BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

ĐINH THỊ PHƢƠNG THU

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)

HÀ NỘI - 2020

ii

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI

ĐINH THỊ PHƢƠNG THU

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM

TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam

Mã số: 9.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

(Chuyên ngành Văn học Việt Nam)

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: GS.TS Lã Nhâm Thìn

HÀ NỘI – 2020

iii

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu, kết quả

nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc ai công bố trong công trình nào khác.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đinh Thị Phƣơng Thu

iv

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin đƣợc bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất đến thầy GS.TS. Lã Nhâm Thìn đã

luôn tận tình hƣớng dẫn, giúp đỡ, chỉ bảo rất nhiều để tôi hoàn thành luận án này.

Tôi cũng xin cảm ơn những nhận xét, góp ý của các nhà khoa học, của các thầy cô

trong Bộ môn Văn học trung đại Việt Nam, Khoa Ngữ văn, Phòng Sau Đại học, Ban

Giám hiệu trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội đã tạo mọi điều kiện cho tôi học tập và thực

hiện luận án.

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành nhất tới gia đình, bạn bè cũng nhƣ các thầy cô,

đồng nghiệp, Bộ môn Khoa học Xã hội, Ban Giám hiệu trƣờng THPT Chuyên Khoa

học Tự nhiên, Trƣờng Đại học Khoa học Tự nhiên, Đại học Quốc Gia Hà Nội nơi tôi

đang công tác vì đã luôn động viên và ủng hộ tôi để tôi hoàn thành công trình này.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Đinh Thị Phƣơng Thu

v

MỤC LỤC

LỜI CAM ĐOAN ......................................................................................................... iii

LỜI CẢM ƠN ............................................................................................................... iv

MỞ ĐẦU ........................................................................................................................ 1

Chƣơng 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ MỘT SỐ VẤN

ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI ................................................................................. 7

1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân ................................................. 7

1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân ..................................................................................... 7

1.1.2. Giới thuyết khái niệm tƣ tƣởng thân dân ............................................................... 9

1.1.3. Tiêu chí xác định tƣ tƣởng thân dân trong tác phẩm văn học ............................... 11

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu ........................................................................... 13

1.2.1. Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ góc độ tƣ tƣởng, triết học, lịch sử liên quan

tới đề tài ........................................................................................................................... 13

1.2.2. Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong văn học ........................................................ 15

Tiểu kết chƣơng 1 ......................................................................................................... 21

Chƣơng 2. NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG

VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII ......................................... 23

2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X

đến hết thế kỉ XVII ........................................................................................................ 23

2.1.1. Lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của dân tộc ......................................................... 23

2.1.2. Chế độ giáo dục, khoa cử ...................................................................................... 26

2.2. Tiền đề tƣ tƣởng, văn hóa của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ

X đến hết thế kỉ XVII .................................................................................................... 28

2.2.1. Tín ngƣỡng bản địa và văn hóa dân gian............................................................... 28

2.2.2. Nho giáo và tƣ tƣởng thân dân .............................................................................. 32

2.2.3. Phật giáo và tƣ tƣởng thân dân .............................................................................. 34

Tiểu kết chƣơng 2 ......................................................................................................... 37

Chƣơng 3. TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỈ X

ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV .............................................................................................. 38

3.1. Khái quát về tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam ................. 38

3.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Lí ............................................................ 42

3.2.1. Trọng dân và hƣớng tới ƣớc nguyện của ngƣời dân ............................................. 42

3.2.2. Ý thức về trách nhiệm trƣớc ngƣời dân ................................................................. 47

vi

3.3. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Trần ....................................................... 53

3.3.1. Lấy dân làm gốc và khoan thứ sức dân trong thời Thịnh Trần ............................. 54

3.3.2. Thƣơng xót ngƣời dân và xót xa trƣớc thế sự trong văn học thời Vãn Trần........ 63

Tiểu kết chƣơng 3 ......................................................................................................... 79

Chƣơng 4. TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC THẾ KỶ XV ......... 81

4.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa đầu thế kỷ XV........................................ 81

4.1.1. Thƣơng dân, đề cao vai trò sức mạnh của ngƣời dân trong văn học thời khởi

nghĩa Lam Sơn ................................................................................................................. 81

4.1.2. Ý thức về trách nhiệm của kẻ sĩ đối với ngƣời dân ............................................... 89

4.1.3. Tƣ tƣởng thƣơng dân, trọng dân và ơn dân trong sáng tác của Nguyễn Trãi ....... 92

4.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa cuối thế kỷ XV ....................................... 103

4.2.1. Tƣ tƣởng thân dân thể hiện qua tinh thần ca ngợi cuộc sống thái bình, trăm

họ yên vui ........................................................................................................................ 103

4.2.2. Tƣ tƣởng thân dân thể hiện qua tinh thần tự răn mình của đấng quân vƣơng:

Kính trời, thƣơng dân; trên dƣới đồng lòng, xã tắc bền vững ......................................... 110

Tiểu kết chƣơng 4 ......................................................................................................... 114

Chƣơng 5. TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ XVI

ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII ........................................................................................... 116

5.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVI ...................................................... 116

5.1.1. Tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác văn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm ................... 116

5.1.2. Tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác văn học của Phùng Khắc Khoan ..................... 126

5.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVII .................................................... 134

5.2.1. Tƣ tƣởng trọng dân, thƣơng dân ............................................................................ 135

5.2.2. Cách nhìn lịch sử theo quan điểm của nhân dân, phù hợp với đạo lí, chính

nghĩa ................................................................................................................................ 143

Tiểu kết chƣơng 5 ......................................................................................................... 144

KẾT LUẬN ................................................................................................................... 146

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ ĐÃ

CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN ........................................ 151

TÀI LIỆU THAM KHẢO .......................................................................................... 152

PHỤ LỤC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN ..... 165

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Về khoa học

Tƣ tƣởng thân dân là một tƣ tƣởng lớn trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam. Nhận

thức về vai trò, sức mạnh của dân đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân

tộc và định ra những đƣờng lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hƣớng thân dân

là một quá trình lâu dài trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam. Tƣ tƣởng “Thân dân”, “Lấy

dân làm gốc” cũng là một bài học chính trị và lời dặn dò quý báu của ông cha ta thể

hiện ở các triều đại trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc mấy nghìn năm của dân tộc

đồng thời không ngừng đƣợc kế thừa, phát triển và biến đổi phù hợp với thực tiễn đất

nƣớc ta. Tƣ tƣởng thân dân chiếm vị trí quan trọng, có ý nghĩa quyết định đến đƣờng lối

chính trị của mỗi triều đại, mỗi chế độ, trong qua khứ cũng nhƣ trong hiện tại.

Tƣ tƣởng thân dân đƣợc phản ánh trong văn học trở thành nội dung lớn của văn

học Việt Nam, từ văn học dân gian đến văn học hiện đại. Nền văn học Việt Nam, do

hoàn lịch sử đặc biệt, đã luôn gắn bó máu thịt với vận mệnh đất nƣớc, với số phận con

ngƣời Việt Nam. Từng bƣớc đi của lịch sử dân tộc, từng niềm vui, nỗi buồn đau của đất

nƣớc, từng giọt nƣớc mắt hay nụ cƣời trong mỗi số phận nhân dân,... đều trở thành cảm

hứng sáng tác của nhiều tác giả. Vận mệnh dân tộc và vận mệnh nhân dân là những

nhân tố đƣợc quan tâm phản ánh trong sáng tác văn chƣơng. Ở từng thời kì lịch sử,

nƣớc và dân luôn gắn bó mật thiết với nhau: có dân, dựng nƣớc, giữ nƣớc thắng lợi,

không dân nƣớc suy, nƣớc mất; dân là công dân trong quan hệ dân nƣớc, dân còn là con

ngƣời trong quan hệ dân - cộng đồng ngƣời. Tƣ tƣởng thân dân do đó là đạo lí và cũng

là thành phần của lí tƣởng thẩm mĩ dân tộc - một trong những thành phần cao đẹp có vị

trí lớn đối với văn học muôn đời.

Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam có những đặc điểm riêng so

với văn học hiện đại. Trải qua quá trình phát triển thăng trầm của các triều đại phong

kiến, các thế hệ Nho sĩ trí thức trung đại đã tiếp thu nguồn ảnh hƣởng của hệ tƣ tƣởng

Nho, Phật, Đạo đồng thời kết hợp với tinh thần dân tộc, tinh thần thời đại để đem đến

cho văn học những màu sắc phong phú của tƣ tƣởng thân dân. Tƣ tƣởng thân dân trong

văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử

tƣ tƣởng Việt Nam, văn học Việt Nam. Tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân góp phần tìm hiểu

2

sâu hơn những vấn đề về tác giả, tác phẩm, những qui luật phát triển của văn học trung

đại Việt Nam.

Với những ý nghĩa đó, luận án lựa chọn đề tài Tƣ tƣởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII. Đề tài của chúng tôi vừa kế thừa

thành quả từ những công trình đi trƣớc vừa hứa hẹn mang đến một cái nhìn hệ thống về

đặc điểm diện mạo, sự tiếp nối và mở rộng, sự tiếp nhận tinh hoa văn hóa nƣớc ngoài và

yếu tố nội sinh trong tƣ tƣởng thân dân ở các thế kỷ đầu của nền văn học viết Việt Nam.

1.2. Về thực tiễn

Văn học trung đại đƣợc giảng dạy với số lƣợng lớn ở nhà trƣờng từ phổ thông

đến đại học, đặc biệt là nhóm tác phẩm văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII liên

quan đến vấn đề tƣ tƣởng thân dân. Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng vào

thực tiễn dạy - học và tiếp cận văn bản tác phẩm văn học trung đại.

Với xã hội, ngƣời dân là vấn đề lớn của lịch sử, đồng thời là vấn đề quan trọng

đƣợc quan tâm trong đời sống của đất nƣớc, đời sống xã hội hiện nay. Đề tài từ góc độ

văn học góp phần lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhân dân vừa là chủ thể

lịch sử, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, bất cứ một giai cấp cầm quyền

nào muốn duy trì đƣợc sự ổn định của mình thì phải gắn bó với dân, phải có chính sách

dƣỡng dân, giáo dân phù hợp. Điều này đã đƣợc chứng minh qua hàng ngàn năm lịch

sử, nếu đƣợc dân tin, dân theo, thì chính quyền sẽ bền vững, quốc gia đƣợc củng cố,

hƣng thịnh.

Quan điểm tích cực của Nho gia “Đẩy thuyền là dân, lật thuyền cũng là dân” luôn

có giá trị đối với mọi thời đại. Hiện nay, quan điểm “Lấy dân làm gốc” càng đƣợc cụ thể

hóa trong đời sống xã hội thành những phƣơng châm, mục tiêu có ý nghĩa thực tiễn, tiến

bộ nhƣ “Dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra”, “dân hƣởng”. Điều đó cho thấy, việc

đánh giá đúng đắn vị trí và vai trò của dân trong lịch sử có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn

vong của mỗi hình thái xã hội trong lịch sử, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng,

phát triển đất nƣớc. Với những lý do trên, đề tài có tính cần thiết, thời sự, khoa học và

thực tiễn.

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của đề tài nghiên cứu là làm nổi bật tƣ tƣởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII với sự vận động mang tính lịch sử qua các

3

giai đoạn với những khuynh hƣớng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, luận án tập

trung phân tích, lý giải căn rễ của tƣ tƣởng thân dân, những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng

thân dân, xác định đặc trƣng cũng nhƣ khả năng tiếp nối, phát triển trong quá trình vận

động của tƣ tƣởng này qua các giai đoạn. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt

Nam gợi những bài học về tƣ tƣởng thân dân trong thời hiện đại.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt đƣợc mục đích nghiên cứu, luận án tập trung vào những nhiệm vụ nghiên

cứu chủ yếu:

- Khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân. Tiêu chí xác định tƣ tƣởng thân dân trong

tác phẩm văn học.

- Nghiên cứu những nội dung biểu hiện của tƣ tƣởng thân dân trong từng giai

đoạn văn học với các khuynh hƣớng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu.

- Đánh giá về đặc điểm của tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam giai

đoạn X - XVII, sự vận động phát triển của tƣ tƣởng thân dân trong tiến trình lịch sử.

- Nghiên cứu những phƣơng diện nghệ thuật thể hiện tƣ tƣởng thân dân khi cần

thiết.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tƣợng nghiên cứu của luận án là tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam theo giai đoạn văn học với những khuynh hƣớng, tác giả, tác phẩm

tiêu biểu của văn học trung đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Ở bốn thế kỷ đầu, chủ

yếu tập trung khảo sát các tác giả thời Lí - Trần (từ sáng tác của các thiền sƣ, vua chúa,

tƣớng lĩnh cho tới sáng tác của các nhà nho, trong đó đi sâu vào hai tác giả Trần

Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh). Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỷ XV thể hiện

qua sáng tác của các nhà văn thời kì khởi nghĩa Lam Sơn, thời Hồng Đức, trong đó tập

trung vào hai tác giả Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học

thế kỷ XVI - XVII biểu hiện ở các tác phẩm thơ, phú thời Lê trung hƣng, thời Mạc, tiêu

biểu là Nguyễn Bỉnh Khiêm; Phùng Khắc Khoan; hai tác phẩm khuyết danh Thiên Nam

minh giám, Thiên Nam ngữ lục,...

3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát

Tác giả luận án sẽ khảo sát tập trung những sáng tác của các tác giả thể hiện tƣ

tƣởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Các nguồn tƣ liệu chính mà chúng tôi

4

lấy làm căn cứ để sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: Thơ văn Lí - Trần [12,13,16];

Tổng tập văn học Việt Nam [116,134]; Nguyễn Trãi toàn tập [94]; Nguyễn Trãi toàn

tập. Tân biên [95,96,97]; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông [52]; Hồng Đức quốc âm thi tập

[42]; Tuyển tập thơ phú thời Mạc [184]; Toàn Việt thi lục [45]; Thơ văn Nguyễn Bỉnh

Khiêm (Tổng tập) [164]; Phùng Khắc Khoan, Hợp tuyển thơ văn [129]; Thiên Nam ngữ

lục - Diễn ca lịch sử [117]; Thiên Nam minh giám [47]. Ngoài văn học viết luận án còn

khảo sát thêm cả văn học dân gian.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng những phƣơng pháp nghiên cứu chủ yếu sau:

4.1. Phương pháp lịch sử

Sự phát triển của tƣ tƣởng thân dân là hiện tƣợng mang tính lịch sử. Để tìm hiểu

thấu đáo tƣ tƣởng thân dân trong văn học nhiều thế kỉ, chúng tôi vận dụng phƣơng pháp

lịch sử. Đặt văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII trong bối cảnh

chính trị, lịch sử Việt Nam thời trung đại để tìm hiểu cách nhìn, cách đánh giá của các tác

giả qua những tác phẩm tiêu biểu đề cập đến tƣ tƣởng thân dân. Phƣơng pháp lịch sử cũng

cho phép chúng tôi nghiên cứu đối tƣợng trong sự phát triển mang tính lịch sử. Vận dụng

phƣơng pháp lịch sử, luận án nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân phát triển qua các giai đoạn với

đặc điểm riêng của từng giai đoạn. Từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV là giai đoạn đầu tiên định

hình tƣ tƣởng thân dân với thành tựu chủ yếu tập trung ở văn học thời Lí - Trần. Tiếp đến,

tƣ tƣởng thân dân phát triển sang thế kỉ XV với khuynh hƣớng thể hiện mới, đầu thế kỉ tƣ

tƣởng thân dân mang âm hƣởng hào hùng với những tác giả thời khởi nghĩa Lam Sơn, tiêu

biểu là Nguyễn Trãi. Nửa sau thế kỉ XV, tƣ tƣởng thân dân gắn với âm hƣởng ngợi ca về

triều đại hƣng thịnh Lê Thánh Tông. Khi lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam có những

bƣớc chuyển mới ở thế kỉ XVI - XVII theo chiều hƣớng đi xuống, tƣ tƣởng thân dân vì thế

cũng chuyển từ cảm hứng ngợi ca sang phê phán hiện thực xã hội gắn liền với cách nhìn,

quan niệm của nhân dân.

4.2. Phương pháp nghiên cứu liên ngành

Tƣ tƣởng thân dân trong văn học có mối quan hệ tới lịch sử, xã hội, tƣ tƣởng,

văn hóa, triết học... Vì thế, để đƣa ra đƣợc những đánh giá có tính tổng hợp, chúng tôi

cần đến phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành. Những tri thức này rất có ý nghĩa khi

chúng tôi tìm hiểu và lý giải nguyên nhân dẫn đến sự tƣơng đồng, điểm khác biệt về tƣ

tƣởng thân dân trong từng giai đoạn văn học hay ở các tác giả, khuynh hƣớng văn học.

5

4.3. Phương pháp so sánh

Phƣơng pháp so sánh là phƣơng pháp quan trọng không thể thiếu khi nghiên cứu

về tƣ tƣởng thân dân. Trong luận án, ngƣời viết sử dụng phƣơng pháp so sánh để đối

chiếu lịch sử với văn học; so sánh các giai đoạn văn học; so sánh các tác gia văn học và

chủ đề, thể loại văn học. Từ đó, chỉ ra sự tiếp nối và phát triển của tƣ tƣởng thân dân

qua các giai đoạn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.

4.4. Phương pháp hệ thống

Luận án vận dụng phƣơng pháp hệ thống để xác định tƣ tƣởng thân dân: thứ

nhất, xem xét vận động của tƣ tƣởng thân dân không chỉ qua văn học mà qua các yếu tố

khác nhƣ triết học, lịch sử, văn hóa,… từ đó thấy tƣ tƣởng thân dân là vấn đề có tính

lịch sử chịu chi phối, tác động của nhiều yếu tố khác nhau; thứ hai là nghiên cứu hệ

thống hóa các tác giả, tác phẩm, thể loại - quá trình tiếp thu, tiếp nối, tƣơng tác lẫn nhau

và mở rộng tƣ tƣởng thân dân ở các bình diện. Với quan điểm hệ thống, hƣớng nghiên

cứu của luận án là khai thác nội dung tƣ tƣởng và khi cần có thể chú ý tới khía cạnh

thẩm mỹ, hình ảnh, biểu tƣợng, hệ thống, điển tích, điển cố, văn liệu liên quan đến các

cấp độ Dân - Thân dân và “Tƣ tƣởng thân dân”.

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án đƣợc hoàn thành sẽ có những đóng góp sau:

- Xác lập và phân tích những tiền đề của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế

kỉ X đến hết thế kỉ XVII

- Làm sáng rõ sự vận động mang tính lịch sử của tƣ tƣởng thân dân trong văn

học thế kỉ thứ X - hết thế kỉ XVII, sự kế thừa, tiếp nối và phát triển của tƣ tƣởng thân

dân qua các giai đoạn thế kỉ X - thế kỉ XIV; thế kỉ XV; thế kỉ XVI - thế kỉ XVII. Phân

tích nội dung tƣ tƣởng thân dân ở từng giai đoạn, ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu.

- Từ tƣ tƣởng thân dân, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề mang tính

quy luật trong sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam.

- Luận án là tài liệu tham khảo có ý nghĩa và thiết thực đối với công việc nghiên

cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam, đồng thời có thể hữu ích với những ngƣời

làm công tác xã hội quan tâm tới tƣ tƣởng thân dân.

6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận án

gồm 5 chƣơng:

6

Chƣơng 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề liên quan đến đề tài

Chƣơng 2: Những tiền đề của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế

kỉ XVII

Chƣơng 3: Tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV

Chƣơng 4: Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XV

Chƣơng 5: Tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII

7

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân

1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân

Dân là một khái niệm rất cơ bản trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị - xã hội. Chữ

dân民 trong lịch sử Hán ngữ đã có một quá trình chuyển biến lâu dài qua các thời kỳ.

Theo giáp cốt văn: chữ này phần trên là hình một con mắt, phần dƣới là một vật nhọn

nhƣ kim đâm mù mắt. Dân là ngƣời bị đâm mù một mắt, nghi là gốc từ chữ Manh盲

cũng nghĩa là ngƣời mù. Vì sao Dân lại mù một mắt ? Họ hoặc là kẻ có tội, hoặc là tù

binh chiến tranh, hoặc là nô lệ của giai cấp thống trị. Bọn thống trị chọc mù một mắt đề

phòng họ bỏ trốn. Theo Quách Mạt Nhƣợc, thời cổ, chữ Dân 民 và chữ Thần 臣đều là

con mắt nhƣng hình tƣợng Thần là con mắt đứng, còn hình tƣợng chữ Dân là con mắt

nằm ngang bị đâm thủng (vì ngƣời cổ xƣa hết sức coi trọng mắt). Mắt đứng (thần) biểu

thị sự cúi đầu nghe lệnh, thần phục; còn mắt ngang biểu thị sự chống lại mệnh lệnh, nên

phải chọc mù mắt,… Sang thời Tây Chu, chữ Dân chuyển nghĩa thành ngƣời dân bị

thống trị, có nghĩa “nhân dân”, “bách tính”. Nghĩa Dân bị mù một mắt dần mất đi.

Trong các sách từ điển tiếng Việt, cách nêu khái niệm dân của mỗi cuốn từ điển

có sự khác nhau. Theo Hán Việt tự điển của Thiều Chửu (1942) nghĩa của từ dân đƣợc

chiết tự nhƣ sau: dân có nghĩa là ngƣời, dân, loài ngƣời thuộc ở dƣới quyền chính trị

gọi là dân nhƣ: quốc dân - dân nƣớc. Trong cuốn Từ điển tiếng Việt (do Lê Văn Tân

chủ biên, Nxb Khoa học Xã hội, 1976) có nêu khái niệm dân với năm nghĩa nhƣ sau:

Từ dùng để gọi chung ngƣời trong một nƣớc: nhƣ Dân Việt Nam; Quần chúng đông đảo

gồm có: công nhân, nông dân, nhân dân lao động trong một nƣớc có bóc lột; Quần

chúng đông đảo nói chung; Công dân trong một địa phƣơng: Dân Hà Nội; Những ngƣời

thuộc một tầng lớp xã hội;

Trong Từ điển tiếng Việt (do Hoàng Phê chủ biên - 1994) nêu khái niệm dân với

ba nghĩa: Ngƣời sống trong một khu vực địa lý hành chính, trong quan hệ với khu vực

ấy (Ví dụ: Dân giàu nƣớc mạnh; Làm dân một nƣớc độc lập; Thành phố đông dân);

Ngƣời dân thuộc tầng lớp đông đảo nhất, trong quan hệ với bộ phận cầm quyền, bộ

phận lãnh đạo hoặc quân đội. Ví dụ: Ngƣời dân thƣờng; tình quân dân; Ngƣời cùng

8

nghề nghiệp, hoàn cảnh... làm thành một lớp ngƣời riêng (Ví dụ: Dân thợ, dân buôn,

dân ngụ cƣ).

Để làm rõ khái niệm dân một cách thấu đáo hơn, chúng tôi trở về với quan niệm

của Nho giáo. Trong quan niệm của các nhà nho, dân bao gồm nhiều giai tầng khác

nhau, và về cơ bản, họ có cùng địa vị kinh tế, vai trò xã hội, là bộ phận nhiều nhất trong

dân cƣ, đối lập với tầng lớp khác - tầng lớp trị dân (gồm vua, quan). Khổng Tử, Mạnh

Tử, Tuân Tử luôn khẳng định địa vị xã hội của ngƣời dân là những ngƣời nô lệ, bị trị,

họ luôn chịu sự sai khiến, cai trị của tầng lớp thống trị. "Dân khả sử do chi, bất khả sử

tri chi" (Luận ngữ, Thái Bá) - (Dân, có thể khiến họ đi theo con đƣờng của chúng ta,

chứ không thể khiến họ biết đó là vì sao) [27, tr.56] là mang ý nghĩa nhƣ vậy.

Dân có khi đƣợc gọi là kẻ “lao lực”, tức là những ngƣời lao động chân tay, lực

lƣợng sản xuất ra của cải để duy trì tồn tại của xã hội, của mỗi ngƣời và của cả tầng lớp

thống trị. Có khi là kẻ “thứ dân”, “hạ dân”, “dã dân” - những ngƣời dân lao động

thuộc tứ dân bách tính bình thƣờng trong xã hội. Tuy nhiên, cũng trong quan điểm của

Mạnh Tử, ông lại gọi ngƣời bị điều khiển, bị sai khiến, dân là “lê dân” (dân đen), “xích

tử” (con đỏ) để nói về ngƣời dân nghèo khổ. Khái niệm dân dần đƣợc mở rộng hơn để

chỉ bề tôi, tức thần dân trong thiên hạ, đối lập với nhà vua. Họ còn đƣợc gọi là “bá

tính”, “thiên hạ”, tức là tất muôn dân, trăm họ sống trong cõi trời đất này: “Chƣ hầu chi

bảo tam: Thổ địa, nhân dân, chính sự. Bảo châu ngọc giả, ƣơng tất cập thân” (Một vị

vua chƣ hầu nên quý trọng ba việc này: Thổ địa, nhân dân và chính sự. Nếu chê ba điều

ấy mà quý trọng châu ngọc, ắt thân mình phải vƣớng lấy tai ƣơng” [27,tr.270].

Từ khái niệm dân theo nghĩa gốc Hán và Nho giáo, ta thấy chữ dân và Nhân Dân

ngày nay đã đƣợc mở rộng nội hàm khái niệm, tƣơng đƣơng với chữ People trong tiếng

Anh, dùng để chỉ một tập hợp những ngƣời sống trong một nƣớc. Nó là số nhiều không

xác định của chữ Person (cá nhân). Bản Hiến pháp Mỹ mở đầu là 3 từ “We The

People…”. Dù People vẫn là khái niệm chƣa rõ ràng, song 3 chữ đặt ở vị trí đặc biệt

này cho thấy một hàm ý trang trọng, đề cao.

Ở thời kì hiện đại, dân là một khái niệm có tính chất chính trị, không phải là thực

thể. Dân bao gồm mọi tầng lớp trong xã hội, đối tƣợng chiếm số đông nhất vẫn là tầng

lớp nhân dân lao động - những ngƣời tạo ra của cải vật chất để duy trì đời sống xã hội,

họ có sức mạnh to lớn trong mọi lĩnh vực của quốc gia dân tộc. Tƣ tƣởng về dân cũng

có bƣớc tiến mới gắn liền với tƣ tƣởng dân chủ; phƣơng châm xây dựng một xã hội

9

công bằng, đất nƣớc do dân làm chủ, vì dân, lấy dân làm gốc. Tƣ tƣởng về dân gắn liền

với việc duy trì và bảo vệ Tổ quốc, gắn bó và hòa quyện với tƣ tƣởng yêu nƣớc, với thực

tiễn của công cuộc bảo vệ và xây dựng, phát triển quốc gia về mọi mặt.

Từ những điều đã trình bày ở trên, tác giả luận án xin rút ra mấy điểm chung về

khái niệm dân (ở đây là trong thời trung đại, bởi tƣ tƣởng “thân dân” mà luận án nghiên

cứu gắn với thời này) với ý nghĩa khoa học sau: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn

tại khi xã hội có giai cấp, có nhà nƣớc, dùng để chỉ những ngƣời lao động bình thƣờng,

đông đảo, không có chức quyền và tƣơng phản với những ngƣời cầm quyền ở các địa

bàn lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động

tinh thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa

chính trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh đƣợc các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội

phong kiến, tuy không còn bị xem là những công cụ lao động biết nói nhƣng dân vẫn

nằm trong điạ vị phụ thuộc mà chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Nghĩa

đen của từ này chỉ ngƣời bề tôi, phải chịu sự khuất phục, chịu sự chi phối và phụ thuộc

của nhà vua và dĩ nhiên, theo trật tự xã hội, thần dân vẫn phải xếp dƣới tầng lớp quan

lại. Điều này không phải ở phƣơng Đông mà dƣới chế độ phong kiến ở các nƣớc

phƣơng Tây, tình hình này cũng diễn ra tƣơng tự. Thần dân, tiếng Pháp là Sujets (nghĩa

đen là thuộc, là phải phục tùng), tiếng Anh là Subjet (là khuất phục, là bắt phải chịu).

Theo tiếng Nga là люди (nghĩa là chịu, bị, ngả theo). Trong xã hội hiện đại, vai trò của

ngƣời dân mới đƣợc nhận thức đầy đủ hơn. Ngƣời dân đƣợc đặt trong mối quan hệ về

mặt quyền lợi và nghĩa vụ với nhà nƣớc. Ngƣời dân có quyền bầu cử, bầu ra những

ngƣời xứng đáng vào bộ máy nhà nƣớc, có thể đại diện cho quyền lợi của mình thì khi

đó dân mới có tƣ cách là công dân.

1.1.2. Giới thuyết khái niệm tư tưởng thân dân

Xuyên suốt hệ thống tƣ tƣởng quan điểm trong các sách kinh điển của nho gia ta

thấy có một điểm chung là đề cao ý nghĩa, vai trò quan trọng của dân, dân là thần dân

nên cần đƣợc chăm lo, dạy dỗ. Điều đó tạo nên giá trị nhân văn của tƣ tƣởng thân dân.

Các nhà nho quan niệm dân là những ngƣời “lao lực”, họ là lực lƣợng to lớn trong xã

hội, lực lƣợng chủ yếu sáng tạo ra của cải vật chất cho xã hội. Bởi vậy cho nên, ngƣời

cầm quyền phải quan tâm đến đời sống vật chất, đến những nhu cầu tối thiểu, thiết

thực, trực tiếp của ngƣời dân. Khổng Tử khuyên nhà cầm quyền phải giúp cho dân làm

giàu, muốn cai trị dân nhà cầm quyền cần phải có ba điều kiện này: “Túc thực, túc bình,

10

dân tín chi hỷ” (Lƣơng thực cho đủ để nuôi dân, binh lực cho mạnh để bảo vệ dân, lòng

tin cậy của dân đối với mình) (Luận ngữ) [27,tr.184]. Trong ba điều ấy Khổng Tử xếp

lòng tin là điều quyết định, rồi đến lƣơng thực và binh lực.

Nho giáo đề cao dân trong quan niệm coi dân còn là gốc nƣớc, là nền tảng, là cơ

sở của nền chính trị: “Dĩ dân vi bản” - (Khổng Tử), “dân vi bang bản” (Mạnh Tử).

“Dân vi quý, xã tắc thứ chi, quân vi khinh” (Dân là đáng quý nhất, xã tắc sau dân, vua

xem nhẹ hơn (dân và xã tắc) [27,tr.262]. Đây là tƣ tƣởng tiến bộ, đặc biệt là đối với một

xã hội mấy ngàn năm sống dƣới sự ngự trị của các triều vua. Cũng từ quan niệm này,

các Nho gia đều cho rằng, lòng tin của dân, sự ủng hộ của dân quyết định sự thịnh, suy,

tồn vong của một triều đại hay nền chính sự. Mạnh Tử đã nêu lên một tƣ tƣởng rất tiến

bộ và đi trƣớc cả thời đại ông: “Kiệt, Trụ chi thất thiên hạ giã, thất kỳ dân giã. Thất kỳ

dân giã, thất kỳ tâm giã. Đắc thiên hạ hữu đạo: Đắc kỳ dân, tƣ đắc thiên hạ hỹ. Đắc kỳ

dân hữu đạo: Đắc kỳ tâm, tƣ đắc dân hỹ. Đắc kỳ tâm hữu đạo: Sở dục, dữ chi tụ chi: Sở

ố, vật thi nhĩ dã.” (Kiệt và Trụ mất thiên hạ tức mất ngôi thiên tử, ấy vì mất dân chúng.

Mất dân chúng, ấy vì mất lòng dân. Muốn đƣợc thiên hạ, có một phƣơng pháp nên theo:

Hễ đƣợc lòng dân, tự nhiên sẽ đƣợc dân chúng. Muốn đƣợc dân chúng, có một phƣơng

pháp nên theo: dân muốn việc gì nhà cầm quyền nên cung cấp cho họ; dân ghét việc gì

nhà cầm quyền đừng thi thố cho họ” (Mạnh Tử) [27, tr.18]. Tuân Tử lấy hình ảnh ẩn dụ

“thuyền” và “nƣớc” để nêu bật sức mạnh của nƣớc, cũng là khẳng định vai trò to lớn

của dân trong việc ổn định xã hội: “Quân giả chu dã, thứ nhân giả thủy dã; thủy tắc tái

chu, thủy tắc phúc chu” (Vua là thuyền, dân là nƣớc; nƣớc có thể chở thuyền, nƣớc có

thể lật thuyền” (Tuân Tử) [88, tr.121].

Trong lịch sử tƣ tƣởng chính trị Trung Quốc cổ đại, có hai khái niệm “thân dân”

và “tân dân”, trong đó chữ tân có khi là viết tắt của chữ thân. “Tân dân” là giác ngộ dân

chúng để dân chúng đổi mới; “Thân dân” là làm cho dân giàu có, an thuần. Vấn đề làm

cho dân giàu có và vấn đề giáo dục dạy dỗ dân chúng là hai vấn đề song song, Thƣợng

Thƣ, Kinh Thi, Quản tử, Luận ngữ, Đổng Trọng Thƣ đề cao “tiên phú hậu giáo” (trƣớc

làm cho dân giàu, sau giáo dục dân, đi từ phú đến giáo, với các khái niệm dƣỡng dân,

khang dân, dụ dân, bảo dân, thứ chi - phú chi - giáo chi); Giản Nghị nhấn mạnh trƣớc

giáo dục, sau làm cho dân giàu. Chu Hy nhấn mạnh “nội thánh” (bậc đế vƣơng phải

gƣơng mẫu đạo đức, “tu kỉ” để giáo dục dân chúng, minh minh đức), còn Vƣơng

Dƣơng Minh chú ý đến “ngoại vƣơng” (bậc đế vƣơng phải “an bách tính”). Khổng Tử

11

nêu rõ các phép tắc của ngƣời cai trị thiên hạ, trong đó ông đặc biệt nhấn mạnh lòng

nhân đức, từ ái đối với dân “Tử thứ dân, tắc bá tính khuyến” (Mình thƣơng dân chúng

nhƣ con, thì bá tính rủ nhau phục tùng theo mệnh lệnh mình). (Luận ngữ) [27, tr. 252].

Mạnh Tử tiếp nối tƣ tƣởng của Khổng Tử, ông giải thích rõ hơn chính sách giáo dân:

“Thiện chính bất nhƣ thiện giáo chi đắc dân giã. Thiện chính, dân úy chi; thiện giáo,

dân ái chi. Thiện chính, đắc dân tài; thiện giáo đắc dân tâm” (Lời nói có nhân làm cho

ngƣời ta cảm động chẳng sâu xa bằng danh tiếng có nhân. Cai trị giỏi thâu hoạch dân

chúng chẳng bằng giáo hóa hay. Cai trị giỏi khiến dân sợ sệt; giáo hóa hay làm cho dân

yêu mến. Cai trị giỏi làm cho dân đƣợc giàu có no đủ; giáo hóa hay thì đƣợc lòng dân)

[27, tr.224]. Tƣ tƣởng thân dân đó gắn với chủ nghĩa nhân đạo và có nhiều điểm tiến bộ

so với thời đại.

Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm tƣ tƣởng thân dân, luận án đề xuất nội hàm cơ bản

của khái niệm tƣ tƣởng thân dân nhƣ sau: Tƣ tƣởng thân dân đƣợc hiểu là quan niệm,

nhận thức về dân, cách ứng xử với dân theo hƣớng: gần gũi, gắn bó với dân; thƣơng

dân, đề cao sức mạnh của dân (trọng dân), ơn dân. Tính chất phức tạp, nhiều chiều

trong khái niệm tƣ tƣởng thân dân còn thể hiện ở việc xác định chủ thể của tƣ tƣởng

thân dân. Đây là tƣ tƣởng của giai cấp thống chí và của cả các sĩ phu, nho sĩ trí thức.

Tầng lớp thống trị dùng tƣ tƣởng này để quản trị đất nƣớc. Với họ, dân có khi là mục

đích, có khi là phƣơng tiện. Dân là mục đích khi ngƣời cầm quyền hƣớng tới ngƣời dân

(thấy đƣợc sức mạnh của ngƣời dân để quan tâm tới họ). Dân là phƣơng tiện khi ngƣời

cầm quyền hƣớng tới ngƣời dân nhƣng mục đích là để duy trì địa vị giai cấp thống trị

(không để dân khổ để dân không làm loạn, thấy đƣợc sức mạnh ngƣời dân, tìm cách

chăn dân, vỗ về dân, “yên dân” để giữ yên địa vị của giai cấp thống trị. Tƣ tƣởng thân

dân của các sĩ phu – trí thức phong kiến thì trong tƣ tƣởng ấy có gửi gắm những mong

ƣớc, khát vọng của quần chúng. Vì vậy, nội hàm “tƣ tƣởng thân dân” ở từng triều đại

tƣơng ứng với khái niệm “dân” ở mỗi thời, qua đó cũng thể hiện trình độ, nhận thức của

tầng lớp “quân tử” thời ấy. Qua tƣ tƣởng thân dân, có thể đánh giá đƣợc sự tiến bộ, văn

minh hay bảo thủ, lạc hậu của các triều đại.

1.1.3. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong tác phẩm văn học

Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác nhau trong

khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân, luận án xác định tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân trong

văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII với các nội dung: Tƣ tƣởng

12

thân dân thể hiện một cách trực tiếp là khi nói đến ngƣời dân, đây là nội dung chủ yếu

mà đề tài quan tâm nghiên cứu. Tƣ tƣởng thân dân thể hiện một cách gián tiếp là khi

viết về đất nƣớc, xã hội,… nhƣng qua đó gửi gắm nguyện vọng về cuộc sống của ngƣời

dân. Khi viết về ngƣời dân trong cảnh đói khổ nhƣng đồng thời bày tỏ niềm mơ ƣớc về

một đất nƣớc hòa bình, thịnh vƣợng để ngƣời dân đỡ khổ. Vì thế, có những trƣờng hợp,

tƣ tƣởng thân dân và tƣ tƣởng yêu nƣớc giao thoa với nhau. Tuy nhiên, đây lại là hai

phạm trù bởi lẽ, tƣ tƣởng thân dân nhìn từ góc độ mục đích viết về ngƣời dân cơ bản

đứng trên lập trƣờng nhân bản - nhân đạo về quyền sống con ngƣời. Còn tƣ tƣởng yêu

nƣớc về cơ bản đứng trên lập trƣờng dân tộc.

Luận án của chúng tôi đề cập đến tƣ tƣởng thân dân trong văn học tập trung qua

ba phƣơng diện:

Thứ nhất, thân dân là thƣơng dân (ái dân). Đây là nền tảng cũng là gốc rễ của tƣ

tƣởng thân dân. Xuất phát từ những tình cảm chân thành, nhân ái mà xúc động, rung

cảm, đồng cảm với những niềm vui, nỗi buồn, nỗi đau khổ trong cuộc sống của ngƣời

dân. Chỉ khi gần gũi và chia sẻ có tình cảm mới hiểu và biết yêu, thƣơng dân.

Thứ hai, thân dân là trọng dân, tức là đề cao ngƣời dân, coi trọng vai trò, vị trí

của ngƣời dân; coi dân là gốc của nƣớc. Trong đời sống xã hội, ngƣời dân luôn luôn có

một vị trí quyết định, sáng tạo ra những giá trị của cải vật chất và tinh thần. Trọng dân

thì mới phát huy đƣợc sức mạnh của dân. Do đó, trọng dân là mức độ thứ hai, tiến lên

một bƣớc khi nhận ra vai trò, ý nghĩa của dân trong kiến tạo xã hội.

Thứ ba, thân dân là ơn dân. Khi giới cầm quyền biết “ơn dân” là vị thế của dân

đã đƣợc đánh giá cao và đƣợc tôn trọng thật sự. Thái độ “biết ơn” dân là thái độ của kẻ

dƣới đối với ngƣời trên. Chỉ khi có nhận thức cao mới có suy nghĩ và tình cảm biết ơn

này và khi “biết ơn” mới có cách hành xử, đối xử tƣơng ứng. Về cơ bản nội dung này

chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi về dân là tƣ tƣởng vƣợt lên

thời đại ông và rất có ý nghĩa đối với thời hiện đại khi mà vai trò và vị trí cũng nhƣ

nhận thức về dân đã có những bƣớc tiến bộ vƣợt bậc.

Rõ ràng, tƣ tƣởng thân dân là một trong những tƣ tƣởng lớn và quan trọng của

lịch sử chính trị phƣơng Đông nói chung, ở Trung Quốc và Việt Nam nói riêng. Tƣ

tƣởng thân dân cũng có sự phát triển và nó thể hiện sự phát triển của các triều đại phong

kiến. Tƣ tƣởng thân dân dù nằm trong lằn ranh của những vấn đề chính trị, xã hội, văn

hóa mang những tính chất phức tạp, song nếu xét sự biểu hiện trong văn học thì tƣ

13

tƣởng thân dân vẫn đƣợc tiếp cận theo hƣớng thuận chiều nhiều hơn là trái chiều. Thuận

chiều thể hiện sự đóng góp của các tác giả khi nhìn nhận rõ vai trò tích cực của ngƣời

dân, phản ánh một cách sâu sắc các “tiêu chí” trên của tƣ tƣởng thân dân trong quan

điểm và các sáng tác văn học. Trái chiều lại theo hƣớng xa dời, thậm chí có quan điểm,

cách nhìn coi thƣờng vị thế của ngƣời dân, đi ngƣợc lại với các “tiêu chí” của tƣ tƣởng

thân dân.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nhìn chung có những hƣớng nghiên cứu sau liên quan tới đề tài của luận án:

1.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử liên quan

tới đề tài

Các tài liệu nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ góc độ tƣ tƣởng, triết học, lịch sử là

yếu tố tiền đề giúp chúng tôi hình dung về diễn tiến của tƣ tƣởng thân dân trong mối

quan hệ với văn học. Các nhà nghiên cứu về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam một mặt chỉ ra

rằng “thân dân” là một tƣ tƣởng lớn của thời đại, nó có liên quan chặt chẽ với lịch sử, tƣ

tƣởng, văn hóa, triết học, tôn giáo, đặc biệt là Nho giáo, Phật giáo, mặt khác, tƣ tƣởng

thân dân còn là tinh hoa trong truyền thống yêu nƣớc, nhân đạo và văn hóa Việt Nam

đƣợc kết tinh trong sáng tác của nhiều tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam. Có

thể kể tới các tài liệu tiêu biểu sau: Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam (1967 - 1970) của nhà

nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục [186]; Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn

tham chiếu của tác giả Cao Xuân Huy [68]; Tƣ tƣởng Việt Nam thời Trần (2014) của

Trần Thuận [185]; Khái lƣợc lịch sử tƣ tƣởng triết học Việt Nam (2016) của nhà nghiên

cứu Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thƣ và nhiều tác giả khác [46]; Vấn đề con ngƣời

trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam thế kỉ XV- XVIII của tác giả Nguyễn Bá Cƣờng [29],…

Ngoài những công trình nghiên cứu trên đây, liên quan đến nội dung đề tài luận

án còn có các luận văn, luận án triết học, các bài báo in trên Tạp chí đã đƣợc công bố

nhƣ Quan niệm về dân và tƣ tƣởng thân dân trong “Luận ngữ”,“Mạnh Tử” của Trần

Quang Ánh [3]; Một số nội dung cơ bản của Nho giáo Việt Nam thời Trần [208] của Vũ

Văn Vinh; Đặc trƣng thời đại Lí Trần [106] của Nguyễn Công Lý (Tạp chí Nghiên cứu

Phật học, HN, số 3 - 2000), … Đáng chú ý là trong bài Chữ dân trong di cảo văn

chƣơng của Nguyễn Trãi Phan Quý Bích nhấn mạnh tƣ tƣởng “trọng dân” ở Nguyễn

Trãi: “không phải nhà nho nào cũng đƣợc nhƣ Nguyễn Trãi - kiên trì với tƣ tƣởng trọng

“dân” đến mức, xem dân là động lực của mọi biến cố xã hội” [10,tr.4]. Nhà nghiên cứu

14

Doãn Chính trong bài Về tƣ tƣởng triết học của Nguyễn Trãi đã rất chú ý tới tƣ tƣởng

thƣơng dân của ông: “Đối với Nguyễn Trãi “yêu nƣớc là thƣơng dân, để cứu nƣớc phải

dựa vào dân, và cứu nƣớc là để cứu dân, đem lại thái bình cho dân, cho mọi ngƣời”…

Nguyễn Trãi là ngƣời đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói đến “dân đen con đỏ” một

cách tha thiết, cảm động và chân thành” [20,tr.35-36]. Tác giả Trần Thị Hƣơng với đề

tài nghiên cứu triết học Tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam đến đầu thế

kỉ XX đã đi sâu phân tích nguồn gốc và nội dung của tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ

tƣởng Việt Nam từ tƣ tƣởng lấy dân làm gốc của Trần Quốc Tuấn; tƣ tƣởng thân dân

của Nguyễn Trãi; tƣ tƣởng dân chủ của Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh đến tƣ tƣởng

thân dân, “lấy dân làm gốc” của Hồ Chí Minh [70].

Khi nghiên cứu về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, các nhà nghiên cứu cũng đã chú ý

tới sự ảnh hƣởng và tác động rất to lớn của Nho giáo, Phật giáo đối với sự hình thành tƣ

tƣởng của con ngƣời Việt Nam cũng nhƣ tƣ tƣởng thân dân. Các tài liệu có đóng góp

lớn là: Nho giáo (1930) [81] của Trần Trọng Kim; Nho giáo và văn học Việt Nam trung

cận đại (1998) [71] của Trần Đình Hƣợu; Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và

ảnh hƣởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX) (2007) [14] của tác

giả Nguyễn Thanh Bình; Việt Nam Phật giáo sử luận (1979) [86] của Nguyễn Lang

(Thích Nhất Hạnh); Ảnh hƣởng Phật giáo trong đời sống ngƣời Việt (1996) [148] của

Thích Nguyên Tạng,… Các nhà nghiên cứu Trần Trọng Kim, Trần Đình Hƣợu đã chỉ ra

sự ảnh hƣởng nhiều mặt của Nho giáo đối với văn học Việt Nam. Trong phần viết về

Nguyễn Trãi và Nho giáo, tác giả Trần Đình Hƣợu nhấn mạnh: “không chỉ bàn về hình

thức Nho trong tƣ tƣởng Nguyễn Trãi mà bàn về khâu nhà Nho Nguyễn Trãi trong lịch

sử du nhập Nho giáo, trong lịch sử phát triển tƣ tƣởng Việt Nam” [71,tr. 77]. Tác giả

cũng chỉ ra: “Suốt đời Nguyễn Trãi làm việc với tinh thần nhập thế có trách nhiệm, luôn

luôn để ý đến nhân dân, lo trƣớc điều lo của thiên hạ … Đó là tinh thần vốn có của Nho

gia” [71,tr.95]. Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) khi bàn về sự phát triển của Phật giáo

đời Lí, đời Trần nhấn mạnh đến những nhân vật nhƣ Trần Nhân Tông (vị tổ thứ nhất

của thiền phái Trúc Lâm), sở dĩ đƣợc nhân dân ủng hộ và tôn kính cũng là vì vua có tƣ

tƣởng thân dân - cố kết đƣợc lòng dân, từ đó đem đạo Phật truyền bá đến muôn dân một

cách tự nhiên: “Một ông vua đã từng đánh bại cuộc xâm lăng của nhà Nguyên, một ông

vua đã đem hòa bình và thịnh trị về cho dân, một ông vua nhƣ thế khi đi xuất gia chắc

chắn đã gây nên một tiếng vang lớn và khiến tất cả mọi ngƣời trong nƣớc hƣớng nhìn

15

về ngọn núi Yên Tử. Đạo Phật trở thành yếu tố tâm lý liên kết toàn dân lại trong mục

đích xây dựng và bảo vệ quốc gia.” [86, tr.256]. Thích Nguyên Tạng khẳng định rằng

đạo lí Phật giáo tác động tới truyền thống tƣ tƣởng của ngƣời Việt Nam: “Đạo lí ảnh

hƣởng nhất là giáo lí từ bi, tinh thần hiếu hòa, hiếu sinh của Phật giáo đã ảnh

hƣởng và thấm nhuần sâu sắc trong tâm hồn của ngƣời Việt” [148, tr35].

Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ góc độ lịch sử, chúng tôi chú ý tới cuốn Đại

Việt sử kí toàn thƣ - bộ sử kí lớn của nƣớc ta thời trung đại mang tinh thần Nho giáo

đậm nét [98]. Bức tranh lịch sử cụ thể của các triều đại phong kiến Việt Nam đã đƣợc

ghi chép tƣờng tận trong các thế kỷ X đến hết thế thế kỷ XV. Sự vô giá của bộ sử này ở

nhiều khía cạnh, nhƣng trong đó chúng tôi quan tâm tới thái độ nhìn nhận thẳng thắn,

trung thực, nghiêm khắc của ngƣời chép sử đối với những sự kiện lịch sử, những triều

đại vua, việc hay làm đƣợc cho dân và kể cả phê phán những việc dở dẫn đến sự suy

vong của triều đại ấy. Đại Việt sử kí toàn thƣ cho ta thấy cả những khía cạnh thực tế

chính trị, lịch sử là điều kiện quan trọng để hiểu nội dung tƣ tƣởng thân dân trong các

văn bản văn học trung đại. Tƣ tƣởng thân dân, lấy dân làm gốc là tƣ tƣởng lớn, trở

thành cảm hứng sâu sắc trong tác phẩm văn học nhƣng trên phƣơng diện lịch sử xã hội,

nó đối lập với chế độ chuyên chế độc đoán, kể cả tàn bạo của các triều đại phong kiến

Việt Nam.

1.2.2. Nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học

1.2.2.1. Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong sự phát triển của lịch sử văn học Việt Nam

Những đóng góp vào việc nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong sự phát triển của

lịch sử văn học Việt Nam đƣợc thể hiện trong các giáo trình văn học sử của trƣờng Đại

học Sƣ phạm và Đại học Tổng hợp (nay là Đại học KHXHNV - ĐH Quốc gia Hà Nội).

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam đều nhấn

mạnh tƣ tƣởng thân dân là một truyền thống trong văn học Việt Nam. Có thể kể đến các

tài liệu nghiên cứu của tác giả Đinh Gia Khánh trong Hợp tuyển Văn học Việt Nam từ

thế kỉ X - XVII (1962) [73]; Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII) (1978)

[76]; Văn chƣơng Nguyễn Trãi (1984) [126,tr.485] của nhà nghiên cứu Bùi Văn

Nguyên; Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa (2003) của Trần Nho Thìn

[177]. Văn học trung đại Việt Nam, Tập 1, (2011) [175] của Lã Nhâm Thìn; Văn học

trung đại Việt Nam (Thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX) (2006) [199] của Đoàn Thị Thu Vân,…

16

Tác giả Đinh Gia Khánh đánh giá về văn học đời Lí đã nhấn mạnh rằng các nhà

nho đời Lí rất chú ý đến trách nhiệm của mình đối với dân “không ngừng trau đức để

yên dân” [73,tr.65]. Các nhà vua thời Lí đã nhận thức đƣợc mối quan hệ giữa vận mệnh

của nhân dân với vận mệnh của triều đại trong các bài Chiếu dời đô của Lí Công Uẩn,

Nam quốc sơn hà (khuyết danh), Văn bia chùa Linh Xứng. Đến thời Trần, các tác giả

càng nhận thức sâu sắc hơn về vai trò, sức mạnh của nhân dân đối với cuộc kháng chiến

của dân tộc chống giặc Mông - Nguyên. Đặc biệt phải kể đến tƣ tƣởng khoan thƣ sức

dân đƣợc Trần Quốc Tuấn coi nhƣ thƣợng sách giữ nƣớc. Đến cuối đời Trần khi triều

đại có biểu hiện suy vi, các tác giả thể hiện niềm đau xót trƣớc tình cảnh khổ cực của

ngƣời dân nhƣ Chu Văn An, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh.

Văn học thế kỉ XV tiếp tục thể hiện mạnh mẽ ý thức về vai trò của dân, nói lên

hoài bão của ngƣời trí thức về dân nhƣ Nguyễn Mộng Tuân, Lí Tử Tấn. Tiêu biểu nhất

ở thời kì này là Nguyễn Trãi: “Tấm lòng ƣu quốc ái dân suốt đời cuồn cuộn nhƣ “nƣớc

triều đông” ấy của Nguyễn Trãi quả là đã thể hiện trong sự nghiệp cứu quốc cũng nhƣ

sự nghiệp văn học của ông” [73,tr.215]. Tác giả Bùi Văn Nguyên đánh giá cao tƣ tƣởng

thân dân của Nguyễn Trãi: “Cái mà Nguyễn Trãi nói: cái “khó và bền của ngƣời quân

tử”, cái “mạnh và gắng của kẻ trƣợng phu” chính là cái chất kiên cƣờng và liêm khiết

của ngƣời anh hùng biết tự hào và tự trọng, luôn luôn mang nặng lòng lo nƣớc thƣơng

dân nhƣ thủy triều ngày đêm tuôn ra bể” [126,tr.499].

Vấn đề tƣ tƣởng thân dân nhìn chung đã đƣợc các nhà nghiên cứu chú ý nhƣng

mới đặt ra ở mức độ sơ lƣợc, khái quát vì đó chƣa phải là những công trình nghiên cứu

chuyên sâu về tƣ tƣởng thân dân trong văn học. Vì vậy, cần có sự tìm hiểu rõ hơn, hệ

thống hơn về tƣ tƣởng thân dân ở những tác giả, tác phẩm văn học cụ thể.

1.2.3.1. Nghiên cứu về các tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn có đề cập đến tƣ

tƣởng thân dân

Nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII chúng tôi nhận

thấy các công trình, tài liệu nghiên cứu tập trung bàn luận đến các tác gia lớn là Trần

Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Phùng Khắc Khoan, …Nhìn chung các ý kiến đều đánh giá cao tƣ tƣởng thân dân của

các nhà nho trung đại Việt Nam.

Nguyễn Trãi là tác giả tiêu biểu nhất của văn học thế kỷ XV. Chúng tôi nhận

thấy số lƣợng công trình, bài viết nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Trãi rất phong phú

17

và đề cập đến nhiều phƣơng diện về cuộc đời, con ngƣời, tƣ tƣởng cũng nhƣ nghệ thuật

thơ văn của ông. Thành tựu lớn trong nghiên cứu về Nguyễn Trãi đƣợc đánh dấu bằng

công trình Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân tộc (1980) do Viện Văn học biên

soạn. Các tác giả đã bàn luận về nhiều vấn đề khác nhau nhƣng hƣớng chung là giải

thích thời đại lịch sử tạo nên Nguyễn Trãi và đi sâu vào hai khía cạnh: Nguyễn Trãi -

nhà tƣ tƣởng, và Nguyễn Trãi - nhà văn. Điểm gặp gỡ chung của các nhà nghiên cứu là

đều đánh giá cao về giá trị tƣ tƣởng, tình cảm vĩ đại của Nguyễn Trãi, coi ông là biểu

tƣợng của ngƣời trí thức dân tộc cũng nhƣ tinh hoa văn hóa Việt. Trong đó, nguồn gốc

và cơ sở trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi chính là tƣ tƣởng thân dân. Chúng tôi chú ý

đến ý kiến đánh giá của Vũ Khiêu, theo ông để làm nên tầm vóc vĩ đại của ngƣời anh

hùng dân tộc Nguyễn Trãi thì một lí do quan trọng là từ sức mạnh của nhân dân:

“Nguyễn Trãi đã suốt đời gắn bó với nhân dân. Ở ông, Tổ quốc và nhân dân là một.

