br /> 44,4<br /> <br /> 2<br /> <br /> 11,1<br /> <br /> 18<br /> <br /> 100<br /> <br /> 106<br /> <br /> 55,8<br /> <br /> 8<br /> <br /> 4,2<br /> <br /> 32<br /> <br /> 16,8<br /> <br /> 44<br /> <br /> 23,2<br /> <br /> 190<br /> <br /> 100<br /> <br /> 284<br /> <br /> 56,8<br /> <br /> 106<br /> <br /> 21,2<br /> <br /> 46<br /> <br /> 9,2<br /> <br /> 64<br /> <br /> 12,8<br /> <br /> 500<br /> <br /> 100<br /> <br /> Nguồn: Hẻm phố Sài Gòn - TPHCM, Tôn Nữ Quỳnh Trân (chủ biên), 2006, tr. 55.<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2