[…] Nguyễn Trãi vĩ đại không chỉ ở tình cảm sâu sắc của ông đối với nhân dân, mà

còn ở chỗ ông nhận thức đƣợc sức mạnh to lớn của chính nhân dân” [193,tr.75]. Ý kiến

của nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi nêu rõ: “Tóm lại, trong quan niệm của nhà trí

thức Nguyễn Trãi, rõ ràng nhân nghĩa có một nội dung xác định: yêu thƣơng dân

chúng; có một mục đích tự thân sáng rõ: vì hạnh phúc của toàn dân mà phấn đấu; và

chính nó là một tiêu chuẩn hàng đầu của chủ nghĩa anh hùng” [193,tr.126]. Phần

nghiên cứu về thơ văn của Nguyễn Trãi các nhà nghiên cứu đều đánh giá Nguyễn Trãi

là một nhà văn xuất sắc cả về tƣ tƣởng và nghệ thuật trên nhiều loại hình văn học.

Chúng tôi đánh giá đây là một công trình khoa học công phu gợi mở rất nhiều vấn đề

trong quá trình thực hiện luận án.

Năm 1996, tác giả Võ Xuân Đàn khi nghiên cứu Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong

tiến trình lịch sử Việt Nam đã khẳng định: “Nội dung tƣ tƣởng thân dân là nét biểu hiện

tập trung trong toàn bộ tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi. Nó phản ánh xu thế đang trỗi dậy

của quần chúng nhân dân đầu thế kỉ XV, muốn thoát khỏi chế độ điền trang thái ấp để

trở thành nông dân tự do… tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi đã phản ánh tính chất

quần chúng đông đảo - tính chất cơ bản nhất của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn” [39,128].

Đặc biệt, tác giả Lã Nhâm Thìn trong cuốn “Văn học trung đại Việt Nam”, Nxb

Đại học Sƣ phạm Hà Nội, ở chƣơng viết về Nguyễn Trãi đã khẳng định Ức Trai là tác

giả đầu tiên nói lên chữ “ơn dân”: “Ông là ngƣời đầu tiên xem yếu tố văn hiến, yếu tố

truyền thống lịch sử là hạt nhân cơ bản để xác định dân tộc, là ngƣời đƣa chữ “dân”

18

vào phạm trù “ái quốc”… Nguyễn Trãi là một trong những tác giả văn học viết đầu

tiên nói lên hai tiếng “ơn dân”, mà lại là ơn những ngƣời lao động chân lấm tay bùn:

“Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cầy”. [175,tr.146].

Một công trình bề thế đáng chú ý nữa về Nguyễn Trãi đó là Nguyễn Trãi về tác

gia và tác phẩm (2000) do Nguyễn Hữu Sơn tuyển chọn và giới thiệu, trong cuốn sách,

ta bắt gặp khá nhiều bài viết đề cập đến lòng thƣơng dân yêu nƣớc, nỗi đau đời của

Nguyễn Trãi qua những sáng tác của ông từ Quân trung từ mệnh tập, Bình Ngô đại cáo

đến Ức Trai thi tập, Quốc âm thi tập. Đáng chú ý là các bài viết của Đinh Gia Khánh,

Phạm Thế Ngũ, Vũ Khiêu, Trần Văn Giàu, Mai Quốc Liên, Lê Trí Viễn, Trần Thị Băng

Thanh, Nguyễn Huệ Chi, Xuân Diệu, Hoài Thanh, Tầm Vũ,…. Có thể xem đó là những

cách tiếp cận liên quan đến tƣ tƣởng thân dân. Miễn Trai đi vào tìm hiểu “hai cảnh

ngộ, một tâm tình của nhà thơ Nguyễn Trãi”. [143,tr.366]. Trƣơng Chính khám phá

“những vần thơ nặng suy tƣ” [143,tr.378] trong Ức Trai thi tập và nhận thấy tấm lòng

vì dân vì nƣớc của Nguyễn Trãi hơn là “chất lửa trong lò”. Lê Trí Viễn phát hiện ra

“chất Đại Việt trong Ức Trai thi tập” [143,tr.409] và khẳng định thiên tài Nguyễn Trãi

quả phong phú, đúng là “một tâm hồn rộng mở bốn phƣơng nhƣng quy về một hƣớng

dân chủ - hƣớng yêu nƣớc thƣơng dân, hƣớng Việt Nam truyền thống. Thiết tƣởng đó là

chỗ vĩ đại của Nguyễn Trãi” [143,tr.424]. Nguyễn Huệ Chi xác định chiều sâu “niềm

thao thức lớn trong thơ Nguyễn Trãi” [143,tr.466]. Hoài Thanh cảm nhận tấm lòng vì

dân vì nƣớc là điều quý giá nhất của Nguyễn Trãi qua thơ Nôm. Đặc biệt Tầm Vu

khẳng định: “Nguyễn Trãi, ngƣời đứng đầu một văn phái yêu nƣớc, thân dân, có lí

tƣởng xã hội cao cả” [143,tr.786], và cũng chỉ ra mấy điểm sau: Trong văn chƣơng

Nguyễn Trãi ngƣời dân chiếm vị trí trọng yếu, Nguyễn Trãi chân thành thân dân và

luôn hƣớng tới xã hội lí tƣởng cao quý,… Ngoài ra, Trần Thị Băng Thanh còn tìm hiểu

thơ chữ Hán của Ức Trai trong mối quan hệ với thơ chữ Hán đời Trần. Nhà nghiên cứu

cho rằng: “Nguyễn Trãi đã tiếp thu nét ƣu tƣ, thƣơng dân, băn khoăn về trách nhiệm

của kẻ sĩ của các nhà thơ cuối Trần mà nổi bật là Trần Nguyên Đán và Nguyễn Phi

Khanh” [143, tr.425]. Từ đó xác định điểm mới trong tƣ tƣởng thân dân ở Nguyễn Trãi

so với các tác giả đời Trần nhƣ Trần Minh Tông, Nguyễn Phi Khanh là “thƣơng dân, lo

nghĩ phƣơng sách để trị dân yên”, khẳng định vai trò của ngƣời dân.

Năm 2009, trong Về tƣ tƣởng triết học của Nguyễn Trãi nhà nghiên cứu Doãn

Chính nhấn mạnh tƣ tƣởng thân dân là điểm nổi bật trong tƣ tƣởng nhân nghĩa của

19

Nguyễn Trãi. Tác giả viết: “Nguyễn Trãi nhắc đến dân rất nhiều lần trong các tác

phẩm của ông - 155 lần. Nguyễn Trãi là ngƣời đầu tiên trong lịch sử Việt Nam nói đến

“dân đen con đỏ” một cách tha thiết, cảm động và chân thành” [20,tr.36].

Trần Nho Thìn trong bài viết Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi đăng trên Tạp

chí Cửa Việt, Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị số 261, tháng 6/2016 đánh giá: “Nói

đến nhà văn hóa lớn Nguyễn Trãi, điều đầu tiên chúng ta nghĩ đến là một nhà tƣ tƣởng

thân dân vĩ đại […]. Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi về bản chất là tƣ tƣởng đƣợc

phát biểu từ góc độ ngƣời dân. Nội dung lớn của văn hóa chính trị mà Nguyễn Trãi suốt

đời theo đuổi chính là nhân nghĩa. […] Không nói thân dân, nhân nghĩa chung chung,

sách vở, Nguyễn Trãi dựa vào thực tiễn để đấu tranh ngoại giao với kẻ thù tàn bạo, xảo

quyệt” [180, tr.42].

Có thể thấy, nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi, nhìn chung các

tác giả đều đánh giá cao vị trí và tầm ảnh hƣởng lớn lao của Nguyễn Trãi trong nền văn

học dân tộc. Trên cơ sở tiếp thu nguồn tƣ liệu của những ngƣời đi trƣớc, luận án tập

trung làm sáng tỏ hơn tƣ tƣởng thân dân của đại thi hào Nguyễn Trãi kết tinh qua toàn

bộ sự nghiệp văn chính luận và thơ ca của ông.

Bên cạnh Nguyễn Trãi, nhà tƣ tƣởng - nhà văn kiệt xuất đầu thế kỷ XV, Lê

Thánh Tông cũng là một tác giả nổi bật của văn học nửa cuối thế kỷ XV. Các ý kiến của

các nhà nghiên cứu đều khẳng định Lê Thánh Tông là một tác giả có tƣ tƣởng thân dân

sâu sắc. Mai Xuân Hải (Chủ biên) trong cuốn Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông đánh giá:

“Tƣ tƣởng tiến bộ ấy đã kế thừa đƣợc từ tƣ tƣởng “thân dân”, “an dân” của những tác

giả tiến bộ lớp trƣớc nhƣ Trần Hƣng Đạo, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi,… và đã tiếp

thu đƣợc ở phần tƣ tƣởng tích cực “dân là gốc nƣớc, gốc vững thì nƣớc mới bền” (dân

vi bang bản, bản cố bang ninh) trong Kinh Thƣ” [52,tr.22].

Năm 2007, trong “Lê Thánh Tông về tác gia và tác phẩm” (Bùi Duy Tân, Lại

Văn Hùng tuyển chọn và giới thiệu), các tác giả đều đánh giá cao cuộc đời và sự nghiệp

vì nƣớc vì dân của hoàng đế Lê Thánh Tông, đồng thời đề cao tƣ tƣởng thân dân trong

thơ văn chữ Nôm và chữ Hán của ông. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân trong bài Lê

Thánh Tông - Vị hoàng đế anh minh, nhà văn hóa lỗi lạc, một văn hào dân tộc đánh giả

rất cao tƣ tƣởng thân dân của Lê Thánh Tông: Thân dân không phải là đạo đức hoặc

tình cảm riêng tƣ của vua tôi Lê Thánh Tông, mà là đƣờng lối chính trị cơ bản của các

vƣơng triều phong kiến, trƣớc khi có những thể chế dân chủ hiện đại ra đời. Rút kinh

20

nghiệm lịch sử qua các triều đại, đặc biệt là của ông cha, Lê Thánh Tông cho rằng,

muốn thuận theo ý trời, giữ vững cơ nghiệp nhà Lê thì phải quan tâm đến lợi ích của

nhân dân, phải thi hành chính sách thân dân” [155, tr. 48].

Tác giả Nguyễn Duy Quý trong bài “Lê Thánh Tông - Nhà chính trị tài năng và

nhà văn hóa lớn” nhận định rằng Lê Thánh Tông là một vị hoàng đế có chính sách “an

dân” sâu sắc [155]. Nguyễn Tài Thƣ trong bài “Tƣ tƣởng Lê Thánh Tông và triều đại

thịnh trị của ông” nhấn mạnh "Ý thức vì dân đã quán xuyến trong tƣ tƣởng của ông”.

[155, tr.257].

Nghiên cứu về tác gia Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta chú ý đến những ý kiến của Đinh

Gia Khánh trong công trình nghiên cứu Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Là một tác giả

lớn của nền văn học nƣớc ta, Nguyễn Bỉnh Khiêm giống nhƣ cây đại thụ tỏa bóng lên

cả thế kỉ thứ XVI. Tuy không có sự nghiệp kinh bang tế thế nhƣ Nguyễn Trãi, nhƣng tấm

lòng son, lo trƣớc thiên hạ của Nguyễn Bỉnh Khiêm đã không bao giờ phai nhạt và

xứng đáng với truyền thống tốt đẹp mà bậc tiền bối vĩ đại ấy đã để lại” [75,tr.67].

Năm 2000, trong công trình nghiên cứu “Nguyễn Bỉnh Khiêm về tác gia và tác

phẩm”, Trần Thị Băng Thanh - Vũ Thanh (Tuyển chọn và Giới thiệu), chúng tôi chú ý

tới các bài có đề cập đến tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm: Sức sống của thơ

ca và tƣ tƣởng Nguyễn Bỉnh Khiêm của tác giả Vũ Thanh và Trần Thị Băng Thanh [160];

Nguyễn Bỉnh Khiêm và tấm lòng tiên ƣu đến già chƣa thôi tác giả Bùi Duy Tân [160,

tr.313]; “Thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm chống chiến tranh phong kiến” của tác giả Vũ Thanh

[160, tr.379]. Đáng nói tới học giả ngƣời nƣớc ngoài là Thomas Engelbert nhân 400 năm

ngày mất của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm đã viết bài Giúp nƣớc thƣơng dân [160].

Ngoài ra, các bài viết của các tác giả khác nhƣ Nguyễn Đổng Chi, Lê Bảo, Lê Trí Viễn,

Lã Nhâm Thìn, N.I. Niculin, Đặng Thanh Lê,…dù bàn về khía cạnh khác nhau nhƣng

điểm chung là đều khẳng định Nguyễn Bỉnh Khiêm và sự nghiệp thơ văn của ông toát lên

tấm lòng ƣu quốc ái dân vằng vặc.

Một công trình nghiên cứu có giá trị nữa về Nguyễn Bỉnh Khiêm là Thơ văn

Nguyễn Bỉnh Khiêm (Tổng tập - 2014) do Trần Thị Băng Thanh và Phạm Ngọc Lan

chủ biên [164]. Trong cuốn sách này, các tác giả đều tôn vinh Nguyễn Bỉnh Khiêm là

một nhà thơ lớn của văn học Việt Nam thế kỉ XVI. Một trong những giá trị xuyên suốt

về tƣ tƣởng và tác phẩm của ông là tình cảm ƣu quốc ái dân sâu sắc. Sống trong một

hoàn cảnh lịch sử “đầy đau thƣơng và ly tán”, tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Bỉnh

21

Khiêm vừa có những điểm kế thừa vừa có những điểm khác biệt so với Nguyễn Trãi.

Trên cơ sở tiếp thu có chọn lọc những công trình đi trƣớc, luận án của chúng tôi sẽ làm

sáng tỏ những biểu hiện cụ thể của tƣ tƣởng thân dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam thế kỉ XVI, XVII đƣợc tiếp

tục đề cập tới tác giả Phùng Khắc Khoan. Hội thảo có ý nghĩa khoa học lớn tập hợp

nhiều bài viết có giá trị nhân dịp chuẩn bị kỷ niệm 400 năm ngày mất của Phùng Khắc

Khoan là Trạng Bùng - Phùng Khắc Khoan - Cuộc đời và sự nghiệp [129] do Hội Nhà

văn Việt Nam phối hợp với họ Phùng Việt Nam tổ chức. Trong cuốn sách này, chúng

tôi tìm hiểu sâu các bài viết: Trạng Bùng Khắc Khoan cuộc đời và sự nghiệp của Bùi

Duy Tân, bài tựa của Hữu Thỉnh, Ông Trạng của Trần Lê Văn, Phùng Khắc Khoan vào

đời và lo đời của Nguyễn Đổng Chi, Phùng Khắc Khoan có tâm huyết xây dựng nền

văn hiến của Bùi Văn Nguyên, Đời và thơ Phùng Khắc Khoan trong bối cảnh văn hóa

Đại Việt thế kỷ XVI - đầu thế kỷ XVII của Nguyễn Hữu Sơn, Tƣ tƣởng Phùng Khắc

Khoan của Nguyễn Tài Thƣ, ….

Ngoài ra, nghiên cứu về nội dung tƣ tƣởng thân dân thế kỷ XVI - XVII còn phải

kể tới các công trình nghiên cứu về thơ thời Mạc trong cuốn Tuyển tập thơ, phú thời

Mạc (2016) [184], NXB Khoa học Xã hội; Đặc biệt là sự xuất hiện các bài thơ vịnh sử,

thơ đi sứ, những tác phẩm diễn ca lịch sử (truyện thơ Nôm) nhƣ Thiên Nam ngữ lục

[116], Thiên Nam minh giám [47] - đó là những sáng tác có ý nghĩa gợi mở cho chúng

tôi trong việc tìm hiểu nội dung vấn đề nghiên cứu.

Nhƣ vậy, khi đề cập đến tƣ tƣởng thân dân trong văn học tám thế kỉ này, chúng

tôi nhận thấy các công trình khoa học đã chú ý đề cập đến tƣ tƣởng thân dân ở một số

tác gia tiêu biểu, trong đó đậm nét nhất là tác gia Nguyễn Trãi - một đại diện sáng chói

của văn học thế kỉ XV. Tuy vậy, chƣa có công trình nào nghiên cứu vấn đề này ở tầm

bao quát, đầy đủ về tƣ tƣởng thân dân trong suốt hành trình phát triển của văn học trung

đại. Luận án xác định đi sâu nghiên cứu một cách toàn diện, hệ thống tƣ tƣởng thân dân,

từ đó nhìn nhận lại những biểu hiện của tƣ tƣởng thân dân trong sự vận động mang tính

lịch sử với văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII.

Tiểu kết chƣơng 1

Về tổng quan tình hình nghiên cứu, chúng tôi đã cố gắng làm rõ nội hàm của

khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân từ đó thiết lập các tiêu chí cơ bản của tƣ tƣởng thân

22

dân trong văn học. Để mô tả tình hình nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung

đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII chúng tôi triển khai theo ba hƣớng chủ yếu:

nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam; nghiên cứu về tƣ tƣởng

thân dân trong sự phát triển của lịch sử văn học Việt Nam; nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân

ở các tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam. Nhìn

chung các công trình, tài liệu nghiên cứu đều gặp nhau ở mấy điểm: thứ nhất, trong văn

học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII luôn tồn tại tƣ tƣởng thân dân và

đã đề cập tới vai trò, vị trí của ngƣời dân; thứ hai, tƣ tƣởng thân dân liên tục có sự vận

động, phát triển không ngừng trong từng giai đoạn văn học, ở mỗi tác gia văn học lại có

những sự thể hiện riêng biệt trong sáng tác của mình theo quy luật vận động, phát triển

của đời sống xã hội, lịch sử, văn học và vai trò, vị trí của ngƣời dân.

Những công trình khảo sát lớn, vừa hay nhỏ đều có ý nghĩa to lớn đối với ngƣời

nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài. Vấn đề mà chúng tôi luôn quan tâm đặt ra

là: trong suốt các thế kỷ tồn tại, phát triển của văn học trung đại Việt Nam, tƣ tƣởng

thân dân đã phát triển nhƣ thế nào? Mỗi tác giả đã thể hiện tƣ tƣởng đó ở mức độ nào

trong các sáng tác của mình? Và thực tế giữa tƣ tƣởng, thời đại mà tác giả sống, sự vận

dụng tƣ tƣởng thân dân vào thực tiễn có nhƣ mong ƣớc và lí tƣởng của tác giả?,... Rất

nhiều những câu hỏi dẫn dắt chúng tôi đi sâu vào tìm hiểu đề tài luận án này.

23

Chƣơng 2

NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC

TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII

Sự ra đời và phát triển của văn học bao giờ cũng gắn liền với những điều kiện

lịch sử - xã hội. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam cũng chịu sự tác

động mạnh mẽ của những hiện tƣợng lịch sử - xã hội, tƣ tƣởng, văn hóa, văn học. Ở

chƣơng này, luận án sẽ đi sâu tìm hiểu cơ sở hình thành tƣ tƣởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII.

2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết

thế kỉ XVII

2.1.1. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc

Quá trình dựng nƣớc và giữ nƣớc của cha ông ta luôn đề cao tƣ tƣởng thân dân,

coi khoan thƣ sức dân là một quốc sách và thƣợng sách giữ nƣớc. Theo sử cũ và truyền

thuyết, vua Tổ Hùng Vƣơng thứ nhất dựng nƣớc và các vua Hùng nối đời kế nghiệp đã

sớm biết chăm dân, dƣỡng dân, dạy dân, kéo dài sự hƣng thịnh của triều đại mình. Ngay

khi lập quốc ở Phong Châu (Phú Thọ), các vua Hùng đã biết “đặt chƣ hầu để làm phên

giậu, chia nƣớc làm 15 bộ, ngoài 15 bộ ấy đều có trƣởng và tá, các con thứ cứ theo thứ

tự chia nhau” [98,tr.48] để chăm lo đời sống của dân. Chính vì biết lƣu tâm dƣỡng sức

dân, Nhà nƣớc Văn Lang thời đại Hùng Vƣơng là một Nhà nƣớc sớm có các thiết chế,

tổ chức xã hội hoàn thiện, đất nƣớc có quy củ, ngƣời dân yên hƣởng thái bình. Vì thế

mà kẻ thù ngoại bang không thể làm gì đƣợc trong suốt một thời gian dài. Việc chăm

dân, giữ dân để dân hết lòng tín phục là một trong những thành công đặc biệt của thời

đại Hùng Vƣơng. Chính vì thế, nhân dân các dân tộc Việt Nam vẫn đời đời nhớ về công

đức của tổ tiên. Hàng năm, đến ngày 10 tháng 3 âm lịch, toàn dân hƣớng về ngày Quốc

lễ - Giỗ Tổ - cúng tế hết sức trọng thể: “Dù ai đi ngƣợc về xuôi/ Nhớ ngày Giỗ Tổ mùng

mƣời tháng ba”.

Tiếp đến thời Thục An Dƣơng Vƣơng mà tiêu biểu là việc Thục Phán lập nƣớc

Âu Lạc đã mạnh dạn dời kinh đô về đồng bằng, chọn đất Kẻ Chủ thuộc bộ Vũ ninh để

định đô (nay thuộc Cổ Loa - Đông Anh, Hà Nội) đây cũng là kinh đô dầu tiên của ngƣời

Việt tại đồng bằng, kề sát trung tâm Hà Nội ngày nay. Việc định đô ở Cổ Loa cũng là

dựa vào tâm nguyện và ý chí của nhân dân. Chính vì biết dƣỡng sức dân, mở đất, chăm

dân nên việc định đô ở địa hình bằng phẳng rộng lớn, dựa vào các địa thế sông hồ cũng

24

là biểu hiện trí tuệ của nhân dân là vô hạn mà những ngƣời đứng đầu Nhà nƣớc Âu Lạc

đã biết cách sử dụng. Thành Cổ Loa trải hơn hai nghìn năm lịch sử hiện vẫn đang là

một di chỉ văn hóa lịch sử quan trọng, chứng minh bàn tay lao động tài tình của nhân

dân Nhà nƣớc Âu Lạc.

Thời Trƣng Nữ Vƣơng kéo không dài đã đƣợc các nhà nghiên cứu lịch sử phân

tích khá thấu đáo nhƣng theo chúng tôi, sở dĩ việc lập nƣớc và giữ nƣớc không đƣợc lâu

bền phần lớn là do kẻ thù quá tàn bạo đã gần nhƣ giết sạch ngƣời dân mà chúng bắt

đƣợc, hoặc những ngƣời đứng đầu các bộ lạc bấy giờ chƣa cố kết đƣợc các tầng lớp

nhân dân để giành lại nƣớc.

Năm 938, lịch sử dân tộc sang trang mới, Ngô Quyền chính thức đặt nền móng

cho kỷ nguyên độc lập dân tộc. Nhƣng lịch sử đã đặt nƣớc Đại Việt độc lập trong tình

thế luôn luôn phải đối phó với chiến tranh xâm lƣợc từ phía Bắc và phía Nam. Các triều

đại phong kiến phƣơng Bắc từ Tống, Nguyên đến Minh không thời nào không nhòm

ngó, đe dọa và đã thực hiện nhiều cuộc xâm lƣợc tàn bạo Đại Việt. Từ phía Nam, quân

Chiêm Thành cũng nhiều lần tấn công vào tận Thăng Long, đốt phá, cƣớp giết. Sức ép

đến từ hai phía nhiều khi tƣởng nhƣ đe dọa sự tồn tại của nƣớc Đại Việt độc lập. Bên

cạnh đó, phải nói đến tình hình đối nội không kém phần phức tạp: loạn mƣời hai sứ

quân thời Đinh Bộ Lĩnh, các cuộc nổi dậy khá thƣờng xuyên của các thủ lĩnh vùng

Hoan Châu, Ái Châu chống lại chính quyền trung ƣơng Thăng Long mà Đại Việt sử kí

toàn thƣ chép khá tƣờng tận trong khoảng các thế kỷ X - XV. Tình thế đối nội, đối

ngoại đó đặt ra trƣớc không chỉ các ông vua sáng nghiệp, những ngƣời kế tục mà cả các

quan lại, trí thức vấn đề về đƣờng lối cai trị, tổ chức xã hội, về hình mẫu con ngƣời lý

tƣởng để trƣớc hết là vua chúa, quan lại, nho sĩ, tƣớng lĩnh noi theo, xứng đáng với vị

trí hƣớng đạo xã hội, nhằm xây dựng một quốc gia hùng mạnh, thống nhất, độc lập.

Chính hoàn cảnh lịch sử của nƣớc Đại Việt ở các thế kỉ này đã chi phối đời sống tƣ

tƣởng của xã hội cũng nhƣ cảm hứng chính trị văn hóa, văn học nói chung. Những cuộc

kháng chiến chống xâm lƣợc, công cuộc xây dựng đất nƣớc và những chủ trƣơng,

đƣờng lối, quan niệm về tổ chức, quản lí, lãnh đạo xã hội ở mỗi triều đại phong kiến

luôn luôn đặt ra một cách tất yếu và cấp bách.

Lịch sử tƣ tƣởng chính trị cổ trung đại lựa chọn đức trị làm nền tảng của văn hóa

chính trị. Các trí thức Đại Việt cũng lựa chọn đƣờng lối đức trị cho văn hóa chính trị

của nƣớc ta. Đức trị là nền chính trị đề cao việc tu dƣỡng đạo đức của mỗi cá thể, từ đó

25

mở rộng ra trị quốc, bình thiên hạ. Thực tế, khi luận về đức trị, phần lớn các nhà tƣ

tƣởng cổ đại tập trung về đức của ngƣời nắm quyền lực cao nhất: đế vƣơng, vua chúa.

Trong lịch sử Đại Việt, các triều đại phong kiến Việt Nam đƣợc ghi nhận là có tinh thần

độc lập dân tộc cao, kiên quyết đấu tranh chống lại sự bành trƣớng của các thế lực

phong kiến phƣơng Bắc. Tuyệt đại đa số những vị vua sáng nghiệp đƣợc ca ngợi là

những ngƣời yêu nƣớc, có tài năng và đức độ, có tinh thần thân dân, lấy việc “ái dân trị

quốc” làm đầu. Ngô Quyền, Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, Lí Công Uẩn, Trần Thái

Tông, Trần Thánh Tông, Trần Nhân Tông, Lê Thái Tổ, Lê Thái Tông, Lê Thánh

Tông,… đã lãnh đạo đất nƣớc lập nên những chiến công trong cuộc kháng chiến chống

ngoại xâm, bảo vệ nền độc lập dân tộc. Để đánh thắng giặc xâm lƣợc hùng mạnh

phƣơng Bắc, những ngƣời lãnh đạo cuộc kháng chiến đã biết dựa vào lực lƣợng của

toàn dân, toàn dân tộc cùng đánh giặc. Đất nƣớc có những đấng minh quân sáng suốt,

thƣơng dân, quân đội có nguồn gốc từ nhân dân, chiến đấu vì dân tộc, cho nên đi đâu

cũng đƣợc nhân dân ủng hộ. Lê Đại Hành, Lí Thƣờng Kiệt đánh tan quân Tống. Nhà

Trần tạo nên những kì tích trong công cuộc đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền của dân

tộc. Vua tôi nhà Trần đồng tâm nhất trí đã ba lần đánh tan quân xâm lƣợc Mông -

Nguyên. Nhờ các bậc minh quân đến tƣớng lĩnh đời Trần đều có tƣ tƣởng thân dân sâu

sắc, đề cao vai trò của ngƣời dân trong cuộc đấu tranh chống xâm lƣợc nên Đại Việt đã

giành đƣợc thắng lợi oanh liệt, hào hùng. Những sự kiện lịch sử nhƣ Bình Than bàn

việc đánh giữ những nơi hiểm yếu năm 1282 và Hội nghị Diên Hồng cùng bàn kế sách

đánh giặc năm 1284 đã chứng tỏ các vị vua rất coi trọng ngƣời dân, lắng nghe ý kiến

muôn dân. Đó là biểu hiện của tƣ tƣởng thân dân, coi dân là gốc, là nền tảng của đất

nƣớc. Hƣng Đạo Đại Vƣơng Trần Quốc Tuấn từng nói: “Chim hồng hộc bay cao đƣợc

là nhờ ở sáu cái trụ lông cánh, nếu không có sáu cái trụ lông cánh ấy thì cũng chỉ nhƣ

chim thƣờng thôi” [97, tr.304]. Với cách nói hình ảnh, Trần Quốc Tuấn đã chỉ ra mối

quan hệ khăng khít giữa giữa chủ tƣớng với quân sĩ, giữa nhân kiệt và nhân dân. Đó

chính là sức mạnh của chiến tranh giữ nƣớc.

Trong công cuộc xây dựng chính quyền ở giai đoạn chế độ phong kiến đang lên,

về cơ bản giai cấp phong kiến vẫn là lực lƣợng tiến bộ, giữ vai trò tích cực đối với lịch

sử, biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy truyền thống yêu nƣớc để xây dựng

và bảo vệ quốc gia, dân tộc. Các triều đại phong kiến đã thực hiện chính sách “khoan

dân, “thân dân”, quan tâm tới ý dân, lòng dân, đề cao vai trò, sức mạnh của ngƣời dân.

26

Tinh thần thân dân đƣợc thể hiện đậm nét trên nhiều phƣơng diện của đời sống xã hội.

Ý dân, lòng dân là căn cứ cũng là mục đích cho những chủ trƣơng, kế hoạch lớn nhƣ

việc thay đổi vƣơng triều, việc dời đô, kế vị, việc bàn kế sách đánh giặc hay phát động

chiến tranh của các triều đại. Bảy thế kỉ từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII là chặng đƣờng chế

độ phong kiến xây dựng, phát triển theo tiến trình từng bƣớc đi tới thịnh vƣợng. Ngƣời

khởi dựng triều Lí là Lí Công Uẩn (974 - 1028). Vì có chí lớn khác thƣờng lại rất nhân

ái nên ông đƣợc các quan trong triều và dân chúng đồng lòng tôn lên ngôi hoàng đế. Dù

ở đỉnh cao quyền lực, vua Lí Thái Tổ vẫn luôn quan tâm đến lợi ích lâu dài của đất

nƣớc và nhân dân. Điều đó đƣợc thể hiện trƣớc tiên ở quyết định dời đô từ Hoa Lƣ ra

thành Đại La. Việc dời đô không chỉ nói lên khát vọng phát triển đất nƣớc hùng mạnh,

bản lĩnh, trí tuệ, tầm nhìn xa trông rộng mà còn khẳng định tấm lòng thƣơng dân của

nhà vua.

Các trí thức chân chính thời phong kiến (nhƣ thiền sƣ, nho gia) là những ngƣời

yêu nƣớc, thân dân. Từ sử sách đọc đƣợc, từ thực tiễn cuộc sống phong phú đã trải

nghiệm, họ nhận thức đƣợc vai trò lịch sử to lớn của dân, họ hiểu đƣợc những đau khổ,

mất mát của ngƣời dân dƣới ách chuyên chế độc đoán của chế độ phong kiến, họ cũng

biết các mặt trái của chế độ quân chủ chuyên chế này. Nhƣng trong hoàn cảnh văn hóa

chính trị nói trên, họ phải tìm cách khéo léo diễn đạt, biểu hiện đƣợc tƣ tƣởng thân dân,

để ngăn chặn, kìm hãm bớt sự chuyên quyền độc đoán của đấng quân vƣơng, làm sao

để có lợi cho dân mà mình cũng đƣợc đảm bảo sự an toàn cho bản thân. Chúng ta chứng

kiến nhiều trƣờng hợp nho sĩ trí thức đã can gián vua chúa nhƣng không đƣợc chấp

nhận, có khi còn bị tai vạ vì lời can gián thẳng thắn của mình.

Nhƣ vậy, tìm hiểu lịch sử - xã hội thời trung đại chính là một nền tảng quan

trọng để tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân trong văn học. Bởi lẽ, qua bức tranh lịch sử, xã hội

của thời đại ta thấy đƣợc các khía cạnh đa dạng trong đời sống của nhân dân. Cảm

hứng, tƣ tƣởng trong văn học cũng không nằm ngoài quy luật đó.

2.1.2. Chế độ giáo dục, khoa cử

Thế kỷ X - XIV là giai đoạn đầu xây dựng Nhà nƣớc phong kiến Việt Nam. Các

vị vua của cả triều Lý và triều Trần đều chú trọng đến giáo dục và tổ chức các cuộc thi

để tuyển chọn ngƣời tài giúp dân, giúp nƣớc. Tuy nhiên, giáo dục và khoa cử thời Trần

phát triển hơn nhiều so với thời Lí. Đầu thời Trần, Phật giáo rất thịnh hành. Sau đó,

Nho giáo ngày càng đƣợc đề cao. Triều đình quy định rõ ràng cần học theo các cuốn

27

sách Ngũ kinh, Tứ thƣ, Bắc sử. Triều đình đã mở rộng Quốc tử giám để đào tạo con em

quý tộc, quan lại. Tại các lộ, phủ, kinh thành đều có các trƣờng công. Hơn nữa, việc học

còn đƣợc mở rộng đến ngƣời dân, con em thứ dân nếu có tài năng cũng đƣợc theo học,

đỗ đạt sẽ đƣợc bổ nhiệm làm quan. Các kì thi đƣợc tổ chức đều đặn để tuyển chọn nhân

tài giúp nƣớc, giúp dân. Năm 1232, khoa thi đầu tiên của triều đình đƣợc tổ chức. Kể từ

đó, cứ bảy năm, nhà nƣớc lại mở một khoa thi tiến sĩ. Những ngƣời đỗ đạt cao trong các

kì thi này đƣợc triều đình bổ nhiệm giữ các chức quan ở viện Hàn lâm, cơ quan hành

khiển. Họ là những nhân tố quan trọng đảm nhận việc đi sứ phƣơng Bắc. Có thể kể đến

những tên tuổi rất nổi tiếng nhƣ Nguyễn Hiền, Mạc Đĩnh Chi, Nguyễn Trung Ngạn, Lê

Quát, Chu Văn An, Phạm Sƣ Mạnh…

Sang thế kỷ XV, Nho giáo thịnh trị thì triều đình nhà Lê càng chú trọng đến giáo

dục, thi cử, khuyến khích nhân tài ra giúp nƣớc. Ngay năm 1427, giặc chƣa tan, Lê Lợi

đã mở kỳ thi ở doanh Bổ Đề. Đất nƣớc giải phóng, hòa bình lập lại, nhà nƣớc lập Quốc

tử giám ở kinh đô, mở các trƣờng học ở phủ, lộ. Thành phần học trong Quốc tử giám

đƣợc mở rộng. Điều này cho thấy việc sử dụng nhân tài không câu nệ vào đẳng cấp và

hƣớng đến cả ngƣời dân. Lê Thánh Tông ngoài việc mở rộng Quốc tử giám (nhà Thái

học), năm 1467 còn đặt chức bác sĩ dạy Ngũ kinh, in sách Ngũ kinh làm tài liệu học tập.

Việc thi cử dần dần theo nền nếp nhất định. Triều đình đặt nhiều hình thức khuyến

khích việc học: từ năm 1439 có lệ xƣớng danh, treo bảng, ban mũ áo, cấp ngựa, ăn yến,

vinh quy bái tổ; từ năm 1442 có lệ khắc bia tiến sĩ,… Giáo dục phát triển có ảnh hƣởng

tích cực tới văn hóa, văn học. Những trí thức lớn đồng thời là những tác giả văn học

tiêu biểu của thời kỳ này là Nguyễn Trãi, Lí Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn

Thiên Tích, Chu Tam Tỉnh, Phan Phu Tiên, Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn.

Thế kỷ XVI - XVII, tuy chế độ phong kiến trên đà suy thoái nhƣng việc học,

việc thi vẫn đƣợc các tập đoàn phong kiến coi trọng. Nhà Mạc ngay sau khi xây dựng

triều chính, nhanh chóng tổ chức thi cử để chọn nhân tài. Từ năm 1527 đến năm 1592,

nhà Mạc đã mở 22 khoa thi Hội, lấy đỗ 468 Tiến sĩ và 11 Trạng nguyên. Nho giáo vẫn

đƣợc đề cao, tầng lớp nho sĩ, những ngƣời vốn đắc lực cho Nhà nƣớc phong kiến vẫn

đƣợc trọng dụng. Nhƣng do sự biến động của thời cuộc, sự tranh giành quyền lực giữa

các tập đoàn phong kiến dẫn dến tầng lớp nho sĩ bị phân hóa, xuất hiện tầng lớp nho sĩ

không tham gia triều chính mà về làng quê ẩn thân. Nếu thời Lê sơ có Hội tao đàn với

nhị thập bát tú, những văn nhân tinh tú đƣơng thời, thì trong giai đoạn triều Mạc cũng

28

nổi lêm một số văn nhân danh tiếng nhƣ Nguyễn Giản Thanh (1498 - ?), Bùi Vịnh

(1498 - 1545), Nguyễn Hàng (1488 - ?), Hoàng Sĩ Khải (? - ?),… Tiêu biểu hơn cả là

Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585), một nhà văn hóa, một nhà thơ lớn, không chỉ của

văn học thời Mạc mà là của văn học trung đại Việt Nam. Họ sống gần dân, hiểu dân và

thƣơng yêu nhân dân. Những hiện tƣợng nổi bật của xu hƣớng này là Nguyễn Bỉnh

Khiêm, Phùng Khắc Khoan,…

2.2. Tiền đề tƣ tƣởng, văn hóa của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến

hết thế kỉ XVII

2.2.1. Tín ngưỡng bản địa và văn hóa dân gian

Việt Nam là một quốc gia nông nghiệp lúa nƣớc và có nền văn hóa bản địa

phong phú, đa dạng mà phần lớn đƣợc hình thành từ trong đời sống, sinh hoạt của nhân

dân lao động, cho nên không thể không quan tâm đến văn hóa dân gian nói chung cũng

nhƣ tín ngƣỡng dân gian nói riêng vốn là tài sản của họ đƣợc lƣu truyền và gìn giữ từ

nhiều thế hệ, bên cạnh hình thái văn hóa do nhà nƣớc xây dựng các thiết chế, ban hành

cơ chế quản lý và lƣu hành. Vì vậy, tín ngƣỡng dân gian là hình thức tín ngƣỡng quan

trọng, phổ biến trong đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân ta bao đời nay, và thậm

chí nó thƣờng xuyên đƣợc các nhà nƣớc phong kiến Việt Nam coi trọng, công

nhận. Nền văn hóa cổ truyền dân tộc và tín ngƣỡng dân gian chính là nguồn sức mạnh

to lớn, là cơ sở để ngƣời Việt cổ chống lại sự “Hán hóa” suốt một ngàn năm Bắc thuộc

của phong kiến Trung Hoa. Những hình thức tín ngƣỡng sinh hoạt tâm linh mang màu

sắc bản địa, luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của đại bộ phận

cƣ dân Việt. Với đa số ngƣời Việt, gia đình dòng họ là quan trọng nhất, nên tín ngƣỡng

thờ kính tổ tiên có thể coi nhƣ là "quốc đạo". Nói chung những thao tác cầu cúng, với

các nghi thức trang trọng phong phú, đa dạng luôn hiện diện thƣờng xuyên ở mọi thành

phần dân tộc khác nhau trên đất nƣớc. Tục thờ thần, thờ thánh thể hiện tính chất tín

ngƣỡng đa thần đã có từ xa xƣa. Trong lịch sử, ông cha ta đã bảo lƣu rất nhiều hình thái

tín ngƣỡng tôn giáo khác nhau nhƣ tín ngƣỡng vạn vật hữu linh, các tín ngƣỡng thờ sinh

thực khí, tín ngƣỡng thờ động vật, thờ nhân thần - các nhân vật đƣợc thờ phụng thƣờng

là các anh hùng có công với nƣớc, giúp dân khai hoang lập ấp hay dựng nghề khởi

nghiệp (thờ vua Hùng, thờ Thành hoàng làng), đạo thờ Thánh Mẫu hay còn gọi tín

ngƣỡng Tam Phủ (ba bà mẫu ở ba vùng chăm sóc cho dân ở nơi đó), Tứ Phủ (mây,

mƣa, sấm, chớp). Đây là một tín ngƣỡng thuần Việt vô cùng đặc sắc, mang một tín lý

29

tinh tế giản dị, sâu sắc, dung hòa Phật giáo Ấn Độ, Đạo giáo Trung Hoa vào tục thờ

thần thánh đậm đà bản địa. "Tháng tám giỗ cha” (hình ảnh thiêng hóa từ vị anh hùng lỗi

lạc Hƣng Đạo đại vƣơng Trần Quốc Tuấn), “tháng ba giỗ mẹ” (bà Chúa Liễu Hạnh,

Thánh Mẫu của ngƣời Việt). Các tín ngƣỡng tôn giáo thuần chất bản địa là kết tinh đặc

sắc của tâm thế Việt. Không phải ngẫu nhiên mà vào ngày 1-12-2016, UNESCO đã tự

hào chính thức công nhận "Thực hành tín ngƣỡng thờ Mẫu Tam phủ của ngƣời Việt" là

di sản văn hóa phi vật thể đại diện của nhân loại. Cùng với nghi thức cúng lễ bản địa,

cũng có rất nhiều nghi lễ tôn giáo ảnh hƣởng từ bên ngoài, đặc biệt là từ nền văn minh

sông Hằng, sông Dƣơng Tử và còn có thêm Thiên Chúa giáo tới từ Tây phƣơng, bởi

bản chất của ngƣời Việt vốn khoan hòa cởi mở. Có điều, hầu hết những nghi lễ này đã

đƣợc Việt hóa sâu sắc, tinh tế.

Cùng với tín ngƣỡng văn hóa bản địa, những cơ sở tƣ tƣởng cũng đã sớm xuất

hiện từ thời dựng nƣớc: yêu nƣớc và thƣơng ngƣời hay tƣ tƣởng yêu nƣớc, tƣ tƣởng

nhân văn, nhân đạo. Những truyện lƣu truyền trong dân gian về các vị thành hoàng, về

nhân tài đất Việt; các truyền thuyết Lạc long Quân - Âu Cơ, Thánh Gióng, Tản Viên, An

Dƣơng Vƣơng,…; các truyện cổ tích Trầu cau, Bánh chƣng bánh giầy, Dƣa hấu, Sọ

Dừa… chính là những bằng chứng sắc nét thể hiện sức mạnh vai trò sáng tạo của nhân

dân. Những đặc điểm về văn hóa tín ngƣỡng dân gian đó phát triển dần lên qua các

chặng đƣờng lịch sử nhiều thế kỉ. Nó tồn tại với nhân dân trong khuôn khổ cộng đồng

nông thôn và nhân dân là ngƣời giữ gìn lƣu truyền thành truyền thống dân tộc. Nó tiếp

thu các yếu tố ngoại lai để phát triển. Các nhà trí thức phong kiến tuy học theo các hệ tƣ

tƣởng nƣớc ngoài, nhƣng những ngƣời ƣu tú đều giữ vững truyền thống dân tộc, và dựa

trên cơ sở đó mà tiếp thu ở những hệ tƣ tƣởng ngoại lai những gì có thể bồi bổ cho

truyền thống và có ích cho đời sống dân tộc.

Thế kỷ X - XIV, bốn thế kỉ đầu đất nƣớc độc lập, bƣớc vào giai đoạn phục hƣng

về mọi mặt. Văn hóa dân tộc có điều kiện phát triển mạnh mẽ. Triều đình có nhiều cố

gắng khôi phục phong tục, tập quán, tín ngƣỡng dân gian và phát triển những giá trị vốn

có của văn hóa dân tộc. Hàng năm, nhà nƣớc tổ chức những ngày lễ dâng hƣơng cho

các anh hùng dân tộc, kết hợp những lễ hội dân gian với các sinh hoạt văn hóa khác

nhƣ: ca hát, đua thuyền, đánh vật, ném còn, đá cầu, mứa rối nƣớc,… Nhà Lí và Trần đã

xây dựng đƣợc một đời sống văn hoá, tinh thần giản dị, cởi mở và lành mạnh. Giữa vua

và các tƣớng lĩnh, giữa nhân dân và triều đình chƣa có sự cách biệt đáng kể. Từ thế kỉ X

30

đến thế kỷ XIV, các vƣơng triều đã cho xây dựng nhiều công trình văn hóa nổi tiếng,

trong đó có “An nam tứ đại khí” từng đƣợc Trung Quốc ca ngợi: tháp Báo Thiên, Phật

Quỳnh Lâm, chuông Quy Điền, vạc Phổ Minh. Lăng mộ nhà Trần ở Thái Đƣờng (Thái

Bình) cũng là một công trình kiến trúc có giá trị. Những di tích văn vật còn lại cho phép

khẳng định rằng nghệ thuật kiến trúc và điêu khắc trong các công trình của Nhà nƣớc

đời Lí, đời Trần đã tiếp thu những truyền thống nghệ thuật dân gian và tận dụng khả

năng, đặc điểm của vật liệu có sẵn trong nƣớc. Việc tiếp thu những truyền thống của

văn hóa dân gian để xây dựng văn hóa chính thống của Nhà nƣớc Đại Việt là một hiện

tƣợng có tính tất yếu lịch sử, thể hiện bản sắc và bản lĩnh của nhân dân.

Đến thế kỉ XV, giặc Minh xâm lƣợc nƣớc ta, chúng thực hiện chính sách đồng

hóa và ngu dân với phƣơng châm đốt sạch, phá sạch. Giặc Minh đã tàn phá một cách

khốc liệt nền văn hóa Đại Việt. Nhƣng nền văn hóa nƣớc nhà vẫn quật khởi vùng lên

với một sức sống mãnh liệt đó là nhờ nhân dân không ngừng sáng tạo, lƣu truyền, phát

triển. Nguyễn Trãi khẳng định trong Bình Ngô đại cáo: “Nhƣ nƣớc Đại Việt ta từ trƣớc,

Vốn xƣng nền văn hiến đã lâu”. Nhà Lê khi giành đƣợc độc lập đã bắt tay ngay vào việc

bảo vệ và phát huy văn hóa dân tộc, nhƣ bảo vệ thuần phong mĩ tục, thu thập văn hóa

dân gian,… Trong khí thế đi lên của Đại Việt, nhà Lê đã đƣa chế độ phong kiến tới giai

đoạn cực thịnh mà đỉnh cao là triều đại Lê Thánh Tông ở nửa sau thế kỷ XV. Bƣớc sang

thế kỷ XVI và cả thế kỷ XVII, khi chế độ phong kiến khủng hoảng thì nền văn hóa dân

gian càng có điều kiện phát triển. Các loại hình sân khấu múa rối, chèo, tuồng hầu nhƣ

đƣợc cả vua quan và nhân dân ƣa chuộng và đƣợc mở ở khắp nơi.

Từ các nhân tố của văn hóa, tín ngƣỡng dân gian truyền thống và sức sống nội

tại của tinh thần dân tộc đã tạo nên nét riêng trong đạo lí làm ngƣời của ngƣời Việt. Từ

xa xƣa, trong kho tàng văn học dân gian , nhân dân lao động vừa là tập thể sáng tác văn

học vừa là “nhân vật” trung tâm của đời sống xã hội. Truyền thống của ngƣời Việt Nam

bao đời nay luôn coi trọng con ngƣời. Họ đề cao lối sống thủy chung, tình nghĩa; đề cao

tinh thần đoàn kết, yêu thƣơng gắn bó giữa gia đình, làng xóm với cộng đồng, xã hội,

dân tộc,… Những quan niệm đó đƣợc diễn tả súc tích qua nhiều câu thành ngữ, tục ngữ,

ca dao: “Thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân”, “Uống nƣớc nhớ nguồn”, “Một mặt

ngƣời hơn mƣời mặt của”, “Bẻ đũa chẳng bẻ đƣợc cả nắm”, “Cả bè hơn cây nứa”,

“Chết cả đống còn hơn sống một ngƣời”, “Dựng nhà cần nhiều ngƣời, đánh giặc cần

nhiều sức”, “Chung lƣng đấu cật”, “Khi đói cùng chung một dạ, khi chết cùng chung

31

một lòng”, “Tƣớng chuộng nhiều quân, dân chuộng nhiều ngƣời”, “Bầu ơi thƣơng lấy

bí cùng//Tuy rằng khác giống nhƣng chung một giàn”, “Nhiễu điều phủ lấy giá

gƣơng//Ngƣời trong một nƣớc phải thƣơng nhau cùng”, “Dân ta nhớ một chữ

đồng//Đồng tình, đồng sức, đồng lòng, đồng minh”, “Một cây làm chẳng nên non//Ba

cây chụm lại nên hòn núi cao”, “Một con ngựa đau cả tàu bỏ cỏ”,…

Thấm sâu trong tình cảm, huyết mạch của mỗi ngƣời Việt Nam là nền tảng gia

đình: Hiếu đạo với đấng sinh thành: “Công cha nhƣ núi Thái Sơn/Nghĩa mẹ nhƣ nƣớc

trong nguồn chảy ra”; coi trọng tình anh em ruột thịt: “Anh em nhƣ thể tay chân”, “Máu

chảy ruột mềm”, “Một giọt máu đào hơn áo nƣớc lã”; tình nghĩa vợ chồng thủy chung

son sắt “đầu gối, tay ấp”, “tình sâu nghĩa nặng”: “Tay nâng chén muối đĩa gừng//Gừng

cay muối mặn xin đừng quên nhau”. Mở rộng hơn là tình làng xóm láng giềng, “chín bỏ

làm mƣời”, “nhƣờng cơm, xẻ áo”, “lá lành đùm lá rách”, “tối lửa, tắt đèn có nhau” và

bao trùm hơn cả là tình yêu thƣơng đồng bào “Nhiễu điều phủ lấy giá gƣơng/Ngƣời trong

một nƣớc phải thƣơng nhau cùng”… Ngƣời Việt Nam quý trọng tình nghĩa hơn của cải

vật chất:“Ngƣời sống, đống vảng” hay“Cầm vàng mà lội qua sông//Vàng rơi không tiếc,

tiếc công cầm vàng”. Họ ghét lối sống bạc tình, bạc nghĩa, theo kiểu “ăn cháo, đá bát”.

Quan điểm này thể hiện cả trong mối quan hệ với ngƣời thân: “Ngƣời dƣng có ngãi

(nghĩa) thì đãi ngƣời dƣng, anh em vô ngãi thì dừng anh em”.

Không chỉ biểu hiện trong đời sống hàng ngày, tình yêu thƣơng, sự khoan dung,

độ lƣợng với con ngƣời của dân tộc Việt Nam còn đƣợc nâng lên thành những chuẩn

tắc trong các bộ luật của Nhà nƣớc; đồng thời là cơ sở của tinh thần yêu chuộng hoà

bình và tình hữu nghị với các dân tộc trên thế giới. Trong lịch sử, nhân dân ta luôn đề

cao và coi trọng việc giữ tình hoà hiếu với các nƣớc, tận dụng mọi cơ hội có thể để giải

quyết hoà bình các xung đột, cho dù nguyên nhân từ phía kẻ thù “Đánh kẻ chạy đi chứ

không đánh ngƣời chạy lại” ... Ý thức đầu tiên về sự cố kết cộng đồng của ngƣời Việt

Nam đã đƣợc dân gian, thần thánh hóa bằng thiên truyền thuyết đẹp với hình ảnh “bọc

trăm trứng” để lý giải cộng đồng cùng chung nguồn cội con cháu Rồng Tiên - truyền

thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ. Truyền thuyết Thánh Gióng là một trong những câu

chuyện mà bao thế hệ ngƣời Việt đều đã nghe qua ít nhất một lần trong đời. Đây là tác

phẩm văn học dân gian đầu tiên về công cuộc giữ nƣớc chống ngoại xâm. Truyện

Thánh Gióng là sự đan xen chặt chẽ giữa các yếu tố thần thoại, truyền thuyết dân gian,

lịch sử dân tộc, đƣợc nhân dân xây dựng thành một câu chuyện huyền thoại nhằm gửi

32

gắm những khao khát, lý tƣởng, giá trị yêu nƣớc nhƣ một bài học lƣu truyền cho đời

sau. Trong tâm thức dân gian, Thánh Gióng là một trong bốn hình tƣợng tứ bất tử của

Việt Nam, đƣợc suy tôn nhƣ biểu tƣợng của sự trƣờng tồn, bất diệt của dân tộc, đất

nƣớc từ thuở xa xƣa cho tới ngày nay.

Truyền thống “thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân” của ngƣời Việt Nam còn có

nguồn gốc sâu xa từ trong xã hội công xã nông thôn thời kì nguyên thuỷ, buổi đầu dựng

nƣớc. Chúng ta đều biết, dân tộc Việt Nam có lịch sử nhiều ngàn năm, có nhà nƣớc Văn

Lang tồn tại lâu dài. Trong thời gian dài nhƣ vậy, dân tộc ta đã hình thành nền văn hoá

mang bản sắc riêng của mình, trong đó, lòng yêu thƣơng con ngƣời là một tình cảm đạo

đức lớn, có nét đẹp riêng, nhƣ là một giá trị văn hoá rất cơ bản trong hệ giá trị của

ngƣời Việt Nam. Mặt khác, do những điều kiện lịch sử riêng khiến vận mệnh dân tộc và

vận mệnh nhân dân, nƣớc và dân là những nhân tố luôn gắn chặt với nhau. Dân có vai

trò dựng nƣớc, giữ nƣớc thắng lợi, ngƣợc lại nếu không có dân thì nƣớc suy, nƣớc mất.

Dân là công dân trong quan hệ dân nƣớc, dân còn là con ngƣời trong quan hệ dân -

cộng đồng ngƣời. Do đó mà có công thức: Nƣớc - dân - ngƣời - nhất thể, có tƣ tƣởng

yêu nƣớc, thƣơng dân, thƣơng ngƣời hay yêu nƣớc, nhân đạo, nhân văn.

2.2.2. Nho giáo và tư tưởng thân dân

Nho giáo là một học thuyết triết học, chính trị - xã hội, đạo đức lớn nhất ở Trung

Quốc và phƣơng Đông thời cổ đại. Trong nội dung của Nho giáo, chứa đựng nhiều học

thuyết, nhiều tƣ tƣởng, đề cập đến nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống xã hội và con

ngƣời, trong đó có tƣ tƣởng về dân. Theo nhiều tài liệu từ nguồn sử học, văn học và các

công trình nghiên cứu khác, Nho giáo du nhập vào Việt Nam từ thời Bắc thuộc thông

qua việc xác lập bộ máy xâm lƣợc, cai trị và thông qua quá trình xâm lƣợc và thực hiện

chính sách Hán hóa của nhiều vƣơng triều phong kiến phƣơng Bắc ở nƣớc ta. Từ chỗ là

công cụ xâm lƣợc, nô dịch của ngoại xâm, theo thời gian và yêu cầu phát triển của chế độ

phong kiến Việt Nam, giai cấp phong kiến Việt Nam đã chủ động tiếp nhận Nho giáo và

sử dụng nó thành công cụ của chính mình trong việc xây dựng, củng cố và phát triển chế

độ phong kiến, trong việc xây dựng, phát triển đất nƣớc về mọi mặt, trong việc giữ nƣớc

và bảo vệ chủ quyền đất nƣớc.

Những nhận thức, tƣ tƣởng, quan điểm của Nho giáo Khổng - Mạnh về dân và

vai trò, vị trí của ngƣời dân nhƣ “Dân vi bang bản”, “Dân vi quí, xã tắc thứ chi, quân

vi khinh”,… cho ta thấy có nhiều yếu tố hợp lí, tiến bộ mà chúng ta không thể phủ nhận

33

và hơn thế, cần phải tiếp thu, kế thừa. Tất nhiên, cũng trong nội dung của tƣ tƣởng ấy,

cần thiết thấy một số điểm hạn chế của Nho giáo.

Từ thế kỉ XI trở đi, các vƣơng triều phong kiến Việt Nam ý thức đƣợc vai trò của

Nho giáo trong quản lí và xây dựng đất nƣớc. Nho giáo với quan niệm “Thiên mệnh”,

“Thiên tƣ” quan niệm rằng, dƣới vòm trời (thiên hạ), đâu cũng là đất của vua, đâu cũng

là thần dân của vua. Cùng với đó là quan niệm về “nhân chính”, “đức trị” - một hệ

thống luân thƣờng đạo lí gồm những chuẩn mực, giá trị ràng buộc con ngƣời vào gia

đình, xã hội, vào vua và triều đại… thực sự là một công cụ sắc bén cho việc bảo vệ lợi

ích của giai cấp cầm quyền, đồng thời cũng tạo điều kiện cho sự thống nhất và cố kết

dân tộc. Hơn thế, Nho giáo với lí luận, học thuật còn góp phần nâng cao tƣ duy, làm

phong phú đời sống học thuật và đời sống văn hóa tinh thần của dân tộc trong thời đại

ấy.

Dƣới thời Lí - Trần, dù Nho giáo đƣợc Nhà nƣớc phong kiến sử dụng nhƣ một

thành tố của hệ tƣ tƣởng Nho - Phật - Lão, nhƣng theo thời gian, xu hƣớng Nho giáo

ngày càng có vị trí và vai trò lớn hơn, nhiều hơn trong đời sống tinh thần, tƣ tƣởng của

ngƣời Việt. Ảnh hƣởng tƣ tƣởng về dân của Nho giáo thể hiện khá cụ thể trong đƣờng

lối cai trị, quản lí xã hội, pháp luật và việc thực hiện những chủ trƣơng chính trị lớn của

đất nƣớc nhƣ việc dời đô, kế vị ngôi báu, phát động kháng chiến chống kẻ thù xâm

lƣợc, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng và phát triển đất nƣớc. Các nhà tƣ tƣởng thời Lí

- Trần đã tiếp thu những yếu tố tích cực, tiến bộ, đậm tính nhân văn của Nho giáo và

vận dụng một cách cụ thể vào hoàn cảnh thực tiễn của đất nƣớc, phù hợp với truyền

thống tình cảm, tâm hồn của ngƣời Việt.

Đến thời Lê Sơ (từ năm 1428 đến năm 1527), sau khi giành đƣợc độc lập dân tộc

và thiết lập triều Lê, nhằm phát triển bộ máy Nhà nƣớc phong kiến tập quyền hùng

mạnh, trong nhiều biện pháp mà nhà Lê đƣa ra để đạt mục đích trên đây, thì Nho giáo

đƣợc đƣa lên địa vị “độc tôn” trong lĩnh vực hệ tƣ tƣởng. So với thời Lí - Trần, Nho

giáo đã có sự phát triển mạnh mẽ về vị trí và vai trò của nó đối với xã hội và chế độ

phong kiến Việt Nam. Các vị quân vƣơng triều đại Lê Sơ, các nhà Nho, nhà tƣ tƣởng

Việt Nam đã sử dụng Nho giáo để phục vụ các nhiệm vụ chính trị của mình nhƣ xây

dựng và phát triển bộ máy Nhà nƣớc, kiến lập và thực thi pháp luật, giáo dục - khoa cử,

xây dựng và phát triển đất nƣớc,… Việc phát huy những yếu tố khả thủ của Nho giáo

nhƣ tƣ tƣởng thân dân, chủ trƣơng nhập thế, nêu cao phẩm chất, khí tiết trong sạch của

34

kẻ sĩ,…đã khiến cho tƣ tƣởng Nho học thời kỳ này đạt tới mức cực thịnh. Tƣ tƣởng về

dân trong thời kỳ này đã kết tinh thành những hiện tƣợng tiêu biểu nhất, rực rỡ nhất của

truyền thống tƣ tƣởng, văn hóa, văn học Việt Nam thời trung đại.

Sang thế kỉ XVI, với biểu hiện khủng hoảng của chế độ phong kiến, Nho giáo nói

riêng và tình hình tƣ tƣởng, văn hóa trong các thế kỉ XVI, XVII có những chuyển biến rõ

rệt và sâu sắc. Nho giáo vẫn đƣợc đề cao và đƣợc các tập đoàn phong kiến sử dụng để

củng cố trật tự phong kiến, ràng buộc kiềm chế hành vi, tình cảm và lý trí con ngƣời. Các

tập đoàn phong kiến có ý thức dùng khoa cử để tranh thủ nho sĩ khi ấy vẫn là tầng lớp

đông đảo và có uy tín trong xã hội. Nhƣng do sự suy yếu của chế độ phong kiến, việc học

hành thi cử cũng nhƣ nho phong sĩ khí ngày càng đồi bại xuống cấp. Đạo đức và trật tự

phong kiến bị phá vỡ ngay từ trong hàng ngũ nho sĩ quan liêu. Triều thần lấn át vua, triều

thần cƣớp ngôi vua, anh em nhà vua, nhà chúa bức hại lẫn nhau. Bên cạnh vƣơng triều

nhà Lê “hữu danh vô thực”, phủ chúa nắm hết thực quyền, tự tiện phế lập ngôi vua. Tình

hình chính sự ấy khiến ngƣời dân rơi vào cảnh chiến tranh loạn lạc, ly tán. Sự ảnh

hƣởng của Nho giáo tất yếu làm cho tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời kỳ này có

màu sắc khác với thời Lí - Trần.

2.2.3. Phật giáo và tư tưởng thân dân

Nói đến ảnh hƣởng của tôn giáo tới tƣ tƣởng thân dân, không thể không bàn đến

Phật giáo. Đạo Phật chủ trƣơng bình đẳng, từ bi, bác ái. Từ bi, bác ái của Phật làm cho

lòng thƣơng dân, thƣơng ngƣời phong phú, tốt đẹp hơn. Những tƣ tƣởng và hạt nhân

tích cực của giáo lí Phật giáo đƣợc ngƣời Việt Nam tiếp thu và truyền bá một cách rộng

rãi trong đời sống xã hội. Phật giáo chính là một tiền đề tôn giáo quan trọng của tƣ

tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam trong nhiều thế kỉ.

Từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV là thời kì phát triển của Phật giáo Việt Nam, qua

các vƣơng triều phong kiến nhƣ triều Đinh (968 - 980), Tiền Lê (980 - 1009), Lí (1009 -

1225), Trần (1226 - 1400),… Đạo Phật đƣợc sự nâng đỡ của chính quyền phong kiến, đã

trở thành trụ cột tinh thần của bộ phận phong kiến thống trị. Lúc đó “Đế và Tăng cùng cai

trị thiên hạ”, không ít tăng nhân đã ra vào trong cung đình, trực tiếp tham gia triều chính,

nắm giữ quân quyền, chế định pháp lệnh, hƣởng các loại đặc quyền. Suốt thời Lí cho đến

đầu thời Trần, Phật giáo chiếm địa vị quốc giáo nên có ảnh hƣởng sâu rộng tới đời sống

chính trị, văn hóa. Sự ảnh hƣởng của Phật giáo lan toả đến mọi tầng lớp nhân dân, mọi

lĩnh vực trong đời sống xã hội. Nó không xa rời mà gắn liền với thực tiễn. Các nhà sƣ

35

đƣợc các nhà vua thời Lí tôn trọng, đề cao. Do vậy lực lƣợng tăng lữ rất đông đảo. Nhiều

vị thiền sƣ có công lao to lớn trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc và đấu tranh chống giặc

ngoại xâm, có uy tín đối với nhân dân. Không chỉ dân thƣờng mà cả các nhà vua cũng đi

tu nhƣ Trần Thái Tông, Trần Nhân Tông. Chùa ngày càng nhiều và thƣờng đƣợc xây

dựng ở những nơi cảnh đẹp, phong thuỷ hữu tình nhƣ chùa Phổ Minh (Nam Định), chùa

Sùng Nghiêm (Hà Nội), chùa Yên Tử (Quảng Ninh)… Những năm tháng đất nƣớc có

giặc ngoại xâm, Phật giáo đã góp phần tập hợp, đoàn kết những ngƣời yêu nƣớc thƣơng

dân đấu tranh, chiến thắng kẻ thù.

Phật giáo có nhiều tông phái. Vào nƣớc ta chủ yếu là Thiền Tông. Thiền tông Lí

- Trần đƣợc đặt trong một hoàn cảnh đất nƣớc đòi hỏi con ngƣời phải hành động tích

cực, từ hành động chiến đấu chống ngoại xâm đến hành động giúp dân sống no ấm, yên

vui. Đó cũng là ý chỉ của vua Lí Nhân Tông trong lời nói với thiền sƣ Mãn giác: “Bậc

chí nhân hiện thân giữa cõi đời này tất phải tế độ chúng sinh. Làm việc gì cũng phải

đầy đủ, không việc gì không làm. Chẳng những đắc lực về thiền định mà cũng có công

giúp đỡ nhà nƣớc”. [Thiền uyển tập anh, Phân viện Nghiên cứu Phật học, NXB Văn

học, Hà Nội, 1990].

Phật giáo sang Đại Việt đã thành một đạo Phật bình dị và thiết thực. Cái đặc biệt

của nó là tinh thần thực tiễn. Nó không triết lí trừu tƣợng hô hào ngƣời ta phải xuất thế

tìm về một cõi “niết bàn” xa xôi mà chủ trƣơng đi tìm chân lí ngay trong chính bản thân

cuộc sống. Công quả của các thiền sƣ không phải đo bằng sự trì giới khổ hạnh, tụng

kinh niệm Phật mà đƣợc đo bằng những đóng góp hữu ích của họ cho đời sống xã hội,

cho đất nƣớc, cho nhân dân. Đó chính là cái tinh thần của thiền sƣ Vạn Hạnh: “Trụ tích

trấn vƣơng kì” (chống gậy nhà chùa lên coi giữ kinh đô). Do vậy, Phật giáo đã có đƣợc

vai trò và những đóng góp đáng kể đối với xã hội, đất nƣớc. Có thể đơn cử, giáo dục là

một mặt quan trọng trong đời sống xã hội. Trƣớc khi trƣờng Quốc Tử giám đƣợc thành

lập ở kinh đô vào thời Lí và ngay cả trong khi đã có trƣờng đại học dành cho con em

các quan lại, việc giáo dục ở nông thôn, ở những cấp thấp hơn, hầu nhƣ do nhà chùa

đảm trách. Mặt khác, Phật giáo dƣới thời Lí Trần không hoàn toàn đƣợc nhìn nhận và

vận dụng nhƣ một tôn giáo, đặc biệt là đối với giới trí thức, mặc dù nó đích thực là một

tôn giáo. Những nhà trí thức trong đó có nhiều ngƣời tham gia chính sự đất nƣớc đã đối

xử với đạo Phật nhƣ một hệ tƣ tƣởng - triết học mà họ tìm thấy từ đó những yếu tố cần

thiết để góp phần xây dựng một con ngƣời phù hợp với thời đại: nhân ái, bao dung, cởi

36

mở và tự tin. Quan điểm “Phật tại tâm”, “Mỗi chúng sinh đều có Phật tính” của Thiền

tông với chủ trƣơng mỗi ngƣời phải tự quay về thắp lên ngọn đuốc của chính mình,

không tìm cầu bên ngoài (mà ảnh hƣởng sâu sắc trong dân gian có thể thấy qua câu tục

ngữ “Bụt nhà không cầu đi cầu Thích Ca ngoài đƣờng”) đã tạo nên cho con ngƣời thời

đại một bản lĩnh tự tin đặc biệt. Bản lĩnh này là đỉnh cao của tinh thần nhân văn thời

đại. Nhờ bản lĩnh tự tin này mà con ngƣời Đại Việt thời đó đã không sợ địch dù địch

lớn hơn mình gấp nhiều lần; cũng nhƣ không mặc cảm về một nƣớc nhỏ mới thoát vòng

nô lệ mà vững chãi đƣờng hoàng xây dựng quốc gia tự chủ tự cƣờng. Mặt khác, tƣ

tƣởng dân chủ, nhân đạo truyền thống đã bắt gặp tinh thần bác ái trên cơ sở cái nhìn

bình đẳng vô sai biệt đối với vạn vật và tinh thần “vô ngã” của Phật giáo Thiền tông. Có

bình đẳng, bác ái mới thực hiện đƣợc vị tha để thƣơng dân tựa con mình nhƣ Lí Thánh

Tông, có thể “lấy ý muốn của thiên hạ làm ý muốn của mình” nhƣ Trần Thái Tông, dễ

dàng từ bỏ ngai vàng để nhƣờng ngôi lại cho ngƣời em khi ngƣời này tới tuổi lớn khôn

nhƣ Trần Minh Tông, hay có những ứng xử hợp nghĩa và cao thƣợng với ngƣời khác

nhƣ Trần Quốc Tuấn, Trần Nhật Duật, Bảo Từ Thái hậu,…

Tinh thần từ bi, bác ái của Phật giáo Thiền tông quả đã đem lại phẩm chất thanh

cao cho con ngƣời thời đại - làm việc tận tụy hết mình vì dân vì nƣớc nhƣng vô cầu, coi

công danh phú quý tựa phù vân. Chỉ có thể đạt tới trình độ này khi ngƣời ta quan niệm

đƣợc cuộc sống trong đó có cái “tôi” là vô thƣờng, hữu hạn, khi cần có thể buông bỏ để

vƣơn tới những giá trị làm ngƣời đích thực, cũng là cái chân tâm trong sáng, vĩnh hằng,

nhìn từ góc độ nhà Phật. Thiền dung hợp với phía tích cực của Nho và Lão để giúp con

ngƣời phát triển toàn diện, và phù hợp với con đƣờng phát triển của đất nƣớc. Thiền

hợp với Tịnh độ tông, Mật tông và cả tín ngƣỡng dân gian bản địa để phù hợp thực tiễn

và mang tính đại chúng. Có thể nói, đó là đạo Phật Việt Nam với tất cả ý thức và sự cố

gắng của nó, tìm một hƣớng riêng phù hợp và có ích nhất cho sự phát triển của dân tộc.

Chọn Phật giáo Thiền Tông, các nhà trí thức và những ngƣời cầm quyền trong buổi đầu

kỷ nguyên tự chủ đã tìm thấy nơi hệ thống triết học này sự phù hợp với tâm lý, tập

quán và đạo lý truyền thống của dân tộc để từ đó có thể phát huy sức mạnh Đại Việt.

Tinh thần bình đẳng và bác ái của đạo Phật tìm thấy sự hòa điệu với tinh thần dân chủ,

nhân ái truyền thống của nhân dân có từ buổi đầu dựng nƣớc là một ví dụ. Không

những thế, khi chọn hệ tƣ tƣởng này, các nhà trí thức của dân tộc còn lọc ra từ nó cái gì

cần thiết nhất cho thời đại và luôn chú ý vận dụng vào thực tiễn đời sống. Trên quan

37

điểm thân dân, họ đã tập hợp đƣợc sức mạnh vĩ đại của quần chúng trong công cuộc

bảo vệ độc lập dân tộc và phát triển đất nƣớc. Chính vì vậy, sức sống bền vững của Phật

giáo chính là ở tính nhập thế tích cực. Đạo gắn liền với đời sống và đời sống không

thiếu vắng đạo.

Tiểu kết chƣơng 2

Ở chƣơng 2, luận án đã nghiên cứu, lý giải những tiền đề lịch sử, xã hội, tƣ

tƣởng, văn hóa liên quan đến tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỷ X đến hết thế

kỷ XVII. Có thể thấy lịch sử của cha ông ta ngay từ những ngày đầu dựng nƣớc đã nổi

bật lên đặc thù là sự gắn kết cộng đồng. Từ buổi đầu ấy đến kế tiếp những triều đại

phong kiến sau này, vấn đề kháng chiến chống xâm lƣợc và củng cố chế độ, xã hội

phong kiến ở mỗi triều đại luôn luôn gắn liền với vai trò và vị trí của ngƣời dân. Các

Nho sĩ, trí thức phong kiến đã ca ngợi các triều đại ấy cũng là cách để hƣớng tới những

điều tốt đẹp cho ngƣời dân. Nền giáo dục, thi cử của các triều đại phong kiến luôn luôn

đƣợc quan tâm ngay trong hoàn cảnh chống ngoại xâm. Chính sách cầu hiền tài, coi

“hiền tài là nguyên khí của quốc gia” khiến cho tầng lớp thứ dân cũng đƣợc học, đƣợc

bổ nhiệm làm quan khi đỗ đạt. Điều đó tạo nên điều kiện thuận lợi để đất nƣớc có

những danh sĩ, trí thức tài năng cống hiến cho nhân dân.

Luận án chỉ ra tƣ tƣởng thân dân còn có tiền đề từ tín ngƣỡng bản địa, văn hóa

dân gian; hệ tƣ tƣởng Nho giáo, Phật giáo. Tín ngƣỡng bản địa, văn hóa, văn học dân

gian truyền thống không chỉ tạo nên sức sống nội tại của tinh thần dân tộc mà còn tạo

nên nét riêng trong tƣ tƣởng thân dân. Ngƣời Việt Nam cũng rất linh hoạt khi tiếp thu

có chọn lọc và sáng tạo tinh hoa văn học nƣớc ngoài, đặc biệt ở tầng lớp trí thức, ở

những tác giả văn học sự tiếp thu đó đã góp phần tạo nên những hình tƣợng đẹp về con

ngƣời mang tinh thần thời đại đặt trọng trách tổ quốc và nhân dân lên trên những tình

cảm cá nhân.

Có thể nói, trƣớc khi trở thành đề tài, cảm hứng, nội dung biểu hiện của văn học,

tƣ tƣởng thân dân cần đƣợc đặt trong môi trƣờng hoàn cảnh lịch sử, xã hội, văn hóa của

thời đại đó. Có nhƣ vậy, mới thấy đƣợc đặc trƣng, tính kế thừa và nhiều chiều của tƣ

tƣởng này trong suốt tiến trình phát triển của văn học dân tộc.

38

Chƣơng 3

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC

TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV

Văn học trung đại Việt Nam có chặng hành trình dài mƣời thế kỉ. Đây là giai

đoạn phát triển rực rỡ, kết tinh nhiều thành tựu về tƣ tƣởng và nghệ thuật của nền văn

học dân tộc. Thấm nhuần nền văn hoá, tƣ tƣởng của xã hội phong kiến, văn học trung

đại có qui luật vận động phát triển riêng, có nội dung, hình thức mang tính đặc thù.

Luôn gắn bó với vận mệnh dân tộc và số phận của nhân dân là một nội dung tƣ tƣởng

nổi bật của văn học trung đại. Trƣớc khi đi sâu vào phân tích từng lớp lang của tƣ tƣởng

thân dân, luận án khái quát về tƣ tƣởng này trong văn học trung đại Việt Nam, mong có

một bức tranh bao quát, xuyên suốt để thấy đƣợc tính định hình, tính kế thừa của tƣ

tƣởng thân dân trong chiều dài của văn học dân tộc. Ở đây, chúng tôi nhìn nhận đối

tƣợng nghiên cứu theo tiến trình vận động lịch sử, ở từng giai đoạn văn học sẽ xuất hiện

những tác giả, tác phẩm lớn theo những khuynh hƣớng biểu hiện khác nhau.

3.1. Khái quát về tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam

Văn học trung đại Việt Nam mở ra từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV là chặng

đƣờng đầu tiên kể từ năm Ngô Quyền xƣng vƣơng dựng nƣớc (năm 939), kéo dài gần

năm thế kỉ, cho đến năm 1414 - thời điểm nƣớc ta rơi vào họa xâm lăng của nhà Minh.

Đây là giai đoạn bao gồm sự hƣng vong của sáu triều đại Ngô, Đinh, Tiền Lê, Lí, Trần,

Hồ, nhƣng với văn học, hai thời đại lớn có vị trí quan trọng là thời đại Lí - Trần. Văn

học giai đoạn này đã hƣớng đến nội dung phản ánh công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc

lập dân tộc, các vƣơng triều phong kiến Việt Nam không ngừng củng cố, phát triển đất

nƣớc, giai cấp phong kiến có những tƣ tƣởng tiến bộ, về cơ bản đi theo nguyện vọng

của ngƣời dân. Sự kiện Lí Công Uẩn quyết định dời đô từ Hoa Lƣ ra thành Đại La năm

1010 là một sự kiện lịch sử - chính trị hết sức trọng đại, mở ra một trang sử mới của

quốc gia Đại Việt với ý thức độc lập, tự chủ, niềm tin vào tƣơng lai và sự trƣờng tồn của

đất nƣớc. Các tác phẩm thơ ca, văn chƣơng chính luận thời Lí tập trung thể hiện nguyện

vọng hòa bình, độc lập của ngƣời đân, khẳng định vai trò của ngƣời dân trong công cuộc

chống quân xâm lƣợc Tống, bảo vệ tổ quốc và trong sự nghiệp thống nhất đất nƣớc. Ý

thức về vai trò, trách nhiệm trƣớc ngƣời dân cũng đƣợc các tác giả thời Lí đề cao trong

các bài văn chiếu, văn bia, can gián,… Đáng chú ý là trong các bài thơ của các thiền sƣ

thời Lí, tuy số lƣợng không nhiều nhƣng đã phản ánh tƣ tƣởng an lạc của Phật giáo với

39

đời sống ngƣời dân, hƣớng con ngƣời hòa hợp với thiên nhiên, hƣớng tới cuộc sống an

lành của ngƣời dân.

So với văn học thời Lí, số lƣợng tác giả, tác phẩm thể hiện tƣ tƣởng thân dân ở

văn học thời Trần phong phú hơn, chủ đề, thể loại cũng mở rộng hơn. Bên cạnh tác

phẩm văn học mang tính chức năng, thơ phú mang cảm hứng nghệ thuật có nhiều thành

tựu nổi bật. Nội dung thơ văn tập trung đề cao vai trò, sức mạnh của ngƣời dân trong

các cuộc kháng chiến chống quân xâm lƣợc Nguyên - Mông, nhìn nhận vai trò của

ngƣời dân theo quan hệ dọc - quan hệ đẳng cấp, bất bình đẳng và quan hệ ngang - quan

hệ làng xã mang tinh thần dân chủ. Tất nhiên, trong văn học giai đoạn này cũng có

những tiếng nói trái chiều về tƣ tƣởng thân dân, đó là khi các vị vua cuối thời Lí, cuối

thời Trần có những biểu hiện đi ngƣợc lại với quyền lợi của ngƣời dân, có cái nhìn

khinh thị đối với ngƣời dân. Các tác giả trí thức phong kiến mong muốn qua tác phẩm

của mình, gửi gắm tiếng nói thanh nghị với các vƣơng triều phong kiến khi đi ngƣợc lại

tƣ tƣởng thân dân.

Văn học trung đại Việt Nam có bƣớc chuyển tiếp theo ở thế kỉ XV, bên cạnh

những điểm tiếp nối tƣ tƣởng thân dân của văn học Lí - Trần, văn học thế kỷ này tập

trung phản ánh kỳ tích của vƣơng triều nhà Lê trong cuộc kháng chiến chống quân

Minh, ca ngợi sức mạnh thời đại và truyền thống dân tộc, sự phát triển ổn định, thịnh trị

của vƣơng triều phong kiến. Những tác phẩm thơ, phú, văn chính luận cả bằng chữ Hán

và chữ Nôm đều đạt đƣợc thành tựu xuất sắc. Hình tƣợng ngƣời chủ tƣớng - anh hùng

Lê Lợi trong cuộc khởi nghĩa Lam Sơn luôn đƣợc thể hiện gắn liền với sức mạnh của

nhân dân. Đề cao công lao của Lê Lợi cũng là khẳng định lịch sử hào hùng của dân tộc.

Tiêu biểu của tƣ tƣởng thân dân trong văn học giai đoạn này là thơ văn Nguyễn Trãi.

Đặc biệt, sự xuất hiện của tập thơ Nôm Quốc âm thi tập, và sau đó là Hồng Đức quốc

âm thi tập đã góp phần quan trọng trọng mở ra nhiều hƣớng tiếp cận đời sống, tâm hồn

phong phú của nhân dân, tạo nên sự phát triển mới của nghệ thuật thơ ca tiếng Việt.

Nửa cuối thế kỷ XV, tƣ tƣởng thân dân tập trung trong các sáng tác thơ văn thời Hồng

Đức, nổi bật là tác giả Lê Thánh Tông. Điểm đặc sắc của thơ văn giai đoạn này là ít

nhiều hƣớng đến ngƣời dân trong cuộc sống đời thƣờng, ca ngợi ngƣời dân trong cuộc

sống thái bình cũng là cảm hứng ca ngợi chế độ phong kiến đạt đến giai đoạn hoàng

kim, các triều vua đi cùng con đƣờng với nhân dân nên đất nƣớc thái bình, cuộc sống

nhân dân ổn định. Đỉnh cao của sự phát triển thịnh trị đó là triều đại Lê Thánh Tông.

40

Nhìn chung, tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỷ XV đƣợc các tác giả giai đoạn này

tiếp thu những yếu tố của văn học Lí - Trần đồng thời mang âm hƣởng thời đại bình

Ngô hƣng quốc.. Tƣ tƣởng thân dân gắn liền với âm hƣởng ngợi ca thời đại, có những

lúc đã xuất hiện những vần thơ cảm thán thời thế nhƣ Nguyễn Trãi, Lí Tử Tấn cho ta

thấy sâu sắc hơn bản chất của chế độ phong kiến, thấy rõ hơn phẩm chất, khí tiết của

những ngƣời trí thức tiến bộ.

Sang thế kỉ XVI - XVII, giai cấp phong kiến Việt Nam bƣớc vào thời kì khủng

hoảng. Thời Lê - Mạc, giai cấp phong kiến có những lúc đi ngƣợc lại quyền lợi của

ngƣời dân. Mâu thuẫn giữa các phe phái phong kiến ngày càng trở nên sâu sắc dẫn đến

tình trạng đất nƣớc bị chia cắt, nhiều cuộc khởi nghĩa nông dân nổ ra liên tục, mạnh mẽ.

Tƣ tƣởng thân dân giai đoạn này gắn với sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, đi từ âm điệu

ngợi ca vƣơng triều phong kiến sang âm hƣởng phê phán hiện thực xã hội, đấu tranh

chống lại sự suy thoái của chế độ phong kiến vì quyền lợi của nhân dân. Nhìn chung, tƣ

tƣởng thân dân giai đoạn này phát triển lên một bƣớc mới không những trong nội dung

tác phẩm mà còn biểu hiện qua thành tựu rực rỡ của văn học chữ Nôm, của thể loại văn

học dân tộc. Các tác giả của khuynh hƣớng này chủ yếu là nho sĩ ẩn dật, nho sĩ bình

dân. Có ngƣời nhƣ Nguyễn Bỉnh Khiêm từng ra làm quan với nhà Mạc nhƣng đã treo

mũ từ quan về ở ẩn tại quê nhà. Có ngƣời nhƣ Phùng Khắc Khoan trƣớc khi giúp triều

Lê trung hƣng cũng đã có năm bị đày ra thành Nam thuộc huyện Tƣơng Dƣơng giáp Ai

Lao (miền tây Nghệ An ngày nay) và cũng có tâm trạng ẩn sĩ. Thơ văn của các tác giả

giai đoạn này biểu hiện ở các khía cạnh chủ yếu: ca tụng cuộc sống ẩn dật, ca tụng tiết

tháo nhà nho, miêu tả hiện thực cuộc sống đau khổ của nhân dân, lên án thói đời,…

Tiếng nói phê phán hiện thực xã hội trong văn học giai đoạn này chủ yếu mới trên lập

trƣờng đạo đức và vẫn là tiếng nói khẳng định Nho giáo chứ chƣa phải trên lập trƣờng

nhân bản nhƣ văn học thế kỉ XVIII - XIX sau này.

Khi chế độ phong kiến suy thoái dẫn đến suy vong, về cơ bản đi ngƣợc lại quyền

lợi của ngƣời dân thì tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVIII - XIX tập trung ở

trào lƣu nhân đạo vì quyền sống của ngƣời dân. Nổi bật trong nội dung tƣ tƣởng thân

dân của văn học giai đoạn này là niềm thƣơng cảm đối với ngƣời dân, hƣớng về những

con ngƣời nhỏ bé, đau khổ, những con ngƣời bị áp bức; ƣớc mơ về công lí chính nghĩa

của nhân dân, mong ƣớc cuộc sống hạnh phúc và tƣơng lai tƣơi sáng cho nhân dân.

Những tác phẩm tiêu biểu là Chinh phụ ngâm nguyên tác chữ Hán của Đặng Trần Côn,

41

bản dịch Nôm của Đoàn Thị Điểm ( ?), Cung oán ngâm khúc của Nguyễn Gia Thiều,

thơ Hồ Xuân Hƣơng, thơ Bà Huyện Thanh Quan, Hoàng Lê nhất thống chí của ngô Gia

văn phái,… Nguyễn Du với các tập thơ chữ Hán và đặc biệt là kiệt tác Truyện Kiều

đƣợc coi là đỉnh cao nhất của văn học trung đại Việt Nam. Nửa cuối thế kỉ XIX, khi đất

nƣớc rơi vào họa xâm lăng, các tác giả bày tỏ nỗi đau xót và đồng cảm với nỗi khổ của

ngƣời dân, đặc biệt là ngƣời nông dân lao động trở thành tâm điểm trong cảm hứng

sáng tác. Lần đầu tiên trong văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu xây dựng hình ảnh

những ngƣời dân ấp dân lân bất khuất vùng lên chống giặc ngoại xâm trở thành biểu

tƣợng kì vĩ, bất hủ về ngƣời anh hùng nghĩa sĩ nông dân trong thời kì lịch sử chiến đấu

chống ngoại xâm. Nhà thơ của quê hƣơng làng cảnh Việt Nam Tam Nguyên Yên Đổ lại

hƣớng đến bức tranh đời sống nông thôn với những ngƣời nông dân dân nghèo khổ,

bình dị, chân chất nhƣng thấm đƣợm ân tình. Thành tựu rực rỡ của tƣ tƣởng thân dân

giai đoạn thế kỉ XVIII - XIX phải chăng đã đƣợc khơi nguồn, nối dòng từ văn học dân

tộc giai đoạn trƣớc qua các tác phẩm văn học Phật giáo thời Lí, sáng tác của Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan, Thiên Nam ngữ lục, Thiên Nam minh

giám,…

Tựu chung lại, tƣ tƣởng thân dân không chỉ là vấn đề có ý nghĩa ở thời trung đại

mà nó còn đƣợc kế thừa, phát triển xuyên suốt trong suốt tiến trình của lịch sử văn học

Việt Nam. Thời cận đại, các nhà Nho duy tân yêu nƣớc nhƣ Phan Bội Châu, Phan Châu

Trinh đã nâng cao quan điểm về dân lên một bƣớc mới phù hợp với bối cảnh lịch sử của

đất nƣớc. Họ đề cao vai trò của quần chúng nhân dân, quyền làm chủ đất nƣớc của nhân

dân, xây dựng tƣ tƣởng mới cho nhân dân, chấn hƣng cải cách đất nƣớc dựa trên sức

mạnh của nhân dân. Phan Bội Châu nhận định: “Dân là dân nƣớc, nƣớc là nƣớc dân”

“Một lãnh thổ không thể gọi là đất nƣớc nếu không có nhân dân”. Đến thời đại Hồ Chí

Minh, tƣ tƣởng thân dân đã đƣợc phát triển lên tới tầm cao mới trên cả hai bình diện lí

luận và thực tiễn, phù hợp với thời kì cách mạng mới ở nƣớc ta. Hồ Chí Minh luôn nhắc

nhở Đảng ta phải lấy “dân là gốc”. Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng lâu dài

đầy gian khổ, hi sinh của Ngƣời, Hồ Chí Minh luôn kế thừa có chọn lọc và vận dụng rất

sáng tạo tƣ tƣởng này đối với đƣờng lối đấu tranh chống ngoại xâm, giải phóng dân tộc.

Tƣ tƣởng thân dân tiếp tục đƣợc quan tâm và vận dụng linh hoạt trong sự nghiệp đổi

mới đất nƣớc hiện nay. Tinh thần “lấy dân làm gốc” đã và đang phát huy mạnh mẽ vai

42

trò của quần chúng nhân dân, tạo nên động lực lớn lao đối với sự phát triển của đất

nƣớc.

Nhƣ vậy, dù thời đại nào thì các nhà tƣ tƣởng lớn vẫn nhìn thấy vai trò, sức

mạnh to lớn của nhân dân đối với đất nƣớc. Luận án của chúng tôi nhìn nhận tƣ tƣởng

thân dân theo tiến trình vận động lịch sử, mỗi giai đoạn lịch sử, do những vấn đề thực

tiễn xã hội đặt ra, tƣ tƣởng thân dân lại có sắc thái riêng. Cụ thể trong từng giai đoạn

văn học có thể xuất hiện những tác giả, tác phẩm lớn chúng tôi sẽ phân tích sâu trong

nội dung luận án. Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân từ thế kỉ X đến hết

thế kỉ XVII là bởi lẽ trong suốt tám thế kỉ văn học gắn với năm triều đại phong kiến

này, tƣ tƣởng thân dân đã có một quá trình vận động, phát triển với những nét riêng,

vừa kế thừa lại vừa nối tiếp liên tục từ giai đoạn này sang giai đoạn khác nhƣng cũng có

một số điểm cơ bản chung mang tính quy luật của tƣ tƣởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam. Điều này đã đƣợc chúng tôi phân tích cụ thể và tổng hợp qua từng

giai đoạn văn học ở những nội dung tiếp theo của luận án. Tƣ tƣởng thân dân hình

thành trong suốt chiều dài tám trăm năm của văn học đã trở thành sản phẩm tinh thần

đầy tự hào, làm nên hồn cốt sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

3.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Lí

Để tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Lí, chúng tôi tiến hành khảo sát

khoảng 136 đơn vị tác phẩm thời Lí của 60 tác giả hữu danh và 14 tác giả khuyết danh.

Theo thống kê của chúng tôi, số tác giả thể hiện tƣ tƣởng thân dân là 18, số tác phẩm có

tƣ tƣởng thân dân là 22 bài viết bằng chữ Hán (18 bài văn chính luận, 4 bài thơ ) [Xin

xem bảng phụ lục cuối Luận án].

3.2.1. Trọng dân và hướng tới ước nguyện của người dân

Triều đại nhà Lí đặt ra một yêu cầu thực tiễn, đi đôi với nhiệm vụ bảo vệ độc lập

dân tộc trƣớc các thế lực ngoại xâm phƣơng Bắc, là nhiệm vụ xây dựng và củng cố

vƣơng quyền, chế độ, tạo lập cuộc sống thanh bình, no ấm cho nhân dân. Xây dựng đất

nƣớc cƣờng thịnh đồng nghĩa với việc có một vƣơng triều hợp lòng dân. Đất nƣớc muốn

yên ổn, đời sống muôn dân muốn an vui, no ấm, trƣớc hết cần có những ngƣời lãnh đạo

tốt. Đó là yêu cầu, là nguyện vọng, mong muốn của nhân dân. Vì thế, việc thay đổi nhà

Tiền Lê đã suy yếu, việc lựa chọn và ủng hộ nhà Lí lên lãnh đạo đất nƣớc là tất yếu, phù

hợp với ý nguyện của nhân dân, cũng nhƣ của mọi tầng lớp ngƣời trong xã hội.

43

Hàng loạt tác phẩm khuyết danh, chủ yếu là thơ, tồn tại dƣới dạng những bài sấm

kí, đã xuất hiện nhằm chuẩn bị dƣ luận cho sự ra đi của nhà Tiền Lê và sự ra đời của

nhà Lí. Có lẽ giới tăng lữ là tác giả của những bài sấm thi đó và cũng là những ngƣời

tham gia tích cực nhất cho sự ra đời của nhà Lí. Trong số đó phải kể đến vai trò hàng

đầu của Thiền sƣ Vạn Hạnh. Ông là tác giả của những bài sấm thi trực tiếp đề cập đến

vấn đề này nhƣ Khuyến Lí Công Uẩn (Khuyên Lí Công Uẩn), Quốc tự (Chữ “quốc”),

Yết bảng thị chúng (Treo bảng nói rõ với mọi ngƣời). Nguyễn Vạn Hạnh tuy theo đạo

Phật song vẫn quan tâm đến những biến cố chính trị, xã hội. Trƣớc đó ông đã từng giúp

Lê Đại Hành (980 - 1055) chống giặc ngoại xâm và dựng nƣớc. Sau này, ông lại giúp Lí

Công Uẩn lên ngôi (1010). Ông đƣợc vua Lê Đại Hành tôn kính, triều đình nhà Lí lại

càng trọng đãi. Thiền sƣ Vạn Hạnh nhạy bén với thời cuộc, ủng hộ những vị vua dốc

lòng vì đất nƣớc, nhân dân. Chính vì quan niệm về chữ trung rộng mở nên Nguyễn Vạn

Hạnh, Đào Cam Mộc đã có những sự chuẩn bị cần thiết để đƣa Lí Công Uẩn lên ngôi.

Một loạt các bài thơ đã ra đời trong bối cảnh đó để ủng hộ Lí Công Uẩn. Nội dung của

chúng thƣờng hƣớng tới ca ngợi tấm lòng nhân đức, yêu dân của Lí Công Uẩn. Bài “Yết

bảng thị chúng” (Treo bảng nói rõ với mọi ngƣời) nói tới niềm tin, niềm mong ƣớc về

một cuộc sống yên bình, nhân dân đƣợc ấm no, không còn cảnh đao binh khốn khổ. Để

thực hiện điều đó cần có một vị vua nhân đức. Niềm tin mà thiền sƣ và ngƣời dân có thể

trao trọn vẹn vào Lí Công Uẩn:

Tật lê trầm Bắc thuỷ,

Lý tử thụ Nam thiên.

Tứ phƣơng qua can tĩnh,

Bát biểu hạ bình yên.

(Cây tật lê chìm xuống biển Bắc,

Cây mận mọc lên ở trời Nam.

Ấy là lúc bốn phƣơng dẹp yên binh lửa,

Và tám cõi mừng chúc cảnh thái bình.)

“Cây tật lê” và “cây mận” là hình ảnh mang ý nghĩa biểu tƣợng. Tác giả đã sử

dụng hình ảnh “cây tật lê” (loài cây có gai) để chỉ nhà Tiền Lê. Dựa theo tên chữ Hán,

hình ảnh “cây mận” lại đƣợc dùng để nói về triều Lí. Thiền sƣ Vạn Hạnh đã tiên đoán

nhà Tiền Lê sẽ sụp đổ, nhà Lí sẽ tạo nên một vận hội mới. Điều này là hoàn toàn có cơ

sở bởi vì vua Lê Long Đĩnh rất bạo ngƣợc và tàn ác. Vua thƣờng lấy chém giết làm trò

44

chơi, lấy rơm tẩm dầu đốt tội nhân, bỏ ngƣời vào sọt cho trôi sông, róc vỏ mía trên đầu

sƣ. Nhân dân rất căm giận trƣớc những việc làm đó. Vì vậy, ai ai cũng ủng hộ Lí Công

Uẩn - một vị tƣớng khoan hoà, nhân ái lên ngôi vua.

Bài thơ “Đại đức” (Đức lớn) lại tô đậm vẻ đẹp của Lí Công Uẩn ở tấm lòng yêu

nƣớc, thƣơng dân:

Đế đức càn khôn đại

Uy thanh tĩnh bất diên

U âm mông huệ trạch

Ƣu ốc ái xung thiên ”

(Đức lớn nhà vua nhƣ trời đất,

Uy danh làm cho tám cõi đƣợc yên ổn

Những nơi tối tăm cũng đƣợc nhờ ơn trạch

Và thấm nhuần đến cả Xung thiên)

Điểm chung của các bài thơ trên là đều hƣớng đến việc ca ngợi Lí Công Uẩn -

một vị vua tài năng, đức độ sẽ đem lại cuộc sống thái bình cho ngƣời dân. Việc Lí Công

Uẩn lên ngôi, nhà Lí thay nhà Tiền Lê là phù hợp với ý trời - lòng dân.

Phẩm chất của nhà vua, của triều đình không chỉ đƣợc thể hiện ra ở những lời tán

dƣơng, ngợi ca của quần thần, mà còn đƣợc thể hiện qua đời sống thanh bình, no ấm

của nhân dân thời Lí. Có đƣợc điều ấy, bởi nhà Lí về cơ bản đã biết thống nhất quyền

lợi của vƣơng triều với quyền lợi của nhân dân, điều đó thể hiện trong những hành động

đáng trân trọng của các vị vua nhà Lí nhƣ: miễn thuế cho dân chúng (Lí Thái Tông, “Xá

thuế chiếu” (Chiếu xá thuế); sẻ chia, thƣơng xót những ngƣời bị giam cầm trong ngục

tối “khổ sở về gông cùm, ngay gian chƣa định rõ, bụng không đủ cơm no, áo không kín

thân” (Lí Thánh Tông, Ngộ đại hàn, vị tả hữu bách quan - Gặp tiết đại hàn, bảo các

quan tả hữu); Cố động Thiên công chúa, vị ngục lại - Nhìn công chúa Động Thiên, bảo

ngục lại); chăm lo cho ngƣời sống, cho dân chúng ngay cả khi sắp lâm chung (Lí Nhân

Tông, Lâm chung di chiếu - Chiếu để lại lúc sắp mất).

Trong buổi đầu dựng nghiệp, nhà Lí cũng phải đƣơng đầu với những thách thức

khốc liệt của tình trạng cát cứ và cƣớp bóc do một số tù trƣởng gây ra trái với quyền lợi

của đất nƣớc, trái với yêu cầu của lịch sử. Có lúc nhà Lí cũng bất đắc dĩ phải dùng vũ

lực để chống lại nạn cát cứ đó hay đánh dẹp các cuộc nổi dậy của những lực lƣợng

chống đối, tình hình này ít nhiều đƣợc phản ánh trong một số bài chiếu của vua chúa

45

nhà Lí nhƣ: Bình Nùng chiếu (Chiếu đánh dẹp họ Nùng) của Lí Thái Tông; Thảo Ma -

sa động hịch (Hịch đánh động Ma - sa) của Lí Nhân Tông; Thảo Trần Tự Khánh chiếu

(Chiếu đánh dẹp Trần Tự Khánh) của Lí Huệ Tông. Tuy nhiên, những hành động đánh

dẹp quân phản loạn của nhà vua đƣợc xem là “đặt sự thống nhất dân tộc và toàn vẹn

lãnh thổ lên trên hết” nên đƣợc nhân dân ủng hộ. Trong bài Hịch đánh động Ma - sa

vua Lí Nhân Tông đã nêu lên tƣ tƣởng chính nghĩa đó: “Động Ma Sa là một bộ phận

không thể chia cắt của đất nƣớc, dân chúng động Ma Sa cũng là dân chúng của nƣớc

Đại Việt thống nhất. Mọi hành động đi ngƣợc lại thực tế đó đều phải bị trừng trị …

Những hành động đó cần đƣợc nhìn nhận và khẳng định trên quan điểm về sự thống nhất

dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ”. Nhƣng nói chung, nhà Lí đã dùng nhiều biện pháp ngoại

giao mềm dẻo, chân thành cốt hòa hợp nhân dân các dân tộc thiểu số với dân tộc Việt một

cách kiên trì để vừa chống lại mối đe dọa ngoại xâm vừa xây dựng phát triển văn hóa Đại

Việt và điều quan trọng nhất là để bảo vệ cuộc sống thanh bình yên ổn cho nhân dân.

Đề cao vai trò của ngƣời dân trong sự nghiệp thống nhất đất nƣớc là nội dung

tiêu biểu trong tác phẩm Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn (974 - 1028), vị vua khai

nghiệp nhà Lí. Đây là một tác phẩm văn học lớn, một cái mốc quan trọng dánh dấu

không chỉ tƣ tƣởng nghệ thuật tiêu biểu của một thời đại, mà còn là một hình thức nghệ

thuật tiêu biểu cho văn học chức năng ở thời kì này. Bài chiếu phản ánh sự kiện lịch sử

quan trọng của dân tộc ta ở đầu thế kỷ XI, đó là việc dời kinh đô từ Hoa Lƣ ra Thăng

Long, mở ra một thời đại lịch sử mới, một thời kì văn hóa mới. Bài chiếu lí giải mục

đích của việc dời đô của Lí Thái Tổ là vừa phù hợp với mệnh trời (tức là phù hợp với

quy luật khách quan), vừa thuận theo ý dân (phù hợp với nguyện vọng của nhân dân).

Kết quả của việc dời dô là làm cho đất nƣớc vững bền, phát triển phồn thịnh và nhân

dân no ấm, hạnh phúc. Từ mục đích đó, tác giả soi sử sách vào tình hình thực tế và nhận

xét có tính chất phê phán hai triều đại Đinh, Lê cứ đóng yên đô thành ở vùng núi Hoa

Lƣ. Theo tác giả, việc không dời đô sẽ phạm những sai lầm: không theo mệnh trời,

không học theo cái đúng của ngƣời xƣa và hậu quả là triều đại ngắn ngủi, nhân dân thì

khổ sở, vạn vật không thích nghi, đất nƣớc không thể phát triển thịnh vƣợng trong một

vùng đất chật chội.

Lí Thái Tổ khẳng định thành Đại La là nơi tốt nhất để định đô. Đây là thắng địa

có lợi thế về nhiều mặt về vị thế địa lý, về chính trị, văn hóa “ở vào nơi trung tâm trời

đất; đƣợc cái thế rồng cuộn hổ ngồi” nhƣng điều cốt yếu nhất là: “Dân cƣ khỏi chịu

46

cảnh khốn khổ ngập lụt; muôn vật cũng rất mực phong phú tốt tƣơi. Chiếu dời đô là bài

chiếu có sức thuyết phục to lớn vì đã nói đúng đƣợc ý nguyện của nhân dân. Bài chiếu đã

chứng minh Lí Công Uẩn không chỉ là nhà chính trị - văn hóa lỗi lạc bậc nhất của thời kì

này mà ông thực sự đã trở thành một vị minh quân mẫu mực và thấu hiểu lòng dân.

Văn học thời Lí còn đề cao vai trò của ngƣời dân trong công cuộc bảo vệ Tổ

quốc. Khi đất nƣớc có ngoại xâm, nhân dân là lực lƣợng quan trọng trong các cuộc

chiến đấu. Triều đình nhà Lí, đặc biệt là vị tƣớng tài ba Lí Thƣờng Kiệt đã phát huy

đƣợc đƣợc sức mạnh đoàn kết toàn dân, đánh tan quân Tống xâm lƣợc. Ông không chỉ

oanh liệt trong tài cầm quân đánh nam, dẹp bắc mà còn có tấm lòng độ lƣợng bao dung,

biết lấy việc “yên dân” làm đầu. “Phạt Tống lộ bố văn” (Bài văn lộ bố khi đánh Tống)

là bài hịch đầu tiên còn lại trong văn học viết Việt Nam, đƣợc Lí Thƣờng Kiệt viết khi

ông chỉ huy cuộc tiến công nhằm triệt hạ các thành trì của quân Tống ở các châu Khâm,

Liêm, Ung vùng Lƣỡng Quảng năm 1075 trên đất Trung Quốc và dập tắt ý đồ xâm lƣợc

đang nhen nhóm của kẻ thù. Mở đầu tác phẩm tác giả tuyên bố rõ ràng mục đích đánh

giặc là vì dân: “Trời sinh ra dân chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm chúa dân, cốt ở

nuôi dân”. Thế là Lí Thƣờng Kiệt đã đặt vấn đề nuôi dân nhƣ nội dung chủ yếu của đạo

làm vua. Nuôi dân là làm sao cho dân có cuộc sống thái bình, ấm no. Muốn vậy, phải

đánh đuổi giặc ngoại xâm dẹp yên bờ cõi cho dân đƣợc yên ổn. Nghệ thuật quân sự

thƣờng đề cao vai trò của yếu tố “thời thế”, “địa linh”, “nhân kiệt”. Lí Thƣờng Kiệt rất

chú trọng tới “lòng ngƣời”, không chỉ đánh bằng “vũ”, mà còn đánh bằng “văn”; không

chỉ có “binh nhẫn ký tiếp”, mà còn có cả “mƣu phạt nhi tâm công”, một tƣ tƣởng quân

sự đƣợc kế thừa và phát huy mãi về sau. Tƣ tƣởng trọng dân, thân dân mà ông phát biểu

lên một cách rõ ràng và nghiêm trang nhƣ vậy chẳng những làm vẻ vang cho ông mà

còn làm rạng rỡ thêm những trang lịch sử của văn học nƣớc nhà.

Xuất phát từ cách đặt vấn đề nhƣ trên, ông phê phán kẻ cầm quyền nhà Tống:

“Nay nghe vua Tống ngu hèn, chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham

tà của Vƣơng An Thạch, bày những phép “thanh miêu”, “trợ dịch”, khiến trăm họ mệt

nhọc lầm than mà riêng thỏa cái mƣu nuôi mình béo mập. Bởi tính mệnh muôn dân đều

phú bẩm tự trời, thế mà bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lƣợng kẻ ở trên cố nhiên phải

xót. Những việc từ trƣớc, thôi nói làm gì!”. Lời văn đầy phẫn nộ và có tính chiến đấu

cao. Văn “lộ bố” đƣợc truyền đi trên đƣờng đánh các châu Khâm, châu Liêm ở phía

nam Trung Quốc. Chiến dịch này nhằm tiêu diệt các căn cứ hậu cần mà vua Tống đang

47

cho củng cố và phát triển trong kế hoạch chuẩn bị xâm lƣợc nƣớc Đại Việt. Văn “lộ bố”

nhằm tranh thủ đƣợc sự đồng tình hoặc ít ra là thái độ trung lập của nhân dân Trung

Quốc trƣớc việc quân đội Đại Việt vƣợt qua biên giới mà đánh lên phía Bắc, nhằm đạt

đƣợc yêu cầu “vấn tội hữu danh”, tức là nêu cao đƣợc danh nghĩa chính đáng của việc

chinh phạt hỏi tội kẻ có tội (ở đây là vua tôi nhà Tống). Bài hịch có mục đích chính trị

là gạt bỏ mọi sự nghi kỵ và chống đối của nhân dân Trung Quốc trƣớc sự xâm nhập của

một đạo quân nƣớc ngoài. Nhƣng không thể phủ nhận đƣợc tâm ý của Lí Thƣờng Kiệt

khi ông viết: “chỉ có ý phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân”. Đất nƣớc thì

phải phân biệt rạch ròi, nhƣng không thể đối lập nhân dân hai nƣớc với nhau. Đó là một

quan niệm rất đúng đắn, gắn với lòng yêu hòa bình, chuộng hữu nghị, trọng nhân nghĩa,

mong ƣớc cho nhân dân đƣợc hƣởng ấm no, thịnh vƣợng.

Không chỉ ca ngợi một chiều mẫu hình những vị vua tài tƣớng giỏi, yêu nƣớc

thƣơng dân, văn học cuối thời Lí còn cất lên tiếng nói phê phán thẳng thắn, nghiêm

khắc các vị vua đi ngƣợc lại tƣ tƣởng thân dân, không “lấy dân làm gốc”, coi trọng

việc hƣởng lạc cá nhân hơn việc chăm lo đời sống nhân dân. Trƣớc cảnh vƣơng triều

bắt đầu sa sút, đời sống nhân dân khốn khó, nhiều tác giả đã lên tiếng phê phán những

yếu kém của các vua cuối triều Lí, nhƣ Nguyễn Thƣờng phê phán Lí Cao Tông “rong

chơi vô độ, chính giáo sai lìa, dân chúng buồn khổ”. Lí Cao Tông là vị vua trị vì đất

nƣớc vào thời kỳ suy vong nhất của triều Lí, nhƣng lại không có một tầm mắt sáng suốt

quyết đoán, mà chỉ ngày đêm ăn chơi hƣởng lạc, lại thêm thiếu hẳn một bộ máy quan

lại vững mạnh, cho nên xã hội ngày càng đi nhanh tới sụp đổ. Một đôi khi, nhìn thấy

nguy cơ đe dọa trƣớc mắt, ông cũng có ý tỏ ra ân hận, xuống chiếu tự răn mình. Đây là

cái hối nhất thời đó mà vị vua này trần tình trong bài “Truy hối tiền quá chiếu” (Chiếu

hối lỗi): “Trẫm còn bé đã phải gánh vác nghiệp lớn, ở trong chốn cửu trùng sâu thẳm,

không biết nỗi khó nhọc của đời sống muôn dân, lại nghe lời bọn tiểu nhân mà gây oán

với ngƣời dƣới. Dân đã oán thán thì trẫm còn biết dựa vào ai?”.

3.2.2. Ý thức về trách nhiệm trước người dân

Biểu hiện tiếp theo của tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Lí là đề cập đến ý

thức về trách nhiệm trƣớc ngƣời dân. Khát vọng mong muốn vận nƣớc lâu dài, cuộc sống

no đủ, hạnh phúc là khát vọng muôn đời của con ngƣời. Để đƣợc nhƣ vậy nhà vua cần

dùng đức của mình để trị vì khiến nhân dân ngƣỡng mộ, thuần phục, tin tƣởng.

48

Nhà thơ Đỗ Pháp Thuận đã gián tiếp nói lên nguyện vọng tha thiết đó của mình

trong bài thơ “Quốc tộ” (Vận nƣớc), một bài thơ ngắn gọn, lời lẽ giản dị mà hàm ý sâu xa:

“Quốc tộ nhƣ đằng lạc,

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cƣ điện các,

Xứ xứ tức đao binh.”

(Vận nƣớc nhƣ dây mây quấn quít,

Trời Nam mở nền thái bình.

Thực hiện đƣờng lối vô vi ở nơi điện các,

Khắp nơi tắt hết cảnh chiến tranh loạn lạc.)

Để hiểu đúng bài thơ, trƣớc hết phải hiểu sâu hơn về hoàn cảnh ra đời của tác

phẩm. Quốc tộ xuất phát từ câu trả lời Lê Đại Hành khi vua hỏi về vận nƣớc ngắn dài.

Lê Đại Hành là vị vua đầu tiên của nhà Tiền Lê có công lớn trong việc phá Tống bình

Chiêm, từng chú ý đến khuyến nông song ngay trong sự nghiệp của nhà vua lại gắn với

bạo lực quyết liệt. Lê Văn Hƣu nhận xét: “Có ngƣời hỏi: Đại Hành với Lí Thái Tổ ai

hơn? Thƣa rằng: kể về mặt trừ dẹp gian trong, đánh tan giặc ngoài, làm mạnh nƣớc Việt

ta, ra oai với ngƣời Tống thì Lí Thái Tổ không bằng Lê Đại Hành có công lao gian khổ

hơn. Nhƣng về mặt tỏ rõ ân uy, lòng ngƣời suy tôn, hƣởng nƣớc lâu dài, để phúc cho con

cháu thì Lê Đại Hành không bằng Lí Thái Tổ lo tính lâu dài hơn. Thế thì Lí Thái Tổ hơn

ƣ? Đáp: Hơn thì không biết, chỉ thấy đức của họ Lí dày hơn họ Lê, vì thế nên noi theo họ

Lí” [97, tr. 139]. Rõ ràng, về mặt tài năng, ông đƣợc các sử gia nhất trí ca ngợi, song về

đức, ông bị chê trách. Nhƣ vậy, từ ngữ cảnh thời đại của bài thơ đã thể hiện rõ ngầm ý

của bài thơ Quốc tộ. Những lời nhắn nhủ của Đỗ Pháp Thuận rất kín đáo, xa xôi mà

cũng đầy ý nghĩa đối với bậc vƣơng giả nhƣ Lê Đại Hành. Việc tu dƣỡng đức chính của

quân vƣơng đƣợc coi nhƣ là một nhân tố đảm bảo cho vận nƣớc bền vững, dài lâu. Hai

chữ “vô vi” còn gắn liền với “đức trị”.

Bài thơ có kết cấu chặt chẽ, ngắn gọn, chỉ gồm hai mƣơi chữ nhƣng lại chứa

đựng nội dung phong phú và sâu sắc. Câu thơ mở đầu nói trực tiếp về vận nƣớc. Vận

nƣớc đƣợc cụ thể hoá qua hình tƣợng thiên nhiên. Tác giả đã so sánh vận nƣớc nhƣ dây

mây quấn quýt. Trƣớc hết, chúng ta thấy dây mây có đặc tính rất dài, rất bền, dẻo dai.

Những thân mây nhỏ bé nhƣng bện vào nhau lại tạo thành bó rất chắc. Sử dụng hình

ảnh so sánh này câu thơ đã diễn tả sự vững bền, sự dài lâu, sự phát triển thịnh vƣợng

49

của đất nƣớc. Có điều đó là bởi nhân dân ta bốn cõi một nhà, trên dƣới một lòng gắn bó

nhƣ những sợi mây nhỏ quấn quýt vào nhau tạo thành khối đoàn kết vững mạnh. Hình

ảnh thơ trong bài rất gần gũi với đời sống của ngƣời Việt. Vì vậy, nói về một vấn đề hệ

trọng đối với dân tộc song ngƣời đọc rất dễ hình dung và dễ hiểu.

Ở câu thơ tiếp theo, tác giả nêu lên hoàn cảnh thái bình của đất nƣớc.

“Nam thiên lí thái bình”

(Trời Nam mở nền thái bình)

Sức nặng của câu thơ rơi vào hai chữ “thái bình”. Trời Nam rất bình yên, thịnh

trị, không bạo lực, xung đột, chiến tranh. Điều đó cũng có nghĩa cuộc sống của nhân

dân yên ấm. Từ an cƣ, ngƣời dân sẽ lạc nghiệp. Có đƣợc nền thái bình là do đất nƣớc và

nhân dân Đại Việt hiểu đƣợc tầm quan trọng của việc đoàn kết toàn dân, tạo ra sức

mạnh chiến thắng kẻ thù. Phải đặt câu thơ và bài thơ trong hoàn cảnh đất nƣớc vừa trải

qua bao cơn binh lửa, chiến tranh, ta mới hiểu hết đƣợc giá trị của hoà bình. Ngô Quyền

vừa chiến thắng lẫy lừng quân Nam Hán, đất nƣớc chƣa kịp phục hồi sau chiến tranh thì

trong nƣớc lại nội loạn mƣời hai sứ quân. Đinh Bộ Lĩnh mới dẹp xong nội loạn, thống

nhất đất nƣớc chƣa đƣợc bao lâu thì quân Tống đã đem đội quân hùng mạnh sang đánh

chiếm nƣớc ta. Vì thế, “thái bình” là hai chữ có tính chất chân lý, đúc rút lên nguyện

vọng nghìn đời của nhân dân ta.

Câu thơ thứ ba với năm chữ ngắn gọn tiếp nối một cách nhuần nhị, khéo léo với

mạch cảm xúc của toàn bài thơ:

Vô vi cƣ điện các

(Thực hiện đƣờng lối vô vi ở nơi điện các).

Ý nghĩa của từ “vô vi” trong câu thơ rất sâu xa. Đây là một khái niệm đƣợc nhiều

trƣờng phái triết học, tôn giáo sử dụng. Trƣớc hết “vô vi” là một thuật ngữ trong “Đạo

đức kinh” của Lão Tử nhằm chỉ thái độ sống thuận theo tự nhiên, không làm điều trái tự

nhiên. Theo quan điểm nhà Phật, “vô vi” trong “vô vi pháp” là sống từ bi, bác ái, vị tha,

không vì lợi ích cá nhân mình. Khái niệm này còn đƣợc hiểu theo nghĩa của Nho giáo,

vô vi tức là bậc thánh nhân dùng đức trị để cảm hoá đƣợc nhân dân. Nhƣ vậy mong

muốn của tác giả là nhà vua thực hiện đƣờng lối chính trị “vô vi”, lấy đức để trị, coi dân

là gốc của đất nƣớc. Đức độ của nhà vua là ở tấm lòng nhân nghĩa, thƣơng yêu muôn

dân để cho khắp nơi sống trong cảnh thanh bình, yên ấm, không có tiếng hờn giận oán

sầu. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc nhà vua không dùng những chính sách hà khắc,

50

bạo ngƣợc để cai trị dân. Nhà vua là ngƣời thay trời hành đạo, chăm sóc nhân dân. Vua

phải biết quên mình vì dân, lấy ý dân làm ý của mình để đoàn kết toàn dân tộc. Đó

chính là sức mạnh để mở nền thái bình muôn thuở:“Xứ xứ tức đao binh” (Khắp nơi tắt

hết cảnh chiến tranh loạn lạc). Câu thơ có giọng điệu đầy tự tin, sảng khoái, phù hợp để

diễn tả niềm tin tƣởng vững chắc về nền thái bình của dân tộc. Bài thơ đã chỉ ra đƣờng

lối chính trị là yếu tố quan trọng quyết định đến sự tồn vong hay thịnh suy của đất nƣớc.

Lấy dân làm gốc, thực hiện chính sách thân dân là bài học đúng đắn, phù hợp cho tất cả

các triều đại sau này. Các vua đời Lí đã học tập và thực hiện đƣờng lối chính trị cởi mở,

khoan giản, thuận theo lòng dân đúng nhƣ lời quốc sƣ Pháp Thuận nên đã xây dựng

đƣợc thái bình, thịnh trị dài lâu cho đất nƣớc bởi vậy muôn dân yêu mến, cả nƣớc đồng

lòng.

Một điểm đặc sắc ở các bài văn chiếu và văn nghị luận thời Lí là đã ghi lại khá

trực tiếp đời sống tƣ tƣởng, tình cảm của vua chúa nhà Lí. Những bài chiếu, những lời

tâm sự của các vua nhà Lí thực sự gây xúc động ngƣời đọc bởi sự chân thành và ý thức

trách nhiệm của họ trƣớc đất nƣớc và muôn dân. Mặc dù đây chỉ là những đoạn văn, ghi

ghép ngắn gọn những mảnh nhỏ sự kiện, sự việc, hành động của các bậc đế vƣơng,

nhƣng chúng rất có ý nghĩa trong việc khắc họa phần nào đời sống tinh thần và tâm hồn

họ. Thoát ra ngoài những cách trình bày có phần công thức, khuôn sáo, những đoạn văn

này đã đem đến cho chúng ta một số thông tin nhất định về phẩm chất con ngƣời họ. Nó

thực sự mở đầu cho một dòng cảm hứng sáng tạo quan trọng trong văn học trung đại, đó

là yêu cầu “phản tƣ”, “nội tỉnh”, là cảm hứng tự phê phán của con ngƣời. Tất nhiên, đó

là cảm hứng của con ngƣời thuộc về tầng lớp trên, tầng lớp thống trị.

Nội dung của các bài văn chiếu thời Lí trƣớc hết tập trung thể hiện tinh thần

trách nhiệm của vua đối với nhân dân. Đó là một số hoạt động đƣợc ghi lại trong sử,

thể hiện trong những bài chiếu lệnh. Năm Giáp Thân (1044), sau khi đánh Chiêm thành

về, Lí Thái Tông ban thƣởng cho các quan, đổi niên hiệu là Thiên Cảm Thánh Vũ, và

ban bố “Xá thuế chiếu” (Chiếu xá thuế): “Việc đánh dẹp phƣơng xa làm tổn hại đến

công việc nhà nông. Thế mà có ngờ đâu, mùa đông năm nay lại đƣợc mùa lớn! Nếu

trăm họ đều no đủ thì trẫm còn lo gì thiếu thốn? Vậy, xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế

năm nau để an ủi nỗi khó nhọc lội suối trèo đèo”. Việc xá thuế đó cho thấy vua rất coi

trọng, hiểu thấu nỗi khó nhọc của ngƣời nông dân nơi đồng ruộng. Sử sách còn chép

một việc: Tháng mƣời năm Ất Mùi (năm 1055), gặp tiết đại hàn, trời rất rét, vua Lí

51

Thánh Tông nghĩ đến ngƣời bị giam cầm trong ngục tối mà trong lòng thƣơng xót, bèn

nói với các quan tả hữu: “Trẫm ở trong thâm cung, sƣởi lò than thú, mặc áo hồ cừu, thế

mà khí lạnh còn ghê gớm đến thế. Huống chi những ngƣời bị giam cầm trong ngục, khổ

sở về gông cùm, ngay gian chƣa định rõ, bụng không đủ cơm no, áo không kín thân thể,

một khi gặp cơn gió bấc thổi, há chẳng phải là vô tội mà chết oan ƣ? Trẫm rất lấy làm

thƣơng xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và mỗi ngày hai bữa cơm phát cho

họ” (Ngộ đại hàn, vị tả hữu bách quan - Gặp tiết đại hàn, bảo các quan tả hữu). Sự việc

phát cho tù nhân chăn chiếu và ngày hai bữa cơm là những việc làm thiết thực thể hiện

lòng nhân từ, khoan dung của nhà vua ngay cả với những ngƣời dân bị coi là có tội. Lời

của nhà vua nói với viên quan coi ngục đã làm sáng tỏ lòng xót thƣơng dân cũng nhƣ

con mình vậy: “Ta yêu con ta cũng nhƣ các bậc cha mẹ trong thiên hạ yêu con cái ho.

Trăm họ không biết gì nên tự phạm vào hình pháp, lòng ta rất xót thƣơng. Cho nên từ

nay về sau, không cứ tội nặng hay nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm” (Cố động Thiên công

chúa, vị ngục lại - Nhìn công chúa Động Thiên, bảo ngục lại).

Lo cho dân, nghĩ về trách nhiệm của mình đối với muôn dân ngay cả đến giây

phút cuối đời là điều khiến hậu thế muôn phần nể phục ở các vị vua nhà Lí. Bản di chúc

xƣa nhất của một vị nguyên thủ quốc gia mà sử sách còn ghi lại đƣợc, đó là di chúc của

vua Lí Nhân Tông trong “Lâm chung di chiếu” (Chiếu để lại lúc sắp mất). Lí Nhân Tông

(1066 - 1128) là con trƣởng của Lí Thánh Tông, đƣợc lên ngôi vua từ năm 6 tuổi, ở

ngôi đƣợc 56 năm (1072-1128) là vị vua nổi tiếng hiền minh. Ông lại đƣợc những vị

tƣớng tài nhƣ Lí Thƣờng Kiệt giúp rập, nên triều đại của ông nổi tiếng là triều đại võ

công, văn trị. Bên ngoài thì đánh thắng giặc ngoại xâm, giữ yên bờ cõi, bên trong thì

kinh tế phồn vinh, muôn dân no đủ. Chính ông là ngƣời lập ra trƣờng Quốc tử giám

(1076) và mở khoa thi chọn hiền tài đầu tiên ở nƣớc ta (1075).

Ngày nay đọc lại bài chiếu của vua Lí Nhân Tông, ta không khỏi cảm động vì

những suy nghĩ, tâm tƣ, tình cảm, nguyện vọng của ngƣời đứng đầu đất nƣớc đều

hƣớng về dân, lo cho dân, trăn trở cùng vận mệnh của đất nƣớc, sự tồn vong của triều đại.

Nhà vua bình tĩnh đón nhận cái chết nhƣ một quy luật tất yếu ở đời, đã có sinh ắt phải có

tử, không ai ra ngoài quy luật đó. Ông sợ quần thần và dân chúng vì lo tang mà vất vả, sợ

đời sau đánh giá không hay về mình. Ông còn nhắc nhở cụ thể hơn về việc tang, khuyên

quần thần, dân chúng phải biết kiệm ƣớc. Quả là, những lời lẽ chân thành lay động lòng

ngƣời. Đến cái chết của bản thân mình vua cũng không muốn tốn kém phiền hà cho dân,

52

Một ngàn năm sau đọc lại di chiếu của Lí Nhân Tông ta càng thấy nổi bật lên tấm lòng

nhân hậu, nhân văn cao cả của một vị vua luôn đặt lợi ích dân tộc lên trên hết, lúc nào

cũng đau đáu đến muôn dân trăm họ. Vĩ đại thay mà cũng giản dị thay!

Nội dung thứ hai trong các bài văn chiếu, văn nghị luận thời Lí là thể hiện

những yêu cầu, đòi hỏi về đạo đức và phẩm chất, ý thức tự tu dƣỡng, tinh thần trách

nhiệm vì dân, vì đất nƣớc của ngƣời làm vua. Đó có thể là yêu cầu của thần dân đối với

vua, nhƣng đó cũng có thể là đòi hỏi của chính các vị vua đối với bản thân. Năm 1130,

trong lời bàn về nguồn gốc hƣng vong, trị loạn của thiên hạ “Thiên hạ hƣng vong trị

loạn tri nguyên luận”, Nguyễn Nguyên Ức trình bày nguyện vọng của nhân dân với nhà

vua: “Thiên hạ cũng giống nhƣ đồ dùng, đặt chỗ yên thì đƣợc yên, đặt chỗ nguy ắt gặp

nguy; cốt yếu là hành vi của bậc nhân chủ nhƣ thế nào mà thôi. Nếu đức hiếu sinh hợp

với lòng dân thì dân yêu nhƣ cha mẹ, ngửa trông nhƣ mặt trời mặt trăng: đó là đặt

thiên hạ vào chỗ yên vậy!” [Thơ văn Lí - Trần, Tập I, tr.461-462]. Tác giả cũng nói lên

một cách thiết tha lòng mong muốn chung của nhân dân là vua hãy dùng ngƣời hiền tài,

yêu quý chúng dân, chăm lo sự nghiệp, luôn tu sửa đạo đức: “Nƣớc trị hay loạn cốt ở

trăm quan; đƣợc ngƣời thì nƣớc trị, mất ngƣời thì nƣớc loạn… Các bậc thánh vƣơng

đời trƣớc đều bắt chƣớc trời, không ngừng trau đức để sửa mình; bắt chƣớc đất, không

ngừng trau đức để yên dân. Sửa mình thì cẩn thận ở trong lòng, run sợ nhƣ dẫm trên

băng mỏng. Yên dân thì yêu mến ngƣời dƣới, hãi hùng nhƣ cƣỡi ngựa nắm dây cƣơng

sờn. Làm đúng thế thì không thể không hƣng, làm trái thế thì không thể không vong.

Quá trình dần dà của sự hƣng vong là ở chỗ đó” [Thơ văn Lí - Trần, Tập I, tr.462].

Với ý thức trách nhiệm trƣớc muôn dân, tác giả Nguyễn Thƣờng phê phán thói

ăn chơi xa xỉ, mải mê âm nhạc buồn thảm của vua Lí Cao Tông, cảnh báo nguy cơ mất

nƣớc (Gián Lí cao Tông hiếu văn bi thiết chi thanh, Khuyên vua Lí Cao Tông không

nên mê đắm âm nhạc buồn thảm). Một tác giả khuyết danh khác khuyên vua Cao Tông

lo tu sửa đạo đức, chăm việc triều chính, chứ không nên xây dựng cung điện, mải

chuyện hƣởng thụ (Gián Lí Cao Tông đại hƣng lâu các, Khuyên vua Lí Cao Tông

đừng xây dựng cung điện).

Vậy bản thân các vị vua đã suy nghĩ nhƣ thế nào về trách nhiệm của những ngƣời

đứng đầu đất nƣớc? Nhƣ trên đã nói đến Lí Nhân Tông là một ông vua giỏi, trƣớc lúc lâm

chung, đã lo lắng kiểm điểm lại bản thân mình, những việc làm đƣợc và chƣa làm đƣợc,

căn dặn phải kiệm ƣớc trong việc tổ chức tang lễ, nhắn nhủ hoàng tử kế vị, căn dặn các

53

quan lại đề phòng mọi bất trắc xảy ra, lo lắng cho nhân dân,… (Lâm chung di chiếu,

Chiếu để lại lúc sắp mất). Lí Anh Tông trƣớc lúc mất quên cả đau đớn của bản thân mình

để căn dặn Thái tử giữ gìn cơ nghiệp tổ tông, giữ gìn giang sơn gấm vóc,… (Lâm chung

chúc Thái tử, Dặn Thái tử lúc sắp mất). Lí Cao Tông tuy hèn kém và nhu nhƣợc, nhƣng

cũng có lúc tỉnh ngộ để hối hận về lỗi lầm đã gây ra khi làm vua, hứa sửa chữa lỗi lầm,

cùng trăm họ canh tân đất nƣớc (Truy hối tiền quá chiếu, Chiếu hối lỗi),…

Nhìn chung, các tác phẩm thơ văn thời Lí đã phản chiếu đƣợc đời sống sôi động

của văn học viết buổi đầu đồng thời thể hiện tƣ tƣởng, tình cảm của con ngƣời thời đại

với tinh thần thân dân. Tiếng nói thân dân không chỉ của tầng lớp vua, quan, nho sĩ mà

nổi bật là đội ngũ các nhà sƣ sáng tác văn học. Các tác giả thiền sƣ đã đem đến cho thơ

văn thời Lí một tiếng nói thân dân độc đáo với tinh thần đƣa tƣ tƣởng an lạc của Phật

giáo vào đời sống thực tiễn của nhân dân, đóng góp hữu ích và tận tụy hết mình vì dân

vì nƣớc bằng tâm thế vị tha, từ bi: hƣớng con ngƣời hòa hợp với thiên nhiên, hƣớng

thiên nhiên gần hơn với cuộc sống an lành của ngƣời dân. Thơ trữ tình là tiếng nói giàu

cảm xúc, chứa đựng hàm ý sâu xa, tinh tế; còn văn chính luận lại bày tỏ khúc triết, trực

tiếp tƣ tƣởng thân dân. Tất cả đều nói lên một tinh thần nghiêm túc và chân thành của

con ngƣời thời kỳ này trƣớc yêu cầu về phẩm chất và nhân cách của ngƣời làm vua, của

ngƣời lãnh đạo trƣớc muôn dân.

3.3. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Trần

Chúng tôi thống kê có 18 tác giả đề cập đến tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời

Trần, tuy nhiên số lƣợng tác phẩm thể hiện tƣ tƣởng thân dân cao hơn rất nhiều so với thời

Lý. Trong tổng số 66 tác phẩm thì thể loại văn chính luận, nghị luận chiếm 3 bài (đều của

tác giả Trần Quốc Tuấn), thơ chiếm 63 bài (đều là thơ chữ Hán). Hai tác giả có tác phẩm

thể hiện tƣ tƣởng thân dân nhiều nhất là Trần Nguyên Đán (17 bài); Nguyễn Phi Khanh (20

bài). [Xin xem phụ lục cuối Luận án]. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Trần có

nhiều biểu hiện phong phú, đa dạng: có khi thể hiện mạnh mẽ, hào hùng ở giai đoạn

thịnh Trần; có khi lại lắng đọng, thâm trầm và kín đáo ở giai đoạn cuối Trần. Mỗi tác

phẩm là một âm sắc khác nhau song đều làm sáng rõ vẻ đẹp tâm hồn của con ngƣời thời

đại Đông A. Tuy nhiên, số lƣợng các tác phẩm thể hiện tƣ tƣởng thân dân tập trung nhất

là thơ, phú của các nho sĩ thuộc giai đoạn cuối Trần. Trong đó, Trần Nguyên Đán và

Nguyễn Phi Khanh là những tác giả tiêu biểu. Những nội dung cụ thể sẽ đƣợc chúng tôi

phân tích theo hai giai đoạn dƣới đây: thời Thịnh Trần và thời Vãn Trần.

54

3.3.1. Lấy dân làm gốc và khoan thứ sức dân trong thời Thịnh Trần

Thời hƣng thịnh của triều đại nhà Trần kéo dài tới hơn một thế kỷ (1225 - 1357),

đƣợc xem là một trong những thời kỳ phồn thịnh nhất của chế độ phong kiến Việt Nam,

đã để lại trong văn học những giá trị độc đáo về tƣ tƣởng thân dân. Tƣ tƣởng thân dân

trở thành một hệ tƣ tƣởng chính trị mang tính chính thống, chi phối toàn bộ văn hóa

chính trị thời đại, với những biểu hiện rõ nét, độc đáo hơn hẳn so với các triều đại quân

chủ khác trong lịch sử Việt Nam.

Xét từ góc độ chính trị - lịch sử, hiếm có triều đại quân chủ phong kiến nào mà

vua quan giữ cách ứng xử hòa mục, gần gũi với ngƣời dân nhƣ thời thịnh Trần. Lúc

chiến tranh loạn lạc hay đất nƣớc gặp cảnh nguy nan, vua Trần Nhân Tông đã từng

cùng nông dân Trần Lai chia bát cơm gạo xấu, từng nhiều đêm cấp tốc vi hành khi hay

tin ngoài hoàng cung có hỏa hoạn. Vua Minh Tông đã từng thân chinh đi xem sửa đê

khi nƣớc sông lên to. Hƣng Đạo Đại Vƣơng từng uống rƣợu với các dân binh trên

đƣờng chinh chiến. Trong cảnh thái bình, vua Nhân Tông vẫn thƣờng đến hành cung

Tức Mặc, dâng lễ ở tiên miếu, thiết yến và ban lụa cho bô lão trong hƣơng và cũng

chính ngài đã lặn lội khắp các chốn thôn quê để chỉ dạy cho muôn dân, giúp dân trừ bỏ

các dâm từ, thực hành thập thiện. Vào những năm đƣợc mùa, trong những ngày hội, vua

quan còn cùng dân chúng nắm tay nhau múa hát chung vui,…Hoàn cảnh lịch sử - văn

hóa của thời đại có ảnh hƣởng tích cực tới cảm hứng và nội dung của văn học. Trong

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông, tƣ tƣởng thân dân “lấy dân làm gốc” tập

trung ở việc đề cao vai trò sức mạnh của ngƣời dân trong các cuộc kháng chiến, hiểu

thấu nguyện vọng của ngƣời dân về nền thái bình, độc lập của đất nƣớc. Trần Quang

Khải - vị tƣớng tài ba, lỗi lạc từng làm nên chiến thắng Hàm Tử, Chƣơng Dƣơng -

Thăng Long, vinh quang nhƣờng ấy, dù vui trong khúc ca khải hoàn phơi phới vẫn

không ngủ quên trong chiến thắng. Lắng đọng lại trong lòng vị chiến tƣớng là nỗi suy

tƣ trĩu nặng về tƣơng lai đất nƣớc còn vƣơng khói súng, là nỗi lo về kế sách lâu dài cho

muôn dân trăm họ đƣợc thái bình:

“Đoạt sóc Chƣơng Dƣơng độ

Cầm Hồ Hàm Tử quan

Thái bình tu trí lực

Vạn cổ thử giang san”

(Chƣơng Dƣơng cƣớp giáo giặc

55

Hàm Tử bắt quân thù

Thái bình nên gắng sức

Non nƣớc ấy ngàn thu)

(Tụng giá hoàn kinh sƣ - Phò giá về kinh -

Bản dịch thơ của Trần Trọng Kim).

Nhà Trần có rất nhiều vị tƣớng văn võ toàn tài, trong đó phải kể tới Trần Quốc

Tuấn. Tác phẩm của ông âm vang không khí chiến trận của thời đại, kết tinh lòng dân, ý

dân trong công cuộc đấu tranh chống ngoại xâm, bảo vệ nền độ lập của dân tộc. Quốc

công Tiết chế Hƣng Đạo vƣơng Trần Quốc Tuấn, vị thánh tƣớng của dân tộc, tầm vóc

tài năng quân sự kiệt xuất vƣợt ra khỏi ranh giới Đại Việt, là một trong mƣời tƣớng lĩnh

tài giỏi nhất mọi thời đại đƣợc thế giới tôn vinh. Tài năng quân sự của ông biểu hiện rõ

nhất là sớm nhận thức đƣợc nguồn sức mạnh của nhân dân trong giữ nƣớc, đánh giặc

ngoại xâm. Trong sự nghiệp hiển hách đánh đuổi quân xâm lƣợc Nguyên - Mông, Trần

Quốc Tuấn có vai trò đặc biệt quan trọng. Ông đƣợc vua Trần tin yêu, trao quyền tiết

chế, thống suất cả vƣơng hầu, tông thất, tƣớng lĩnh, dân binh, điều động toàn quân

chống giặc. Bản lĩnh của Trần Quốc Tuấn thể hiện ở quyết tâm đánh địch và đánh thắng

địch mạnh không gì lay chuyển, ngay cả những lúc thế nƣớc ngàn cân treo sợi tóc đều

tuyệt đối tin tƣởng vào thắng lợi cuối cùng, là ngọn cờ giữ vững lòng quân, lòng dân.

Khi sự mất còn của đất nƣớc trong gang tấc, quân xâm lƣợc tƣởng nhƣ đã đè bẹp ý chí

đấu tranh của Đại Việt, nội bộ quý tộc và quan lại vƣơng triều đã nao núng, Trần Quốc

Tuấn vẫn giữ vững lòng tin vào đại thắng của chính nghĩa.

Hịch tƣớng sĩ là bài văn chính luận nổi tiếng của Trần Quốc Tuấn và cũng trở

thành đỉnh cao nhất của văn học yêu nƣớc thời Trần. Quan niệm của ngƣời trung đại về

lí tƣởng trung quân đƣợc thể hiện ở chỗ trung với vua là yêu nƣớc - yêu nƣớc là trung

với vua, sẵn sàng chết cho ngƣời chủ nhƣng lí tƣởng đó trong bài hịch lại đƣợc Trần

Quốc Tuấn nhìn nhận theo quan hệ chủ tƣớng và quan hệ hòa đồng. Đây là điểm đặc

sắc khi đánh giá tƣ tƣởng thân dân của bài hịch. Tấm lòng ân tình của chủ tƣớng với các

tƣớng sĩ dựa trên hai quan hệ: quan hệ chủ tƣớng và quan hệ cùng cảnh ngộ. Quan hệ

chủ tƣớng để khích lệ tinh thần trung quân ái quốc còn quan hệ cùng cảnh ngộ để khích

lệ lòng ân nghĩa thủy chung của những ngƣời cùng chung hoàn cảnh: “lúc trận mạc

xông pha thì cùng nhau sống chết , lúc ở nhà nhàn hạ thì cùng nhau vui cƣời”. Nêu mối

ân tình giữa mình và tƣớng sĩ, Trần Quốc Tuấn đã khích lệ ý thức trách nhiệm và nghĩa

56

vụ của mỗi ngƣời đối với lẽ vua tôi. Trần Quốc Tuấn còn chỉ ra những hậu quả tai hại

khôn lƣờng nếu tƣớng sĩ đều sa vào ăn chơi hƣởng lạc: thái ấp, bổng lộc không còn; gia

quyến, vợ con khốn cùng, tan nát; xã tắc, tổ tông bị giày xéo; thanh danh ô nhục; chủ và

tƣớng, riêng và chung,… tất cả đều “đau xót biết chừng nào”. Trái lại, tác giả cũng chỉ

ra những viễn cảnh nếu chiến đấu thắng lợi thì đƣợc cả chung và riêng “mãi mãi vững

bền”, “đời đời hƣởng thụ”, “không bị mai một”, “sử sách lƣu thơm”,… Ông đã chứng

minh rằng sự còn mất của mỗi ngƣời gắn liền với sự đƣợc thua của cuộc chiến đấu, rằng

lợi ích thiết thân của mỗi ngƣời gắn liền với sự đƣợc thua của cuộc chiến đấu, rằng lợi

ích của mỗi ngƣời gắn liền với lợi ích tối cao của Tổ quốc.

Tuy không nói đến dân thƣờng, nhƣng khi xác định lợi ích chung của mình với

lợi ích của tƣớng sĩ vì vận mệnh dân tộc trƣớc kẻ thù chung, bài hịch rất có giá trị lịch

sử và tính nhân dân sâu sắc. Nhân dân ta, thông qua các kỳ hội nghị ở Diên Hồng, đã tỏ

rõ thái độ đoàn kết và quyết chiến. Nhân dân ta đã hiểu rằng để bảo vệ quyền sống của

mình chống giặc dữ thì phải ủng hộ những ngƣời lãnh đạo Nhà nƣớc lúc bấy giờ. Và bài

hịch của Trần Quốc Tuấn đã nói lên nguyện vọng đó của nhân dân đời Trần.

Tiếp thu tinh thần lấy dân làm gốc, ngƣời cầm quyền thời thịnh Trần đã luôn

dành tình cảm yêu mến, xót thƣơng cho “con dân” của mình. Vua Trần Minh Tông đã

đặt mình trong quan hệ ruột thịt với cộng đồng dân tộc để xác định trách nhiệm trƣớc

đồng bào:

Sinh dân nhất thị ngã đồng bào,

Tứ hải hà tâm sử khốn cùng?.

(Ta với dân cùng một bọc mà ra,

Cớ sao lại làm cho bốn biển phải khổ?)

(Nghệ An hành điện”, Hành cung ở Nghệ An).

Từ đó, nhà vua coi việc lo cho dân là trách nhiệm nhƣ cha mẹ lo cho con, là sự

lựa chọn không hề toan tính thiệt hơn và sẵn sàng quên đi sự an nguy của bản thân

mình. Chính những ứng xử cận nhân tình ấy của nhà cầm quyền đã tạo cho thời thịnh

Trần bầu không khí đại đồng, cởi mở, trở thành triều đại tiêu biểu cho tinh thần đoàn kết,

hòa hợp dân tộc.

Văn học thời thịnh Trần còn nổi bật với tƣ tƣởng “khoan thƣ sức dân”. Trần

Quốc Tuấn nhận thức rõ nhân dân mới là nguồn sức mạnh giữ nƣớc, nguồn sức mạnh

vô địch, nguồn sức mạnh mà không một kẻ thù tàn bạo nào có thể khuất phục. Ông luôn

57

chăm lo sức dân ngay khi thời bình cũng nhƣ trong thời chiến. Đỉnh cao chủ trƣơng

thân dân của ông là tƣ tƣởng: “Khoan sức cho dân để làm cái kế sâu gốc, kế rễ bền. Đó

mới là thƣợng sách giữ nƣớc, không còn gì hơn”. Ông coi nhân dân là lực lƣợng chủ

yếu để tiến hành cuộc chiến tranh giữ nƣớc, bảo vệ chế độ phong kiến. Trƣớc lúc mất,

khi đƣợc vua Trần Anh Tông ngầm hỏi về kế sách giữ nƣớc, ông đã chỉ ra rằng: “Mới

rồi Toa Đô và Ô Mã Nhi bốn mặt bao vây, vì vua tôi cùng lòng, anh em hòa mục, nƣớc

nhà góp sức, giặc tự bị bất, đó là trời xui nên vậy. Nếu thấy quân giặc đến ồ ạt nhƣ lửa

cháy gió thổi thì dễ chế ngự. Nếu nó đi chậm nhƣ cách tằm ăn, không cần của đến,

không cầu đƣợc chóng, thì phải chọn dùng tƣớng giỏi, xem xét quyền biến, nhƣ đánh cờ

vậy, tùy thì mà làm, có thu phục quân lính một lòng mới dùng đƣợc. Vả lại, khoan sức

cho dân làm kế sâu gốc, kế bền rễ, đó là thƣợng sách để giữ nƣớc” [Lâm chung di chúc

- Căn dặn trƣớc khi mất]. Trần Quốc Tuấn coi trọng sức mạnh của nhân dân, dựa vào

dân để đánh giặc giữ nƣớc, đây là một tƣ tƣởng hết sức tiến bộ mà thời đại đó rất ít

ngƣời có thể nhận ra vì các triều đại phong kiến xƣa kia chỉ coi ngƣời dân là “thảo

dân” (cỏ dại).

Trần Quốc Tuấn đã nêu ra những nhận định có tính chất tổng kết kinh nghiệm và

những quy luật của cuộc chiến tranh giữ nƣớc suốt thời kỳ Bắc thuộc đến cuộc kháng

chiến chống quân xâm lƣợc Nguyên Mông. Trong đó ông nhấn mạnh đến vai trò của

nhân dân trong chiến tranh và ông khẳng định chủ trƣơng dựa vào dân để đánh giặc giữ

nƣớc, làm cho mỗi ngƣời dân trở thành một chiến binh tham gia vào cuộc chiến đấu

chống quân xâm lƣợc. Muốn thế, theo ông, lợi ích của nhà vua, của triều đình phải phù

hợp với lợi ích của dân tộc, của nhân dân; nhà vua phải quan tâm đến những quyền lợi

cơ bản của nhân dân. Ngoài ra, để thực hiện đƣợc những mục tiêu ấy, để hợp lòng dân,

mà từ đó huy động đƣợc sức ngƣời, sức của phục vụ cho chiến tranh giữ nƣớc, thì điều

quan trọng và có ý nghĩa quyết định, là phải thi hành chính sách khoan thƣ sức dân.

Phải biết huy động sức dân hợp thời, không đƣợc làm kiệt sức dân vào các công trình

xây dựng tốn kém. Nhà cầm quyền trong thời bình, nhiệm vụ quan trọng nhất là phải lo

cho đời sống của dân, cấm kỵ nhất là làm cho dân thêm khổ cực, có nhƣ vậy lúc vào

thời chiến mới đủ ngƣời, đủ của, đủ ý chí để bảo vệ biên cƣơng. Cho nên, khi chiến

thắng rồi các triều đại Lí - Trần không bắt dân lên núi xẻ đá, vào rừng đẵn gỗ, xuống

biển mò ngọc để xây dựng cung điện, đền đài, lăng tẩm...chính sách này đòi hỏi sự quan

tâm của nhà vua, nhà nƣớc phong kiến đối với sản xuất và đời sống nhân dân, do đó mà

58

tranh thủ đƣợc sự đồng lòng, ủng hộ của nhân dân. Có thể nói, dƣới con mắt của Trần

Quốc Tuấn nhân dân chính là nơi chứa chất những tiềm lực to lớn về kinh tế, quốc

phòng, là cơ sở đảm bảo vững chắc cho nền độc lập, tự chủ và chủ quyền của đất nƣớc.

Vì vậy, việc ông “khoan sức cho dân làm kế sâu rễ, kế bền gốc” là thƣợng sách để giữ

nƣớc thể hiện nhận thức đúng đắn, sáng suốt về vai trò của dân trong cuộc chiến tranh

nhân dân bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nƣớc.

Ý thức “khoan sức cho dân” gắn liền với đƣờng lối “đức trị” trong chính sách

của những ngƣời lãnh đạo Nhà nƣớc lúc đƣơng thời. Trƣơng Hán Siêu trong bài phú

chữ Hán Bạch Đằng giang phú cho rằng một nửa nguyên nhân chiến thắng là vai trò

của con ngƣời. Lần thứ nhất, tác giả đặt ra mối quan hệ giữa đất hiểm và nhân tài:

“Tín nhiệm tạm chi thiết hiểm

Lại nhân kiệt dĩ điện an".

(Đúng là trời đất đã bày đặt cho địa thế hiểm trở

Mà cũng nhờ ngƣời tài giữ nền hòa bình).

Lần thứ hai, tác giả nhấn mạnh đức của ngƣời lãnh đạo:

“Nhân nhân hề văn danh

Phỉ nhân hề câu dẫn".

(Ngƣời có đức nhân sẽ còn đƣợc lƣu danh

Kẻ bất nhân đều bị tiêu diệt).

Và đến phần kết luận của bài phú, tác giả đã nhấn mạnh nhân tố con ngƣời, con

ngƣời với “đức cao” và chính nghĩa có tác dụng quyết định trong mọi sự thành công ở đời:

“Tín tri: Bất tại quan hà chi hiểm hề

Duy tại ý đức chi mạc kinh”

(Không nghi ngờ gì nữa, chiến thắng không phải do sự hiểm yếu

của núi sông, mà chỉ nhờ đức lớn tốt đẹp).

Hơn nữa, bài Bạch Đằng giang phú đƣợc phỏng đoán là viết vào đời vua Trần

Dụ Tông (1342 - 1369), khi nhà Trần đã bắt đầu suy yếu. “Trong bối cảnh, triết lí tại

đức bất tại hiểm có ý nghĩa thời sự sâu sắc. Nó cảnh tỉnh, nhắc nhở ngƣời lãnh đạo chú

ý đến bài học lịch sử, phải quan tâm đến tu dƣỡng đạo đức, thi hành nhân nghĩa, nhƣ

một nguyên tắc chính trị sống còn của nhà lãnh đạo” [tr.31]. Tƣ tƣởng ấy đã nổi lên trên

tất cả các ý tứ khác trong bài phú của Trƣơng Hán Siêu. Tƣ tƣởng lấy “đức trị” làm gốc

rễ để nhân dân đồng lòng ủng hộ là ý tứ trở lại trong nhiều phú khác thời Trần. Nguyễn Bá

59

Thông trong bài Thiên Hƣng trấn phú (Phú trấn Thiên Hƣng) cũng có ý giống nhƣ Trƣơng

Hán Siêu. Trấn Thiên Hƣng hiểm trở, giàu có là của quý trời ban cho ta. Nhƣng ngƣời anh

hùng, kẻ có “đức lành” lại đáng quý hơn bội phần:

“Thiên Hƣng địa thế hùng thay

Cõi Nam trụ cột xƣa nay đời đời

Muôn năm đế nghiệp lâu dài

Chẳng cần đất hiểm, nhờ nơi đức lành”.

Đào Sƣ Tích trong bài phú Cảnh Tinh phú (Phú sao Cảnh Tinh) cũng viết: “Trời

ngƣời một lý, cảm thông không lầm//Chứng tỏ không tự trời mà tự ngƣời//Phù ứng

không tại điềm mà tại đức//Cho nên trời ban điềm lành cho vua Thuấn//… Phù hiệu

thái bình cũng vững bền chừ//Tâu nhà vua, nhờ ở đức, chứ không phải nhờ ở sao chừ”.

Nhân có “Cảnh Tinh” (sao lành) xuất hiện, họ Đào làm bài phú để ca ngợi điềm lành,

nhƣng ông lại nhấn mạnh rằng việc thành hay bại chẳng phải vì có điềm lành, chẳng

phải bởi trời mà lại bởi ngƣời.

Chính vì đức lớn nên các vua nhà Trần đã xóa bỏ đƣợc thù hận riêng của anh em

để nghĩ về cái chung, tạo nên mối đoàn kết rộng lớn của nhân dân. Bài học về việc Trần

Thái Tông hòa giải với anh là An Sinh Vƣơng đƣợc Trần Dụ Tông ca ngợi và so sánh

với việc Đƣờng Thái Tông giết anh là Kiến Thành:

Đƣờng Việt khai cơ lƣỡng Thái Tông,

Đƣờng xƣng Trịnh Quán, ngã Nguyên Phong,

Kiến Thành tru tử, An Sinh tại,

Miến hiệu tuy đồng,đức bất đồng

(Đƣờng và Việt lập cơ nghiệp có hai vua Thái Tông,

Vua Đƣờng xƣng hiệu là Trinh Quán, vua ta xƣng hiệu là Nguyên Phong.

Kiến Thành thì bị giết, mà An Sinh thì sống,

Miến hiệu tuy cùng là Thái Tông, mà cái đức thì không giống nhau)

(Đƣờng Thái Tông dữ bản triều Thái Tông - Vua Thái Tông nhà Đƣờng

với vua Thái Tông triều ta)

Con ngƣời có “đức cao”, “đức lành” ở tất cả các bài trên trƣớc hết là anh hùng, là

“thánh quân”, “hiền thần”, nhƣng cũng có thể mở rộng ra, đó là sự đề cao, quý trọng tài

và đức ở mỗi con ngƣời, đó là yếu tố quyết định nâng cao giá trị con ngƣời ở thời Trần.

Ngay cả trong những tác phẩm của nhà chùa nhƣ Cƣ trần lạc đạo phú (Phú ở cõi trần

60

vui đạo) - Trần Nhân Tông hoặc Vịnh Vân Yên tự phú (Phú vịnh chùa Vân Yên) - Lí

Đạo Tái (Huyền Quang),… thì những nội dung trên cũng thể hiện một cách rõ rệt.

Sau công cuộc bình Nguyên, vƣơng triều Trần xây dựng quốc gia thịnh trị. Lí

tƣởng giúp dân, đƣờng lối trị nƣớc, trách nhiệm, đạo đức của ngƣời làm vua, phẩm chất,

trách nhiệm của kẻ sĩ,… là những vấn đề quan trọng đƣợc đặt ra. Đi sâu vào phản ánh

cuộc sống thanh bình êm ả của nhân dân, thể hiện lòng yêu chuộng hòa bình, ƣớc mơ

xây dựng cuộc sống an lạc cho ngƣời dân là những chủ đề mà các nhà thơ thời Trần

quan tâm phản ánh. Trong thơ trữ tình, cảm hứng về dân đƣợc biểu hiện trong những

rung cảm đầy chất thơ của tâm hồn nghệ sĩ:

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô bán hữu tịch dƣơng biên.

Mục đồng địch lý quy ngƣu tận,

Bạch lộ song song phi hạn điền

(Thơ chữ Hán: Thiên Trƣờng vãn vọng

- Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trƣờng)

(Trƣớc xóm, sau thôn tựa bóng lồng,

Bóng chiều bên có lại bên không.

Theo hồi kèn mục trâu về hết,

Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng)

Trần Nhân Tông luôn mong ƣớc, khát khao cuộc sống tốt lành cho nhân dân. Ở

vị vua anh hùng ấy là tình yêu tha thiết cuộc sống thôn quê với bóng chiều nửa thực nửa

hƣ, với tiếng sáo của trẻ chăn trâu và từng đôi cò trắng liệng xuống cánh đồng. Kinh

qua những năm tháng thăng trầm của đất nƣớc, những ngày vất vả, gian lao đấu tranh

chống giặc ngoại xâm hẳn Trần Nhân Tông thấu hiểu hơn ai hết giá trị của những

khoảnh khắc sống đời thƣờng nhƣ vậy. Yêu mến và ca ngợi cuộc sống thanh bình

nhƣng nhà thơ không khoa trƣơng, ồn ào. Ta cảm nhận đƣợc những cảm xúc lặng lẽ,

thâm trầm và rất sâu lắng trong thơ đấng minh quân.

Viết thơ tặng các sứ thần, nhà vua luôn nói tới mong ƣớc hòa bình với lời thơ

giản dị nhƣng chí tình. Trong bài “Tặng Bắc sứ Lí Tƣ Diễn” (Tặng sứ Bắc Lí Tƣ Diễn),

nhà thơ viết:

Vũ lộ uông dƣơng phổ Hán ân,

Phƣợng hàm đan chiếu xuất hồng vân.

61

Thác khai địa giác giai hoà khí,

Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần.

Tận đạo tỉ thƣ thập hàng hạ,

Thắng nhƣ cầm điện ngũ huyền huân.

Càn khôn kiêm ái vô Nam Bắc,

Hà hoạn vân lôi phục hữu truân.

(Ơn nhà Hán nhƣ mƣa móc tràn trề khắp nơi,

Chim phƣợng ngậm tờ chiếu đỏ xuất hiện nơi đám mây hồng.

Mảnh đất mới mở rộng cũng có hoà khí,

Kéo sông thiên hà rửa sạch bụi chiến tranh.

Mọi ngƣời đều bảo tờ chiếu ban xuống chỉ có mƣơi hàng,

Nhƣng hơn hẳn tiếng hoà âm của chiếc đàn cầm năm dây.

Trời đất vốn một lòng yêu thƣơng không phân biệt Nam, Bắc,

Còn lo gì gặp bƣớc gian truân gió mƣa sấm sét).

Năm 1288, quân Nguyên bị ta đánh bại, Thoát Hoan phải theo đƣờng tắt chạy

trốn. Thực hiện chính sách ngoại giao mềm mỏng, Trần Nhân Tông sai sứ sang cống.

Năm 1289, Lí Tƣ Diễn đƣợc cử sang Việt Nam tuyên dụ chiếu của vua Nguyên. Trong

bữa tiệc họp mặt, Lí Tƣ Diễn làm thơ, Trần Nhân Tông họa và làm bài thơ này để tặng

lại. Lời lẽ trong bài thơ mang tính hai mặt, vừa đề cao lại vừa răn đe rất mềm mỏng mà

lại cứng cỏi, vừa đề đạt nguyện vọng vừa là những trông ngóng, yêu cầu. Trần Nhân

Tông nhắc tới “ơn nhà Hán” rồi “tờ chiếu đỏ” có hơn mƣơi hàng nhƣng hơn “tiếng hoà

âm của đàn cầm năm dây” để tỏ ý đề cao triều Nguyên và sứ thần. Nhà thơ cũng rất

khéo léo khẳng định trời đất vốn “một lòng yêu thƣơng không phân biệt Nam, Bắc”. Để

sau đó nhà vua khuyên nhủ, yêu cầu quân giặc từ bỏ mộng xâm lƣợc nƣớc ta. Ý nghĩa đích

thực của bài thơ là sự nhắc nhở, thậm chí răn đe kẻ thù. Bên cạnh đó là lòng tự hào về tinh

thần đoàn kết của dân tộc và tấm lòng yêu thƣơng nhân dân của vị vua sáng đời Trần.

Sau đó 13 năm, Trần Nhân Tông lại họa thơ của sứ nhà Nguyên:

Nhất thị đồng nhân thiên tử đức,

Sinh vô bổ thế trƣợng phu tâm.

(Thƣơng yêu mọi ngƣời nhƣ nhau là ân đức của thiên tử

Sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ trƣợng phu).

62

Trong bài thơ “Tống Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng” (Tiễn sứ Bắc Ma Hợp,

Kiều Nguyên Lãng) nhà vua có lời nhắc nhở:

Đỉnh ngữ nguyện ôn Trung Thống chiếu,

Miễn giao ƣu quốc mỗi nhƣ đàm.

(Xin hãy ôn lại lời nói "chuông vạc" trong tờ chiếu năm Trung Thống

Để tránh cho nhau khỏi mối phiền “lo nƣớc” luôn luôn nung đốt trong lòng).

Trong bài thơ họa lại thơ của Kiều Nguyên Lãng, Trần Nhân Tông nhắc tới ân

đức của “Thiên tử” là thƣơng yêu mọi ngƣời, không phân biệt ngƣời dân ở mọi nơi.

Trách nhiệm của “kẻ trƣợng phu” là giúp ích cho đời, giúp ích cho vua, làm tròn phận

sự với dân, với nƣớc. Lời thơ khéo léo, đƣa đẩy cuối cùng để hƣớng tới mƣu cầu cuộc

sống yên ấm cho ngƣời dân.

Đến với thơ của Trần Quang Khải, ta cũng bắt gặp tấm lòng tha thiết dành cho

“thƣơng sinh”, ông nói lên điều ấy trong bài “Tặng Bắc sứ Sài Tràng Khanh, Lí Chấn

Văn đẳng” (Tặng sứ Bắc Sài Tràng Khanh, Lí Chấn Văn):

Cảm chúc tứ hiền quân phiếm ái,

Hảo vi noãn dực Việt thƣơng sinh.

(Dám mong bốn vị sứ giả tài giỏi có lòng yêu thƣơng công bằng rộng lớn,

Hãy che chở cho thƣơng sinh nƣớc Việt).

Trần Quang Khải rất khéo léo ca ngợi tài năng của các sứ thần, đồng thời nhắc

nhở, khuyên răn họ có “lòng yêu thƣơng công bằng rộng lớn” và “che chở cho thƣơng

sinh nƣớc Việt”. Lời nhắc nhở khéo léo ấy cũng chính là lời cảnh cáo âm mƣu xâm

lƣợc của kẻ thù. Hơn nữa, lời thơ làm sáng tỏ tấm lòng yêu thƣơng ngƣời dân của nhà

thơ, vị tƣớng tài ba.

Có thể nói, thời thịnh Trần đã để lại những dấu son chói lọi, không chỉ vì những

chiến công hiển hách mà vì nền văn hóa chính trị nhân văn, nền văn hóa dựa vào con

ngƣời, vì con ngƣời, hợp lòng ngƣời. Tƣ tƣởng thân dân đã thành cơ sở của đƣờng lối

trị nƣớc thời thịnh Trần. Tƣ tƣởng gần dân, thƣơng dân, “khoan sức cho dân” cùng

những chính sách an dân, vì dân đã làm nền tảng cho Đại Việt có cuộc sống ổn định,

thực túc, binh cƣờng, dân giàu, nƣớc mạnh. Đó là một trong những ngọn cờ để tập hợp

sức mạnh hùng hậu của toàn dân, giúp Đại Việt trở thành quốc gia đầu tiên của Đông

Nam Á đánh bại đƣợc quân đội Mông Nguyên hùng mạnh và hiếu chiến.

63

Nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân thời Trần, ta càng thấm thía bài học về lẽ thịnh -

suy của triều đại nhà Trần nói riêng, của các triều đại, chế độ chính trị nói chung. Lịch

sử đã chứng minh, triều đại nào biết đề cao tƣ tƣởng thân dân, chế độ nào thực hành nền

chính trị vì dân, triều đại, chế độ ấy bền vững và thịnh trị. Ngƣợc lại, triều đại, chế độ

đó sẽ suy yếu hoặc diệt vong.

3.3.2. Thương xót người dân và xót xa trước thế sự trong văn học thời Vãn Trần

Cuối thế kỉ XIV, triều đình phong kiến nhà Trần suy yếu làm nảy sinh nhiều biến

cố chính trị, tình hình xã hội rối ren và nhân dân đã phải gánh chịu hậu quả. Các vua

thời cuối Trần trở nên nhu nhƣợc, hèn kém vì phần lớn đều mải mê hƣởng lạc mà quên

chính sự. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự suy vong của nhà Trần, mà khởi đầu là Trần

Dụ Tông (1341 - 1369). Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy tên nịnh thần đều là ngƣời

quyền thế vua yêu, ngƣời bấy giờ gọi là “sớ thất trảm”, nhà vua không nghe, ông bèn

treo mũ từ quan trở vê quê. Các triều vua kế tiếp sau Dụ Tông phần nhiều cũng đều

trƣợt dài trên con đƣờng suy thoái. Trong khoảng 60 năm của thời cuối Trần, đất nƣớc

rơi vào khủng hoảng liên miên, đời sống ngƣời dân gặp muôn vàn thảm cảnh của đói

kém, mất mùa, giặc giã, trộm cƣớp, sự lộng hành của đám quân quyền cũng nhƣ sự

cƣớp phá của giặc ngoại xâm,… Một triều đình gần nhƣ đổ nát, một đất nƣớc rệu rã và

bạc nhƣợc cả về chính trị, kinh tế và quân sự, phía Bắc thì bị nhà Minh dọa nạt, sách

nhiễu, phía Nam thì bị một nƣớc nhỏ nhƣ Chiêm Thành liên tiếp uy hiếp, xâm lấn. Tất

cả những thảm cảnh của đất nƣớc đều đƣợc ghi chép lại một cách chân thực trong chính

sử “Đại Việt sử kí toàn thƣ”.

Bức tranh lịch sử xã hội u ám trong khoảng 60 năm cuối thời Trần trở thành mối

âu lo trong thơ của nhiều nho sĩ, trí thức. Nếu văn học đầu thời Trần thiên về cảm hứng

say sƣa, ngợi ca, thì càng về sau âm hƣởng thơ càng lắng lại, trĩu nặng suy tƣ, hoài cổ, bi

phẫn. Có thể kể đến những gƣơng mặt tiêu biểu của giai đoạn nhƣ thơ Chu Văn An, Chu

Đƣờng Anh, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, hay phú của Trƣơng Hán Siêu, Lê

Cảnh Tuân, Phạm Mại, Nguyễn Pháp,…

Có nhiều tác giả thời Trần khi cầm bút lên là trái tim thôi thúc viết về cuộc sống

của ngƣời dân. Đó không chỉ là cuộc sống yên ấm, no đủ, thanh bình để chúng ta thấy

vui, thấy say với cuộc đời thịnh trị mà còn là cuộc sống điêu linh, cực khổ của ngƣời

dân khiến lòng ngƣời xa xót. Nỗi khổ của con ngƣời xuất phát từ nhiều nguyên nhân.

Có nỗi khổ vì mất mùa, hạn hán, bị quan lại bóc lột, chiến tranh tàn phá. Có nỗi khổ khi

con ngƣời rơi vào tình trạng cô đơn, lẻ loi,… Xã hội rối ren, loạc lạc, nhà vua bỏ bê

64

chính sự, quan lại thi nhau vơ vét tiền bạc, thóc gạo của dân, trộm cƣớp nổi lên nhƣ ong

rồi mất mùa, hạn hán liên tiếp xảy ra. Thực trạng ấy đã khiến cho các nhà nho chân

chính hết sức đau lòng, không ít nhà Nho đã cất lên tiếng than bất bình về thời thế.

Các nhà thơ không chỉ cảm khái nỗi lòng mình mà còn phản ánh chân thực hiện

thực xã hội đƣơng thời đồng thời bày tỏ niềm thƣơng cảm sâu sắc với ngƣời dân. Phạm

Nhữ Dực nói về nỗi khổ của ngƣời dân khi đất nƣớc có chiến tranh. Đêm ba mƣơi Tết,

nhà thơ còn phải lánh nạn trong núi. Từ nỗi khổ của bản thân, ông đã đồng cảm với nỗi

khổ của ngƣời dân khi thời tiết khắc nghiệt mà khắp thôn xóm đều bị bao bọc bởi doanh

trại của giặc Minh. Ông đã viết bài “Tị tặc sơn trung trừ dạ” (Đêm ba mƣơi tết tránh

giặc trong núi). Bài thơ có câu: “Hà xứ đồ tô kham thống ẩm//Mãn thôn Hồ kị chính

liên doanh” (Ở đâu có rƣợu đồ tô để đƣợc uống say mềm//Khắp thôn xóm lính kị của rợ

Hồ đóng liền doanh trại). Thƣơng xót cho ngƣời dân, các tác giả đã lên tiếng phê phán

những thế lực tàn bạo đẩy nhân dân vào cảnh khốn cùng. Chu Đƣờng Anh đau xót trƣớc

nỗi khổ của ngƣời dân. Nhân ngắm bức tranh một vị vua tắm cho con ngựa quý của

mình, ông gián tiếp phản ánh cuộc sống hiện thực ở nƣớc ta. Nhà vua bỏ bê chính sự,

mê đắm với những thú vui riêng, khiến cho dân đen cơ cực. Từ hiện thực đó, nhà thơ đã

oán trách nhà vua. Nỗi niềm ấy đƣợc ông viết trong bài “Đề Đƣờng Minh Hoàng dục

mã đồ” (Đề bức tranh Đƣờng Minh Hoàng tắm ngựa):

“Nhƣợc sử ái nhân nhƣ ái mã

Thƣơng sinh hà chí hữu thƣơng di?”

(Nếu vua yêu ngƣời cũng nhƣ yêu ngựa

Thì dân đen đâu đến nỗi cơ cực?).

Chu Văn An là một nhà nho chính trực, liêm khiết. Tuy về ở ẩn điền viên nhƣng

ông vẫn canh cánh nỗi lo lắng sự đời. Ông khẳng định tấc lòng thƣơng dân chƣa bao giờ

nguội lạnh:

“Thốn tâm thù vị nhƣ hôi thổ

Văn thuyết tiên hoàng lệ ám huy”

(Tấc lòng này vẫn chƣa nguội lạnh nhƣ tro đất

Nghe nói đến Tiên hoàng luống gạt thầm giọt lệ).

Phạm Sƣ Mạnh là ngƣời học trò giỏi của Chu Văn An. Ông đỗ Thái học sinh vào

đời Trần Minh Tông. Ông nổi tiếng về văn học cũng nhƣ về đạo đức. Đã nhiều lần ông

muốn sửa đổi một số chế độ của triều Trần song không đƣợc nghe theo. Tuy vậy, nhà

65

thơ vẫn tha thiết cống hiến cho triều đình và nhân dân. “Đề Gia Cát thạch” (Đề đá Gia

Cát) nói giúp mong muốn của nhà thơ:

Vạn lí bất vi nhan chỉ xích,

Phụng tuyên đế đức thiếp kiềm lê.

(Dù muôn dặm chẳng cách xa thiên nhan là mấy,

Vâng đem đức chính nhà vua tới cho dân đen).

Chu Đƣờng Anh thổ lộ lòng mình bằng sự tin tƣởng và hi vọng “rồi sẽ thấy niềm

vui cá nƣớc một nhà”. Phạm Nhữ Dực lại ca ngợi những vị quan tận trung với nƣớc, với

dân đồng thời lại mong muốn đƣợc “làm trận mƣa rào…dội xuống để tƣới mát cho nhân

dân bốn biển”.

Tiêu biểu cho tiếng nói thân dân - thế sự thời Trần phải kể đến những tác

phẩmcủa Trần Nguyên Đán (1325 - 1390). Trong số 51 bài thơ của Trần Nguyên Đán,

ngoài những bài thù tạc, ngâm vịnh thì phần lớn những bài gan ruột nhất, hay nhất, là

những bài ông thao thức, trăn trở nghĩ về thế sự, nghĩ về nỗi khổ của ngƣời dân đƣơng thời.

Là quan đại thần, lại thuộc họ tôn thất nhà Trần, khi chứng kiến cảnh rối loạn, suy vong của

triều đại, hơn ai hết Trần Nguyên Đán là ngƣời đau lòng vô hạn. Ông nghĩ đến bi kịch

Khuất Nguyên trẫm mình ở sông Mịch La nhƣng ông không chọn con đƣờng bi phẫn

ấy:

Chúng túy ngã tỉnh giai tự khả,

Sát thân cô dự Khuất Nguyên phi.

(Mọi ngƣời say riêng ta tỉnh đều do nơi mình cả,

Tự sát để mua tiếng khen nhƣ Khuất Nguyên là sai)

(Sơn trung ngẫu thành” -

Trong núi ngẫu nhiên làm thành thơ).

Cuối cùng, ông buộc phải chọn con đƣờng lui về trú ẩn Côn Sơn, nhƣng thân ở

chốn nƣớc non yên tĩnh mà tâm thì:

Nhất điểm đan thành sinh nhƣợc tử

(Một tấm lòng son sống cũng nhƣ chết)

(Đề Nguyệt Giản Đạo Lục Thái cực chi quan Diệu đƣờng -

Đề nhà Quan Diệu của Đạo Lục Thái ở Nguyệt Giản).

66

Nhà thơ tự thấy mình nhƣ cây thông, cây trúc vẫn reo vang giữa trời, giữ vững

khí tiết trung quân ái quốc. “Tấm lòng son” của Trần Nguyên Đán trƣớc hết đƣợc bộc

bạch qua chữ “dân”.

Thơ Trần Nguyên Đán nhiều lần nhắc đến chữ dân, có lúc ông gọi dân là thƣơng

sinh, dân sinh hàm ý nhƣ ngấn lệ xót xa:

Long xà đôi trác dịch dân lao

(Chạm trổ rồng rắn làm dân phải mệt nhọc)

(Bảo Nghiên tháp - Tháp Bảo Nghiên)

Bồ luân hảo vị hạ dân hồi

(Bánh xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay trở lại)

(Tặng Chu Tiều Ẩn)

An dân tế vật chƣ công sự

(Yên dân, giúp đời, sự nghiệp của các ngƣời)

(Họa Hồng Châu kiểm chính vận

- Họa bài thơ của viên kiểm chính ở Hồng Châu)

Thương sinh chỉ nhật đƣơng tô tức

(Chẳng bao lâu nữa, dân đƣợc nghỉ ngơi)

(Tứ Tiến sĩ - Tặng Tiến sĩ)

Bạch đầu không phụ ái dân tâm

(Bạc đầu luống phụ lòng thƣơng dân)

(Nhâm Dần niên lục nguyệt tác - Thơ làm vào

tháng sáu năm Nhâm Dần -1362)

Vạn quốc dân sinh phí đĩnh ngƣ

(Nhân dân muôn nƣớc nhƣ cá trong vạc nƣớc sôi)

(Dạ quy chu trung tác -

Thơ làm trong lúc đêm đi thuyền về)

Nỗi khổ mà nhân dân cuối đời Trần phải chịu đựng đã trở thành nỗi đau lớn

trong lòng quan Tƣ đồ Trần Nguyên Đán. Ông thông cảm với nỗi khổ của dân, đau

cùng cái đau mất mùa của dân. Ông cảm thấy dân mất mùa, hạn hán là mình có lỗi và

điều này đã đƣợc bộc bạch ở bài thơ “Nhâm Dần niên lục nguyệt tác” (Thơ làm vào

tháng sáu năm Nhâm Dần 1362):

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm,

67

Hòa cảo miêu thƣơng hại chuyển thâm.

(Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt,

Lúa khô mạ thối, tai hại càng nhiều).

Cuộc sống của ngƣời dân vốn gắn liền với đồng ruộng. Mƣa thuận gió hòa hứa hẹn

mùa màng tốt tƣơi, cuộc sống no đủ. Thời tiết khắc nghiệt dẫn tới mất mùa thì ngƣời dân

đói khổ. Cảnh mất mùa hiện lên ở ngay câu thơ thứ hai qua hình ảnh chân thực và cụ thể

“lúa khô, mạ thối”. Để gieo trồng đƣợc ruộng mạ, để có cây lúa vƣơn xanh trên đồng ruộng

là bao công lao vất vả của ngƣời dân. Bỗng chốc thiên nhiên tàn phá nặng nề, hẳn nhiên, họ

đau buồn, xót xa. Nhà thơ cũng đau chung nỗi đau đó, thƣơng ngƣời dân bội phần. Ông tự

nhận thấy mình là ngƣời vô dụng, không giúp đƣợc gì cho nhân dân:

Tam vạn quyển thƣ vô dụng xứ,

Bạch đầu không phụ ái dân tâm.

(Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng,

Bạc đầu luống phụ lòng thƣơng dân).

Câu thơ chính là lời tự trách của tác giả vì bản thân đọc “ba vạn cuốn sách” nhƣng

không đem làm đƣợc gì giúp ích cho ngƣời dân. Lúa vẫn khô, mạ vẫn thối bởi thời tiết

khắc nghiệt và ngƣời dân vẫn cực khổ. Bài thơ khép lại bằng hình ảnh mái đầu bạc của

Trần Nguyên Đán và nỗi bất lực của ông trƣớc thế sự, nhƣng dƣ âm về tấm lòng thƣơng

dân vô hạn của vị quan Tƣ đồ còn vang mãi. Phải chăng nỗi trăn trở, thƣơng cảm về ngƣời

dân, sự suy tƣ về bản thân trƣớc thế sự khiến mái tóc ấy bạc thêm? Bài thơ chứa đựng

nhiều ý tình sâu đậm bởi Trần Nguyên Đán là ngƣời tính tình thâm trầm, kín đáo nên cách

ông thể hiện tình cảm với ngƣời dân cũng rất sâu lắng, đằm thắm chứ không hề ồn ã.

Chứng kiến cảnh ngƣời dân khổ sở vì vua tham quan gian tham Trần Nguyên Đán

rất đau buồn. Giai cấp thống trị đƣơng thời cho xây dựng nhiều chùa chiền, thƣờng cung

tiến nhiều ruộng đất cho nhà chùa. Nhân dân thiếu đất đai canh tác, hoa lợi giảm đi lại phải

tham gia xây dựng chùa nên mệt nhọc, lo lắng. Trần Nguyên Đán rất thƣơng cảm với

những cực khổ đó của ngƣời dân. Ông gửi những tâm sự của mình vào bài thơ “Bảo

Nghiêm tháp” (Tháp Bảo Nghiêm):

Nhất tiếu vô ƣu trang thất bảo,

Long xà đôi trác dịch dân lao.

(Cƣời cho sự vô lo, đem thất bảo điểm tô lên tháp,

Chạm trổ rồng rắn làm dân phải mệt nhọc).

68

Tháp Bảo Nghiêm đƣợc xây dựng với kiến trúc vững vàng, đƣợc trang điểm lộng

lẫy bởi “thất bảo” - bảy thứ quý rất quý giá. Bảy thứ đó là vàng, bạc, lƣu li, xà cừ, mã não,

trân châu, san hô. Để tăng thêm vẻ đẹp cho tháp, thợ còn phải chạm trổ thêm hình rồng rắn.

Điều đó khiến ngƣời dân vất vả hơn. Nỗi khổ của ngƣời dân là bởi triều đình “vô lo”. Triều

đình thờ ơ, hờ hững, không chăm lo đời sống cho ngƣời dân. Chính vì vậy “dân phải mệt

nhọc”. Câu thơ đã phản ánh hiện thực đau xót cuối thời Trần. Trần Nguyên Đán đã mỉa

mai triều đình với nụ cƣời kín đáo, ý nhị.

Một nguyên nhân nữa dẫn tới những khổ cực của ngƣời dân là đất nƣớc rối ren, loạn

lạc, thế sự đảo điên, triều chính bị bỏ bê. Trần Nguyên Đán gửi tình thƣơng với ngƣời dân

trong bài thơ “Dạ qui chu trung tác” (Thơ làm trong lúc đêm đi thuyền về):

Vạn quốc dân sinh phí đĩnh ngƣ,

Sóc Yên đông Biện dĩ khâu khƣ.

(Nhân dân muôn nƣớc nhƣ cá trong vạc nƣớc sôi,

Đất Yên phƣơng bắc, đất Biện phƣơng đông đã thành gò đống).

Nhà thơ đã nêu khái quát tình thế đƣờng cùng, nguy hiểm của “nhân dân muôn

nƣớc” qua hình ảnh so sánh “nhƣ cá trong vạc nƣớc sôi”. Trần Nguyên Đán đã mở rộng

trái tim, tấm lòng hƣớng tới nhân dân muôn nƣớc. Bài thơ là sự kết đọng tƣ tƣởng thân dân

cao đẹp của dân tộc Đại Việt. Câu thơ nhắc tới hai kinh đô đời nhà Tống là đất Yên và đất

Biện. Hai kinh đô vốn phồn hoa đã trở thành “gò đống” trơ trọi, hoang tàn. Mƣợn cảnh

hoang tàn ở Trung Quốc, tác giả đã nói về tình hình rối loạn của nhà Trần lúc bấy giờ. Do

cuộc sống đói kém, mất mùa thƣờng xuyên nên đã dẫn đến hàng loạt các cuộc khởi nghĩa.

Vua chúa vƣơng hầu ăn chơi trác táng. Giai cấp quý tộc chia bè kéo cánh, chém giết, thanh

trừng lẫn nhau để giành quyền lực. Trong khi đó ở phía Nam, quân Chiêm Thành gây hấn.

Ở phía Bắc, nhà Minh dòm ngó, đe doạ, khiêu khích, sẵn sàng tiến đánh Đại Việt. Đất nƣớc

rối ren nên ngƣời dân bị đẩy vào tình cảnh đƣờng cùng. Trƣớc nỗi khổ của nhân dân, quan

Tƣ đồ thao thức, trăn trở “chƣa yên giấc mộng”.

Trần Nguyên Đán đã viết thơ tặng Chu Văn An với kí thác niềm mong mỏi của

mình. Trong bài “Tặng Chu Tiều Ẩn”, ông mong mỏi bậc tài danh vì dân mà quay trở lại

cống hiến cho triều đình:

Huệ trƣớng hốt kinh cô hạc oán,

Bồ luân hảo vị hạ dân hồi

(Trong trƣớng huệ chớ sợ chim hạc cô đơn oán giận,

69

Bánh xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay trở lại).

Trần Nguyên Đán còn uỷ thác trách nhiệm và gửi gắm ƣớc mơ cho những ngƣời

thân trong gia đình, đặc biệt là hai ngƣời con rể mà ông rất mực yêu quý là Nguyễn Phi

Khanh và Nguyễn Hán Anh là những ngƣời có tài, có chí giúp đời:

Bạch ốc thanh đăng không phụ nhữ,

Tử viên hoàng các khổ lƣu ngô.

An dân tế vật chƣ công sự,

Trạch bạn hành ngâm mạc tự cô.

(Nhà trắng đèn xanh tự buộc ngƣời vào,

Tƣờng tía gác vàng, cố giữ ta lại.

Yên dân, giúp đời, sự nghiệp của các ngƣời,

Lang thang ca hát bên chằm, đừng cho mình là lẻ loi)

(Họa Hồng Châu Kiểm chính vận - Hoạ bài thơ của viên Kiểm chính ở Hồng Châu)

Trần Nguyên Đán vốn là quan to trong triều nhƣng vẫn hƣớng tới nơi “nhà trắng

đèn xanh”. Đó là cách nhà thơ nói về Hán Anh tuổi còn trẻ, chƣa gây dựng đƣợc sự nghiệp

lớn lao cho mình. Giữa lúc thế sự tao loạn, vần thơ của Trần Nguyên Đán có sức mạnh cổ

vũ tinh thần to lớn đối với Nguyễn Hán Anh:

Yên dân, giúp đời là sự nghiệp của các ngƣời.

Mong ƣớc của Trần Nguyên Đán là Nguyễn Hán Anh và những ngƣời trẻ tuổi, tài

cao lại có đức lớn để “yên dân, giúp đời”. Nhƣ vậy, dù trong bất cứ hoàn cảnh nào, Trần

Nguyên Đán cũng đều một lòng hƣớng đến ngƣời dân. Những vần thơ mong ƣớc cuộc

sống tốt đẹp cho ngƣời dân là những vần thơ đẹp đẽ, giọng thơ trong sáng, vui tƣơi nhất.

Đáp lại ủy thác của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh (1355 - 1428) - ngƣời

con rể của quan Tƣ đồ xứng đáng là một trí thức lớn thời Trần. Tƣ tƣởng thân dân là điểm

cốt lõi trong sáng tác thơ của ông. Nguyễn Phi Khanh luôn hƣớng về cuộc sống của ngƣời

dân với tất cả tấm lòng yêu mến, thƣơng cảm. Mỗi câu thơ đƣợc viết ra đều có sức lay thấu

lòng ngƣời, ngôn từ giản dị, lời lẽ ngắn gọn nhƣng chan chứa yêu thƣơng. Trong thơ

Nguyễn Phi Khanh có âm hƣởng vọng về từ tƣ tƣởng của Trần Nguyên Đán nhƣng nếu ở

quan Tƣ đồ, thƣơng dân gắn với tự vấn, tự thẹn vì chƣa tròn trách nhiệm thì Nguyễn Phi

Khanh có niềm thôi thúc lớn phải hành động giúp dân, giúp đời. Tƣ tƣởng ấy cũng là một

dòng chảy tới thơ văn Nguyễn Trãi sau này. Lẽ tất nhiên đến Nguyễn Trãi, tƣ tƣởng thân

dân trở thành một mạch chủ lƣu với sắc điệu mạnh mẽ, rõ nét hơn.

70

Nỗi niềm thƣơng cảm của Nguyễn Phi Khanh dành cho ngƣời dân hiện lên rõ nét

trong bài thơ “Giáp Tý hạ hạn hữu sắc chƣ lộ đảo vũ vị đảo nhi tiên vũ” (Mùa hạ năm Giáp

Tý (1384) hạn hán, vua có sắc cho các lộ cầu mƣa, chƣa cầu trời đã mƣa):

Viêm viêm cửu thổ chính tiêu tầm,

Nhất vũ hoàng thiên phổ trạch thâm.

Thỉnh tội quốc tƣơng hành thịnh đảo,

Sơ hòa dân dĩ thiếp hoan tâm.

(Rừng rực đất đai khắp nƣớc đang lúc khô cháy,

Một trận mƣa của trời gieo khắp ơn sâu.

Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mƣa trọng thể,

Trời mới đem lại khí hoà, dân đã thấm khắp niềm vui).

Năm 1384, Đại Việt chịu cảnh hạn hán kéo dài. Chứng kiến cảnh đau lòng đó,

Nguyễn Phi Khanh đã viết bài thơ trên. Hai câu thơ đầu mở ra bối cảnh không gian rộng

lớn, đất đai khắp nƣớc nhƣ rừng rực cháy. Ngƣời dân đang đối diện với nguy cơ mất mùa,

đói khổ do thời tiết khắc nghiệt. Cả triều đình và nhân dân đều mong ngóng trời mƣa đến

khắc khoải. Trong tình cảnh cấp bách đó, triều đình chuẩn bị lễ thỉnh tội để cầu mƣa thật

trọng thể. Chính trong lúc khẩn thiết nhƣ vậy, một trận mƣa đến thấm nhuần khắp nơi. Trận

mƣa ấy khiến dân mừng vui, phấn khởi. Ý thơ không chỉ dừng lại ở đây. Điều quan trọng

nhất nhà thơ muốn khẳng định cần một ông vua có đức hơn là trông chờ vào rồng phun

nƣớc trên trời để nhân dân đƣợc hƣởng niềm vui trọn vẹn. Đó là ý nghĩa sâu sắc tạo nên giá

trị của bài thơ.

Nguyễn Phi Khanh luôn trăn trở trƣớc những vất vả của ngƣời dân. Cảnh mất mùa,

hạn hán trở đi trở lại nhiều lần trong thơ ông. Ở nơi thôn quê chứng kiến cuộc sống của

ngƣời dân, nhà thơ đã viết bài “Thôn cƣ cảm sự kí trình Băng Hồ tƣớng công” (Ở quê xúc

động trƣớc sự việc xảy ra, gửi trình Tƣớng công Băng Hồ). Bài thơ đƣợc viết khi Nguyễn

Phi Khanh đang bị bệnh. Ông gửi những vần thơ chất chứa tâm trạng của mình để giãi bày

tâm sự với nhạc phụ Trần Nguyên Đán cũng là ngƣời bạn tâm giao của mình. Đây là một

trong những bài thơ đặc sắc của Nguyễn Phi Khanh. Bài thơ vừa phản ánh trực tiếp nỗi khổ

của ngƣời dân lại vừa nói lên tấm lòng thƣơng xót sâu sắc của tác giả đối với ngƣời dân.

Hơn nữa, ngƣời đọc còn thấy thái độ phê phán gay gắt, quyết liệt của tác giả đối với bọn

thống trị tàn bạo, tham lam đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn quẫn:

Đạo huề thiên lý xích nhƣ thiêu,

71

Điền dã hƣu ta ý bất liêu ?

Hậu thổ sơn hà phƣơng địch địch,

Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều!

(Ruộng lúa hàng nghìn dặm cháy đỏ nhƣ thiêu,

Dân gian nơi đồng nội thở than không biết nhờ cậy vào đâu!

Ruộng đất cõi trần khô nẻ thảm hại,

Mà mây mƣa trên trời thì vòi vọi chẳng thấy)

Cảnh mất mùa hạn hán hiện lên rất rõ nét qua hình ảnh “hàng nghìn dặm lúa nhƣ

cháy đỏ”, “ruộng đất cõi trần khô nẻ”. Hình ảnh thơ gợi về không gian rộng lớn. Hàng

nghìn dặm lúa dài ngút mắt nhƣ bị thiêu cháy đỏ dƣới ánh nắng mặt trời gay gắt, ruộng đất

cõi trần gian hết thảy bị khô nẻ, trời cao vòi vọi không gợn chút mây, không hề đổ mƣa.

Mùa màng thất bát, thiệt hại nặng nề. Dân tình thở than, rên xiết trƣớc cảnh hạn hán, mất

mùa. Đau lòng sao khi chứng kiến cảnh cõi trần khô nẻ? Xót xa sao khi dân gian nơi đồng

nội không biết trông cậy vào ai?

Nguyễn Phi Khanh không chỉ tâm sự về nỗi khổ của ngƣời dân với Trần Nguyên

Đán mà còn giãi bày cùng bạn bè. Trong bài “Thù Đạo Khê Thái học “Xuân hàn” vận”

(Đáp lại bài thơ “Rét mùa xuân”của Thái học Đạo Khê), ông viết:

Liên cừ vạn tính giai ngô dữ,

Tị ốc thuỳ gia diện diện hàn.

(Chỉ xót thƣơng cho muôn họ đều là đồng bào của ta,

Dƣới những mái nhà chen chúc của ai kia, khuôn mặt nào cũng rét buốt).

Câu thơ ngân vang một nỗi lòng tha thiết thƣơng dân. Lòng thƣơng của Nguyễn Phi

Khanh không phải hƣớng tới một đối tƣợng cụ thể mà hƣớng tới “xót thƣơng cho muôn

họ”. Đó là một tấm lòng nhân ái bao la, rộng mở. Nguyễn Phi Khanh nhận thức sâu sắc về

mối tình đồng chủng của muôn họ. Câu thơ là lời khẳng định tấm chân tình của nhà thơ

nhƣng cũng là lời gợi nhắc với mỗi chúng ta về sự trân trọng, yêu mến đối với đồng loại

của mình. Chúng ta thấy ở câu thơ vẻ đẹp lấp lánh từ suối nguồn văn học dân gian tƣơi mát

chảy về đây. Đó là vẻ đẹp của tấm lòng “thƣơng ngƣời nhƣ thể thƣơng thân”. Kết thúc bài

thơ là một câu cảm thán. Câu thơ là tiếng thở dài não nuột khi nhà thơ nhìn thấy “khuôn

mặt nào cũng rét buốt”. Đau đớn biết bao trƣớc cuộc sống chật chội, nghèo nàn dƣới

những mái nhà của ngƣời dân.

72

Trong bài thơ “Thôn cƣ cảm sự ký trình Băng Hồ tƣớng công” (Ở quê xúc động

trƣớc sự việc xảy ra, gửi trình Tƣớng công Băng Hồ), nhà thơ Nguyễn Phi Khanh đã phản

ánh tình trạng quan lại bóc lột cùng kiệt dân lành. Nguyễn Phi Khanh không hề né tránh mà

trực diện lên tiếng phê phán “màng lƣới quan lại” tham lam:

Lại tƣ võng cổ hồn đa kiệt,

Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu.

(Màng lƣới quan lại vơ vét, phần nhiều làm cho kiệt quệ,

Mỡ dầu mạng dân sống còn, một nửa đã tiêu hao).

Nguyễn Phi Khanh đã vẽ lên một bức tranh hiện thực nhức nhối về xã hội đƣơng

thời. Quan lại không làm tròn bổn phận chăm lo cho đời sống nhân dân mà đang tâm vét

cho đầy túi tham. Còn nhân dân bị đẩy vào tình cảnh điêu linh, cùng quẫn. Nhà thơ đã

khẳng định mỡ dầu mạng dân bị tiêu hao chỉ còn một nửa.

Trong những bài thơ gửi cho ngƣời em đồng hao là Nguyễn Hán Anh, Nguyễn Phi

Khanh cũng nói về cảnh sống của nhân dân với nỗi lòng đau đớn. Bài thơ “Hồng Châu

kiểm chính dĩ dƣ vận tác thuật hoài thi, kiến phúc, dụng ký vận dĩ tặng, kỳ nhất ” (Kiểm

chính Hồng Châu dùng vần của tôi để làm bài thơ thuật hoài, sau khi đọc, tôi lại dùng vần

ấy làm thơ tặng anh, kỳ một) là nỗi lòng xót xa của ông trƣớc cảnh bất công trong xã hội

đƣơng thời. Cặp câu thơ mở đầu đã phản ánh rõ nét điều đó:

Vạn tính ngao ngao đãi bộ cầu,

Thuỳ gia kim ngọc á cao khâu!.

(Muôn họ đang nhao nhác chờ miếng cơm manh áo,

Nhà ai đó vàng ngọc sánh ngang gò cao!).

Hình ảnh “muôn họ” hiện lên trong sự đối lập với “nhà ai đó” chất đầy vàng ngọc.

Cách nói phiếm chỉ “nhà ai đó” dùng để chỉ quan tham đƣơng thời. Chính quan lại tham

lam, vơ vét nên vàng ngọc chất đầy. Cuộc sống của quan lại đƣơng thời xa hoa, sung sƣớng

trên công sức lao động của ngƣời dân. Bằng thủ pháp nghệ thuật tƣơng phản, nhà thơ đã

nhấn mạnh tới hình ảnh muôn họ đang nhao nhác vì đói cơm rách áo, điều kiện sống tối

thiểu không đƣợc đảm bảo. Cảnh khổ đó của ngƣời dân là nỗi niềm day dứt không yên của

Nguyễn Phi Khanh.

Qua những vần thơ của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh và nhiều nhà thơ

khác cuối thời Trần, ta không chỉ thấy hiện lên một bức tranh hiện thực về đời sống nhân

dân khổ cực, vất vả mà còn thấy trong đó tiếng thở dài xót thƣơng của những tâm hồn nghệ

73

sĩ trƣớc nỗi đau nhân tình, nỗi bất lực giằng xé vì lẽ xuất xử của nhà nho. Nhƣng vƣợt lên

những bế tắc của hiện thực đƣơng thời, những nho sĩ cuối Trần vẫn khẳng định trọng trách

cao cả của mình đối với dân. Trong hoàn cảnh đất nƣớc khủng hoảng, thời thế loạn lạc,

rất nhiều trí thức thời cuối Trần đã thể hiện lý tƣởng, trách nhiệm giúp dân, giúp nƣớc

của mình. Điều này đƣợc nói lên nhiều hơn cả ở thể phú. Trong số mƣời bài phú chữ

Hán đời Trần còn lại đến nay không bài nào là không đề cập đến niềm mong ƣớc đƣợc

thực hiện lý tƣởng giúp dân, giúp nƣớc ấy. Trong bài Thiên thu kim giám phú (Tấm

gƣơng sáng ngàn thu) của Phạm Sƣ Mạnh, tác giả cho rằng kẻ làm việc trị nƣớc phải tu

dƣỡng đạo đức, rèn luyện tài năng, phải xem xét cho tƣờng những tấm gƣơng xấu tốt,

thành bại của ngƣời xƣa:

Giám uy tiên vƣơng, tắc hữu tổ tông chi thành hiến;

Giám uy vãn sự tắc hữu kỳ ngải chi quang huy.

Dĩ chi loạn vi giám giả, thục mỹ thục ái;

Dĩ dắc thất vi giám giả, thục nghiên thục si.

(Soi nơi vua xƣa thì có phép sẵn của tiên tổ;

Soi nơi việc cũ thì có ánh sáng của lão thành.

Lấy trị loạn làm gƣơng, đâu đẹp đâu xấu;

Lấy đƣợc mất làm gƣơng, đâu dữ đâu lành).

Các trí thức nhà Trần không chỉ đề cao lý tƣởng giúp dân mà còn rất dũng cảm,

vững tin ở phẩm chất và khả năng của mình, họ chiến đấu và dám hy sinh cho lý tƣởng.

Cho nên, Chu Văn An dám dâng sớ chém những kẻ lộng thần, Mạc Đĩnh Chi thì tuyên

bố: “Nếu ta thẳng ngay, không cong queo thì có sợ gì mƣa sa gió táp”. Là học trò của

Chu Văn An, Phạm Sƣ Mạnh cũng thể hiện bản lĩnh cứng cỏi khi ông nhiều lần tỏ ý

muốn sửa đổi thể chế nhà Trần mà không đƣợc vua Trần Minh Tông chấp thuận. Nhƣng

không vì thế mà bậc nho sĩ này nao núng trong chức phận với dân:

Ngã hạnh mông ân khai chế khổn,

Khu nhƣơng đạo tặc, tức can qua.

(Ta may mắn đội ơn vua, mở nơi cõi ngoài,

Xua trừ trộm ắp, dập tắt can qua.)

(Hành quận - Đi kinh lý trong quận).

Trong bài thơ Đề gia Cát thạch (Đề đá Gia Cát), ông còn nói rõ trọng trách đem

đức của vua đến cho lê dân (dân đen):

74

Vạn lí bất vi nhan chỉ xích,

Phụng tuyên đế đức thiếp kiềm lê

(Dù muôn dặm chẳng cách xa thiên nhan là mấy,

Vâng đem đức chính nhà vua tới cho dân đen).

Lí tƣởng ấy bao hàm cái đạo trung với vua, nhƣng cũng bao hàm cái nghĩa

thƣơng đến dân. Cho nên, trong nhiều bài thơ, phú, văn chính luận,… đời Trần đều có

nêu cái “đức” mà kẻ “chăn dân” phải có. Vua có đức thì mới có thể thành công trong

việc trị nƣớc. Mà có đức, có nghĩa thì “ân trạch thấm thía đến quần chúng”, có nghĩa là

“dân đƣợc an ninh”, khiến “muôn họ âu ca” nhƣ ý nêu trong bài Cần Chính lâu phú

(Phú lầu Cần Chính) - Nguyễn Pháp.

Càng xót thƣơng dân, xót xa thế sự bao nhiêu thì những ngƣời trí thức, nho sĩ

chân chính nhà Trần càng ý thức về trọng trách với dân bấy nhiêu. Với Trần Nguyên

Đán là nỗi thẹn của một bậc quan đại thần ý thức về sự bất lực của chính mình trƣớc thế

sự rối ren, ở Nguyễn Phi Khanh là sự tự vấn về trách nhiệm của kẻ sĩ là phải giúp dân.

Trong thơ Băng Hồ, nỗi tự thẹn, luống thẹn, tự cƣời mình luôn trở đi trở lại. Nỗi thẹn ấy

đƣợc tự họa qua hình ảnh một ông già đầu bạc mang nhiều suy tƣ, lo nghĩ:

Bạch đầu tự tiếu uyển trần y

(Tự cƣời mình bạc đầu rồi, áo vẫn nhuốm bụi)

(Tống Long Nham quy Diễn Châu- Tiễn Long Nham

về Diễn Châu)

Bạch thủ tông thần bất dữ mƣu

(Bậc tông thần bạc đầu không đƣợc dự mƣu)

(Đáp Lƣơng Giang nạp ngôn bệnh trung - Trả lời

quan nạp ngôn Lƣơng Giang trong khi ốm)

Bạch đầu không phụ ái dân tâm

(Bạc đầu luống phụ lòng thƣơng dân)

(Nhâm Dần niên lục nguyệt tác - Thơ làm vào tháng

sáu năm Nhâm Dần -1362)

Tam phần đầu bạch thốn tâm đan

(Ba phần tóc trên đầu đã bạc, vẫn tấc lòng son)

(Mậu Thân chính nguyệt tác” - Thơ làm vào tháng

giêng năm Mậu Thân - 1368).

75

Ông già đầu bạc tự cƣời mình vì cảm thấy bất lực khi nghĩ đến xã tắc, bách tính.

Sự day dứt đó càng tô đậm ý thức trách nhiệm và nhân cách cao đẹp của ông. Căn

nguyên sâu xa của nỗi thẹn ấy là vì nhà thơ chƣa thực hiện đƣợc hoài bão giúp dân,

giúp nƣớc.

Trần Nguyên Đán còn luống thẹn với ngƣời đạo sĩ lánh đời. Ông viết trong bài

“Đề Huyền Thiên ” (Đề quán Huyền Thiên) nhƣ sau:

Trần ai lục thập tải,

Hồi thủ qúy hoàng quan.

(Sáu mƣơi năm sống trong cõi trần,

Ngoảnh lại luống thẹn với ngƣời đội mũ vàng).

Không chỉ có vậy, Trần Nguyên Đán còn thẹn vì mình già yếu nhƣng vẫn giữ

chức quan to trong triều. Trong bài Ngẫu đề ông đã viết:

Lãm kính tự tàm duy nhất sự

Lực phù suy bệnh tác Tam công

(Trông gƣơng chỉ thẹn có một việc

Đó là cố chống đỡ với già bệnh để giữ chức Tam công).

Ở Trần Nguyên Đán luôn có tâm sự giằng co giữa việc ở chốn quan trƣờng hay

việc lui về ở ẩn. Ở chốn quan trƣờng nhƣng thấy mình bất lực, ông lại tự cƣời mình

không đƣợc nhƣ ngƣời xƣa, sớm lui về ở ẩn:

Tam phần đầu bạch thốn tâm đan,

Thế thƣợng phân phân vạn sự nan

Tự tiếu bất nhƣ Tiền Nhƣợc Thuỷ,

Niên tài tứ thập tiện hƣu quan.

(Ba phần tóc trên đầu đã bạc, vẫn tấc lòng son,

Sự đời bối rối, muôn việc khó khăn.

Tự cƣời mình không bằng ông Tiền Nhƣợc Thuỷ,

Tuổi mới bốn mƣơi đã cáo quan về hƣu.)

(Mậu Thân chính nguyệt tác - Thơ làm vào tháng Giêng năm Mậu Thân, 1368)

Dù thế nào thì ông vẫn luôn hăng hái mong đƣợc đem hết sức mình phục vụ đất

nƣớc, đáp đền ơn vua, sẵn sàng xông vào nơi nguy hiểm vì nhân dân:

Chí sỹ ninh từ đạo hải nguy,

Cao ca tràng khiếu nhậm thiên nghê.

76

Sƣơng soa thử lạp thù minh chúa,

Hổ lạc xà khu úy viễn lê.

(Ngƣời chí sĩ đâu chịu chối từ cái nguy vƣợt biển,

Cất cao tiếng hát với tất cả lòng mình.

Mang tơi sƣơng, dội nón nắng đền đáp minh chúa,

Vào hang hùm, tới ổ rắn an ủi dân xa).

(Canh Tân Bình an phủ Phạm công Sƣ Mạnh “Tân

Bình thƣ sự” vận -

Họa vần bài thơ “Tân Bình thƣ sự” của quan An phủ

sứ trấn Tân Bình Phạm Sƣ Mạnh)

Cùng chung lý tƣởng với Trần Nguyên Đán, thơ Nguyễn Phi Khanh không chỉ

dừng lại ở những nỗi niềm thở than, thƣơng xót mà còn thể hiện một ý chí nung nấu,

khắc khoải đem ngọn lửa nhiệt huyết giúp dân, giúp nƣớc. Tuổi còn trẻ, hoài bão giúp

đời đang cháy bỏng, nhà thơ nói lên mong ƣớc của mình trong bài “Xuân hàn” (Rét

mùa xuân):

An đắc thử thân nhƣ thác thƣợc,

Hòa phong hƣ biến cửu châu tâm.

(Mong sao thân này đƣợc nhƣ cái ống bễ,

Thổi ngọn gió hoà khắp lòng ngƣời chín châu).

Ƣớc mong của Nguyễn Phi Khanh đƣợc nhƣ cái ống bễ của ngƣời thợ rèn để thổi

ngọn gió mát đến muôn dân. Ngọn gió ấy có sức lan toả nhanh, an ủi, xoa dịu những

mệt nhọc của ngƣời dân. Hình ảnh ngọn gió mát dịu khép lại bài thơ nhƣng lại làm cho

ý thơ bay bổng khiến lòng ngƣời thảnh thơi.

Đến với bài thơ “Trung thu cảm sự” (Nhân tiết Trung thu, cảm xúc trƣớc sự

việc), chúng ta thấy Nguyễn Phi Khanh mong “đêm trong sáng” sẽ soi thấu mọi nỗi

đau khổ của thế gian:

Nguyện bằng thiên thƣợng thanh quang dạ,

Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu.

(Xin nhờ cái đêm trong sáng ở trên trời kia,

Soi thấu nỗi đau khổ của thế gian này).

Trên bầu trời cao rộng là không gian đẹp đẽ tràn ngập ánh trăng nhƣng quá xa

vời, huyền ảo. Còn dƣới thế gian là nỗi khổ đau chồng chất. Lời thơ mang tính khái

77

quát song nói đƣợc hiện thực thời vãn Trần. Câu thơ nói về khát vọng lãng mạn của nhà

thơ đồng thời cũng cho thấy tấm lòng thƣơng dân tha thiết của tác giả.

Ƣớc mơ của Nguyễn Phi Khanh còn đƣợc gửi gắm trong bài “Giang hành thứ

Hồng Châu kiểm chính vận” (Đi trên sông, họa vần thơ của Kiểm chính Hồng Châu):

Bằng trƣợng tân thi tác đồ chí,

Hành quan tứ hải quĩ văn đồng.

(Xin nhờ bài thơ mới này làm bức họa đồ ghi lại,

Rồi sẽ thấy bốn biển chung một kiểu xe, cùng một thứ chữ).

Đọc thơ Nguyễn Phi Khanh, chúng ta nhận thấy tấm lòng đồng cảm, thƣơng xót

sâu sắc đối với con ngƣời bé mọn, cuộc sống tối tăm, đồng thời cảm nhận đƣợc khát

vọng cống hiến cao cả nhƣng bất lực của ông. Vì yêu cuộc sống nơi thôn quê tha thiết,

thƣơng ngƣời dân sâu nặng nên Nguyễn Phi Khanh luôn trăn trở để cứu dân, cứu nƣớc.

Ông tự vấn bản thân, tự thẹn và trách bản thân mình, ông viết bài “Thu nhật hiểu khởi

hữu cảm” (Ngày thu sáng dậy cảm xúc nên thơ) nhƣ sau:

Ô hô thế đạo hà nhƣ ngã?

Tam phủ di biên phú Đại đông!.

(Than ôi! Cuộc đời nhƣ vậy, ta biết tính sao đây?

Ba lần vỗ sách cũ mà ngâm thơ Đại đông!).

Hai câu thơ là lời than thở não nề về cuộc đời loạn lạc, cũng là câu hỏi day dứt,

giằng xé chƣa biết tính ra sao của nhà thơ. Tâm tƣ Nguyễn Phi Khanh trĩu nặng bởi nỗi

niềm, mong muốn giúp cho nhân dân, cho đất nƣớc. “Đại đông” là tên một bài thơ

trong phần “Tiểu nhã” của “Kinh thi”. Bài thơ mang nội dung chỉ trích thời loạn. Mỗi

khi buồn phiền nhà thơ lại ngâm bài “Đại đông” vừa lên tiếng phê phán xã hội đƣơng

thời nƣớc ta nhƣng cũng là lời ngậm ngùi về sự bất lực của bản thân mình. Bất lực trƣớc

thời cuộc, mang trong mình nỗi thẹn, Nguyễn Phi Khanh viết trong bài “Họa Chu Hàn

lâm vị ƣơng tảo triều” (Họa bài thơ vào chầu vua lúc trời chƣa sáng của quan Hàn lâm họ

Chu):

Hoa bào thiểm xuyết quần công hậu,

Nguyệt khánh quyên ai hiệu nhất quan.

(Tự thẹn mang áo bào đẹp đứng sau các ngài,

Nguyện dốc tài mọn làm hết chức vụ của mình).

78

Nỗi thẹn của các nhà thơ thời Trần làm nhân cách của họ cao đẹp hơn. Ở họ

song hành cùng tình thƣơng nồng nàn là ngọn lửa cháy bỏng của nhiệt tình, ý thức trách

nhiệm với ngƣời dân.

Dù ở hoàn cảnh nào, Nguyễn Phi Khanh luôn có sẵn trong mình sự nhiệt tình, hăm

hở cống hiến. Xuất phát từ tấm lòng chân thành với ngƣời dân, ông chủ động đón nhận

trách nhiệm lo việc nƣớc, giúp việc đời. Nhà thơ từng bày tỏ tâm sự trong bài “Hỉ Học sĩ

Trần Nhƣợc Hƣ tự Nghệ An chí” (Mừng Học sĩ Trần Nhƣợc Hƣ từ Nghệ An đến):

Ƣu quốc chính tu, ngô bối sự,

Bằng cƣ vị thuyết Nghệ An dân.

(Lo nƣớc bọn ta cùng phận sự,

Nhờ ai nhắn nhủ Nghệ An dân).

Nguyễn Phi Khanh luôn ao ƣớc đƣợc đem tài năng, lòng nhiệt tình của mình để

phục vụ nhân dân. Bài thơ “Hạ trung thƣ thị lang” (Mừng quan thị lang toà trung thƣ)

nói hộ một cách sâu sắc nỗi lòng của nhà thơ:

Thánh đế thảng hoài di khí vật

Nguyện thi tài tảo đáo nông tang.

(Đời thịnh trị, chúa có đoái trông đến vật bị vứt bỏ còn sót lại,

Thì xin nguyện đem tài mọn văn đến tận thôn xóm).

Sau này, khi Hồ Quí Ly lập nên triều Hồ, Phi Khanh đƣợc tin dùng. Tuy khoảng

thời gian làm quan dƣới triều Hồ ngắn ngủi nhƣng đó là khoảng thời gian ông đƣợc dốc

lòng, dốc sức vì dân. Nhà thơ từng có những lời tâm niệm sâu sắc dâng lên vua: “Xin

hãy đổi lòng yêu vật thành lòng trọng ngƣời hiền, đem chí đãi vật làm chí đãi kẻ sĩ”

(Phú con ngựa lá). Ở Nguyễn Phi Khanh có quan niệm về chữ “trung” rộng mở chứ

không bó hẹp trong quan niệm “tôi trung không thờ hai chủ”. Tƣ tƣởng tiến bộ của ông

đó là trung với những vị vua vì nƣớc, vì dân. Tƣ tƣởng này ảnh hƣởng sâu đậm đến

Nguyễn Trãi - ngƣời con toàn đức, toàn tài của ông.

Sự phát triển của tƣ tƣởng thân dân từ Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh và

sau này là Nguyễn Trãi vừa là sự tiếp nối của truyền thống gia đình, vừa là sự phát triển

mang tính chất thời đại. Nói cách khác, nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân của Trần Nguyên

Đán, Nguyễn Phi Khanh cũng là để thấy đƣợc bƣớc phát triển của tƣ tƣởng thân dân

trong giai đoạn văn học từ thế kỉ XIV sang thế kỉ XV. Đến Nguyễn Trãi, tƣ tƣởng thân

dân đã trở thành một tƣ tƣởng tiến bộ, có hệ thống. Ngƣời dân không chỉ là đối tƣợng

79

cảm thƣơng mà còn có một vai trò, sức mạnh làm nên chiến thắng của dân tộc trong

cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lƣợc.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chƣơng này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các tác phẩm thơ văn thời Lí

và thời Trần thể hiện tƣ tƣởng thân dân. Trƣớc khi đi sâu vào phân tích, lí giải những

những vấn đề của tƣ tƣởng thân dân trong thơ văn Lí - Trần, luận án đã bao quát sự vận

động lịch sử của tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XIX, bƣớc đầu có cái nhìn so sánh với văn học đầu thế kỉ XX. Cái nhìn xuyên suốt đó

giúp chúng tôi nhận diện sáng rõ hơn những vấn đề cụ thể của đối tƣợng nghiên cứu.

Trƣớc tiên ở thời Lí, cảm hứng sáng tác về thân dân thể hiện ở đội ngũ các tác

giả thuộc nhiều thành phần xã hội lúc bấy giờ: vua quan, tƣớng lĩnh đến nho sĩ trí thức,

đáng chú ý hơn cả là sáng tác của các thiền sƣ. Họ đã mang đến cho tƣ tƣởng thân dân

một màu sắc độc đáo bởi cảm hứng tôn giáo không tách rời vận mệnh của xã tắc, nhân

dân. Tƣ tƣởng thân dân bao trùm trong các tác phẩm thơ, văn chính luận thời này là

trọng dân, lấy dân làm gốc; trọng dân là thái độ và ý thức về trách nhiệm trƣớc ngƣời

dân. Vƣợt lên trên vấn đề cá nhân hay sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, quyền lợi

dòng tộc,… là mối quan tâm và trách nhiệm chung về nhiệm vụ bảo vệ độc lập dân tộc,

về vận mệnh của ngƣời dân. Những vấn đề đó đƣợc đặt lên vị trí hàng đầu trong đạo trị

nƣớc, và hơn nữa nó xuất phát từ thực tiễn đất nƣớc, phù hợp với ý trời - lòng dân.

Tiếp nối văn học thời Lí, ở thời Thịnh Trần, với không khí và những diễn biến cụ

thể của lịch sử, tinh thần trọng dân, thƣơng dân, lấy dân làm gốc vẫn là cái cốt lõi của tƣ

tƣởng thân dân. Điểm mới của tƣ tƣởng thân dân giai đoạn Thịnh Trần chính là các tác

giả đã có ý thức hơn về vai trò, sức mạnh của dân trong công cuộc chống ngoại bang và

trong quá trình phát triển của lịch sử xã hội. Cách nhìn nhận ngƣời dân theo quan hệ

chủ tƣớng và quan hệ hòa đồng cũng đem đến nét đặc sắc của văn học thời Thịnh Trần.

Ở thời Vãn Trần, tƣ tƣởng thân dân cùng đƣợc biểu hiện cụ thể qua tấm lòng thƣơng

xót ngƣời dân, xót xa thế sự và ý thức về trọng trách đối với ngƣời dân. Âm hƣởng phê

phán thế thời, dùng tác phẩm để thanh nghị với vƣờng triều phong kiến xuất hiện ở một

số tác giả nhƣ Trƣơng Hán Siêu, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh.

Nhìn chung, với tính chất là giai đoạn mở đầu nền văn học dân tộc, thơ văn Lí -

Trần đã đóng góp tích cực trong việc hình thành các truyền thống tƣ tƣởng - nghệ thuật

80

của nền văn học. Lịch sử đã đặt ra cho các tác giả văn học Lí - Trần là vừa phải bảo vệ,

xây dựng nền văn hiến đậm đà của dân tộc dƣới ách đô hộ của phong kiến Trung Hoa,

vừa phải động viên sức mạnh đoàn kết toàn dân đứng lên xây dựng và bảo vệ đất nƣớc.

Các thể loại văn học viết bằng chữ Hán đã phát huy vai trò to lớn của mình trong việc

thể hiện tƣ tƣởng thân dân. Các tác giả tài năng đã viết nên có những áng văn trở thành

bất hủ nhƣ Quốc tộ, Thiên đô chiếu, bài “thơ thần” Nam quốc sơn hà, Dự chƣ tỳ tƣớng

hịch văn, Bạch Đằng giang phú,… Những giá trị đó đã tạo nên một nền tảng tốt đẹp đối

với các tác giả ở các giai đoạn sau này.

81

Chƣơng 4

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC THẾ KỶ XV

Sau năm thế kỷ hình thành và phát triển, dòng văn học viết đã có nhiều thành tựu

rực rỡ. Thế kỷ XV là thế kỷ bản lề nối tiếp những thành tựu của văn học thời Lý Trần

đồng thời mở ra một hƣớng phát triển mới cho các thế kỷ sau. Trong xu hƣớng tinh thần

dân tộc đƣợc đề cao mạnh mẽ, văn học tiếng Việt giai đoạn này có bƣớc phát triển nhảy

vọt so với trƣớc. Chúng tôi phân chia tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỷ này theo

hai giai đoạn: nửa đầu thế kỷ và nửa cuối thế kỷ. Mỗi giai đoạn có những tác giả và tác

phẩm thể hiện những nội dung khác nhau. Nếu Nguyễn Trãi là tác giả lớn ở nửa đầu thế

kỷ XV thì ở nửa sau thế kỷ nổi bật lên Lê Thánh Tông và Hội Tao đàn với những bài

thơ cũng sâu đậm một cảm hứng ái ƣu đối với nhân dân.

4.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa đầu thế kỷ XV

4.1.1. Thương dân, đề cao vai trò sức mạnh của người dân trong văn học thời khởi

nghĩa Lam Sơn

Nửa đầu thế kỷ XV là thời kỳ khởi dựng gian nan của Nhà nƣớc phong kiến mới

đời Hậu Lê. Nhà nƣớc phong kiến ấy khác với Nhà nƣớc phong kiến đời Trần ở chỗ

quân chủ đã thay thế quý tộc để giúp vua trong việc trị nƣớc, an dân. Nho sĩ là lực

lƣợng sáng tác chủ yếu và góp phần quan trọng trong sự nghiệp xây dựng đất nƣớc. Họ

đã gian khổ chiến đấu, có khi phải hy sinh, để thực hiện lý tƣởng tu, tề, trị, bình của

mình. Trong cuộc kháng chiến chống ngoại xâm, họ đã thấy rõ sức mạnh của nhân dân;

trong công cuộc xây dựng đất nƣớc, họ hiểu rằng phải dựa vào sức mạnh to lớn ấy. Là

những kẻ sĩ quân tử đại diện cho tầng lớp trí thức của thời đại họ thấm nhuần lý tƣởng

“thƣợng trí quân, hạ trạch dân” (trên giúp cho vua, dƣới chăm lo cho dân); “ái ƣu” (yêu

nƣớc, lo dân) hoặc “ƣu ái” (ƣu quốc, ái dân - lo nƣớc, thƣơng dân). Vì thế, trong những

tác phẩm thơ văn nửa đầu thế kỷ XV, tƣ tƣởng thân dân gắn liền với tâm huyết của

những ngƣời nhà nho yêu nƣớc mang trong mình khát vọng thực hiện lý tƣởng giúp

dân, giúp nƣớc với tinh thần chung là lạc quan, phấn khởi, tự hào.

Các thể loại văn học thể hiện tƣ tƣởng thân dân cũng rất phong phú, bao gồm các

tác phẩm văn chính luận nhƣ thƣ địch vận, công văn ngoại giao, chiếu, dụ, biểu, cáo,

tấu,…Tiểu biểu nhất vẫn là Quân trung từ mệnh tập của Nguyễn Trãi sáng tác trong

thời kỳ khởi nghĩa Lam Sơn và Bình Ngô đại cáo - bài văn có tính chất tổng kết cuộc

khởi nghĩa Lam Sơn, cũng nhƣ có ý nghĩa bản tuyên ngôn độc lập của dân tộc. Thơ phú

82

chủ yếu viết đƣợc sáng tác khi cuộc kháng chiến đã hoàn thành, tiểu biểu là các bài phú

của Lí Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân,… Thơ Nôm, ngoài thơ quốc âm của Nguyễn Trãi,

có thể kể tới Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Thiên Tích, Lí Tử Cấu, Trình Thanh,…

Cuối thế kỷ XIV, giặc Minh đem quân sang xâm lƣợc nƣớc ta, các cuộc khởi

nghĩa liên tục nổ ra thời Hậu Trần, thời nhà Hồ đều lần lƣợt thất bại, nhân dân ta thời đó

rất cần có một ngọn cờ đại nghĩa, một “minh chủ” xứng đáng để tập hợp nhân sĩ yêu

nƣớc, lãnh đạo nhân dân chống giặc, cứu nƣớc. Cuộc khởi nghĩa Lam Sơn của ngƣời

anh hùng Lê Lợi xuất hiện đã phản ánh đúng nguyện vọng, mong ƣớc thiết tha về độc

lập dân tộc của nhân dân ta. Truyền thuyết dân gian về thanh gƣơm thần Lê Lợi với hai

chữ “Thuận Thiên” (tức thuận lòng trời) trên lƣỡi kiếm dƣờng nhƣ đã ngầm ý nói công

cuộc dấy binh của Lê Lợi là hợp với lòng trời, thuận theo ý dân.

Lê Lợi xuất thân không phải từ tầng lớp quý tộc, mà từ một hào chủ địa phƣơng.

Đất Lam Sơn, núi Chí Linh những vùng đất thiêng, “núi tổ” đã sinh ra và trao trọng

trách cho “nhân kiệt”: “Dƣ phấn tích Lam Sơn, thê thân hoang dã” (Ta đây, núi Lam

Sơn dấy nghĩa, chốn hoang dã nƣơng mình - trích Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi).

Trong cách nói của Lê Lợi ta thấy rõ ông không xƣng “trẫm” (tiếng dành cho vua), mà

chỉ dùng từ dƣ (là tôi, ta, tiếng xƣng hô bình thƣờng nhƣ mọi ngƣời). Lê Lợi muốn nói

mình là một ngƣời bình thƣờng, “thay trời làm việc” (đại thiên hành hóa). Điều đó đƣợc

Lê Lợi tuyên thề trƣớc các tƣớng lĩnh, trƣớc những ngƣời phò tá của mình trong hội thề

khởi nghĩa Lam Sơn: “Thời nay có giặc nhà Minh sang chiếm nƣớc ta, nguyền lấy nam

làm tôi. Ngƣời dân nƣớc có vua, trời thƣơng dân đồ thán cho cầm đƣợc thần kiếm bảo

ấn, y điếu dân phạt tội, giữ lấy muôn dân khỏi khốn cực” [123, tr.175]. Lời văn vang

lên nhƣ lời hịch, Lê Lợi nói rõ mục đích cuộc khởi nghĩa là thay lệnh trời để giúp dân

thoát khỏi khốn cùng, “điếu dân phạt tội” (vì thƣơng dân mà đánh kẻ có tội).

Con ngƣời “chốn hoang dã nƣơng mình”, trải “mƣời mấy năm trời”, “nằm gai

nếm mật”, quả đã thuyết phục đƣợc lòng dân, thu phục đƣợc nhân tài, đoàn kết các tƣớng

sĩ, đúng nhƣ Nguyễn Trãi đã nói rõ trong chùm thơ mừng Lê Lợi về thăm Lam Sơn:

Ức tích Lam Sơn ngoạn vũ kinh,

Đƣơng thời chí dĩ tại thƣơng sinh.

Nghĩa kỳ nhất hƣớng trung nguyên chỉ,

Miếu toán tiên tri đại sự thành....

(Nhớ thuở Lam Sơn đọc vũ kinh,

83

Chí vua đã hƣớng tới dân sinh,

Phất cao cờ nghĩa trung nguyên chỉ,

Tính trƣớc cơ mƣu việc lớn thành…).

Việc khẳng định vai trò của “địa linh, nhân kiệt”, ca ngợi vai trò của Lê Lợi,

lãnh tụ của nghĩa quân Lam Sơn là thể hiện sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong công

cuộc chống xâm lƣợc. Đề tài này xuất hiện khá nhiều trong thơ, phú thời đầu Lê, tiêu

biểu là các tác giả: Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Trãi, Lý Tử Tấn, Trình Thuấn Du.

Nhƣ đã nói, đất Lam Sơn, núi Chí Linh là “địa linh” đã che chở cho ngƣời anh hùng Lê

Lợi. Khi nghĩa quân bị bao vây ngay giữa Lam Sơn, ẩn mình ở Chí Linh sơn, giặc vẫn

không thể bắt đƣợc Lê Lợi bởi xung quanh vị chủ tƣớng đã có nhân dân che chở, đó là

ông lão cày ruộng, bà lão bán dầu, các cô gái dân tộc Thái, dân tộc Mƣờng, và đặc biệt

là Lê Lai sẵn sàng đổi áo cứu chủ tƣớng thoát khỏi vòng vây,… Nguyễn Trãi kể rõ

trong Lam Sơn thực lục: “Khi vua kinh doanh bốn phƣơng, phía bắc đánh giặc Minh,

phía nam đuổi quân Lào, trải trăm trận, đến đâu thắng đấy, chỉ có bọn vũ thần là Lê

Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba mƣơi lăm ngƣời; văn thần là bọn Lê

Văn Linh, Lê Quốc Hƣng; cùng với bình sĩ cha con, hai trăm quân thiết đội, hai trăm

nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ, bốn mƣơi thớt voi, cả xe cộ cùng ngƣời gài yếu, ngƣời hộ vệ

và vợ con, chỉ hai nghìn ngƣời mà thôi” [157, tr.70] .

Trong tập thơ Cúc pha của mình, nhà thơ Nguyễn Mộng Tuân đã sáng tác hai bài

thơ thể hiện rõ mối quan hệ giữa vua với dân. Ông so sánh “Quân chu” (vua là thuyền),

“Dân thủy” (Dân nhƣ nƣớc). Bài Quân chu nhƣ sau:

Tải, phúc tòng tri chỉ tại dân,

Cự chu tất cánh dụng hiền thần.

Thiệp xuyên sơ võng tri du tế,

Đắc đạo hà tu phục vấn tân.

Vị than ha tƣờng mê độc Dạng,

Hữu luyên kim vũ tác vong Trần.

An nguy nhất dã nghi gia ý,

Tác tiếp vô khinh phó phỉ nhân

(Chở, lật mới hay cốt ở dân,

Thuyền to ắt cậy đến hiền thần.

Qua sông, chẳng nhớ buổi đầu nữa,

84

Đắc đạo, không hề hỏi bến quen.

Chƣa nói buồm ngà mê đế Dạng,

Chẳng bàn lòng đẹp ám vua Trần.

An, nguy chỉ có con sào chống,

Tay lái, coi chừng kẻ bất nhân!)

Và bài “Dân thủy” nhƣ sau:

Đãng đãng dân tình dị khứ lƣu,

Tín tai nhƣ thủy hoặc trầm phù

Quần sinh tụ tán doanh hƣ thế,

Chúng chí tong vi thuận nghịch lƣu

Tựu Hán, bái nhiên quy mạc ngƣ,

Vong Tần, hoán nhƣợc đãng nan thu.

Quân tâm lẫm nhƣợc vu uyên trụy,

Kỳ tế thƣờng hoài vị tế ƣu

(Dao động tình dân dễ xuống lên,

Lòng dân tựa nƣớc: nổi hay chìm.

Hợp, tan tùy thế đầy, vơi đó,

Theo, chống do lòng thuận, nghịch nên.

Về Hán ùn ùn ai cản nổi.

Bỏ Tần tan tác dễ đâu kìm?

Lòng vua nơm nớp nhƣ gần vực,

Yên ổn qua rồi vẫn chửa tin)

Ở trong bài Quân chu hay Dân thủy, tác giả đều nói đến sức mạnh của dân nhƣ

sức mạnh của nƣớc. Nếu dân đã giống nhƣ nƣớc, thì phải biết thuận theo sức dân nhƣng

là thuận theo sức nƣớc. Thuận theo dân thì mọi việc sẽ trôi chảy. Đƣợc lòng dân thì nhƣ

đi thuyền mà đƣợc xuôi dòng nƣớc. Nguyễn Trãi trong bài thơ Quan hải (Đóng cửa

biển) cũng nhận xét tƣơng tự, khi ông viết câu: “Phúc chu thuỷ tín dân do thuỷ”

(Thuyền có bị lật mới biết rằng dân chẳng khác gì nƣớc). Lý Tử Tấn và Nguyễn Mộng

Tuân mỗi ngƣời làm một bài phú Quân chu (Vua là thuyền) để nói rõ ý đồ qua hình

tƣợng đó. Phần mở đầu bài phú của Lý Tử Tấn nêu rõ:

Cổ nhân thiện dụ,

Di quyết yến mƣu.

85

Vị quân dân chi tƣơng bảo,

Do chu thủy chi tƣợng tu.

Tất giới cụ dĩ cộng tế,

Vô tƣ mịch dĩ oán thù.

Tý dân tâm chi ái đới,

Vô khuynh phú chi thâm ƣu.

Thử quân chu chi thứ thí,

Sở dĩ vi dụ hậu chi lƣơng đồ dã.

(Ngƣời xƣa quả thật là khéo ví,

Để lại mƣu hay cho đời sau.

Rằng vua tôi nhƣ thuyền với nƣớc,

Phải giữ gìn bảo vệ lẫn nhau.

Cẩn thận giúp nhau tới bờ tới bến,

Chớ ghìm nhau để chuốc oán cừu

Phải khiến cho lòng dân yêu kính,

Thì không lo nghiêng đổ sập nhào.

"Vua nhƣ thuyền" trong câu ví đó,

Cốt để mƣu hay giúp cháu con đời sau vậy!)

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Sau đó, Lí Tử Tấn nêu lên một nguyên lý đúng đắn nhất cho kẻ làm vua biết chú

ý đến lẽ phải. Đó là nguyên lí:

Duy nhân nghĩa kì nguy đà

Diệc lễ nhƣợng kì li duy

(Nhân nghĩa là bánh lái cột buồm

Lễ nhƣợng là giây leo, rợ buộc).

Quả đƣợc nhƣ vậy, kẻ làm vua sẽ đƣợc quần chúng ủng hộ: “Tế xuyên chi tài,

hoặc tả hoặc hữu/Bật vi chi trực, nhƣ dực nhữ vi” (Kẻ tả kẻ hữu, giúp đỡ vƣợt

sông/Ngƣời phù ngƣời trì, sửa cong uốn thẳng).

Tác giả dẫn các sử liệu ở Trung Quốc từ Nghiêu, Thuấn đến Hạ, Thƣơng, Chu để

minh họa cho luận điểm của mình, rồi kết luận:

Thi tri: dân tâm chi nham hiểm, hữu thậm ƣ thủy;

Nhi quân đức chi thịnh tắc tất sử chi thƣờng hoài vu hữu nhân dã.

86

(Thế mới biết lòng dân nguy còn hơn cả nƣớc;

Nhƣng nếu nhà vua đức tốt thì ắt sẽ khiến dân luôn nhớ tới bậc có nhân). Trong

bài phú cùng đầu đề, Nguyễn Mộng Tuân cũng nhắc lại ý nghĩa ẩn dụ đó:

Vậy ai chẳng bảo rằng: dân là nƣớc chừ

Và chính vua chỉ là thuyền đó sao?

Quả là một điều thú vị, rất cần vì vua mà tâu thật

Vì nƣớc có thể chờ nổi, lại cũng có thể lật nhào chừ!

Nƣớc mềm lắm, mà lại cứng lắm chừ

Chứa ngầm sóng gió bất trắc xiết bao!.

Cũng nhƣ Lí Tử Tấn, Nguyễn Mộng Tuân mong rằng nhà vua phải biết “Xem

thái độ của dân mà lo sợ”, và phải biết “lấy nhân nghĩa làm thuyền”. Tác giả cũng dẫn

ra một số nhân vật tích cực trong lịch sử đã từng giúp các vua thời cổ đại Trung Quốc

thi hành việc nhân nghĩa có kết quả, ví dụ nhƣ ông Vũ, ông Tắc giúp vua Thuấn trị

thủy, Phó Duyệt giúp vua Cao Tông nhà Ân, Chu Công Đán và Thiệu Công Thích giúp

Vũ vƣơng và Thành vƣơng, hay nhƣ Tiêu Hà, Tào Tham giúp Lƣu Bang…, đồng thời

tác giả cũng nêu lên những vị vua làm trái với nhâ nghĩa nhƣ U vƣơng, Lệ vƣơng thời

Chu, Tần Thủy Hoàng, Dạng đế nhà Tùy,…Cuối cùng, Nguyễn Mộng Tuân lƣu ý nhà

vua ở chỗ biết lo xa đề phòng sự bất trắc có thể xảy ra, mà nguyên nhân sâu xa lại có

thể bắt nguồn ngay giữa lúc nƣớc nhà đang ở thời bình, cũng nhƣ nƣớc ngay ở chỗ nông

cạn vậy. Tác giả viết rất thẳng thắn:

Cho nên, thuyền bị đắm, đâu có phải ở nơi thác ghềnh hiểm hóc chừ

Mà thƣờng lại ở những nơi bãi nông, gò nổi!

Nƣớc mất không đợi đến ngày có giặc ngoại xâm chừ

Mà thƣờng ở vào lúc đƣơng hỗn hợp mà một mối….

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Cuối bài phú, tác giả kết lại bằng hình ảnh những ngƣời ngồi trong cái thuyền

“có đáy dỉ rò”, khi phải vƣợt qua biển cả. Quả thật, nguy cơ mất nƣớc có thể so sánh

nhƣ chỗ “rò dỉ” trong đáy thuyền vậy!

Đƣa ra hình ảnh sóng đôi Quân chu và Dân thủy, các tác giả thời Lê có thâm ý

vừa nhắc lại nhân tố thành công trong cuộc kháng chiến giữ nƣớc đã qua, vừa nêu lên

bài học trƣớc mắt về tinh thần đoàn kết toàn dân trong công cuộc xây dựng đất nƣớc.

Tục ngữ có câu “Quan nhất thời, dân vạn đại” (Quan chỉ ở một thời, còn dân là muôn

87

thuở). Chắc hẳn những bậc Nho sỹ, trí thức nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lý

Tử Tấn muốn lấy văn chƣơng, và qua văn chƣơng để kín đáo, tế nhị nhắc nhở các bậc

đế vƣơng. Từ vua sáng nghiệp nhƣ Lê Thái Tổ, tiếp sau đến vua Lê Thái Tông lên ngôi

còn trẻ tuổi, sự nghiệp trị vì lâu dài trƣớc mắt, cho nên bài học về truyền thống đoàn kết

nhân dân càng vô cùng quan trọng.

Thiên Thái Thệ trong Kinh Thƣ có câu “Thiên căng vu dân, dân chi sở dục, thiên

tất tòng chi!” (Trời vốn ở nơi dân; dân mà đã muốn, trời ắt phải theo). Đất thiêng, ngƣời

hùng là yếu tố quan trọng, nhƣng đƣợc nhân dân ủng hộ đi theo mới là nhân tố quyết

định làm nên chiến thắng của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn. Lê Lợi trở thành nhân vật vĩ

đại, tiêu biểu cho phong trào chống Minh, cứu nƣớc vì Lê Lợi đã yêu chuộng chính

nghĩa, đứng hẳn về chính nghĩa, nhƣ Nguyễn Mộng Tuân đã đề cập đến trong phần mở

đầu bài phú “Cờ nghĩa” của mình:

Vĩ đại thay! Vua ta chuộng nghĩa

Dốc một lòng rửa nhụ trừ hung!

Gió càn tre nổi dậy

Khiến hào kiệt theo cùng

Phất cờ tiến lui mà hai kinh khôi phục

Thúc quân khép mở, khiến Vƣơng Thông quy tòng

Mƣời vạn tù binh tha bổng

Muôn đời sự nghiệp oai phong

Tiếng nhân dậy khắp

Nghĩa khí vang lừng

Cờ nghĩa vua ta cao phất

Che rợp cả bậc Hán, Đƣờng….

Qua việc ca ngợi Lê Lợi, Nguyễn Mộng Tuân đã nói lên sức mạnh chính nghĩa -

cũng chính là sức mạnh của nhân tâm:

Đạo lớn ngụ ở chế độ

Tác dụng lại tự lòng ngƣời.

Buổi đầu dựng cờ: “Đƣợc mọi ngƣời ủng hộ//Nên sự nghiệp sáng ngời”. Cùng ý

với bài phú trên, trong bài phú “Mƣa rửa giáp binh”, Nguyễn Mộng Tuân cũng hết sức

ca ngợi vai trò của Lê Lợi. Tác giả so sánh vai trò của Lê Lợi trong việc giải phóng đất

88

nƣớc ta, để cứu nhân dân hai nƣớc khỏi nạn chém giết lẫn nhau, với sự nghiệp Vũ

vƣơng đánh Trụ để cứu nhân dân mình trong cảnh đồ thán:

Dấy một lữ, mở nƣớc cứu đời,

Vững một lòng vì dân rửa nhục.

Sóng bể làm mƣa quyết rửa sạch tanh hôi,

Thuốc thần làm tễ, mong chữa lành ghẻ lác.

Sánh công đức Vũ vƣơng,

Mọi chủ trƣơng đều hợp…

Thƣơng dân ta từng khổ đau,

Quyết đổi đời cho tốt đẹp.

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Dƣới ngọn cờ đại nghĩa của chủ tƣớng Lam Sơn, nhân dân đồng lòng nổi dậy,

cho nên từ thế “yếu” ban đầu chuyển thành thế “mạnh” tiến công. Đoàn kết là sức mạnh

vô song, là truyền thống của nhân dân ta: “Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc

ngọn cờ phất phới/Tƣớng sĩ một lòng phụ tử, hòa nƣớc sông chén rƣợu ngọt ngào”

(Bình Ngô đại cáo - Nguyễn Trãi). Quang cảnh tƣng bừng toàn dân kháng chiến đó

đƣợc Nguyễn Trãi miêu tả trong bài “Chí Linh sơn phú”:

Ai cũng mến vua mà liều chết,

Ai cũng muốn ra sức mà đền ân.

Gạo nƣớc đón rƣớc,

Ngƣời theo đƣờng đầy.

Hào kiệt nghiến răng vì căm giận,

Phụ lão nức nở thấy ngày nay…

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Lê Lợi đã thành công một cách oanh liệt nhƣ vậy, là vì Lê Lợi đã đƣợc nhân dân

tin theo. Sức mạnh chính nghĩa và sức mạnh của lòng dân đã đƣa cuộc kháng chiến

chống Minh đến thắng lợi một cách thần tốc, nhƣ Nguyễn Trãi đã nói trong chùm thơ

Mừng vua về Lam Sơn: “Nhất nhung đại định hà thần tốc” (Chỉ một cỗ áo giáp mà có

thể giải phóng đất nƣớc nhanh đến thế). Tuy nhiên, khi cuộc kháng chiến đi đến thắng

lợi hoàn toàn, biên cƣơng ổn định, vƣơng triều vững mạnh thì vua Lê Thái Tổ lại có

những việc làm trái ngƣợc với thân dân, nghi ngờ những nhân vật lỗi lạc đã cùng nhà

vua lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lƣợc. Vì vậy, tƣ tƣởng thân dân

89

không phải là tƣ tƣởng một chiều, bất biến mà có khi lại chịu sự quy định của điều kiện

hiện thực lịch sử. Chúng tôi sẽ tìm hiểu vấn đề này khi nói đến tác giả Nguyễn Trãi.

4.1.2. Ý thức về trách nhiệm của kẻ sĩ đối với người dân

Sau chiến tranh, đứng trƣớc nhiệm vụ xây dựng đất nƣớc và đem lại cuộc sống

ấm no cho nhân dân, Lê Thái Tổ đã ban hành Chiếu cầu hiền tài, kêu gọi những ai có

năng lực, có lƣơng tâm, có lòng yêu nƣớc thƣơng dân thì hãy mạnh dạn tự tiến cử hoặc

thuận tình để bạn bè mình tiến cử “kẻ hào kiệt còn ẩn nơi đồng nội”, “lẫn ở hàng quân

nhân”, “kẻ còn ẩn náu ở xóm làng” tham gia xây dựng, củng cố đất nƣớc. Nếu trƣớc

đây, khi dụ hào kiệt, Lê Lợi tỏ ra chân thành, khiêm tốn nhƣ thế nào, thì lúc cầu hiền

tài, Lê Lợi cũng hết sức chân thành và khiêm tốn nhƣ thế: “Trẫm nghĩ: đƣợc trị bình tất

ở việc cử hiền, đƣợc hiền tài tất do sự tiến cử. Bởi thế, ngƣời làm vua thiên hạ, phải lấy

việc ấy làm nhiệm vụ trƣớc mắt. Ngày xƣa, lúc thịnh thời, hiền sĩ đầy triều, đua nhau

tiến cử, cho nên dƣới không sót nhân tài, trên không bỏ trống chức vụ, mà thành đời

thịnh trị tƣơi vui,…” [124, tr.298].

Những lời lẽ sâu sắc và tiến bộ trong bài Chiếu cầu hiền tài của Lê Lợi quả đã

thôi thúc mạnh mẽ nhân sĩ hăng hái tham ra giúp nƣớc nhƣ Nguyễn Phu Tiên, Nguyễn

Nghiễm, Nguyễn Mộng Tuân, Lý Tử Tấn, Nguyễn Trãi,… Hình ảnh “Đài xuân” đất

nƣớc trở thành nguồn cảm hứng trong thơ phú của nhiều nhân sĩ thời đó. Lý Tử Tấn là

ngƣời giúp việc đắc lực cho Lê Lợi trong cuộc kháng chiến chống giặc Minh, trải qua

ba triều vua đƣợc trọng dụng. Ông nói rõ niềm tin vào công cuộc tái hồi đất nƣớc của

triều đại nhà Lê trong bài phú “Cõi thọ”:

Ô duy Tây Việt, khai thọ vực hề,

Minh, lƣơng tƣơng phùng, quân thần nhất đức hề,

Đồng di hiệp cung, tiểu tâm dực dực hề,

Kính thiên, cần dân, chí thành bất tức hề,

Thiên tử vạn niên, thái bình chi phúc hề”

(Cõi thọ ta từng ƣớc ao,

Chính từ Tây Việt mở đầu chứ đâu?

Vua sáng, tôi hiền gặp nhau,

Vua tôi dốc chí gian lao không sờn,

Tâm đầu, ý hợp muôn phần,

Lòng thành dù lúc xa gần khôn nguôi.

90

Lo dân, bởi lẽ kính trời,

Phúc to muôn thuở, đời tƣơi muôn lần)

(Bùi Văn Nguyên dịch)

Trong bài Xƣơng giang phú (Phú Xƣơng giang), Lí Tử Tấn nhấn mạnh đến vai

trò của dân trong việc thành bại của đất nƣớc, “giữ dân” cốt yếu không phải ở hùng

binh mà ở nhân nghĩa, đạo đức:

Than ôi!

Có đức, công mới lớn

Có ngƣời, đất mới linh

Giữ nƣớc, không cốt ở hiểm yếu

Giữ dân không cốt ở hùng binh.

Nếu Nguyễn Mộng Tuân nói lên hoài bão muốn cho dân đƣợc no ấm:

Ca khúc gió nam để giúp đỡ,

Đƣa dân ta lên cõi thọ giàu.

(Huân phong cầm phú -

Bài phú về khúc đàn Nam phong)

thì Lí Tử Tấn lại nhấn mạnh cốt cách của kẻ đại sĩ phu trong đời thịnh. Theo

ông, kẻ đại sĩ phu có nhiệm vụ “lấy nhân dựng nƣớc, lấy nhân trị dân”. Cùng trong bài

phú về núi Chí Linh, bốn tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lí Tử Tấn, Trình

Thuấn Du đều đề cao triết lí vì dân, nhờ có “thịnh đức”, “đại đức” của chủ tƣớng Lê

Lợi đã làm nên chiến thắng giặc Minh. Theo Nguyễn Trãi “thịnh đức” là ở chỗ “giữ vẹn

nƣớc là hơn, lo dân yên là trọng”. Theo Nguyễn Mộng Tuân, “đại đức” là ở chỗ “đƣa

nhân dân lên chăn ấm chiếu êm chẳng khổ, đặt nƣớc nhà nhƣ đá bàn non Thái không

lay”.

Nguyễn Thiên Tích cũng nặng niềm ƣu ái nhƣ Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng

Tuân, Lí Tử Tấn khi viết bài Mạn cảm (Cảm xúc lan man):

Niệm thiết quân thân đầu nhạ tuyết,

Sầu khan biến cố nhãn sinh hoa

(Tấm lòng gắn bó quân thân đầu pha tuyết,

Buồn xem biến cố, mắt đổ hoa).

91

Mái tóc và con mắt của ông có phần giống với hình ảnh thƣờng gặp trong thơ

Nguyễn Trãi, mái tóc bạc vì lo đời, con mắt thao thức vì thƣơng dân, buồn không thực

hiện đƣợc những chính sách huệ dân. Có lúc ông cũng đã từ quan vì Lê Thái Tông

không nghe theo lời nói của mình. Nguyễn Phu Tiên cùng nỗi niềm tâm sự nhƣ Nguyễn

Thiên Tích, thơ ông thể hiện niềm yêu mến quê hƣơng tha thiết và đau xót về cảnh nhân

dân bị giặc tàn phá nhà cửa, ruộng vƣờn:

Uấn lệ phi trăn mịch tệ lƣ,

Xích duyên thốn ngõa dĩ vô dƣ.

Điếu ngƣ trì hạc đài phong thạch,

Chủng cúc đình hoang thảo một trừ...

(Gạt nƣớc mắt, rẽ gai tìm nhà nát,

Đoạn rui, mảnh ngói cũng chẳng còn.

Ao câu cá khô cạn, bậc đã phủ rêu,

Sân trồng cúc bỏ hoang, thềm nhà lấp cỏ…

(Quy cố viên - Về vƣờn cũ).

Là ngƣời đã từng tham gia khởi nghĩa Lam Sơn từ những ngày đầu và sau đó

cũng trải ba đời vua đƣợc trọng dụng, Nguyễn Mộng Tuân phát biểu lên quan điểm của

cả một thế hệ trí thức, muốn thực hiện lý tƣởng của mình ở ngay cõi đời này, muốn thiết

thực giúp ích cho dân tộc, cho nhân dân.

Nhìn chung, tƣ tƣởng thân dân của các tác giả thời khởi nghĩa Lam Sơn đã đƣợc

thể hiện một cách phong phú và tiến bộ, không phải là nhận thức mơ hồ, chung chung

mà nảy sinh từ thực tiễn của đất nƣớc. Nêu cao sức mạnh và vị trí, vao trò của dân,

thƣơng dân, luôn nghĩ về trách nhiệm của mình với dân, các tác giả thời kì này đã phản

ánh thực tế của lịch sử cũng nhƣ yêu cầu của lịch sử. Nửa đầu thế kỷ XV với kỳ tích

của cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, các sáng tác thiên về cảm hứng hào hùng: ca ngợi sức

mạnh đoàn kết, chính nghĩa của nhân dân; nhận rõ vị trí, vai trò của ngƣời dân trong

cuộc kháng chiến chống quân Minh; đồng thời mơ ƣớc cho nhân dân có cuộc sống thái

92

bình, vững tin vào phẩm chất cao quý và trách nhiệm của kẻ sĩ. Đây chính là ý nghĩa

chủ đạo trong thơ văn của những trí thức truyền thống của dân tộc. Tƣ tƣởng thân dân

đƣợc khơi lên từ mạch nguồn văn học Lí - Trần, đến thời này đã nâng lên một bƣớc

phát triển, và đạt đến đỉnh cao rực rỡ nhất trong tƣ tƣởng tiên tiến của thời đại đó là tác

gia Nguyễn Trãi.

4.1.3. Tư tưởng thương dân, trọng dân và ơn dân trong sáng tác của Nguyễn Trãi

Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là ngƣời anh hùng giải phóng dân tộc, một nhân vật

lịch sử toàn tài hiếm có, một nhà tƣ tƣởng vĩ đại, danh nhân văn hóa thế giới. Riêng về

mặt văn học, Nguyễn Trãi là tác giả có “vị trí kết tinh và mở đƣờng vô cùng độc đáo

của lịch sử văn học Việt Nam”.

Tìm hiểu trƣớc tác của Nguyễn Trãi không thể không nói đến tƣ tƣởng nhân

nghĩa, thân dân. Có thể khẳng định rằng, trong các tác giả văn học Việt Nam, Nguyễn

Trãi là ngƣời nói đến chữ “dân” nhiều lần nhất, ở nhiều loại hình tác phẩm khác nhau

nhất, với nhiều sắc thái ý nghĩa phong phú nhất. Chữ “dân” đã đi cùng ông trong suốt

nhiều năm tháng của cuộc đời chìm nổi, vĩ đại và thƣơng đau. Ông nói đến chữ dân khi

nghĩ về sự suy vi của triều đại Hồ Quý Ly, khi cùng Lê Lợi gian khổ kháng chiến chống

quân Minh “Nhớ xƣa ở Lam Sơn đọc binh thƣ, đƣơng lúc ấy chí đã ở nơi nhân dân”;

ông nói đến chữ dân khi bộc bạch nỗi lòng của mình ở Thăng Long, ở Côn Sơn. Đối với

Nguyễn Trãi, triết lý về nhân dân luôn gắn chặt với nhân nghĩa, yêu nƣớc là thƣơng

dân, để cứu nƣớc phải dựa vào dân, và cứu nƣớc là để cứu dân, đem lại thái bình cho

muôn dân. Bởi vậy, không có gì lạ khi chúng ta thấy Nguyễn Trãi nhắc đến dân rất

nhiều lần - 155 lần - trong các tác phẩm của ông. Ý nghĩa của chữ “dân” trong sự

nghiệp văn chƣơng của Nguyễn Trãi có vị trí rất đặc biệt, khi thì ông nói đến tƣ tƣởng

“thƣơng dân”, khi thì “trọng dân” và đặc biệt Nguyễn Trãi là một trong những tác giả

văn học đầu tiên nói lên hai tiếng “ơn dân” - ơn những ngƣời lao động chân lấm tay bùn

“ơn kẻ cấy cày”.

Xuyên suốt văn chƣơng của Nguyễn Trãi, cả văn chính luận và thơ trữ tình, lý tƣởng

“ái quốc ƣu dân” trở đi trở lại với những nỗi niềm trăn trở thƣờng trực, suy tƣ lớn lao.

Ở phần văn chính luận, chúng tôi nhận thấy tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi

thể hiện trong hầu hết các tác phẩm. Đáng chú ý là Quân trung từ mệnh tập viết trong

thời gian kháng chiến, gồm khoảng 70 bài văn từ lệnh, phần lớn là thƣ giao thiệp với

93

nhà Minh. Trong các bức thƣ này, chúng tôi thống kê có tới 41 lần tác giả nói đến chữ

“dân”, có khi trong cùng một bức thƣ ngƣời viết 3,4 lần nói đến dân. Ở Bình Ngô đại

cáo - áng “thiên cổ hùng văn” mẫu mực, tác giả cũng 7 lần nhắc đến “dân”, thân dân

gắn liền với “nhân nghĩa”. Ngoài ra, tƣ tƣởng thân dân còn thể hiện trong các bài văn

chữ Hán khác nhƣ Lam Sơn thực lục (4 lần nhắc đến dân), Chí Linh sơn phú (4 lần) và

khoảng bảy bài chiếu, biểu dƣới triều Lê (9 lần). (Xin xem phụ lục cuối Luận án)

Về thơ chữ Hán và chữ Nôm, chúng tôi thống kê số lƣợng những bài thơ, câu thơ

thể hiện tƣ tƣởng thân dân trong hai tập Ức Trai thi tập và Quốc âm thi tập, kết quả nhƣ

sau: Ở Ức Trai thi tập có 22/105 bài (chiếm 21%); Ở Quốc âm thi tập là 98 bài/254 bài

(chiếm 39 %). Nhƣ vậy, tổng số bài thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân trong cả 2 tập thơ là

122 bài/359 bài, chiếm 33%. (Xin xem phụ lục cuối Luận án).

Từ những thống kê, phân loại trên, chúng tôi nhận thấy:

- Tƣ tƣởng thân dân là chủ đề nổi bật, xuyên suốt trong sáng tác của Nguyễn Trãi.

Tƣ tƣởng thân dân ấy có sự kế thừa của truyền thống gia đình, từ những ngƣời có ảnh

hƣởng lớn tới Nguyễn Trãi là ông ngoại Trần Nguyên Đán và thân phụ Nguyễn Phi

Khanh. Tƣ tƣởng ấy còn là sự phát triển mang tính thời đại từ thế kỷ XIV sang thế kỷ XV

và là nền móng vững chắc có tầm ảnh hƣởng to lớn đến tƣ tƣởng của các tác giả sau này.

- Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi đƣợc biểu hiện phong phú, đa dạng, thống

nhất và có nhiều điểm tiến bộ, tích cực so với thời đại. Nhìn chung, có thể khái quát sự

biểu hiện tƣ tƣởng thân dân trên những khía cạnh: Thƣơng dân; Trọng dân; Ơn dân. Tƣ

tƣởng thân dân đó vừa phản ánh truyền thống lớn của dân tộc vừa nói lên điểm tích cực,

tiến bộ trong tƣ tƣởng của Nguyễn Trãi. Đặc biệt là tƣ tƣởng ơn dân có thể coi là bƣớc

tiến đột khởi của tƣ tƣởng thân dân ở thế kỷ XV.

Cuộc đời Nguyễn Trãi và thời đại có ảnh hƣởng lớn tới tƣ tƣởng thân dân của

ông. Cuộc đời gần gũi, hòa mình vào nhân dân, nên ông đã nhìn thấy những đức tính

cao quý của nhân dân, hiểu đƣợc cuộc sống khổ đau cũng nhƣ nguyện vọng tha thiết

của nhân dân và tin vào sức mạnh vĩ đại của nhân dân. Từ thuở thiếu thời, Nguyễn Trãi

đã phải chịu những mất mát đau thƣơng lớn, mẹ mất khi Nguyễn Trãi mới 5 tuổi, ông

ngoại - ngƣời nhất mực yêu thƣơng Nguyễn Trãi - qua đời khi ông mới 10 tuổi. Nỗi

buồn đau thuở nhỏ đã để lại trong tâm hồn Ức Trai những khoảng trống khôn nguôi về

tình yêu thƣơng, nhƣng chính mất mát đó lại là thử thách nghị lực và sức mạnh tinh

thần của một thiên tài.

94

Trƣớc khi tham gia cuộc khởi nghĩa Lam Sơn hào hùng và gian lao, vinh quang

và nhọc nhằn, Nguyễn Trãi đã có điều kiện sống gần gũi với ngƣời dân, hiểu rõ tâm địa

của giặc xâm lƣợc. Bởi vậy, trong các tác phẩm của Nguyễn Trãi ta thấy rõ nỗi đau khổ

của ngƣời trí thức yêu nƣớc trƣớc cảnh giặc tàn bạo gây nên bao đau thƣơng, tội ác đối

với ngƣời dân.

Đối với Nguyễn Trãi, nƣớc gắn với dân và ngƣợc lại. Yêu nƣớc phải đi đôi với

thƣơng dân, hƣớng tới ngƣời dân vô tội. Cứu nƣớc trƣớc hết là để cứu dân thoát khỏi

ách áp bức của ngoại bang. “Trừ bạo, yên dân” là ngọn cờ giƣơng cao trong kháng

chiến chống giặc Minh xâm lƣợc, đồng thời cũng là đƣờng lối chính trị mà Nguyễn Trãi

theo đuổi trong suốt thời kỳ xây dựng đất nƣớc:

Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trƣớc lo trừ bạo.

(Bình Ngô đại cáo)

Tấm lòng yêu dân, quan điểm thân dân của Nguyễn Trãi có nhiều điểm tiến bộ

so với Nho giáo. Trong tƣ tƣởng về dân của Nho giáo đôi khi còn chƣa thoát khỏi cách

nhìn phiến diện. Những ngƣời cầm quyền có tấm lòng thƣơng dân nhƣng với tƣ thế của

kẻ bề trên đối với ngƣời dƣới, giống nhƣ cha mẹ ra ơn cho con cái, bậc chủ nhân ra ơn

cho bề tôi của mình. Nhân dân dƣới mắt họ là những con ngƣời nhỏ bé, yếu đuối, đáng

thƣơng xót, đáng đƣợc nuôi nấng vỗ về. Đây là chỗ khác nhau căn bản với tƣ tƣởng

thân dân của Nguyễn Trãi. Ức Trai cảm thông sâu sắc với quần chúng lao động - tầng

lớp thấp nhất trong xã hội phong kiến - luôn hứng chịu những áp bức, nhất là dƣới ách

đô hộ của giặc Minh. Ông đã gọi họ là “dân đen”, “con đỏ” với tất cả tình thƣơng xót

chân thành:

Nƣớng dân đen trên ngọn lửa hung tàn,

Vùi con đỏ xuống dƣới hầm tai vạ

(Bình Ngô đại cáo).

Không chỉ thƣơng dân, câu văn còn thể hiện cảm hứng tố cáo mạnh mẽ, lên án

những kẻ xâm lƣợc bạo tàn đã gây ra thƣơng đau đối với ngƣời dân vô tội. Văn chính

luận của Nguyễn Trãi, nhất là Quân trung từ mệnh tập, có tới hơn 40 lần tác giả nhắc

đến chữ “dân”. Mặc dù mục đích của tập văn này là thƣ bang giao với các tƣớng sĩ nhà

Minh, nhƣng bao giờ ngƣời viết cũng lập luận dựa trên tinh thần nhân nghĩa gắn với

yêu nƣớc, yên dân. Đó cũng sức mạnh của ngòi bút Nguyễn Trãi, một thứ vũ khí “tâm

95

công” (đánh vào lòng ngƣời). Nguyễn Trãi chỉ thẳng mặt đích danh tội ác cƣớp nƣớc,

chà đạp lên lý tƣởng nhân nghĩa tốt đẹp do chính tổ tiên của ngƣời Minh đề xƣớng “lừa

dối, giết hại kẻ vô tội”, “làm việc bạo tàn, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ

vét của quý, dân mọn xóm làng không đƣợc sống yên”. Ông cũng nói đến những nỗi

lầm than đau khổ của ngƣời dân “dân đen là kẻ vô cô”, phải chịu cảnh binh lửa chiến

tranh “dân sống không yên, nhƣ đắm nƣớc sâu, nhƣ thui lửa nóng”. Trong các bài Lam

Sơn thực lục, Chí Linh sơn phú và các bài chiếu, biểu sau này dƣới triều Lê, Nguyễn

Trãi cũng luôn xuất phát từ lòng thƣơng xót ngƣời dân vô tội mà chỉ ra những lầm than

khốn khổ của họ: “Chính thì hà khắc, hình thì thảm thƣơng, dân không sống nổi. Kẻ vô

tội kêu trời oán trách; ngƣời trung nghĩa nghiến răng căm hờn, đều muốn liều chết diệt

giặc”. Hình ảnh ngƣời dân vô tội trở thành niềm day dứt, trăn trở lớn trong tâm tƣ

Nguyễn Trãi.

Trong thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn Trãi, nỗi lòng thƣơng dân trở lại

nhiều lần với nhiều cung bậc thấm thía. Trong bài Loạn hậu cảm tác (Sau loạn cảm

tác), tác giả nói lên nỗi đau xót của nƣớc nhà khi giặc Minh xâm lƣợc: “Thần Châu nhất

tự khi can qua//Vạn tính ngao ngao khả nại hà”. (Thần châu từ lúc nổi can qua//Muôn

dân kêu van biết làm sao?). Nguyên nhân gây ra nỗi lầm than của ngƣời dân chính là kẻ

thù xâm lƣợc. Nguyễn Trãi chỉ rõ tội ác của giặc Minh bạo ngƣợc trong văn chính luận:

“Bảo cho mày ngƣợc tặc Phƣơng Chính: Kể đạo làm tƣớng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí

dũng làm của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô tội, hãm ngƣời vào chỗ

chết mà không xót thƣơng, việc ấy trời đất không dung” (Quân trung từ mệnh tập).

Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi kết tội chúng bằng một bản cáo trạng

đanh thép:

Dối trời lừa dân, kế gian đủ muôn nghìn khóe,

Gây binh gây hấn, ác chứa gần hai chục năm.

Bại nghĩa thƣơng nhân, trời đất tƣởng chừng muốn dứt,

Vét vơ thuế má, chằm núi chẳng còn tý gì.

Khai mỏ vàng, thì xông pha lam chƣớng, phá núi đãi vàng,

Mò ngọc trai thì mặc giao long, giòng dây quẳng biển,…

(Bản dịch của Đào Duy Anh).

Tội ác của giặc Minh khiến trời đất không dung, thần ngƣời đều căm giận:

Tát cạn nƣớc Đông Hải không rửa hết vết nhơ,

96

Chặt hết trúc Nam Sơn, chẳng ghi hết tội ác.

(Bản dịch của Đào Duy Anh).

Cũng giống nhƣ thân phụ và ông ngoại, Nguyễn Trãi là ngƣời yêu nƣớc thƣơng

dân, hiểu thời thế lại sống trong cảnh nƣớc mất nhà tan nên ông càng bội phần xót đau

cho ngƣời dân đất Việt. Nếu trong thơ Nôm, tấm lòng ái quốc ƣu dân thôi thúc, mãnh

liệt nhƣ “nƣớc triều đông” cuồn cuộn chảy trong trái tim đầy nhiệt huyết của nhà thơ,

thì trong thơ chữ Hán, Ức Trai đã bày tỏ lòng ƣu ái vì nƣớc vì dân cô đọng, kết tinh nhƣ

hạt châu nơi đáy bể:

Nhất tâm báo quốc thƣợng hoàn hoàn

(Một lòng báo quốc vẫn hăng say)

(Thứ vận Trần Thƣợng thƣ đề Nguyễn bố chánh thảo

đƣờng, Họa vần thơ Trần Thƣợng thƣ đề tại thảo

đƣờng của Nguyễn bố chánh)

Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh

(Chín trùng thƣơng xót dân phƣơng xa)

(Đề Hoàng ngự sử Mai Tuyết hiên, Đề thơ ở hiên

Mai Tuyết của Hoàng ngự sử)

Thƣơng sinh tại niệm độc tiên ƣu.

(Vì dân đen thƣờng tâm niệm, một mình ta lo trƣớc)

(Mạn hứng, bài 2)

Lão ngã thế đồ nan hiểm thục,

Trung tiêu bất mị độc thƣơng tình.

(Ta đã già, trên đƣờng đời nỗi gian hiểm thuộc cả,

Giữa đêm không ngủ một mình xót thƣơng)

(Tầm Châu)

Vãng sự nan tầm thì dị quá,

Quốc ân vị báo lão kham liên.

Bình sinh độc bão tiên ƣu chí,

Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.

(Việc xƣa khó tìm, thời dễ qua mau lắm,

Ơn nƣớc chƣa đền, mà đã già đáng thƣơng.

Bình sinh một mình ôm cái chí lo trƣớc,

97

Ngồi ôm chăn lạnh một mình không ngủ suốt đêm)

(Hải khẩu dạ bạc hữu cảm - Cảm nghĩ đêm ở cửa biển)

Nguyễn Trãi nhắc nhiều đến lí tƣởng "ái quốc ƣu dân" - một nội dung quan trọng

của học thuyết Nho giáo. Tuy nhiên thơ ông không phải là sự lặp lại một cách khô cứng

những lí thuyết có sẵn mà thể hiện chiều sâu những suy tƣ trăn trở. Nhà nghiên cứu Lã

Nhâm Thìn đã chỉ ra: "điểm riêng của Nguyễn Trãi là ở chỗ “ái ƣu" không chỉ là vấn

đề nhận thức mà đã trở thành tâm trạng và “tiên ƣu niệm", "tiên ƣu chí" ở Ức Trai cao

hơn nhiều so với lí tƣởng "tiên ƣu hậu lạc" thông thƣờng” [174, tr.129,130]. Tác giả đã

so sánh lẽ sống cao đẹp của của Phạm Trọng Yêm, một danh thần đời Tống: "Tiên thiên

hạ chi ƣu nhi ƣu, hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc" (Lo thì lo trƣớc thiên hạ, vui thì vui sau

thiên hạ) với lẽ sống của Nguyễn Trãi nhƣng ở Ức Trai: “Nguyễn Trãi thƣờng chỉ nói

tới tiên ƣu mà không nói tới hậu lạc. Nguyễn Trãi không dành cho mình sự "hậu lạc",

dù đó chỉ là niềm vui sau mọi ngƣời” [174, tr.130].

Trong Quốc âm thi tập ta bắt gặp những cách thể hiện sôi nổi, mãnh liệt tấm

lòng vì dân vì nƣớc của Ức Trai:

Bui có một niềm chăng nỡ trễ,

Đạo làm con liễn đạo làm tôi.

(Ngôn chí, bài 1)

Bui một tấc lòng ƣu ái cũ,

Đêm ngày cuồn cuộn nƣớc triều đông.

(Thuật hứng, bài 5).

Chính vì “tấc lòng ƣu ái” mà cả đời Nguyễn Trãi dốc sức lực cứu nƣớc cứu dân,

ông góp sức cùng Lê Lợi và nghĩa quân Lam Sơn làm nên đại thắng năm 1427, “mở

nền thái bình muôn thuở”. Nhƣng nỗi lòng thƣơng dân của Nguyễn Trãi thƣờng đặt

trong những thử thách, biến cố lớn của chính sự, thời cuộc, có lúc đã rơi vào bi kịch đớn

đau. Đất nƣớc bình yên, vƣơng triều ổn định, đáng lẽ điều kiện ấy cho phép ông có thể

thi thố tài kinh bang tế thế, nhƣng bản thân ông và bao ngƣời ngay thẳng, trung thực đã

từng sát cánh bên Lê Lợi kháng chiến lại bị nghi ngờ, bắt giam, giết hại. Năm Thuận

Thiên thứ hai tức năm Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ sai bắt Trần Nguyên Hãn, một

đệ nhất công thần khiến cho Nguyên Hãn phải nhảy xuống sông tự tử. Cuối năm Kỷ

Dậu, nhà vua lại sai giết Thái úy Phạm Văn Xảo, một đệ nhất công thần khác, và tịch

thu tất cả tài sản. Những sự việc này đã đƣợc sử sách chi chép lại.

98

Chính sử nhà Lê không chính thức nói đến việc Nguyễn Trãi bị Lê Thái Tổ bắt

và hạ ngục nhƣng căn cứ vào những cứ liệu lịch sử có thể thấy rằng, trong thời gian

Trần Nguyên Hãn phải tự trầm và Phạm Văn Xảo bị giết, thì Nguyễn Trãi bị tống giam.

Trong Tang thƣơng ngẫu lục, Dƣơng Bá Cung cho biết “Nguyễn Trãi từng có việc bị hạ

ngục rồi lại đƣợc tha” [156, tr.16]. Trong thơ chữ Hán của Nguyễn Trãi có bài “Oán

thán” về việc bị hạ ngục cho chúng ta biết rằng Nguyễn Trãi bị bắt vào hồi ông năm

mƣơi tuổi tức khoảng năm Thuận Thiên thứ hai (1429) - năm Lê Thái Tổ bắt Trần

Nguyên Hãn và giết Phạm Văn Xảo. Bài thơ thứ 125 trong Quốc âm thi tập có câu:

Tội ai cho nấy cam danh phận,

Chớ có thân sơ mới trƣợng phu.

Nguyễn Trãi là ngƣời thân của Trần Nguyên Hãn nên rất có thể ông bị nghi ngờ

có liên quan mà bị bắt, sau vì một lẽ nào đó lại đƣợc thả ra. Trong tờ biểu tạ ân khi ông

đƣợc Lê Thái Tông tiến cử giữ chức Gián nghị đại phu kiêm Tri tam quán sự, Nguyễn

Trãi có viết: “Nếu không đƣợc tiên đế (Lê Thái Tổ) xét rõ đáy lòng, thì hầu khiển tiểu

thần ngậm cƣời ở nơi chín suối”. Lê Thái Tổ tha Nguyễn Trãi, nhƣng nhà vua vẫn

không tin Nguyễn Trãi. Đó là lý do chủ yếu khiến cho suốt thời gian Lê Thái Tổ ở ngôi,

Nguyễn Trãi không làm một việc gì quan trọng cả. Bị vua nghi ngờ, ghét bỏ, nhƣng ông

vẫn phải làm quan. Trong bài thơ số 40 của Quốc âm thi tập, Nguyễn Trãi nói về việc

ngoài năm mƣơi tuổi, ông lại về Côn Sơn với một tâm sự buồn nản vô cùng:

Ngoài năm mƣơi tuổi ngoài chƣng thế

Ắt đã tròn bằng nƣớc ở bầu.

Nguyễn Trãi đau cho mình một, đau cho dân ngàn vạn lần vì ông nhìn thấy rõ sự

suy thoái của triều chính đƣơng thời: “Đã biết cửa quyền nhiều hiểm hóc, Cho hay

đƣờng lợi cực quanh co” (Ngôn chí, bài 19). Nguyễn Trãi đã phê phán một cách thẳng

thắn bọn quan tham, cơ hội, hám danh hám lợi, lƣời biếng, thói hãnh tiến, cậy quyền,

cậy cửa lộng hành, chèn ép ngƣời dân yếu thế. Trong bài chiếu soạn cho Lê Lợi,

Nguyễn Trãi không ngần ngại vạch mặt các quan tham, lƣời biếng: “Hơn nữa thuế má

nhiều, phu dịch nặng, pháp luật ngặt, hình phạt nghiêm. Chỉ cốt ích mình, béo nhà,

không nghĩ khổ dân hại nƣớc,… Ngƣời trung thực phải khóa miệng, dân lƣơng thiện

phải ngậm oan. Thế mà cứ kiêu ngạo tự tôn, không sợ mệnh trời mắc họa”.

Hiểu rõ thế thái nhân tình hiểm độc, Nguyễn Trãi không chịu luồn cúi, sống giả

dối, phụ tấm lòng của dân nên ông xin lui về Côn Sơn ở ẩn. Tuy nhiên, với Ức Trai, dù

99

trong bất cứ hoàn cảnh nào, xuất hay xử thì tấm lòng “ái ƣu”, “mài chăng khuyết,

nhuộm chăng đen”, sự âu lo việc nƣớc vẫn bạc cả mái đầu. Nói cách khác, ngay cả

trong lúc nhàn, Nguyễn Trãi là ngƣời thân nhàn mà tâm không nhàn:

Còn có một lòng âu việc nƣớc,

Đêm đêm thức nhẵn nẻo sơ chung.

(Thuật hứng, bài 23).

Tấm lòng “ái ƣu” càng làm sáng lên nhân cách, tấm lòng vằng vặc nhƣ sao Khuê

của ông. Dẫu giữa đêm đen của hiểm nguy, bất trắc nơi cửa quyền luôn rình rập, nhƣng

không vì thế mà Nguyễn Trãi buông bỏ, sống cho riêng mình. Khi đất nƣớc gọi, nhân

dân cần, Ức Trai lại hăm hở ra cứu đời, giúp nƣớc, giúp dân. Trong Toàn Việt thi lục, Lê

Quý Đôn có viết rằng: “Thái Tông lên ngôi thì do cố mệnh của Thái Tổ mà Nguyễn Trãi

phụ chính”. Câu này làm cho chúng ta nghĩ rằng trƣớc khi chết, Lê Thái Tổ đã nhìn thấy

lầm lỗi của mình, và đã dặn Thái tử Nguyên Long (Thái Tông) phải đặt Nguyễn Trãi lên

một chức vị xứng đáng. Lê Thái Tông đã làm đúng nhƣ lời cha dặn. Vì vậy, đời Lê Thái

Tông ở ngôi là thời Nguyễn Trãi đắc chí nhất, đƣợc trọng dụng nhất. Suốt trong thời gian

làm quan dƣới triều Lê Thái Tổ cũng nhƣ dƣới triều Lê Thái Tông, lúc nào Nguyễn Trãi

cũng sống một cuộc đời cần, kiệm, liêm, chính. Với ông, tấm lòng thƣơng dân đi liền với

sự ngay thẳng, thƣơng dân phải nghĩ và làm việc có lợi cho dân. Những lời tâu của

Nguyễn Trãi khi đƣợc giao soạn biểu văn, khi bàn về nhã nhạc đã đƣợc vua Lê Thái Tông

khen ngợi và làm theo. Tháng giêng năm Đinh Tị (1437), niên hiệu Thiệu Bình thứ tƣ,

vua Thái Tông sai Nguyễn Trãi và bọn hoạn quan là Lƣơng Đăng trông nom việc làm

xe loan và thẩm định nhã nhạc, nhân dịp này Nguyễn Trãi đã nói với Thái Tông nhƣ

sau: “Thời loạn thì dùng võ, thời bình thì dùng văn. Không có gốc không thể đứng vững,

không có văn không thể lƣu hành. Hòa bình là gốc của nhạc, thanh âm là văn của

nhạc… Dám mong bệ hạ rủ lòng thƣơng yêu và chăn nuôi muôn dân khiến cho trong

thôn cùng xóm vắng không còn một tiếng oán sầu. Đó tức là giữ đƣợc cái gốc của

nhạc” (Trích Việt sử thông giám cƣơng mục, Tập 9, tr.60,61).

Tuy nhiên, cuối cùng Nguyễn Trãi vẫn không chống lại đƣợc lƣỡi dao oan nghiệt

của triều đình phong kiến khi ông bị khép vào tội tru di tam tộc. Hoài bão cháy bỏng về

một xã hội vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn của Nguyễn Trãi không thực hiện

đƣợc, nhƣng trong lòng Ức Trai, đó là lý tƣởng chân thành và tha thiết muốn xây dựng

100

một xã hội tốt đẹp, trong đó có những bậc đế vƣơng luôn quan tâm đến đời sống của

nhân dân, coi đời sống nhân dân là mục đích của đời mình.

Trong sáng tác của Nguyễn Trãi ta còn thấy một điểm mới ở tƣ tƣởng thân dân

của ông chƣa từng thấy ở những tác giả trƣớc đó: ngoài trọng dân, thƣơng dân Nguyễn

Trãi còn biết ơn dân. Ông không chỉ coi dân là niềm ƣu ái thứ nhất của đời mình mà

còn nhận ra vai trò sức mạnh to lớn của dân, chở thuyền và lật thuyền cũng là dân:

Lật thuyền mới rõ dân nhƣ nƣớc,

Cậy hiếm không xoay ở mệnh trời

(Quan hải - Đóng cửa biển).

Trọng dân, ông xem dân là động lực, là sức mạnh tạo nên mọi biến cố xã hội. Trong

cuộc kháng chiến gian khổ chống giặc Minh, ngƣời anh hùng yêu nƣớc ấy thấy rõ vai

trò của nhân dân trong việc làm nên chiến thắng của dân tộc. Tinh thần đoàn kết, gắn bó

của ngƣời dân với vua quan tƣớng sĩ đã làm nên sức mạnh phi thƣờng:

Yết can vi kì, manh lệ chi đồ tứ tập,

Đầu giao hƣởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm.

(Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ phấp phới,

Tƣớng sĩ một lòng phụ tử, hòa nƣớc sông chén rƣợu ngọt ngào).

(Bình Ngô đại cáo)

Những câu văn này có giá trị nhƣ lời tuyên ngôn về vai trò sức mạnh của ngƣời

dân - những ngƣời manh lệ. Khẳng định vai trò của tầng lớp manh (ngƣời dân cày lƣu

tán), lệ (ngƣời tôi tớ đi ở), đó là một tƣ tƣởng lớn. Khổng Tử ít nhiều có đề cập tới vấn

đề nô lệ khi nói “phiếm ái chúng” nhƣng chƣa nói sâu sắc, cụ thể đến ngƣời dân

“manh”, “lệ” và càng chƣa khẳng định sức mạnh to lớn của tầng lớp này. Nguyễn Trãi

tiếp thu Nho giáo nhƣng vận dụng Nho giáo theo hƣớng tích cực, phù hợp với thực tiễn

của thời đại ông. Sau này phải đến Nguyễn Đình Chiểu chúng ta mới lại thấy xuất hiện

những ngƣời dân ấp, dân lân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc.

Chính vì trọng dân mà vị đại quan nhƣ Nguyễn Trãi luôn giữ mình thanh cao.

Trong bài Bảo kính cảnh giới, bài 57, Nguyễn Trãi ý thức sâu sắc về tài, đức của mình,

tự răn mình thờ cha “lấy thảo làm phép”, phụng chúa phải thẳng ngay, cần kiêm và

khép lại chuỗi tâm tƣ, vƣớng bận của ông là:

Đọc sách thì thông đòi nghĩa sách,

Đem dân mựa nữa mất lòng dân.

101

“Đem dân” là trông coi dân, trị dân. Hơn ai hết, Nguyễn Trãi hiểu sâu sắc vai trò

to lớn của dân, ông từng lý giải thấu đáo nguyên nhân thất bại của cha con Hồ Quý Ly

là do không đƣợc lòng dân: “Nhân họ Hồ chính sự phiền hà//Để trong nƣớc lòng dân

oán hận//Quân cuồng Minh đã thừa cơ gây họa” (Bình Ngô đại cáo). Bởi thế một vị đại

quan nhƣ ông vẫn phải trăn trở sợ mất lòng ngƣời dân “Làm mất lòng ngƣời những lo”

(Bảo kính cảnh giới, số 49). Câu thơ 6 chữ dồn nén bao tâm sự, trĩu nặng những ƣu tƣ

của Nguyễn Trãi. Nỗi lo ấy là lo giữ đƣợc chữ tín trong dân, để dân tin, dân trọng, dân

làm theo. Nỗi lo ấy là nỗi lo không giữ đƣợc phẩm chất, cốt cách của mình thanh cao

giữa cuộc sống mà “miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn”.

Nguyễn Trãi thấy đƣợc vai trò lớn lao của dân không chỉ trong kháng chiến mà

ngay trong cuộc sống đời thƣờng. Ông nhận thức sâu sắc rằng những phƣờng dân đen,

con đỏ ấy làm ra của cải vật chất cho xã hội. Thóc gạo, cơm ăn, áo mặc đều là do dân;

lâu đài, cung điện đều do mồi hôi, công sức của nhân dân. Những suy nghĩ đó khiến

ông day dứt, cảm giác mang nợ dân, phải đền ơn dân: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày” (Bảo

kính cảnh giới, bài 19). Câu thơ cho thấy tầm nhìn, tầm tƣ tƣởng lớn của Ức Trai. Ông

đã vƣợt qua khâu trung gian trong quan niệm “Ơn vua lộc nƣớc” để thấy đƣợc “lộc”

mình hƣởng là từ kẻ cấy cày. Ngƣời đáng lẽ phải mang ơn Nguyễn Trãi chính là nhân

dân, bởi cả cuộc đời ông tranh đấu vì sự bình yên, ấm no cho nhân dân. Vậy mà ông lại

tự nhủ phải “đền ơn kẻ cấy cày”, đền ơn những ngƣời một nắng hai sƣơng lam lũ vất

vả, làm ra hạt lúa củ khoai, bát canh thơm ngọt hôm nay. Câu thơ giản dị nhƣ lời nói

thƣờng ngày mà gợi ra truyền thống nghĩa tình thủy chung của dân tộc “ăn quả nhớ kẻ

trồng cây”. Trƣớc, cùng thời và sau Nguyễn Trãi các tác giả mới nói nhiều đến ơn “xã

tắc”, “ơn vua”, “ơn chúa”, “ơn thầy”, “ơn cha”,… theo quan niệm của ý thức hệ Nho

giáo, còn Nguyễn Trãi đã có một nhận thức mới mẻ “ơn dân” - đây là một bƣớc tiến

quan trọng trong hành trình phát triển tƣ tƣởng thân dân của thời đại.

Chính vì thƣơng dân, trọng dân và ơn dân nên suốt đời Nguyễn Trãi đeo đuổi lý

tƣởng và ƣớc mong một xã hội “Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn”. Ƣớc vọng, lý

tƣởng ấy thật là cao đẹp nhƣng cũng thật khó toàn vẹn trong đời thực. Lý tƣởng ấy xuất

phát từ tình yêu, niềm tin mãnh liệt của Ức Trai bởi ông là con ngƣời không đứng ở

ngoài dân mà luôn hành động, một lòng tận tụy vì dân vì nƣớc. Trong Quân trung từ

mệnh tập Nguyễn Trãi luôn lấy thƣớc đo là tƣ tƣởng nhân nghĩa, khuyên răn tƣớng sĩ

nhà Minh nghĩ đến sự sống còn của ngƣời dân vô tội cả hai nƣớc mà dừng binh đao

102

tránh cho dân khỏi họa “nƣớc sôi lửa bỏng”: “đánh kẻ có tội cứu vớt nhân dân, là thánh

nhân làm việc đại nghĩa, dấy nƣớc đã diệt, nối dòng đã tuyệt, là vƣơng giả có lòng chí

nhân” [156, tr.105], “Cho là tổ tiên của thần hết lòng trung nghĩa, mà trèo non vƣợt

biển không ngại xa xôi; thƣơng đến nhân dân của thần, không mắc tội tình mà khốn khổ

lầm than, không may đụng độ. Xá lỗi, tha tội, rộng suy hiếu sinh đức tốt; nghĩ bình yên

dân, dùng đến chỉ qua vũ thuật” [156, tr. 188]. Trong Bình Ngô đại cáo, Nguyễn Trãi

luôn nói đến hai chữ “thái bình” với một niềm khao khát mãnh liệt: “Dƣ dĩ toàn quân vi

thƣợng, nhi dục dân chi đắc tức//Phi duy mƣu kế chi cực kỳ thâm viễn//Cái diệc cổ kim

chi sở vị kiến văn” (Ta lấy toàn quân làm cốt mà cho nhân dân nghỉ sức//Chẳng những

mƣu kế cực kỳ sâu xa//Tƣởng cũng xƣa nay chƣa từng đƣợc thấy). Trong thơ Nôm,

Nguyễn Trãi nhấn mạnh nhiều lần ƣớc mong đó:

Sách một hai phiên làm bầu bạn

Rƣợu năm ba chén đổi công danh

Ngoài chƣng phận ấy cầu đâu nữa

Cầu một, ngồi coi đời thái bình

(Tự thán, bài 10).

Với Ức Trai, vui hay buồn, lo âu hay thanh thản, khi ngắm cảnh thiên nhiên hay

đọc sách, lúc uống rƣợu hay làm thơ, tất cả đều xuất phát từ cuộc sống của nhân dân. Dù ở

cung bậc và sắc thái tình cảm nào thì tấm lòng của thi nhân với nƣớc, với dân chỉ là một.

Thông thƣờng mỗi khi nói tới ngƣời dân thơ Nguyễn Trãi vẫn đƣợm một nỗi lo

âu, trăn trở, dằn vặt. Với Ức Trai, “dân” là món nợ suốt đời ông chƣa trả. Chỉ trong hai

trƣờng hợp ông nói đến dân với tất cả niềm hân hoan mãn nguyện: khi chiến thắng kẻ

thù xâm lƣợc, nhân dân đƣợc giải phóng và khi chiến thắng đói nghèo, nhân dân đƣợc

yên vui, no đủ. Nhìn cảnh sống của dân, đặc biệt là ngƣời lao động - những dân chài

lam lũ - đƣợc yên vui, no đủ, Nguyễn Trãi ƣớc có đƣợc chiếc đàn của vua Thuấn để gảy

khúc Nam phong ca ngợi cảnh:

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

Dân giàu đủ, khắp đòi phƣơng

(Bảo kính cảnh giới, bài 43).

Nguyễn Trãi mong cho dân đƣợc ấm no, hạnh phúc “dân giàu đủ”. Nhƣng đó

phải là hạnh phúc cho tất cả mọi ngƣời, mọi nơi “khắp đòi phƣơng”. Lý tƣởng ấy của

nhà thơ với ngày hôm nay vẫn mang ý nghĩa thẩm mĩ và nhân văn sâu sắc. Nguyễn Trãi

103

ít nói đến trách nhiệm của ngƣời dân mà thƣờng nói nhiều đến trách nhiệm của kẻ làm

vua, những kẻ “coi quân trị dân”. Ông mong ƣớc những ngƣời tài đức đƣợc trọng dụng,

mang đến cho nhân dân niềm vui và hạnh phúc. Rất nhiều lần ông lấy hình tƣợng cây

tùng, cây bách trải qua bao thăng trầm, thử thách vẫn giữ trọn khí tiết; đó cũng là ẩn dụ

về lý tƣởng cao cả và quyết tâm giúp dân giúp nƣớc: “Cội rễ bền dời chẳng động, Dành

còn để trợ dân này” (Tùng).

Tìm hiểu tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi ta không chỉ thấy một bài học lớn

về nhân cách, bản lĩnh sống mà còn khâm phục một tâm hồn, trí tuệ lớn lao, trái tim cao

đẹp của ông. Cách xa thời hiện đại của chúng ta bao nhiêu thế kỷ, những thăng trầm của

thời gian và lịch sử tƣởng cũng đã phủ mờ rêu xanh nhƣng thiết nghĩ những giá trị thơ

văn của Ức Trai vẫn ngời sáng và sẽ luôn còn giá trị mãi đời sau.

4.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa cuối thế kỷ XV

4.2.1. Tư tưởng thân dân thể hiện qua tinh thần ca ngợi cuộc sống thái bình, trăm họ

yên vui

Văn học nửa cuối thế kỷ XV đƣợc sáng tác trong hoàn cảnh chế độ phong kiến

Việt Nam ở vào thời kỳ đỉnh cao thịnh trị. Sau những biến cố dữ dội, xã hội dần đi vào

ổn định, đến triều Lê Thánh Tông, nhà nƣớc phong kiến quan liêu tập quyền đã đạt tới

bƣớc phát triển mới. Nho học đƣợc chú trọng trở lại. Lực lƣợng sáng tác đều là những

nhà Nho, nhiều ngƣời lại giữ những chức vị cao trong triều đình, số tác giả có tên lƣu

lại thời kỳ này là 70 ngƣời. Tác phẩm của văn học nửa sau thế kỷ XV phần lớn đƣợc

chép trong Thiên Nam dƣ hạ tập, trong đó có một số thơ văn chữ Hán của Lê Thánh

Tông và Hội Tao đàn.

Lê Thánh Tông là một trong những tác giả lớn nhất ở thời kỳ này, bên cạnh đó

có thể kể đến những tác giả đáng chú ý nhƣ Nguyễn Trực, Lê Hoằng Dụ, Nguyễn Bảo,

Thái Thuận, Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận, Lƣơng Thế Vinh, Đàm Văn Lễ, Vƣơng Sƣ

Bá,… Có một sự kiện văn học tiêu biểu là việc thành lập Hội Tao đàn. Hội Tao đàn

đƣợc thành lập năm 1495 do vua Lê Thánh Tông khởi xƣớng và đứng đầu. Ông tự xƣng

là Tao đàn nguyên súy. Thân Nhân Trung, Đỗ Nhuận,… là phó nguyên súy. Lƣơng Thế

Vinh là Tao đàn sái phu. Hội gồm 28 ngƣời ứng với 28 vì tinh tú trên trời nên gọi là

Tao Đàn nhị thập bát tú. Sự ra đời của Hội Tao đàn là nhân tố quan trọng thúc đẩy văn

chƣơng thế kỷ XV phát triển mạnh mẽ. Nhƣng tiếc thay nó chỉ tồn tại vỏn vẹn ba năm

(từ 1495 đến 1497), sau khi Lê Thánh Tông qua đời không còn nghe tới nữa.

104

Các tác giả thời Hồng Đức đã dành một số lƣợng bài không nhỏ viết về ngƣời

dân với sự đồng cảm, mến yêu, gần gũi. Cuộc sống thôn quê nhƣ cảnh sắc thiên nhiên,

phong vật quê hƣơng, ngƣời dân nông thôn,… đƣợc phản ánh trong thơ với những

khung cảnh tinh tế, chân thật, trung hậu, ấm áp tình ngƣời. Đây cũng chính là nét đặc

sắc của tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa sau thế kỷ XV. Ở những tác giả có thi tập

riêng đáng chú ý là Nguyễn Bảo (? -?), ông đỗ Tiến sĩ năm 1472, ngƣời làng Phƣơng

Lai, huyện Vũ Tiên (Thái Bình). Thơ ông có nhiều bài thơ miêu tả cuộc sống của nhân

dân. Bài thơ chữ Hán Xuân nhật tức sự (Ngày xuân tức sự) có lẽ đƣợc viết tƣ lúc ông

còn là ngƣời học trò ở chùa, tay ôm sách mà lòng vẫn để nơi đồng ruộng:

Trọ mái chùa hoang giữa cánh đồng,

Xuân sang mà cảnh vẫn buồn không!

Cỏ lan thềm trƣớc tƣơi và héo,

Khói tỏa cây xa nhạt lại nồng.

Đất xấu khó trồng nên ruộng lúa,

Trời êm nhƣ muốn nảy mùa bông.

Ngồi ôm đống sách nghe chim giục,

Làm ruộng toan tìm hỏi lão nông.

(Bản dịch của nhóm Lê Quý Đôn)

Nguyễn Bảo thƣởng xuân với con mắt của ngƣời am hiểu và quan tâm đến công

việc đồng áng. Cảnh vật không thể nào tƣơi vui đƣợc, dù đang giữa mùa xuân, khi mà

sản xuất sút kém. Bài thơ hay không chỉ ở hình tƣợng miêu tả mà có lẽ trƣớc hết là ở

chiều sâu của cảm xúc, ở tấm lòng của tác giả.

Trong một bài thơ khác, tác giả đã phác hoạ một bức tranh quê hết sức cụ thể và

sinh động. Cũng cảnh mùa xuân, cũng với sự quan tâm đến công việc ruộng vƣờn,

nhƣng ở đây tình cảm của tác giả lại dạt dào niềm vui vì mùa màng có nhiều hứa hẹn:

Phân phất mƣa phùn sấm sấm mây,

Mặc manh áo ngắn giục trâu cày.

Nàng dâu sớm đã gieo dƣa đó,

Bà lão chiều còn xới đậu đây,

Mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn,

Khoai trong đám cỏ đã xanh cây.

Điền viên nghĩ thật nguồn vui thú,

105

Dẫu chẳng “hành môn” đói cũng khuây.

(Trừng Mại thôn xuân vãn - Cuối xuân ở thôn Trừng Mại, bản dịch của nhóm Lê Quý Đôn)

Niềm vui của nhà thơ đã hòa cùng niềm vui của ngƣời nông dân. Bài thơ còn cho

thấy một tình cảm gắn bó với làng quê, với cuộc sống nơi thôn dã của một ngƣời có thể

sẵn sàng từ bỏ mọi thứ lợi danh để trở về với luống khoai, khóm mía, bãi đậu, vƣờn dâu

để cho tâm hồn thƣ thái. Và tình cảm nhớ thƣơng quê hƣơng của ông thật là thắm thiết:

Non quê thƣờng mộng góc trời xa

Năm cuối càng thêm nỗi nhớ nhà

(Tuế mộ thuật hoài - Cuối năm tỏ nỗi lòng).

Với hồn thơ bình dị, các chi tiết hình ảnh sinh động, chất phác, hồn nhiên của đời

sống, cảnh vật và con ngƣời trong thơ ông hiện lên mang đậm nét của hình ảnh nông

thôn quen thuộc; tình cảm thơ ông cũng là tình cảm của con ngƣời yêu nhân dân lao

động, gắn bó với làng mạc, ruộng đồng. Thơ ông vì thế có một màu sắc thân dân đậm

đà ít thấy ở những tác giả cùng thời.

Thái Thuận (1400 - ?), cũng là một nhà thơ của Hội Tao đàn và đƣợc vua cho

làm phó nguyên soái Tao đàn. Ông gần với Nguyễn Bảo ở tình cảm thƣơng dân mộc

mạc và am hiểu cuộc sống nông thôn. Trong bài Hoàng giang tức sự (Chép việc bến

Hoàng Giang), ta bắt gặp một hình ảnh rất hiếm thấy trong văn học: “Nhà cỏ tuôn làn

khói//Thuyền con ghé mái bồng//Trẻ em năm bảy tốp//Bắt cáy dọc ven sông“. Chỉ với

bốn dòng thơ ngắn gọn nhƣng cảm xúc chân thành, đầy lòng ƣu ái với tạo vật, con

ngƣời, tác giả viết nên bài thơ đẹp nhƣ một bức họa. Hình ảnh những trẻ em bắt cáy

ven sông chẳng những thể hiện sự quan tâm của nhà thơ đối với cuộc sống của ngƣời

dân mà còn cho thấy nhà thơ đã phá vỡ tính ƣớc lệ bằng những chi tiết thật đời thƣờng

sinh động. Cảnh vật và con ngƣời thôn quê qua thơ Thái Thuận dẫu có nhỏ bé, bình

thƣờng, cũng trở nên có tình ý, có hồn và đậm đà màu sắc quê hƣơng: “Bình phố thừa

triều thƣợng//Nông dân sấn hiểu canh//Hát ngƣu phi bạch điểu//Phong ngoại lƣỡng

tam thanh” (Bãi phẳng triều dâng ngập//Bác cày vội sớm mai//Vắt trâu ba bốn

tiếng//Cò trắng giật mình bay – trích Muộn giang - Trên sông muộn). Những chi tiết của

đời thƣờng bình dị bồng trở nên thanh thoát, giàu chất thơ qua cảm xúc trong sáng, tinh

tế của nhà thơ. Trung tâm trong bức tranh là hình ảnh ngƣời nông dân cày ruộng sớm

mai, tiếng hét trâu làm cho đàn cò trắng giật mình bay. Nhà thơ cảm thƣơng ngƣời lao

động vất vả, khó nhọc trên đồng ruộng nhƣng cũng rung động thật sự trƣớc đời sống

106

của ngƣời dân. Điều đáng quý là tác giả đã phản ánh cuộc sống của họ một cách tự

nhiên, thuần phác, không một chút khoa trƣơng hay ƣớc lệ.

Tƣ tƣởng thân dân ít nhiều đƣợc thể hiện ở các giả thời Hồng Đức, đặc biệt là

các nhà thơ của Hội Tao đàn. Tuy âm hƣởng ngợi ca là chủ yếu nhƣng thơ văn cung

đình vẫn mang một giá trị nhất định trong việc phản ánh đời sống của ngƣời dân. Họ

thƣờng tự hào về cuộc trị bình mà vƣơng triều đã đạt tới. Cuộc trị bình ấy thể hiện ở

trạng thái xã hội ổn định, sản xuất nông nghiệp phát triển, nhân dân an cƣ lạc nghiệp,

đƣợc mùa ấm no:

Đời thịnh trị tột bậc, sẵn có gió hòa,

Điềm lành ứng luôn, thƣờng hay mƣa thuận.

Thóc lúa tích trữ chín năm, trù bị trong nƣớc dồi dào,

Bốn bề bình yên, công nghiệp nhà vua rộng lớn

(Đỗ Nhuận - Thơ chữ Hán: Phong đăng)

Rực rỡ ngôi báu, lâu đài mãi mãi,

Mƣa hòa gió thuận thiên hạ thái bình.

(Ngô Luân - Thơ chữ Hán: Minh lƣơng).

Thơ văn cung đình thƣờng đề cập đến đƣờng lối cai trị theo lý tƣởng của Nho gia. Các

văn thân thỏa mãn với hiện thực, nhƣng họ không dừng lại ở sự nghỉ ngơi, hƣởng lạc,

mà có ý thức về trách nhiệm của kẻ cầm quyền đối với nhân dân:

Công hiệu thịnh trị càng tốt đẹp, lòng càng thận trọng,

Lo việc dân, chăm việc nƣớc, luôn luôn cố gắng.

(Thân Nhân Trung - Thơ chữ Hán: Phong đăng).

Ngƣời làm quan cũng coi quân trị dân thì phải luôn luôn tâm niệm về phận sự:

Giúp nhà vua, yêu nhân dân là ý nghĩ thiên cổ,

Chống kẻ thù bên ngoài, yên trong nƣớc là tâm sự suốt đời.

(Thân Nhân Trung - Thơ chữ Hán: Thần tiết)

Ái quốc, ƣu quân niệm niệm thâm.

(Nguyễn Trọng Ý - Thơ chữ Hán: Thần tiết).

Rõ ràng những tác phẩm trên đã thể hiện đƣợc tƣ tƣởng thân dân gắn liền với

yêu nƣớc và lý tƣởng xã hội chính trị tƣơng đối tích cực. Tuy nhiên, do hạn chế của

khuôn khổ chật hẹp là xƣớng họa với nhà vua nên cảm hứng nghệ thuật có phần khuôn

107

sáo. Vả lại, Lê Thánh Tông là ngƣời học vấn tài năng, lại có uy quyền tối thƣợng, nên

ông vẫn là tác giả tiêu biểu nhất của dòng văn học cung đình.

Nói đến tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa cuối thế kỷ XV không thể không

nói đến sự đóng góp đáng kể của những cây bút trong Hồng Đức quốc âm thi tập. Đây

là tác phẩm tập hợp những sáng tác của Hoàng đế Lê Thánh Tông và các văn thần dƣới

thời Hồng Đức (1470 - 1497), có ngƣời là thành viên của Hội Tao đàn, có ngƣời ngoài Hội

Tao đàn. Tập thơ không ghi rõ tên tác giả, gồm có 328 bài thơ Nôm, đề tài phong phú, từ

vịnh thiên nhiên, lịch sử đến cuộc sống, xã hội, con ngƣời. Tập thơ mang vẻ đẹp tâm hồn,

trí tuệ của vị Hoàng đế anh minh và của các văn nhân thời đại ông. Bên cạnh âm hƣởng

chung là khẳng định triều đại Lê Thánh Tông, ca ngợi bậc minh quân và cuộc sống thái

bình, thịnh trị, ca ngợi đất nƣớc, chan chứa niềm tự hào dân tộc thì chủ đề tƣ tƣởng thân

dân là một nội dung nổi bật của tập thơ. Theo thống kê của chúng tôi, có 53 bài/328 bài thơ

đề cập đến ngƣời dân trong Hồng Đức quốc âm thi tập, chiếm tỷ lệ 16,15%.

Đất nƣớc đã thái bình, ngƣời dân đƣợc quan tâm hơn về lợi ích, làm sao củng cố

giang san để nhân dân ấm no, hạnh phúc, giàu đủ yên vui. Mục đích cao cả của văn

nhân thời Hồng Đức là “cứu dân”, “đỡ dân”, “giúp đƣợc dân làng”,…và hơn hết thảy

là “vì nƣớc dân thuở dấu âu”. Điều này khẳng định đƣờng lối chính trị sâu sắc, tiến bộ

mang đậm tính nhân văn của Hoàng đế Lê Thánh Tông. Không chỉ vịnh cảnh, vịnh

ngƣời mà cả những bài vịnh vật nhƣ con cóc, cái cối xay, các nhà thơ cũng mƣợn chúng

để nhắc đến dân. Con cóc xấu xí dƣới cái nhìn và thơ khẩu khí của thi nhân hội Tao đàn

cũng có sự oai phong, uy nghiêm của đấng minh quân và có công lớn “giúp đƣợc dân

làng kẻo nắng nôi”. Cái cối xay khó nhọc, thẳng ngay, quanh năm suốt tháng bền bỉ,

cần mẫn “vận chuyển lƣơng dân đủ tháng ngày”. Vậy là cả những đồ vật tầm thƣờng,

xấu xí, thô kệch cũng trở nên cao đẹp, có ý nghĩa lớn lao nếu nó gắn với nhân dân.

Hình ảnh ngƣời dân lao động trong Hồng Đức quốc âm thi tập là ông ngƣ, ngƣời

đi cày, ngƣời quẩy củi,… trong con mắt của thi nhân qua nghệ thuật ƣớc lệ viết về tứ

thú, ngƣời dân hiện lên bình dị, chân chất, với cái nhìn trìu mến, cảm thông:

Lẻ tẻ đầu non ngƣời quẩy củi,

Lao xao cuối bãi khách về thuyền.

(Đan hà hiểu vọng - Buổi chiều trông ráng mây đỏ).

Tuy là thơ vịnh nhƣng vẫn ẩn chứa lòng thƣơng cảm sâu xa với nỗi khó nhọc,

vất vả của ngƣời dân nghèo. Đó là những bác canh phu lam lũ, sớm hôm dầm dãi nắng

108

mƣa, manh áo mỏng, lụp xụp giữa cảnh sông nƣớc: “Manh áo quàng, mang lụp

xụp//Quai chèo xách, đứng lom khom” (Ngƣ, bài 50, Phong cảnh môn). Tác giả của bài

thơ Vịnh ngƣời đi cày phải đồng cảm, xót thƣơng tha thiết mới khắc họa thành công hình

ảnh ngƣời nông dân lam lũ, đắng cay với công việc đồng áng gian nan. Trong cái rộng

lớn, khắc nghiệt của thiên nhiên “gió ngàn”, “mƣa núi”, hình ảnh anh nông phu bé nhỏ

mà không dơn độc, côi cút, vẫn vững vàng khỏe khoắn nơi đồng ruộng: “Gió ngàn xanh,

xoay nón lệch//Mƣa núi lục, cúi lom khom”. Giọt mồ hôi rơi “dồn dọi”, tới tấp trên

gƣơng mặt họ cho ta thấm thía bao nỗi vất vả nhọc nhằn. Câu thơ gợi ngƣời đọc nhớ đến

bài ca dao “Cày đồng đang buổi ban trƣa, Mồ hôi thánh thót nhƣ mƣa ruộng cày”. Nỗi

vất vả, mệt nhọc nhƣ bị lãng quên đi. Hình ảnh ngƣời canh phu hiện lên đẹp đẽ trong sự

chủ động của con ngƣời khỏe khoắn, hăng say miệt mài, trong tình yêu sâu nặng dành

cho mỗi tấc đất tấc vàng của quê hƣơng:

Tấc đất, tấc vàng yêu bấy tá,

Mồ hôi dồn dõi thuở đầu mom.

(Canh, bài 52, Phong cảnh môn).

Trong chùm thơ vịnh nắng hè, sự tài tình của thi nhân là đã lột tả đƣợc thần thái,

linh hồn của mùa hè Bắc Bộ. Chỉ qua vài chi tiết, hình ảnh chấm phá, nhà thơ đã làm

hiện lên không khí oi nồng, nóng nực, bức bối của vạn vật, con ngƣời giữa cái khắc

nghiệt của ngày hè. Giọng thơ nhƣ bực bội, hờn dỗi “nóng nảy làm chi bấy hỡi hè?” bởi

oi bức quá đến “khắc khoải”, “băn khoăn” làm “đau lòng cái quốc”, “tức ngực con ve”.

Hai câu thơ sử dụng phép đối rất chỉnh, rất khéo, từ chuyện khó chịu bởi thời tiết đến

chuyện éo le của con ngƣời:

Ngƣời nằm trƣớng vóc mồ hôi ƣớt,

Kẻ hái rau Tần nƣớc bọt se.

(Vịnh nắng hè, bài 46, Thiên địa môn).

Hai câu thơ dựng lên bức tranh tƣơng phản về cuộc sống sung túc của tầng lớp

thƣợng lƣu với nỗi khó nhọc, lam lũ của ngƣời bình dân. Hình ảnh thơ ƣớc lệ nhƣng sự

đối lập gay gắt đã nói lên phân nao lòng xót xa, thấm thía của nhà thơ với nỗi đắng cay

của những con ngƣời mang “phận le te”. Niềm đồng cảm ấy đôi khi đƣợc thốt lên thành

lời cảm thán: “Thƣơng một ngƣời còn lội dƣới khe” (Vịnh nắng hè, bài 45, Thiên địa

môn). “Kẻ hái rau Tần”, “ngƣời lội dƣới khe”‟ đều chung chung nhƣng đó là hình ảnh

về kiếp sống cực khổ, lam lũ. Từ “thƣơng” thật hiếm hoi trong thi tập nhƣng cũng rất

109

đáng quý bởi đó là tiếng lòng của những ngƣời đang sống trong nhung gấm chạnh niềm

thƣơng cảm, xót xa ngƣời nghèo khổ, khó nhọc khuya sớm. Xót thƣơng cho nỗi nhọc

nhằn của ngƣời dân quê, nỗi lòng của nhà thơ Hồng Đức có khi cất lên thành tiếng thở

than, trách móc:

Nào khúc “nam huân” sao chửa gẩy?

Chẳng thƣơng bồ liễu phận le te.

(Vịnh nắng hè, bài 46, Thiên địa môn).

Câu hỏi tu từ nhƣ lời chất vấn, truy tìm nguyên do vì sao không đàn lên khúc Nam

phong của vua Thuấn để cho nhân dân hạnh phúc, ấm no. Lời băn khoăn đã trở thành

trách móc, oán hờn ở cuối bài, trách ngƣời “chẳng thƣơng” mà lòng ta đầy thƣơng cảm.

Ba chữ “phận le te” cho ta thấy hết thân phận bé nhỏ, bấp bênh, của những ngƣời dân lam

lũ.

Nét mới mẻ trong tƣ tƣởng thân dân của các nhà thơ thời Hồng Đức còn là sự

thấu hiểu những niềm vui, niềm phấn khởi của muôn dân khi đất nƣớc yên bình, khi họ

đƣợc thỏa ƣớc mong. Trong thi tập có nhiều bài diễn tả niềm hân hoan khi cuộc sống

con ngƣời no ấm:

Nhà nam, nhà bắc đều no mặt,

Lừng lẫy cùng ca khúc thái bình”.

(Canh, bài 33 - Thiên địa môn).

Bài thơ Đại hạn gặp mƣa là tiếng reo ca tràn đầy niềm vui, sự hối hả của vạn vật,

con ngƣời khi đang trong cơn khát cháy bỏng bỗng gặp những cơn mƣa đầu mùa xối xả.

Nỗi mừng vui lan tỏa rất nhanh từ những đóa hoa “đƣợm màu tƣơi cƣời hớn hở” đến

những con cá “mừng nƣớc ngọt nhảy lao xao”, từ thiên nhiên đến con ngƣời:

Trong triều mọi sĩ đều ca vịnh,

Ngoài nội tam nông kẻo ƣớc ao.

(Đại hạn gặp mƣa, bài 43 - Thiên địa môn).

Tiếng ca vang của quân sĩ, nỗi hả hê của lão nông, cái cƣời hớn hở của hoa lá,

điệu nhảy lao xao của cá tôm,… đã làm nên một ngày hội tƣng bừng, hân hoan. Đó phải

chăng không chỉ là niềm vui sƣớng của thiên nhiên, con ngƣời trong cảnh đại hạn gặp

mƣa mà còn là niềm hạnh phúc, toại nguyện của cả đất nƣớc trong không khí thanh

bình, thịnh trị. Phải đồng cảm với niềm vui nhỏ bé, khát khao bình dị của con ngƣời thì

các tác giả Hồng Đức mới viết lên những vần thơ đậm tính nhân văn nhƣ thế.

110

Tƣ tƣởng thân dân của các nhà thơ thời Hồng Đức chủ yếu thể hiện qua những

cách nhìn, thái độ hay cảm xúc bình dị về ngƣời dân. Dù ở những khía cạnh đậm nhạt

khác nhau nhƣ thế nào thì những vần thơ viết về dân cảnh, dân tình vẫn rất đáng quý,

đáng trân trọng. Thái độ trọng dân, thƣơng dân, đồng cảm với nỗi cơ cực vất vả, khát

khao của ngƣời dân lao động vất vả ở các nhà thơ Hồng Đức chính là nền tảng, là tiền

đề của chủ nghĩa nhân đạo phát triển mạnh mẽ trong văn học những giai đoạn sau.

4.2.2. Tư tưởng thân dân thể hiện qua tinh thần tự răn mình của đấng quân vương:

Kính trời, thương dân; trên dưới đồng lòng, xã tắc bền vững

Lê Thánh Tông (1442 - 1497) tên thật là Lê Tƣ Thành, là con trai thứ tƣ của Lê

Thái Tông. Ông không chỉ nổi tiếng là một vị Hoàng đế anh minh, nhà chính trị, nhà

lãnh đạo đất nƣớc tài năng, nhà văn hóa lỗi lạc mà ông còn là một nhà thơ lớn của nƣớc

ta nửa cuối thế kỷ XV. Lê Thánh Tông có tƣ chất thông minh, trí tuệ sáng suốt, lại

chăm học, vốn tri thức sách vở uyên thâm, đồ sộ. Ông còn là ngƣời có bản chất giàu

tình cảm, vô cùng có hiếu và kính yêu mẹ, sống tình nghĩa có trách nhiệm cao với vợ

con. Ông cũng có một vốn hiểu biết phong phú về cuộc sống. Lúc thiếu thời gian truân

hoặc khi chạy loạn Hoàng tử Tƣ Thành đã ít nhiều đƣợc tiếp xúc với sinh hoạt của nhân

dân. Khi lên làm vua, trong những cuộc tuần du hoặc viễn chinh, Lê Thánh Tông đã có

điều kiện quan sát cảnh vật cũng nhƣ tìm hiểu nhân tình trên nhiều miền đất nƣớc. Chính

vốn sống và sự từng trải đó đã hun đúc nên tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác của Lê

Thánh Tông. Suốt 38 năm trị, ông có công lao giúp dân, đƣa đất nƣớc bƣớc vào thời kỳ

hùng cƣờng, thịnh trị bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam và khu vực Đông Nam

Á thời bấy giờ. Ngoài việc là chủ soái của Hội Tao đàn, Lê Thánh Tông còn để lại 9 tập

thơ chữ Hán đƣợc chép vào Thiên Nam dƣ hạ tập.

Chúng tôi thống kê thơ chữ Hán Lê Thánh Tông có 25 bài/313 bài mang chủ đề

tƣ tƣởng thân dân, chiếm 8%. Khác với tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi và của

nhiều nhà nho trƣớc đó, Lê Thánh Tông đề cập nhiều đến vai trò của dân, từ đó xác

định nghĩa vụ của dân đối với nhà vua, cũng nhƣ thái độ, trách nhiệm của nhà vua,

ngƣời cầm quyền đối với dân. Ở cƣơng vị ngôi vua, ông luôn luôn thƣơng dân, trọng

dân và lo nghĩ về những chính sách an dân. Những suy nghĩ về công việc, trách nhiệm,

trở thành nỗi day dứt lớn trong thơ Lê Thánh Tông. Ở bài thơ Nôm Tự thuật, ông viết:

Lòng vì thiên hạ những sơ âu

Thay việc trời dám trễ đâu.

111

Theo ông, ngƣời làm vua có một sứ mạng rất cao cả, đó là thay trời chăm lo

thiên hạ, phải lo trƣớc (sơ âu) thiên hạ, và không bao giờ đƣợc lƣời biếng, trễ nải trong

công việc ấy:

Đạo lớn đế vƣơng nghĩ đã tinh,

Thƣơng yêu dân chúng, kính trời xanh.

(Quỳnh uyển cửu ca - bài 2: Đạo làm vua).

Câu nói ấy có lẽ đã khái quát đƣợc đầy đủ trách nhiệm của ngƣời đứng đầu quốc

gia. “Kính trời” ở đây vừa là kính trọng một vị chúa tể tối cao, cai quản cả vũ trụ theo

quan niệm duy tâm trƣớc đây, vừa là sự tôn trọng các quy luật tự nhiên của đất trời,

không đề ra chính sách, chủ trƣơng trái với quy luật tự nhiên và xã hội, không đƣa nhân

dân ra làm vật “thí nghiệm” cho ý chí của mình. Hoạch định một chính sách là phải suy

nghĩ xem có phù hợp với “thiên thời, địa lợi, nhân hòa” hay không. Ở cuối bài thơ, ông

nói cụ thể hơn:

Điều hòa muôn việc theo mùa tiết,

Khắp chốn hân hoan hƣởng thái bình

(Quỳnh uyển cửu ca - bài 2: Đạo làm vua).

Điều hòa mọi việc sao cho có thứ tự, phù hợp với quy luật của tự nhiên, để sao

cho dân chúng gần xa cùng đƣợc hƣởng cuộc sống thái bình. Đó là suy nghĩ đúng đắn

trƣớc hết về đạo làm vua của ông. Theo ông, những việc chính nhà vua cần làm là:

Đạo lớn đế vƣơng nghĩ đã tinh,

Thƣơng yêu dân chúng, kính trời xanh.

Tìm tòi kế sách xây đời thịnh,

Bỏ hẳn chơi bời giữ nếp thanh.

Cất nhắc anh tài phô đức đẹp,

Chăm lo võ bị trọng quyền binh .

Điều hòa muôn việc theo mùa tiết,

Khắp chốn hân hoan hƣởng thái bình.

(Quỳnh uyển cửu ca - bài 2: Đạo làm vua)

Trong Quỳnh uyển cửu ca, bài Hai năm Sửu Dần (1493, 1494) trăm thứ thóc

đƣợc mùa, nhà vua bèn làm bài thơ phổ vào lời ca để ghi lại điềm lành ấy, chúng ta lại

thấy một lần nữa, ông có những suy nghĩ khiêm tốn, chân thành. Nhà vua rất vui vì

nhân dân đƣợc mùa, no ấm, bèn làm thơ phổ nhạc lời ca, điệu hát:

112

Đức nhân ban bố đáng bao lăm,

Giáng phúc trời cho lúa bội tang.

Một số bề tôi xu nịnh thƣờng bảo đƣợc mùa là nhờ ơn vua, ơn hoàng tộc. Nhƣng

ông lại nghĩ khác. Đó là “nhờ trời ban phúc cho đấy”. Nông nghiệp là một lĩnh vực phụ

thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Mƣa gió trái thời, sâu keo phá hoại thì có hàng triệu

ngƣời nông dân tát nƣớc, bắt sâu, mùa màng vẫn còn thất bát, huống hồ sức một ông

vua, sức một số ít ngƣời trong hoàng tộc “cao cao tại thƣợng”? “Trời ban phúc” cho có

thể hiểu là mƣa thuận gió hòa, mùa màng tƣơi tốt, thu hoạch bội thu.

Song dù có đƣợc mùa, dân chúng ấm no, ông vẫn không kiêu căng tự mãn, vẫn

thi hành nhân chính một cách thận trọng:

Dân chúng ấm no, điềm thịnh hiện,

Sớm khuya nơm nớp với chuyên cần.

Chính vì vậy, làm vua mà biết lo nƣớc thƣơng dân thì thật nặng nề, mệt nhọc lắm:

Đƣợc nuôi mà vẫn mệt thay,

Nhọc nhằn, vất vả nỗi này vì sao.

(Qua bến Phù Thạch - bản dịch).

Trong bài Thần tiết (Tiết làm tôi), ông còn nói nhiệm vụ “chính trị” một cách hết

sức khái quát: “nhiệm vụ của chính trị là ở chỗ an dân, nghĩa lý ấy thật là sâu sắc”.

Đứng trên quan điểm ấy, ông phê phán nhà Hồ “Cực kỳ xa xỉ hao công của, Tốn kém

tiên tài nhọc chúng dân” (Đi chùa Phong Công, núi Kim Âu). Đồng thời cũng đứng trên

quan điểm ấy, ông ca ngợi Trần Hƣng Đạo: “Hƣng Đạo an dân công tích ấy, Sử xanh

thơm nức vạn năm ngời” (Nghỉ lại ở Vạn Kiếp). Đó là tƣ tƣởng thân dân, an dân và

cũng là lòng lo nƣớc, thƣơng dân của ông.

Ông lo lắng khi thấy trời hạn hán lụt lội, mùa màng thất bát, ông vui mừng khi

thấy lúa má tốt tƣơi, đời sống nhân dân no đủ. Sử chép một chuyện cảm động nhƣ sau:

Tháng 2 năm Canh Dần (1470) ông ngự về Tây kinh, thấy lúa lên xanh tốt, ông nói:

“Năm trƣớc ta đến Phúc Quang đƣờng thì ruộng làng Động Bàng nƣớc ít, không thể cấy

lúa đƣợc. Năm nay nhiều nƣớc, lúa chiêm bát ngát”. Rồi ông phấn khởi ứng khẩu làm

luôn một bài thơ tứ tuyệt rằng:

Lúa chiêm muôn khoảnh xanh xanh,

Nuôi dân là phải lấy ăn làm đầu.

Mé thôn mấy cụ bảo nhau,

113

Rằng so năm ngoái hoa màu nay hơn.

(Bài thơ mừng lúa tốt).

Lê Thánh Tông nghĩ đúng: nhiệm vụ của ngƣời làm vua là nuôi dân. Nuôi dân

trƣớc hết là làm sao cho dân no ấm. Niềm vui của mấy cụ lão nông cũng chính là kinh

lý thị sát các miền đất nƣớc. Thấy cảnh đất nƣớc thanh bình, nhân dân sung sƣớng, ông

cất lên những vần thơ sảng khoái:

Đất nhiều cá muối dân no đủ,

Ruộng ít hoa màu thuế nhẹ nhàng.

Hòa bình hƣởng mãi dân vui vẻ,

Hơn bốn mƣơi năm sống dễ dàng.

(Cảnh vật vùng An Bang).

Không chỉ quan tâm đến cuộc sống no đủ của nhân dân, Lê Thánh Tông còn rất

cảm thông với nỗi khổ của ngƣời dân. Trong bài thơ chữ Hán Đề phiến (Đề thơ lên

quạt) Lê Thánh Tông tự thấy mình sống trong cảnh sung sƣớng mà chƣa hiểu hết nỗi

khổ của ngƣời nông dân:

Trên gác Nam huân giữa buổi ngày,

Quạt là phất gió ngủ trƣa say.

Gió hiu hiu mát ngƣời êm giấc,

Nỗi khổ nông dân dễ có hay.

Ngoài ngƣời nông dân ra, ngƣời lính trong xã hội phong kiến cũng là tầng lớp chịu

đựng nhiều gian khổ, hiểm nghèo. Lê Thánh Tông trong những lần đi chinh chiến đã có

dịp chứng kiến nỗi khổ của binh sĩ và tỏ ra thông cảm với họ. Trong bài Tƣ gia tƣớng sĩ

(Tƣớng sĩ nhớ nhà), Lê Thánh Tông nói lên tình cảnh của ngƣời đi thú phƣơng xa:

Khúc hát Mai rụng suốt năm canh càng tăng thêm nỗi hận xa nhà

Trong cảnh buồn, ngày dài đằng đẵng nhƣ ba năm…

Muốn biết tin tức đã lâu ngày của ngƣời thân,

Nhƣng chỉ sợ ít khi đƣợc gửi về đến chốn đế đô.

Nỗi thƣơng cảm của nhà vua lắng đọng một cách sâu sắc trong bài thơ chữ Hán

Trụ Hà Hoa hải khẩu (Ở cửa khẩu Hà Hoa):

Vắng vẻ song thuyền thẳng giấc ngơi,

Màn the mỏng mảnh cuốn nhƣ chơi.

Ba canh mƣa dội ngƣời mơ mộng,

114

Muôn dặm trời cao bể tuyệt vời.

Sóng gió dập dờn nhìn chẳng khắp,

Ngày giờ thấm thoắt chóng nhƣ trôi,

Dầm sƣơng lội nƣớc thân binh sĩ,

Quách thiếu tiền mua đáng ngậm ngùi

Tƣ tƣởng thân dân của Lê Thánh Tông kế thừa những hạt nhân tích cực trong tƣ

tƣởng thân dân của những tác giả tiến bộ trƣớc, nhƣ Trần Hƣng Đạo, Trần Nguyên Đán,

Nguyễn Trãi,… và đã tiếp thu đƣợc ở phần tƣ tƣởng tích cực của Nho giáo “dân vi bang

bản, bản cố bang ninh” (dân là gốc nƣớc, gốc vững thì nƣớc mới bền).

Tiểu kết chƣơng 4

Ở chƣơng này, luận án đi sâu tìm hiểu những biểu hiện của tƣ tƣởng thân dân

trong văn học thế kỷ XV. Cuộc chiến đấu chống giặc Minh gian khổ kéo dài để giành

độc lập dân tộc và những cố gắng nhằm xây dựng chế độ của triều đại Lê sơ đã góp

phần tạo nên những nội dung cơ bản của tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa đầu thế

kỷ: Đề cao vai trò, sức mạnh to lớn của ngƣời dân trong công cuộc chống ngoại xâm;

thể hiện lý tƣởng mạnh mẽ của kẻ sỹ, trí thức với hoài bão giúp dân, giúp nƣớc, quyết

đem trí lực của mình mang lại cho nhân dân cuộc sống ấm no, hạnh phúc. Tƣ tƣởng

thân dân kết tinh ngời sáng nhất ở thơ văn của đại thi hào Nguyễn Trãi. Ức Trai không

chỉ thƣơng dân, trọng dân mà còn ơn dân. Những tình cảm đó thể hiện thấm thía trong

toàn bộ sự nghiệp của Nguyễn Trãi cũng nhƣ cuộc đời hy sinh, cống hiến hết mình vì

nhân dân của ông. Tuy nhiên, từ cuộc đời và thơ văn của Ức Trai cũng cho thấy tƣ

tƣởng thân dân là một cuộc đấu tranh lâu dài có những mâu thuẫn, xung đột xã hội lớn

chứ không phải chỉ đơn giản, thuận chiều. Nguyễn Trãi dốc lòng vì cuộc sống tốt đẹp

của nhân dân nhƣng lại phải trả giá quá lớn cho lý tƣởng cao đẹp đó bởi chính triều đại

mà ông theo đuổi.

Nửa sau thế kỷ XV, tƣ tƣởng thân dân thể hiện nổi bật ở các nhà thơ thời Hồng

Đức và đặc biệt là trong các sáng tác của Hoàng đế Lê Thánh Tông. Sống trong thời

hùng cƣờng, đất nƣớc thịnh trị, thái bình, vua hiền tôi sáng nên cảm hứng thơ văn của

các tác giả chủ yếu mang âm hƣởng ngợi ca, tự hào. Tuy bị chi phối bởi quan điểm văn

nghệ cung đình nhƣng nội dung tƣ tƣởng thân dân trong văn học vẫn rất đậm nét. Tập

thơ “Hồng Đức quốc âm thi tập” đã dành một số lƣợng bài không nhỏ viết về ngƣời dân

115

với sự đồng cảm, mến yêu, gần gũi. Hình ảnh ngƣời dân trong cuộc sống lao động đời

thƣờng đi vào thơ ca thời này một cách tự nhiên, bình dị, sinh động nhƣ hơi thở của

cuộc sống. Đáng chú ý nhất về tƣ tƣởng thân dân ở văn học nửa cuối thế kỷ XV là tác

giả Lê Thánh Tông - một Hoàng đế yêu nƣớc, giàu lòng nhân ái, thƣơng dân sâu sắc.

Ông đề cập nhiều đếvai trò của dân cũng nhƣ trách nhiệm của nhà vua, ngƣời cầm

quyền đối với dân. Ở cƣơng vị cao nhất, ông luôn luôn thƣơng dân, trọng dân và suy

nghĩ về những chính sách “an dân”, “nuôi dân” làm sao có lợi. Những nỗi vui, buồn và

trọng trách của ngƣời làm vua bộc lộ một cách chân thành, trở thành niềm day dứt lớn

trong thơ Lê Thánh Tông. Đây chính là điểm đặc sắc và đóng góp tích cực của tƣ tƣởng

thân dân văn học giai đoạn này.

116

Chƣơng 5

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ XVI

ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII

“Bƣớc sang thế kỷ XVI và cả thế kỷ XVII, nhìn chung xã hội vẫn ổn định nhƣng

chế độ phong kiến Việt Nam đã có những biểu hiện khủng hoảng về chính trị. Mâu

thuẫn giữa các phe phái phong kiến ngày càng trở nên sâu sắc. Cuộc xung đột Lê - Mạc

(thƣờng gọi là Nam Bắc triều) kéo dài từ 1527 đến 1592, tiếp theo là cuộc Trịnh

Nguyễn phân tranh kéo dài gần suốt thế kỷ XVII dẫn đến tình trạng đất nƣớc bị chia

cắt. Mâu thuẫn giữa nhân dân và giai cấp phong kiến thống trị làm xuất hiện nhiều cuộc

khởi nghĩa nông dân trong suốt những năm 1511 đến 1521” [175,tr.94]. Ảnh hƣởng từ

biến động xã hội ấy, văn học giai đoạn này có những bƣớc chuyển hƣớng khá quan

trọng, đi từ âm hƣởng ngợi ca sang âm hƣởng phê phán hiện thực. Nếu ở thời trƣớc, tƣ

tƣởng thân dân gắn liền với cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, xây dựng đất nƣớc thì

giờ đây tƣ tƣởng thân dân gắn liền với cuộc đấu tranh chống sự suy thoái của chế độ

phong kiến vì quyền lợi của nhân dân. Trong chƣơng này, luận án đi sâu làm rõ tƣ

tƣởng thân dân trong sáng tác của hai thế kỉ XVI, XVII. Tƣ tƣởng thân dân thế kỉ XVI

với sự chi phối của hai tác giả lớn là Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) và Phùng Khắc

Khoan (1528 - 1613). Tƣ tƣởng thân dân thế kỉ XVII với sự ảnh hƣởng của Thiên Nam

ngữ lục và Thiên Nam minh giám. Tính “triều đại” khá mờ nhạt ở hai thế kỉ này nhƣng

tính nổi bật của cá nhân và quần chúng (dân gian) lại khá rõ nét.

5.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVI

5.1.1. Tư tưởng thân dân trong sáng tác văn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491 - 1585) là cây đại thụ trong nền văn hóa

Việt Nam và đã từ lâu đƣợc coi là “tỏa bóng suốt thế kỷ XVI”. Với tài năng văn chƣơng

độc đáo, nhân cách cao cả, uy vọng lớn lao,… Nguyễn Bỉnh Khiêm có một địa vị và

tầm ảnh hƣởng to lớn đối với sự phát triển của lịch sử tƣ tƣởng và văn học dân tộc. Tìm

hiểu thơ của Nguyễn Bỉnh Khiêm ta không chỉ nói tới một bậc tiên tri, bậc triết gia, nhà

Lý học, bậc cao sĩ,…mà còn thấy ở thơ ông nổi bật lên tƣ tƣởng thân dân cao quý.

“Thân dân” là một nội dung mà trong suốt cuộc đời mình Nguyễn Bỉnh Khiêm luôn coi

là một trọng trách: “Ái ƣu vằng vặc trăng in nƣớc - Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa”

(Thơ Nôm, bài 1). Giữa thời buổi xã hội phong kiến đầy biến động và loạn ly ở thế kỷ

XVI, ngƣời dân mong ƣớc và trông chờ biết bao vào những bậc hiền nhân để có thể làm

117

chỗ dựa tinh thần, thông cảm, yêu thƣơng dân. Đến với nhân dân trong thời đại ấy,

Nguyễn Bỉnh Khiêm xứng đáng đƣợc gọi là nhà thơ của nhân dân.

Chúng tôi đã thống kê và tổng hợp 773 bài cả thơ chữ Hán và chữ Nôm của Nguyễn

Bỉnh Khiêm:

- Về chữ Nôm (Bạch Vân quốc ngữ thi): có 21/153 bài đề cập đến tƣ tƣởng thân

dân, chiếm 13,7%.

- Về chữ Hán (Bạch Vân am thi tập): có 63/620 bài đề cập đến tƣởng thân dân,

chiếm 10,8%.

5.1.1.1. Hƣớng đến nỗi khổ của ngƣời dân vì chiến tranh phong kiến

Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm sinh ra và lớn lên vào giữa bối cảnh đất nƣớc

chia cắt, thời thế khó khăn, loạn lạc liên miên, các tập đoàn phong kiến gây ra cảnh

chiến tranh huynh đệ tƣơng tàn, nhân dân thì bị lƣu ly bất ổn, cuộc sống trở nên mong

manh. Là một ngƣời trí thức giàu tâm huyết, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có lúc rất hăng hái

tham gia chính sự, những mong giúp cho các triều vua bình định, thống nhất đất nƣớc,

giúp cho nhân dân thoát khỏi cảnh bế tắc đau khổ, lầm than. Lựa chọn ra làm quan cho

nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn thực hiện chí khí của một nhà nho hành đạo “phù

nghiêng đỡ lệch”, ƣớc mơ xây dựng một xã hội lí tƣởng “vua Nghiêu Thuấn, dân

Nghiêu Thuấn”, “Thiên tử thái bình, dân thái bình”, “tôi hiền, chúa thánh minh”. Nhƣng

cuối cùng nhà Mạc cũng không tránh khỏi vết xe đổ của nhà Lê, lại xảy ra những cuộc

tranh giành, “cá lớn nuốt cá bé”, lộng thần kết bè kết đảng, tham nhũng. Các vua Mạc

cũng dần đi vào con đƣờng xa hoa hƣởng lạc, đất nƣớc lại rơi vào cảnh chia rẽ, chiến

tranh. Nguyễn Bỉnh Khiêm dâng sớ chém 18 kẻ lộng thần và không đƣợc vua chấp

thuận, ông treo mũ từ quan, về ở ẩn nơi ruộng vƣờn, khi ấy ông mới 52 tuổi.

Từ bỏ chốn quan trƣờng, trở về làng Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm dựng am

Bạch Vân, lấy việc dạy học trò, đọc sách, ngâm thơ, gần gũi thiên nhiên cỏ cây… làm

niềm vui. Tuy nhiên, chính thời gian sống ẩn dật chốn thôn quê yên tĩnh, thanh bạch

Nguyễn Bỉnh Khiêm lại có điều kiện sống gần nhân dân, hiểu thêm về đời sống lam lũ,

vất vả, hiểu về nếp sống chất phác, giản dị cũng nhƣ nguyện vọng chính đáng của nhân

dân. Quán Trung Tân của ông, cửa mở suốt ngày, cùng chung buồn vui, lo lắng với dân

xóm. Nhƣng điều ông có thể và mong muốn làm nhất, là dẫn dắt dân trở thành “dân

Nghiêu Thuấn”, vui hƣởng thái bình. Để ngƣời dân đƣợc sống nhƣ thế, phải có một xã

118

hội thái bình, không chiến tranh, nghèo đói, và phải là xã hội có đạo đức. Những ngƣời

dân ấy phải hiểu đƣợc đạo lý, hiểu biết mối quan hệ ứng xử giữa ngƣời với ngƣời, biết

vị trí và nghĩa vụ mối ngƣời giữa xã hội, không phải chỉ là đám “dân đen” buổi trời đất

mới sơ khai. Nguyễn Bỉnh Khiêm phê phán những thói xấu của thế tục, răn dạy đạo

đức, cách ứng xử trực tiếp bằng lời ăn tiếng nói hàng ngày phải chăng cũng chính vì

mong ƣớc đào luyện ngƣời dân trở thành dân thuở thái bình?. Có thể thấy, Nguyễn Bỉnh

Khiêm về nghỉ, nhàn mà không nhàn, cũng không hẳn ông đã cam tâm bỏ cuộc. Khi

không tác động đƣợc vào giới quí tộc, ông vẫn giáo dƣỡng dân, yêu dân và khẳng định

một điều quan trọng trong bản lĩnh, nhân cách của kẻ sĩ không phải là “độc thiện kì

thân” mà là phải sống gần với dân: “Đạo đức cao thì sống với dân” (Loạn hậu ức Cao

Xá hữu nhân, bài 2).

Không còn tham dự quốc chính, nhƣng thực tế thì ông vẫn đƣợc các vị vua

đƣơng triều trọng dụng và giúp vua bằng việc dâng lên những kế sách giúp nƣớc, giúp

dân. Ngƣời đời coi ông là bậc thầy của các vua chúa, đứng bên ngoài và bên trên các

tập đoàn phong kiến đang tranh giành lẫn nhau. Dù khi làm quan lẫn khi cáo quan về trí

sĩ ở am Bạch Vân, Nguyễn Bỉnh Khiêm không hề phút nào đƣợc thảnh thơi, thanh thản.

Ông có thể “xử”, có thể “tàng”, thậm chí có lúc ngợi ca lối sống vô vi, nhàn tản, nhƣng

trong thực tế thì bao giờ cũng có trăm mối dây liên hệ với đời. Từ quan về sống cuộc

sống nhàn dật giữa thiên nhiên và những ngƣời dân cuốc cày chài lƣới trên quê hƣơng

Vĩnh Lại trù phú miền Hạ Hồng, Nguyễn Bỉnh Khiêm lại chọn một ngả rẽ, treo lại mơ

ƣớc đau đáu: xây dựng một đất nƣớc “dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn”. Phan

Huy Chú nhận định về thơ văn của Nguyễn Bỉnh Khiêm: “Ông rong chơi nhàn nhã hơn

bốn mƣơi năm mà không ngày nào quên đời; lòng lo thời, thƣơng đời thể hiện ra văn

thơ” [25, tr.265]. Điều đó cho thấy có một mối dây kế thừa sâu sắc trong tƣ tƣởng thân

dân từ Chu Văn An, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi đến Nguyễn Bỉnh Khiêm.

Phát triển quan niệm của các bậc tiền bối, Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh vai trò,

vị trí của ngƣời dân đối với đất nƣớc. Ông hiểu rằng bền nƣớc, yên dân là việc đầu mối.

Nƣớc trƣớc hết là dân, muốn lo việc nƣớc thì phải dựa vào dân, phải đƣợc lòng dân: “Cổ

lai quốc dĩ dân vi bản//Đắc quốc ƣng tri tại đắc dân” (Từ xƣa đến nay nƣớc lấy dân

làm gốc//Đƣợc nƣớc nên biết là ở chỗ đƣợc lòng dân - trích Cảm hứng). Ông cảm thấy

nỗi đau khổ vì loạn lạc của nhân dân cũng là nỗi đau khổ của chính mình. Ông xót xa

vô hạn khi thấy cảnh dân chúng loạn lạc điêu linh, bị hành hạ, tƣớc đoạt. Suốt đời ông

119

ôm ấp một nguyện vọng là làm sao cho trên đất nƣớc thân yêu của mình xuất hiện một

xã hội thái bình, thịnh trị.

Trong thơ chữ Hán, Tuyết giang phu tử trở đi trở lại tấm lòng đau đáu của mình

với dân, với nƣớc: “Bần tiện phùng trùng thử loạn li//Khu khu ƣu quốc mấn thành ti”

(Nghèo hèn mà gặp loạn lạc thế này//Khƣ khƣ tấm lòng lo nƣớc mái tóc bạc nhƣ tơ,

trích thơ chữ Hán Trung Tân quán ngụ hứng); “Ƣu thời thốn niệm bằng thùy tả//Duy

hữu hàn sơn bán dạ chung” (Thơ chữ Hán: Trung Tân quán ngụ hứng) (Tấc dạ lo đời

nhờ ai miêu tả//Chỉ có tiếng chuông nửa đêm từ trên núi lạnh vẳng đến, trích thơ chữ

Hán Trung Tân quán ngụ hứng). Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn “tiên thiên hạ chi ƣu nhi ƣu,

hậu thiên hạ chi lạc nhi lạc”: “Lão lai vị ngải tiên ƣu chí//Đắc, táng, cùng, thông, khởi

ngã ƣu (Tấm lòng tiên ƣu đến già chƣa thôi//Cùng, thông, đắc, táng, ta có lo chi riêng

mình, trích thơ chữ Hán: Tự thuật). Lúc nào ông cũng băn khoăn về tình cảnh điêu đứng

khốn khổ của ngƣời dân: “Di dân cửu dĩ ly điêu lụy// Nguyện bố khoan nhân úy hễ tô”

(Lâu nay những ngƣời dân sót lại đã mắc vòng phải điêu đứng//Xin ban bố lòng khoan

nhân để an ủi lòng mong cứu sống của dân, trích thơ chữ Hán: Hạ ngự giá thƣợng

kinh); “Văn đạo triều đình đa cố lão//Nham hiểm thùy thị cụ dân chiêm” (Nghe nói

triều đình có nhiều cố lão//Cao chơm chởm, ai là kẻ khiến cho dân chúng đều đƣợc

trông mong, trích thơ chữ Hán: Bệnh hậu thƣ hoài). Với niềm tiên ƣu sâu sắc cho dân,

Nguyễn Bỉnh Khiêm muốn hành động: “Ngã kim dục triển phù điên thủ//Văn đắc quan

hà cựu đế thành” (Ta đây muốn thi thố thủ đoạn nâng đỡ vận nƣớc lúc ngả

nghiêng//Kéo lại giang san, đế kinh đƣợc vững vàng nhƣ cũ, trích thơ chữ Hán: Cự

ngao đới sơn); “Thâm mẫn tiểu dân ly đống nỗi//Thùy dƣơng đại nghĩa thủ hung tàn”

(Rất thƣơng dân vƣơng vào đói rét//Ai nêu chính nghĩa diệt lũ hung tàn, trích thơ chữ

Hán: Cảm hứng).

Hai nguyên nhân khiến cho dân khổ đƣợc Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh là vì

chiến tranh, vì quan lại. Tình cảnh nhân dân cơ cực vì cuộc chiến tranh phong kiến

đƣợc viết lên đầy đau xót trong bài Thƣơng loạn:

Cƣ ốc chiết vi tân,

Canh ngƣu đồ nhi thực.

Nhƣơng đoạt phi kỷ hóa,

Hiếp dụ phi kỷ sắc.

(Nhà ở đem bẻ làm củi,

120

Trâu cày đem mổ thịt ăn.

Cƣớp đoạt tài sản không phải là của mình,

Hiếp dỗ ngƣời không phải là vợ mình).

Muốn đƣợc lòng dân thì phải thông cảm với cảnh ngộ đau khổ và nguyện vọng

chính đáng của dân:

Cơ tích đa niên tƣ huệ dƣỡng,

Thân ngâm hà nhật chuyển âu ca.

Thiên nhƣ tảo vị sinh dân kế,

Ƣng tịch nghiêm ngƣng tác thái hòa.

(Nhiều năm bị gầy đói, trông nhờ vào sự nuôi dƣỡng ân cần,

Đến ngày nào từ rên xiết trở thành ca hát.

Nếu trời sớm vì nhân dân mà toan tính,

Thì hãy trừ bỏ sự tàn khốc ghê sợ mà dấy lên khí thái hòa)

(Thơ chữ Hán Cảm hứng).

“Lo đời, thƣơng đời” ông đã phê phán giai cấp quý tộc phong kiến, quan liêu

thối nát, bọn nhà giàu lòng dạ hiểm ác gây ra cảnh chết chóc vô nghĩa cho dân đen:

“Yếm khan nghịch tặc cửu xƣơng cuồng, Hỗ chiến giao tranh bán sát thƣơng” (Ngán

xem nghịch tặc rông rỡ đã lâu, Đánh lẫn nhau chết một nửa - Cảm hứng thi). Với sự

thấu hiểu cuộc sống ngƣời dân ở mọi khía cạnh, từ nỗi lo cơm áo, niềm vui sum họp,

đến ƣớc vọng một cuộc sống an lành,… Cho nên,, với sự mẫn tiệp của bậc tôn trƣởng

đối với “thôn dân làng xóm”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhìn thấu tỏ diện mạo hiện thực

xã hội đƣơng thời. Một mặt thì bọn nhà giàu quyền thế sống xa hoa trong khi đó ngƣời

dân thì lâm vào cảnh khốn cùng, loạn li, đời sống cơ cực. Chiến tranh tàn phá cuộc sống

yên bình, đẩy ngƣời dân vào cảnh “núi xƣơng sông máu” (Ngụ ý, bài 1), đói khổ, mất

mát, quê hƣơng tiêu điều; gia đình lìa tan, thê thảm (Thƣơng loạn, Cảm hứng, Sầu).

“Tăng thử” là một bài thơ đặc sắc của Nguyễn Bỉnh Khiêm. Với hình thức

phúng dụ (ẩn dụ toàn bài), tác giả không chỉ lột trần bản chất tàn bạo, nham hiểm của

tầng lớp quan lại thống trị mà còn nêu lên tình cảnh ngƣời dân khổ sở, điêu linh. Ông ví

bọn cầm quyền nhƣ loài chuột tham lam, ăn bám, “ngấm ngầm ăn vụng, ăn trộm”, “vét

sạch tài sản của dân, gây ra cảnh tƣợng thê thảm khắp nơi”. Ông tin tƣởng rằng kẻ đã

làm hại dân thì:

Tất thụ thiên hạ lục,

121

Thị triều tứ nhĩ thi.

(Tất nhiên bị thiên hạ giết chết,

Đem phơi thây xác mi ở trong triều và ngoài chợ).

Đây cũng là quan niệm phù hợp với lòng dân. Trong bài Cảm hứng dài ba trăm

câu, tác giả vừa lên tiếng miêu tả đời sống cơ cực, đói khổ, thê thảm của nhân dân khi

thời thế xoay vần, vừa ngụ ý phê phán gay gắt sự đảo điên và lối sống xa hoa của kẻ

cầm quyền:

Tiểu tha thù tặc hỗ tƣơng tranh

Thiên hạ phân phân hận vi binh.

(Cƣời bọn thù tặc cứ tranh giành lẫn nhau,

Thiên hạ đang rối bời, hận chƣa dẹp yên).

Thấy đƣợc cảnh chiến tranh phong kiến phi nghĩa, thông cảm với nỗi đau

thƣơng, tang tóc của dân do những cuộc nội chiến gây ra, Nguyễn Bỉnh Khiêm mong

mỏi, ao ƣớc thái bình cho đất nƣớc, an lạc cho dân lành:

Lạc lạc can qua mãn mục tiền,

Nhân dân bôn thoán dục cầu tuyền.

Điên liên huề bão ta vô địa,

Ái hộ căng liên hạnh hữu thiên.

(Giáo và mộc tua tủa bày ra đầy trƣớc mặt,

Nhân dân chạy trốn muốn tìm nơi an lạc.

Khốn đốn dắt dìu nhau, thở than không có đất,

Thƣơng xót che chở cho, may thay còn có trời

(Cảm hứng thi).

Trong bài thơ chữ Hán Ngụ hứng ông bày tỏ: “Y cựu kiền khôn nhất thái hòa”

(Xoay lại kiền khôn buổi thái hòa); “Thái bình thiên tử thái bình dân” (Vua và dân đều

hƣởng thái bình). “Hà thời tái đổ Đƣờng Ngu trị, Y cựu kiền khôn thái hòa” (Bao giờ

đƣợc thấy lại cảnh thịnh trị, Trời đất nhƣ xƣa một vẻ thái hòa - Cảm hứng thi). Ao ƣớc

ấy của Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ lòng nhân ái đáng trân trọng của một ngƣời

yêu nƣớc, thƣơng dân, nhận thức sâu sắc về đời sống, về vai trò của ngƣời dân trong xã

hội. Tuy hoài bão, ƣớc mơ đó vƣợt ra khỏi tầm thời đại và tầm nhìn xa của ông nhƣng

khát vọng nhân văn sâu xa của ông về cuộc sống bình yên của nhân dân, ổn định đất

122

nƣớc, triều đại thịnh trị vẫn luôn hằng sống trong khát vọng của ngƣời dân Việt Nam

đến các thế kỷ sau này.

Trong cuộc đời ẩn dật sống giữa lòng dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu đƣợc

ảnh hƣởng tích cực của văn hóa dân gian, của tƣ tƣởng nhân dân, của lối sống thuần hậu

và chất phác nơi thôn dã. Thêm nữa, ông kế thừa đƣợc tƣ tƣởng thân dân ở những bậc

trí thức lớn thời Lý, thời Trần, thời Lê, chính vì vậy tƣ tƣởng thân dân trong thơ

Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa xứng đáng với truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc vừa

mang nét riêng, tính thời sự trong sự chuyển biến của thời đại ông.

5.1.1.2. Hƣớng đến nỗi khổ của ngƣời dân vì xã hội phong kiến suy thoái

Nguyễn Bỉnh Khiêm chủ yếu sống ở nông thôn, trải qua nhiều năm “từ ông già

đầu bạc đến đứa trẻ tóc vàng đều quen biết họ tên” (Ngụ hứng), cho nên có điều kiện

gần gũi dân. Nguyện vọng của nhân dân và cuộc sống nơi thôn dã phản ánh trong thơ

ông: cảm tình của ông với cảnh vật, cuộc sống và con ngƣời ở thôn quê khá sâu sắc.

Ông thấy “dân không đƣợc mùa thì khó lòng yên giấc” (Ngụ hứng). Ông lo lắng trƣớc

cảnh hạn hán mất mùa kéo dài, ông vui mừng khôn xiết khi gặp cơn mƣa thuận thời tiết:

“Vũ dƣơng khoái đổ thời thời nhƣợc, Thƣợng thụy ƣng tri tại hữu niên” (Mừng thấy

ngày nay thuận thời mƣa nắng, Điềm tốt thứ nhất biết chắc đƣợc mùa” - Thơ chữ Hán:

Hạ nhật vũ tình). Niềm vui buồn của ông có khi cũng là của dân chúng: “Vũ dƣơng thời

nhƣợc kim hân đổ, Nguyện thƣớng tân thi tụng hữu niên” (Nay vui thấy mƣa nắng phải

thời, Xin dâng thơ mới chúc năm đƣợc mùa - Thơ chữ Hán: Hạ thử)

Trƣớc tình hình đất nƣớc rối ren của chế độ phong kiến thế kỉ XVI, Nguyễn Bỉnh

Khiêm hiểu thấu khát vọng của ngƣời dân:

Kỷ hồi cô chẩm song hàng lệ,

Độc thính hàn châm bán dạ thanh.

Lại hữu hƣơng nhân úy tiều tụy,

Vị ngôn vãn tuế bãi trƣờng chinh.

(Mấy hồi gối chiếc với hai hàng nƣớc mắt,

Một mình nghe tiếng đập vải lạnh lùng lúc nửa đêm.

Nhờ có ngƣời làng an ủi khi tiều tụy.

Nói cho biết đến cuối năm sẽ bãi bỏ cuộc trƣờng chinh)

(Thơ chữ Hán: Sầu).

123

Trong hoàn cảnh loạn ly, nỗi mong ƣớc lớn nhất của ngƣời dân là đƣợc sống một

cuộc sống yên bình:

Tạc đình cửu hãm mẫn ngô nhân,

Chửng cửu thùy năng thể chí nhân.

(Thƣơng dân ta bị hãm trong khu vực giặc chiếm đã lâu,

Ai có thể cứu vớt thể hiện lòng chí nhân)

(Thơ chữ Hán: Cảm hứng).

Là một trí thức giàu tâm huyết, Nguyễn Bỉnh Khiêm trăn trở nghĩ đến trách

nhiệm của mình. Ông ao ƣớc, muốn hành động và đã nhiều năm “ra công chạy ruổi”.

Trong những năm ra làm quan cho nhà Mạc, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã đem hết tài năng

ra phò tá. Ông là một bậc quan thanh khiết, cƣơng nghị, đức độ, đầy tâm huyết giúp

vua, giúp nƣớc, cứu dân. Nhƣng yêu nƣớc, thƣơng dân là thế mà cuối cùng Nguyễn

Bỉnh Khiêm đành ngậm ngùi chua xót:

Giúp nƣớc thƣơng dân chƣa thỏa lòng ta hồi trƣớc,

Băn khoăn rất thẹn già không có tài.

(Trung Tân quán ngụ hứng - Thơ ngụ hứng

ở quán Trung Tân).

Ông thú nhận nỗi bất lực của mình:

Tế nịch phù nguy quý phạp tài,

Cố viên hữu ƣớc trụng quy lai.

(Tự thẹn kém tài vớt kẻ đắm đuối, đỡ kẻ nguy nan,

Đã có ƣớc hẹn với vƣờn cũ, nặng tình ra về)

(Ngụ hứng - Ngụ ý mình).

Ông từ bỏ chốn quan trƣờng chật hẹp, trở về am Bạch Vân sống cảnh “Một mai,

một cuốc, một cần câu/Thơ thẩn dầu ai vui thú nào” (Nhàn) đến trọn đời.

Từ những chứng kiến, chiêm nghiệm của mình về cuộc sống loạn li điêu tán của

ngƣời dân khốn khổ, Nguyễn Bỉnh Khiêm phản đối chiến tranh, đề cao lòng nhân của

con ngƣời:

Cổ lai nhân giả tri vô địch,

Hà tất khu khu sự chiến tranh.

(Từ xƣa đến nay ngƣời có nhân không ai địch nổi,

Việc gì phải khƣ khƣ theo đuổi chiến tranh)

124

(Cảm hứng thi, Bài 1).

Ông cũng mƣợn hình ảnh cây tùng để nói lên chí hƣớng của mình:

Lão lai khƣớc bạn song hạc thê,

Thiếu thời tằng ký tam công mộng.

Tự ngu tuyền thạch phong độc cao,

Trƣờng ngạo sƣơng tuyết sắc bất động.

Dụng chi tắc hành, xả tắc tàng,

Thùy vân tài đại nan vi dụng.

(Khi về già, lại làm bạn với hai con hạc đậu trên cây,

Thuở thiếu thời từng ghi nhớ giấc mộng tam công.

Tự vui với suối với đá, riêng ngƣời phong cách thanh cao,

Mãi ngạo cùng tuyết sƣơng, sắc màu không hề biến động.

Dùng thì đƣợc thi hành, không dùng thì ẩn thân,

Ai nói rằng tài lớn thì khó đƣợc dùng)

(Thơ chữ Hán Tùng).

Không chỉ thế, Nguyễn Bỉnh Khiêm còn dùng cả những thứ nhỏ nhặt tầm thƣờng

nhƣ cái chày, cái cối, cây khoai lang, con ếch,... để thể hiện chí hƣớng, trách nhiệm cao

quí của kẻ sĩ. Nhƣng nhiều khi không phải ông chỉ nói đến ý nghĩa tƣợng trƣng mà thực

tâm đánh giá cao những tác dụng thiết thực, thƣờng nhật, ví dụ nhƣ bài thơ nói về cây

thổ nhũ, đó là thứ cây “giúp vào thức ăn cho ngƣời dân”, đó là cây dừa có thể giải nhiệt,

giải rƣợu, “làm thỏa lòng dân đen lúc khát nƣớc”. Cách thể hiện tƣ tƣởng thân dân trong

thơ Nôm Nguyễn Bỉnh Khiêm khác thơ chữ Hán ở chỗ ông hƣớng đến đối tƣợng rộng

rãi hơn, trong đó có tầng lớp ngƣời bình dân, thông qua mảng thơ giáo huấn, ông đề cao

truyền thống đạo lí của ngƣời dân với tƣ cách là một Phu tử. Ông chỉ ra những thói xấu

trong quan hệ giữa con ngƣời với con nƣời trong xã hội, mong muốn mọi ngƣời sống

nhƣờng nhịn, yêu thƣơng nhau hơn, không vì ham muốn vật chất mà làm mất đi tình

nghĩa, nhân cách, hƣớng tới một xã hội tốt đẹp, ngƣời dân sẽ đƣợc hạnh phúc. Một bài

thơ Nôm của Tuyết giang phu tử thƣờng mang một ý tứ về lẽ biến dịch, lẽ tƣơng sinh,

tƣơng khắc, một sự răn dạy, một sự mỉa mai, chê trách, một quan niệm nhân sinh,... rút

ra quan điểm, kinh nghiệm thực tiễn của nhân dân và sự chiêm nghiệm của bản thân.

Phản ánh sự đối lập sâu sắc trong xã hội giữa giàu và nghèo, giữa cái xấu và cái tốt, cái

125

tiêu cực và cái tích cực tiến bộ,... tác giả đã nêu bật lên bài học triết lí, cảnh tỉnh sâu sắc

với ngƣời đời:

Giàu sang ngƣời trọng khó ai nhìn,

Mấy dạ yêu vì kẻ nhỡ nhàng.

(Bài 5)

Tranh khôn ắt có bề lo lắng

(Bài 72)

Khôn thì ngƣời dái, dại ngƣời thƣơng

(Bài 82)

Giàu ngƣời họp, khó ngƣời tan,

Thói ấy hằng lề sự thế gian.

(Bài 49)

Đƣợc thời thân thích chen chân đến,

Thất thế hƣơng lƣ ngảnh mặt đi.

Thớt có tanh tao ruồi đậu đến,

Ang không mật mỡ kiến bò chi.

(Bài 58)

Mựa chê ngƣời ngắn cậy ta dài,

Gang không mật ngọt kiến bò đi.

(Bài 42)

Thuở khó dẫu chào, chào cũng lảng

Khi giàu chẳng hỏi, hỏi thời quen

(Bài 5)

Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ

Ngƣời khôn ngƣời đến chốn lao xao

(Bài 79).

Cái mới ở những bài thơ triết lí này là chiều sâu của sự suy tƣởng, thái độ ôn tồn

thuyết giải và lối thể hiện giản dị, tự nhiên. Với ngôn ngữ gần với lời ăn tiếng nói hàng

ngày của nhân dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm có điều kiện phản ánh hiện thực nhân dân nhiều

hơn, cảm nghĩ theo lối cảm nghĩ của nhân dân, vì thế mà tình cảm dễ chân thành hơn.

Nhìn suốt thơ chữ Hán và thơ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy niềm ƣu ái

lớn của ông dành cho ngƣời dân thật sáng trong, cao đẹp, bình dị mà sâu sắc. Nguyễn

126

Bỉnh Khiêm kế thừa truyền thống của Nguyễn Trãi với lý tƣởng vì nƣớc vì dân, lập sự

nghiệp kinh bang tế thế ở đời, “nếu đắc thời hành đạo, thì tất giúp nƣớc đƣợc thịnh trị ...

Chẳng may ông sinh vào thời nghịch đạo, nên học vấn của ông không đƣợc dùng” (Vũ

Khâm Lân). Hoài bão không đƣợc thực hiện, đó không phải là do ông, đó là sự bế tắc

của chế độ phong kiến. Cuối cùng, cũng nhƣ Chu Văn An xƣa kia, ông đành treo ấn từ

quan để bảo toàn danh tiết.

Tƣ tƣởng và hành động, hoài bão và mong ƣớc của ông dành cho dân, cho nƣớc

mặc dù không đƣợc đông đảo giai cấp thống trị đƣơng thời chấp nhận và tích cực thực

hiện nhƣng đã có ảnh hƣởng khá sâu sắc đến một bộ phận không nhỏ quan lại, nho sỹ

và nhân dân. Nhiều ngƣời tôn thờ ông, kính phục đạo đức và cuộc sống thanh bạch của

ông, họ coi đó là tấm gƣơng lớn mà suốt đời họ nguyện noi theo. Có ngƣời ngợi ca tri

thức của ông, cho rằng ông đã đạt tới sự tinh tuý, cao sâu nhất của đạo thánh hiền. Khi

Nguyễn Bỉnh Khiêm mất, học trò của ông đã viết: "Sáu bộ thi thƣ suốt nghĩa, bơi

thuyền đến bến thầy Chu, Một kinh "Thái ất" thuộc lòng, đốt lửa soi gan Dƣơng tử".

"Ngang trời dọc đất, cùng lòng Chu Tể tâm tƣ, Suy trƣớc biết sau, giáo học lối Nghiên

phu môn hộ". Mấy trăm năm đã trôi qua, thời gian có thể phủ mờ lên tất cả, nhƣng tƣ

tƣởng thân dân, lo nƣớc thƣơng đời của Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn còn sáng mãi trong

thơ ca và trong lòng dân tộc.

5.1.2. Tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác văn học của Phùng Khắc Khoan

5.1.2.1. Trọng dân, thƣơng dân và hƣớng về cuộc sống bình dị của ngƣời dân

Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan (1528-1613), một trong những nhân vật tiêu

biểu của thế kỷ XVI, một danh nhân lớn của nƣớc ta. Ông không chỉ nổi tiếng là một

lƣơng thần, một danh nho, ông còn là một thi sĩ tài hoa. Thơ Phùng Khắc Khoan không

chỉ thể hiện nhân cách, bản lĩnh, hoài bão trong con ngƣời ông mà còn cho thấy tƣ

tƣởng thân dân cao đẹp của một bậc đại sĩ phu thời loạn. Tiếp nối truyền thống thân dân

từ Nguyễn Trãi thế kỉ trƣớc, lại là học trò giỏi của Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc

Khoan suốt cuộc đời hành đạo của mình cũng đau đáu đƣợc đem tài và tâm của mình để

đóng góp vào sự nghiệp giúp dân, giúp đời. Đọc thơ Phùng Khắc Khoan, dù là chữ Hán

hay chữ Nôm, ta thấy tƣ tƣởng thân dân luôn đƣợc thể hiện một cách nồng nhiệt và có

nhiều điểm tƣơng đồng với Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Mặc dù Phùng Khắc

Khoan cho rằng ông làm thơ là để nói cái chí cho riêng mình nhƣng mỗi khi ông nhìn

về ngƣời dân ở thôn quê, thì dù có theo quy phạm văn chƣơng của thời đại, thơ ông vẫn

127

rất chân thực trong mắt nhìn, tâm cảm và trí nghĩ. Cuộc đời ông đã chứng minh từ lúc

trẻ tay trắng đến khi đã thành quan to ông vẫn trung thành với lối sống và tƣ cách đã

chọn: ở đâu, làm gì ông luôn nghĩ về dân, nghĩ cho dân.

Cuộc đời Phùng Khắc Khoan trải dài từ đầu thế kỷ XVI đến đầu thế kỷ XVII

(1528 - 1613), bao nhiêu sự kiện lớn nhỏ đã xảy ra với thời cuộc xã hội lúc bấy giờ.

Thơ ông luôn song hành cùng những biến cố thời cuộc, vận mệnh của Tổ quốc và đời

sống nhân dân. Trƣớc những vấn đề lớn của xã hội, Phùng Khắc Khoan trăn trở và suy

tƣ nhiều hơn, ông tha thiết chân thành đem sự học, tài trí và tấm lòng ƣu quốc ái dân

của mình dự vào cuộc thay đổi hiện thực ấy. Trƣớc kia, Nguyễn Trãi đã từng ôm ấp lí

tƣởng về một xã hội thái bình thịnh trị, dân cƣ an lạc. Nguyễn Bỉnh Khiêm thì ao ƣớc:

“Năm nào lại thấy đời thịnh trị/Giúp nƣớc phò vua đƣợc thỏa tâm”. Phùng Khắc

Khoan cũng: “Sở kỳ tƣ thế trị bình khai” (Kì vọng đời nay đƣợc trị bình - Hành niên).

Trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh, quan lại hà khắc, hoài bão chính trị của ông tuy

chƣa thể vƣợt ra khỏi ý thức hệ phong kiến, mà vẫn cứ không xa nguyện vọng của nhân

dân ta thời đó. Trong bài thơ chữ Hán “Thƣơng loạn” (Than đời loạn) ông đau xót bùi

ngùi trƣớc cảnh chiến tranh loạn li, dân chúng khổ cực vì gƣơm đao:

Can qua lạc lạc khổ lƣu ly,

Trƣờng sử anh hùng mạn tự ti (tƣ)”

(Gƣơm đao chống chọi nhau, dân khổ lƣu lạc lý tán triền miên,

Làm cho đám anh hùng phải tự nghĩ lại chăng).

Ý thơ trên gợi cho ta nhớ đến ý thơ trong bài Hải khẩu dạ bạc hữu cảm của

Nguyễn Trãi: “Bình sinh độc bão tiên ƣu niệm//Tọa ủng hàn khâm dạ bất mien” (Bình

sinh chỉ tâm niệm việc lo trƣớc thiên hạ//Ngồi quàng chiếc khăn lạnh đêm chẳng ngủ

đƣợc). Điểm lớn trong tƣ tƣởng ở những bậc đại nhân này là họ luôn lo nghĩ về an nguy

của đất nƣớc, của dân chúng trƣớc mọi ngƣời, nhƣng suy tƣ về điều lợi là lợi chung của

thiên hạ. Cả Nguyễn Trãi và Phùng Khắc Khoan đều đã biến những suy tƣ ấy thành

hành động giúp dân, giúp nƣớc thiết thực và mãnh liệt.

Phùng Khắc Khoan không có nhiều thơ văn tố cáo chiến tranh nhƣ Nguyễn Bỉnh

Khiêm, và trong khi tố cáo lại thƣờng chủ yếu nhấn mạnh nhiều hơn tác hại của chiến

tranh đối với mình và tầng lớp trí thức. Nhƣng cần thấy rằng tính chất phản chiến trong

một số bài thơ, ý thơ, ở một mức độ nhất định đã biểu hiện sự thông cảm của ông đối

với nỗi đau của nhân dân. Niềm thông cảm ấy xuất phát từ tấm lòng nhân ái của nhà

128

thơ, một lòng nhân ái giàu tinh thần nhân đạo mà trí thức yêu nƣớc thời ấy đã tiếp thu

đƣợc từ truyền thống nhân đạo cao đẹp của dân tộc ta. Lòng ƣu ái, hƣớng về dân,

thƣơng dân của Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan còn thể hiện rất chân thực qua việc

thấu hiểu đời sống nghèo khổ của dân quê, chia sẻ những niềm vui, nỗi buồn và cả

những mong ƣớc của họ. Nhƣ khi đi trên đƣờng Hải Dƣơng, chứng kiến cảnh sống tiêu

điều của dân, lòng ông đau xót vô cùng: “Dã quán dung âm phiêu ngoã tận//Nhập thôn

trúc giản yết can dƣ” (Quán cũ gốc đa ngói tốc sạch//Khóm tre trong xóm cụt lơ thơ,

trích Hải Dƣơng đạo trung kỳ 1). Đây không còn là tả cảnh theo công thức, hay mƣợn

cảnh để tỏ chí tỏ lòng nữa, mà là nỗi xúc động thực sự: “Đồng nội ma trơi sáng lập

lòe//Vài túp nhà tranh đà dột nát”. Trƣớc cảnh đó ông không thể kìm nổi một lời than

chia sẻ: “Đau lòng bạn cũ đám dân quê”. Một lời than cách năm thế kỷ vẫn còn vọng

đến hôm nay, tƣởng chừng nhƣ ông trạng vừa xong một chuyến kinh lý về với một nỗi

lòng đau đáu thƣơng dân.

Trong bài thơ “Đoan Ngọ dƣợc” (Thuốc hái ngày Đoan Ngọ), nhân nói đến tục

xƣa, cứ đến ngày 5 tháng 5, ngƣời ta đua nhau đi hái các thứ lá thuốc dùng để uống hay

xông, hy vọng chữa đƣợc bệnh tật, nhà thơ trăn trở nghĩ đến dân, làm sao có một

phƣơng thuốc chữa bệnh cho nƣớc khỏi loạn, cho dân khỏi khổ: “Nhƣợc ngôn y quốc ý

dân thủ//Nhân nghĩa vi đan thƣớng thánh hoàng” (Còn nói tới phƣơng thuốc chữa bệnh

cho nƣớc khỏi loạn, cho dân khỏi khổ//Xin dâng cho nhà vua thứ linh đan nhân nghĩa).

Phƣơng thuốc mà ông muốn dâng lên vua đó cũng là khao khát của nhân dân mong có một

vị vua sáng tôi hiền, lấy dân làm gốc, thƣơng yêu muôn dân nhƣ cha mẹ thƣơng con. Ƣớc

mong ấy của một bậc đại quan thật sáng trong, cao cả biết nhƣờng nào!

Là bậc đại nho nhƣng sinh ra và lớn lên từ thôn quê làng Bùng, Phùng Khắc

Khoan đúng là một ông trạng quê, sống gần gũi nhân dân nên hơn ai hết ông rất am

hiểu tâm tƣ tình cảm của họ, ông quý trọng công sức khó nhọc của dân để làm ra hạt

gạo. Để có đƣợc những đồng lúa đƣợc mùa trĩu bông là biết bao nhiêu mồ hôi, tảo tần

của nông phu. Bƣng bát cơm ăn, họ mơ tƣởng về những vị vua Nghiêu, Thuấn có công

dạy dân cày cấy: “Chƣng dân nãi lạp công vi đại//Đãn nguyện hoàng vƣơng giá sắc tri

(Dân chúng đƣợc hạt gạo ăn, công lao lớn lắm//Chỉ mong đấng quân vƣơng biết đến

công việc cấy cày, trích Thử - Lúa nếp).

Thƣơng dân, nhà thơ mong ƣớc sao năm nào ngƣời nông dân cũng đƣợc mùa,

lúa chất ăm ắp đầy kho, bởi đó không chỉ là phúc lành của dân mà còn là niềm vui thái

129

bình của đất nƣớc: “Niên phong chính thị nông phu khánh//Hỉ khởi ca canh lạc thái

bình” (Năm đƣợc mùa chính là phúc lành cho nông phu//Mừng rỡ hát ca, vui đời thái

bình - trích “Tắc”, Lúa Tắc). Tấm lòng nhân ái, thƣơng dân của Phùng Khắc Khoan còn

thể hiện rất thực tiễn qua những việc ông làm. Điều này đƣợc thể hiện qua bài Lâm

tuyền vãn. Khi bị lƣu đày ở miền núi Nghệ An, ông đã viết bài Lâm tuyền vãn theo thể

lục bát bằng quốc âm. Bài ca ấy có ngụ ý tâm sự của ông một cách kín đáo, nhƣng chủ

yếu là để giới thiệu, miêu tả hình dáng, màu sắc, mùi vị, công dụng,… của hàng trăm

loại cây quả thƣờng dùng hàng ngày của nhân dân địa phƣơng, với lòng mong muốn:

“Ngày nhiều vật lạ của tƣơi//Che chở ngàn đời, dân ấm dân no”. Mong muốn cho “dân

ấm dân no” đã nói lên mục đích đến với thú lâm tuyền của ông không phải để lánh đời,

xa đời, không phải để ngoảnh mặt với cuộc sống dân tình. Trái lại, về với thú lâm

tuyền, Trạng Bùng càng có điều kiện gần dân, giúp dân bằng những việc làm ý nghĩa,

thiết thực nhất. Tấm lòng ông là tấm lòng lo cho dân từ hạt gạo, cọng rau để từ đó mà

sửa sang chính sự, bồi dƣỡng gốc nƣớc.

Cũng có khi tấm lòng vì nƣớc vì dân ấy đƣợc thể hiện rất nôm na, giản dị, cho

thấy sự hòa đồng, thấu hiểu từ những gì nhỏ nhất, đời thƣờng nhất. Ông dạy dân kinh

nghiệm vun trồng: “Trồng dƣa chớ để vụ qua//Ngăn phên mắt cáo kẻo gà đạp kê”;

“Quanh vƣờn thả đậu sừng dê//Mƣớp trâu, dƣa chuột bốn bề leo rông”; “Già răm cho

húng phải lui//Măng ếch lá lốt hợp mùi xƣơng xông…”. Ông chỉ bảo cặn kẽ cách nhận

dạng từng loại cây: “Đỏ tƣơi chon chót bông dum//Xanh đen ngần ngật màu um lá

chàm”. Ông khuyến khích dân trồng những loại cây lấy gỗ: “Vàng tâm, lấm đống, xoan

đâu//Miếu đƣờng giống cả chƣng sau đƣợc dùng”. Thật là tình nghĩa, ân cần, chu đáo,

nhân hậu! Phùng Khắc Khoan là con ngƣời hành động, hành động vì vua nhƣng không

ít việc ông làm là vì dân, vì nƣớc, vì đời. Qua những việc làm hữu ích đó chứng tỏ ông

đã có tấm lòng và việc làm nhân nghĩa đối với dân. Và do đó đƣợc dân tôn sùng, yêu

kính, tôn lên làm trạng nguyên, mặc dù ông đậu thứ hai trong hàng tiến sĩ lúc bấy giờ.

Tƣ tƣởng thân dân của Phùng Khắc Khoan đƣợc thể hiện rõ nét trong tập thơ

“Mai Lĩnh sứ hoa thi tập”. Tác phẩm đƣợc viết trong chuyến hành trình đi sứ của

Phùng Khắc Khoan luôn ẩn chứa những cung bậc tình cảm tha thiết, những suy tƣ trĩu

nặng, những cảm xúc chân thật về quê hƣơng, đất nƣớc, về đời sống nhân dân. Biết

rằng đƣợc tuyển đi sứ là điều hệ trọng “một ngƣời đi sứ giỏi hơn trăm vạn quân chiến

tranh”, nếu “thành công xong việc thì ức vạn sinh linh đƣợc sinh tồn ở Bắc và Nam”,

130

nên mặc dầu tuổi già sức yếu, Phùng Khắc Khoan tự động viên “mệnh nƣớc thân đã

gánh lấy, già phải hăng nhƣ trai”. Với tấm lòng nhân ái chân thành, Phùng Khắc

Khoan luôn xác định trọng trách cao cả trong nhiệm vụ ngoại giao của ông là phải vì

dân: “Công thành sự nghiệp bằng trung nghĩa//Ức vạn duy sinh hoạt Bắc Nam” (Sự

nghiệp thành công đều nhờ vào trung nghĩa//Ức vạn sinh linh đƣợc sống yên ổn ở Bắc

Nam - Tự xƣớng tự họa). Trong thơ chúc thọ vua Minh, ông khéo léo nói đến lý tƣởng

phấn đấu cho hòa bình, chấm dứt chiến tranh, xây dựng cuộc sống ấm no cho nhân dân

các nƣớc: “Tƣ dân tƣ thế hà đa hạnh//Quốc thái bình phong tụng thái bình” (Dân này,

đời này sao đƣợc nhiều hạnh phúc//Nƣớc thái bình, nhân dân ca ngợi thái bình).

Có thể nói, thơ Phùng Khắc Khoan là sự phản ánh con ngƣời ông. Một bậc danh

nhân, một tài thơ trác việt, có tầm cao tƣ tƣởng, hoài bão, tâm huyết, có tấm lòng yêu

nƣớc, có dũng khí, trách nhiệm với vua, với nƣớc, với dân. Đặc biệt, tấm lòng ƣu ái,

thƣơng dân, luôn hƣớng về dân của ông thật vô cùng đáng quý, đáng trọng khi đặt trong

hoàn cảnh lịch sử thƣơng loạn của đất nƣớc. Cốt lõi của tƣ tƣởng thân dân ấy là sự chân

thành đến nồng nhiệt và lạc quan, tích cực, luôn muốn đem sức mình khuông phò vƣơng

triều, đổi loạn thành trị, cứu nguy thành an, đem lại nền thái bình thịnh trị cho đất nƣớc.

5.1.2.2. Ý thức về trách nhiệm trƣớc ngƣời dân

Nhƣ chính Phùng Khắc Khoan đã bộc bạch, mục đích sáng tác thơ văn của ông

là để nói lên cái “chí bình sinh”, văn chƣơng phải gắn với sự nghiệp, muốn “nên khanh

tƣớng, trong bụng phải có thi thƣ” và “niềm vinh dự của nhà văn, chẳng kém gì tƣớng

văn, tƣớng võ”. Ông có ý thức dùng văn chƣơng làm đẹp cho nƣớc, làm hay cho đời,

giống nhƣ văn chƣơng hoa quốc của Nguyễn Trãi khi xƣa: “Dụng thi hoa quốc chân đa

bổ” (Mao trung thƣ) (Bút đƣợc dùng làm vẻ vang cho nƣớc, thật nhiều bổ ích).

Bắt nguồn từ quan niệm văn chƣơng nhƣ thế, nên thơ là nơi để Phùng Khắc

Khoan gửi gắm tâm tình, bộc bạch tâm trí, biểu lộ hoài bão. Thơ Phùng Khắc Khoan thể

hiện rất rõ ý chí của bậc trung quân, ái quốc. Ông ví mình nhƣ “Côn bằng cất cánh siêu

thăng”, “Nở đầu ba xuân, có chí khôi nguyên”, “Đối với nƣớc làm trung thần”, “Chí

nam nhi cốt ở tứ phƣơng”…Điều này cũng lí giải tại sao khi nhà Mạc tiếm quyền gây

loạn ông đã không chịu ra làm quan, mặc dù khi ấy vƣơng triều này đang ở cái thế ổn

định. Lẽ xuất xử của họ Phùng là rất cẩn trọng. Phùng Khắc Khoan trong công cuộc

trung hƣng đã đƣợc tin dùng. Đó là thời gian Trạng Bùng đã thể hiện rực rỡ chữ tài, chữ

tâm với đất nƣớc. Thơ ông mở lòng hƣớng đến nhân dân:

131

Cƣ nhân do nghĩa ngô nho sự,

Tế thế khang dân chí khí hùng.

(Việc nhà nho chỉ vì nhân nghĩa,

Độ thế yên dân chí khí hùng)

(Đề Hoằng Đạo thƣ đƣờng).

Khát vọng và tâm nguyện của ông đƣợc giúp dân cứu đời, đƣợc bày tỏ thật chân thành:

Tôn chủ tí dân Nho sự nghiệp,

Khẳng vị bạch diện nhất thƣ sinh.

(Tôn chúa, cứu dân là sự nghiệp của nhà nho ta,

Sao chịu làm một anh học trò bạch diện thƣ sinh mãi)

(Kỳ nhị” - Bài hai).

Ông thƣờng xuyên thao thức, trằn trọc không ngủ vì lo dân. Có đến hai lần trong

bài “Thu dạ hữu hoài” (Nỗi lòng đêm thu), Phùng Khắc Khoan nói lên tấm lòng lo nƣớc

thƣơng dân trăn trở trong đêm thu lạnh:

Ƣu quốc tâm hoài thiên vạn trạng.

(Tấm lòng lo việc nƣớc có ngàn vạn dáng vẻ).

Đối dữ thi tiêu khắc lậu trì,

Vạn ban tâm sự hữu thùy tri?...

Tế thế hữu hoài tần nhập mộng

(Ngồi trƣớc cái đồng hồ nhỏ giọt chậm chạp trong đêm thu,

Muôn vàn nỗi lòng ngổn ngang, có ai hay biết?...

Có lòng giúp đời, bao lần day dứt trong mộng).

Tuy vậy, nỗi lo dân của ông không bi quan bế tắc mà trái lại ông luôn nhìn về

tƣơng lai, kì vọng một ngày đất nƣớc phục hƣng thái bình, dân gặp đƣợc thời vận tốt sẽ

ƣa chuộng văn chƣơng đạo nghĩa:

Đãi đắc thái bình thời tiết hảo,

Ta hồi thủy tín độc thƣ cao

(Loạn thế tự thán - Tự than đời loạn)

(Chờ đến thái bình dân trí khá,

Bấy giờ sự học đƣợc nêu cao).

Ông tin tƣởng vào qui luật:

Tự cổ tác tiền công đức hậu,

132

Dũ trƣng thiên hựu dữ dân thân.

(Xƣa nay ngƣời sáng nghiệp công đức đầy đặn,

Càng nghiệm rõ trời giúp ngƣời có đức và dân qui về ngƣời

có nhân)

(Quá Lam Sơn miếu hữu cảm -

Cảm tƣởng khi qua Lam Sơn miếu).

Ông hiểu rằng thời thế biến thiên, khí vận tuần hoàn, tình cảnh đau khổ bởi can

qua lạc loạn, dân khổ li tán rồi sẽ qua đi, ông hi vọng nhƣ qui luật tự nhiên đông qua

xuân về, sẽ có ngƣời thánh nhân xuất hiện giúp dân chúng yên vui no ấm:

Đại đông chi hậu xuân ƣng phục,

Thánh tác hân quan sĩ nữ tuy.

(Sau cái đông giá rét, xuân tƣơi ấm ắt trở lại,

Thánh nhân xuất hiện, ta vui mừng đƣợc thấy dân yên vui).

(Thƣơng loạn - Thƣơng đời loạn).

Khát vọng lớn lao của Trạng Bùng là đƣợc thổi một làn gió nhân tốt đẹp cho khắp

dân chúng bốn phƣơng đƣợc mát lành yên ấm:

Thời lai hảo bả nhân phong xuất,

Quân thử thanh âm cập tứ phƣơng

(Thanh phong nhập hộ - Gió mát vào cửa)

(Thời đến ta sẽ thổi gió nhân tốt lành này ra,

Để chia đều mát trong khắp bốn phƣơng).

Khát vọng này của ông thật thú vị khi gặp gỡ với khát vọng cao đẹp của Nguyễn

Trãi trong bài Bảo kính cảnh giới, số 43: “Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng, Dân giàu đủ khắp

đòi phƣơng”. Khát vọng đƣợc thấy dân sống ấm no nhƣ trong thời Nghiêu Thuấn thái bình

thịnh trị dƣờng nhƣ đã trở thành nỗi khắc khoải lớn trong suốt cuộc đời làm quan 50 năm

của ông. Trong bài thơ “Hành niên” (Năm trải qua) đƣợc viết năm ông 53 tuổi sau khi vừa

thi đỗ ông mong muốn:

Tiết hảo huống phùng tân vũ trụ,

Thái hòa nhƣ tại cổ Ngu Đƣờng.

(Gặp cơ hội tốt càng muốn làm thay đổi vũ trụ,

Mong đƣợc thái bình yên vui nhƣ ngày xƣa thời vua họ Đƣờng nhà Ngu).

Năm sau đó, ông lại vẫn niềm khao khát lớn ấy:

133

Sở kì tƣ thế trị bình khai,

Hạnh tái đổ Nghiêu thiên Thuấn nhật.

(Kì vọng đời này mở ra cuộc trị bình,

Để may lại đƣợc thấy ngày Nghiêu tháng Thuấn thái bình thịnh trị).

(Hành niên - Năm trải qua).

Xƣa kia, Nguyễn Trãi khuyên Lê Thái Tông: “Thƣơng yêu và chăm lo muôn

dân, khiến trong chốn thôn cùng, xóm vắng, không có một tiếng hờn giận oán sầu”,

Nguyễn Bỉnh Khiêm mong Mạc Đăng Doanh “nếu có ngọn đuốc soi sáng”, thì nên “soi

thấu dân đen ở xóm quạnh nhà tranh”, thì nay, Phùng Khắc Khoan cũng:

Nguyện ban bố đức dƣơng xuân cho đời

Khắp tới cả những nơi xóm làng hẻo lánh, nhà nghèo tối tăm

(Lập xuân nhật tiến hạ).

Tình nghĩa vì dân của Trạng Bùng cũng xứng đáng để tôn ông là sĩ phu của thời

đại. Ông là gƣơng mặt đẹp nhà nho - thi sĩ “Đội mũ cánh chuồn ông ngồi trong tranh”,

mà “vẻ mặt ông nôm na đồng áng”. Chính cái bình dị, nôm na, dân dã, ân cần chăm sóc

dân, quý trọng dân, lo dân đã khiến cho “vẻ mặt ông còn tạc còn in vào cổ tích ca dao,

cây đa bóng mát”.

Thơ Phùng Khắc Khoan tình sâu nghĩa nặng, ƣu ái chân thành với nƣớc, với dân

nhƣ vậy đó! Quả là, trong phong thái một nhà đạo học đĩnh đạc, mực thƣớc, khoan thai

“nhàn nhã, không một chút gì tỏ ra trạng thái vội vàng bối rối” (Lê Quý Đôn). Ảnh

hƣởng đƣợc những hạt nhân tích cực từ ngƣời thầy đáng kính của mình là Nguyễn Bỉnh

Khiêm, trong tƣ tƣởng của Trạng Trình và Trạng Bùng có những điểm gặp gỡ, tƣơng

đồng là lẽ tất nhiên. Cùng có chí “nhàn dật”, sơn thủy lâm tuyền, nhƣng Nguyễn Bỉnh

Khiêm lánh mình vào mây trắng, tƣởng nhàn nhã thung dung nhƣ một bậc ẩn sĩ lánh

đời mà tấm lòng tiên ƣu với dân với nƣớc vẫn chẳng dời thế tục. Còn ở Phùng Khắc

Khoan, cũng có khi phẫn uất vì lòng trung không đƣợc tỏ, từng nghĩ đến việc lánh mình

vào suối rừng nhƣng trong thâm tâm, ông vẫn yêu cuộc sống, vẫn nặng lòng khôn nguôi

với đất nƣớc, nhân dân. Ông không chỉ ƣu ái, thƣơng dân mà còn tích cực dự vào cuộc

phục dựng lại thời thịnh trị cho dân chúng bằng những hành động thiết thực mang lại

lợi ích cho dân. Nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân gọi ông là “một nhân cách không chịu nổi

chìm theo thế nhân”. Thơ văn Phùng Khắc Khoan chính là hệ qui chiếu của tinh thần

134

nhân bản, nhập thế truyền thống. Từ đó, niềm ƣu ái trong thơ ông, cũng nhƣ nhiều thi

nhân đất Việt mãi mãi là tấm lòng son, khả kính ngàn đời.

5.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVII

Thế kỷ XVII đánh dấu thời kỳ phát triển mạnh mẽ của dòng văn học viết nói

chung, của văn học chữ Nôm nói riêng. Xuất phát từ nhu cầu phản ánh hiện thực lịch sử

cũng nhƣ đời sống của nhân dân đƣơng thời, Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ

lục ra đời là bằng chứng tiêu biểu của sự kế thừa tƣ tƣởng thân dân từ thế kỉ trƣớc sang

thế kỉ này một cách tự nhiên và có truyền thống trong lịch sử văn học dân tộc.

Thiên Nam minh giám là một áng văn đời Lê, nêu những gƣơng sáng của trời Nam,

từ họ Hồng Bàng đến buổi đầu đời Lê trung hƣng. Tập diễn ca lịch sử này làm theo lối

song thất lục bát, gồm 940 câu, đƣợc viết cuối đời Trịnh Tráng, khoảng giữa thế kỷ XVII.

Qua những lời bộc lộ của tác giả ở phần cuối tác phẩm, ta biết đƣợc ngƣời viết Thiên Nam

minh giám là một nhà nho, theo đòi lễ nghĩa thánh hiền, có lẽ tuổi hãy còn trẻ “áo cơm

chƣa trả bóng dâu chƣa đền”. Tác giả cũng nói là mình may gặp thời thịnh trị, đƣợc vời ra

làm quan, nên dốc lòng thờ vua và thờ cha. Tác giả cũng giãi bày lí do viết Thiên nam minh

giám là theo lệnh của chúa Trịnh. Không phải là diễn ca ghi chép các triều đại lịch sử nhƣ

Thiên Nam ngữ lục, Thiên Nam minh giám chỉ nêu những gƣơng sáng trời Nam lần lƣợt

qua từng triều đại từ họ Hồng Bàng đến thời Trịnh giúp nhà Lê dựng nghiệp trung hƣng.

Thiên Nam ngữ lục là một tập diễn ca lịch sử, gồm 8.136 câu thơ chữ Nôm viết

theo thể lục bát, 31 bài thơ chữ Hán và hai bài thơ chữ Nôm đều viết theo thể thất ngôn

bát cú. Thiên Nam ngữ lục xuất hiện vào khoảng cuối thế kỷ XVII trong thời kỳ phát

triển mạnh mẽ của dòng văn học viết nói chung, của văn học chữ Nôm nói riêng. Cho

đến nay, Thiên Nam ngữ lục vẫn phải tạm coi là một tác phẩm khuyết danh. Tuy nhiên,

dầu chƣa biết rõ về họ tên tác giả, vẫn có thể qua tác phẩm mà biết đƣợc những nét

chính yếu về hành trạng tác giả cũng nhƣ về thời điểm xuất hiện tác phẩm. Tác giả vốn

là con nhà dòng dõi nho gia, đời đời đã từng chịu ơn triều đình, bản thân thì đƣợc tập

ấm, nhƣng gia cảnh hình nhƣ bị sa sút đi, học thì dở dang và không thi đỗ cao cho nên

không ra làm quan, thích ngao du ẩn dật ở nơi “am cỏ, lều tranh”, tránh phồn hoa, ƣa

thanh đạm. Có lẽ cuộc đời ẩn dật, thanh đạm, ngao du này đã khiến cho tác giả tiếp thu

một cách sâu sắc truyền thuyết, ý thức và phong thái dân gian. Có giả thuyết cho rằng

tác giả còn có họ hoặc là ngƣời thân thích của chúa Trịnh; Tác giả có lẽ đã vâng mệnh

chúa Trịnh (Trịnh Tạc hoặc Trịnh Căn) mà diễn ca lịch sử dân tộc, tác phẩm hoàn thành

135

trong đời Trịnh Căn. Khi làm xong, không rõ tác giả có dâng chúa xem không, nhƣng

có thể là tác phẩm đã đƣợc in và lƣu hành khá rộng rãi. Điều đáng chú ý nữa là tác giả

Thiên Nam ngữ lục là ngƣời rất thuộc dã sử, thần thoại, thần tích và ca dao tục ngữ,

sống ở dân gian nhiều, am tƣờng phong tục, tập quán dân tộc. Do đó rất có thể tác giả

đã nghiên cứu dã sử kỹ lƣỡng. Tác phẩm mở đầu nhƣ sau: “Trải xem sự kỷ nƣớc

Nam//Kính vâng tay mới chép làm nôm na“. Tuy còn một số điểm hạn chế về quan

điểm “thiên mệnh” về lịch sử do các tác giả là những nhà nho chịu sự chi phối của ý

thức hệ Nho giáo và giai cấp phong kiến thống trị nhƣng nhìn chung, xét tổng thể cả về

phƣơng diện nội dung lẫn hình thức, Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục là

những tác phẩm chứa đựng tƣ tƣởng thân dân khá sâu sắc.

5.2.1. Tư tưởng trọng dân, thương dân

Điểm nổi bật ở Thiên Nam minh giám là khi nêu gƣơng sáng trời Nam qua các

triều đại, tác giả không chỉ biểu dƣơng, ngợi ca những bậc hiền tài có công với đất nƣớc mà

qua đó còn khẳng định tƣ tƣởng trọng dân, thƣơng dân của họ. Sự nghiệp cứu nƣớc của

những bậc vĩ nhân ấy bao giờ cũng là vì dân, coi trọng vị trí, vai trò to lớn của nhân dân.

An Dƣơng Vƣơng là vị vua có công trạng giúp dân dựng nƣớc chống ngoại xâm cho nên

dù vua có phạm sai lầm thì trong cái nhìn của nhân dân vẫn là sự tôn kính, ghi ơn:

Nối Hồng Bàng tới tuần họ Thục,

Đời có ngƣời cổ phúc vạn dân.

Thiên Nam minh giám xây dựng nên những tấm gƣơng phụ nữ nghĩa liệt nhƣ hai

Bà Trƣng nổi dậy chống quân xâm lƣợc tàn bạo là Tô Định. Hành động của hai Bà lấp

lánh ánh hào quang đầy chói lọi vì đó là hành động “vì nghĩa thƣơng dân”:

Hai Trƣng vì nghĩa thƣơng dân,

Giận Tô quái gở cất quân trả hờn.

Dấy một cơn rồng vƣơn hùm thét,

Nổi gió oai thổi hết loài gian.

Lạ thay đôi sức hồng nhan ,

Sau mƣơi thành lẻ đặt yên bằng tờ.

Dựng ngôi báu cõi bờ bằng vững,

Phụng mệnh trời gái chẳng dám đƣơng.

Những ngƣời phụ nữ đƣợc Thiên Nam minh giám ngợi ca nhƣ bà Triệu Ẩu - anh

hùng nghĩa liệt chống giặc, Khâm Từ Hoàng hậu làm mẫu nghi trăm họ, nàng Mỵ Ê giữ

136

tiết sạch giá trong phù hợp truyền thống đạo lý chung của nhân dân “Lo trả nghĩa nƣớc

nhà ngõ vẹn, Dự gieo vàng nào thẹn bạc đen”. Đặc biệt, Thiên Nam minh giám không

nêu những gƣơng sáng ở những ông vua dựng nghiệp đế do mƣu cơ trí mà có, mà biểu

dƣơng những con ngƣời có công chống giặc ngoại xâm cứu nƣớc cứu dân. Ở thời nhà

Trần có Trần Quốc Tuấn, Trần Quốc Toản, Phạm Ngũ Lão, Trần Bình Trọng, Trần

Khánh Dƣ,… Họ là những bậc anh hùng dân tộc thƣơng dân, đức độ và đƣợc xƣng tụng

bằng những lời thơ vô cùng sảng khoái:

Đấng tôn thất khá khen Quốc Tuấn,

Đuổi giặc Nguyên nhiều bận ra tay.

Sau thiêng vì bởi trƣớc ngay,

Một phen kiếm động nhiều ngày giặc kinh.

Sang triều Lê, Lê Thái Tổ đánh đổ nền thống trị phong kiến Trung Hoa, đuổi

giặc Minh đã hàng chục năm đặt nền đô hộ trên đất nƣớc ta, thì từ danh xƣng Lê Lợi,

Lê Lai, Lê Ngân, Đinh Lễ, Nguyễn Biểu, Nguyễn Trãi,… lời xƣng tụng vang lên thật

sảng khoái, hào hùng nhƣ một điệp khúc anh hùng ca:

Lê Hoàng cất ba nghìn hùm soi,

Gối bác trời khua đuổi giặc Minh,

Dƣới cờ những tƣớng hùng anh,

Vì dân lấy đức tuốt thành lấy oai.

Nói về công lao của họ Trịnh đối với nhân dân, Thiên Nam minh giám dành tới

hai phần ba tác phẩm để khẳng định vai trò to lớn của họ Trịnh trong sự nghiệp trung

hƣng nhà Lê. Mở đầu là Trịnh Kiểm rồi đến Trịnh Tùng, Trịnh Tráng:

Vâng mệnh trời vì dân đánh tội,

Bốn phƣơng vầy một mối xa thƣ.

Ra oai mở đức chở che,

Dân về tựa nƣớc hiền về tựa non.

Tuy nhiên, ca ngợi công lao của các vị chúa nhƣng tác giả không làm cho ngƣời

đọc có ấn tƣợng về những gƣơng sáng nhƣ ở các triều vua trƣớc, mà gieo vào tâm hồn

ta những cảm giác nặng nề về bức tranh hiện thực đau lòng của xã hội thời Lê Trịnh với

nội chiến tranh đoạt, cƣơng thƣờng vua tôi, cha con bị rối loạn, anh em tƣơng tàn vì

ngôi chúa, bọn gian nịnh thì lũng đoạn, dân thì nghèo đói chạy theo các tập đoàn nổi

137

loạn,… Xã hội từ triều đình đến hàng dân thứ, đụng đâu làm bậy; kết bè kết đảng lo

luồn lọt ức hiếp dân:

Bè bè nhúc nhúc dƣới loài,

Hổ chăng những đấng trên đời có danh?

Lộc nƣớc dành nuôi quân thƣởng sĩ,

Báo nộp về vàng để ruộng mua,

Dân tay kết đảng làm hồ,

Vào toan luồn lọt ra lo hiếp ngƣời.

Tác giả Thiên Nam minh giám đã tỏ ra công bằng trong phản ánh thực tế xã hội,

bởi lẽ mục đích trung hƣng của nhà chúa không rõ ràng, minh bạch mà thực chất vì

ngôi chúa, điều đó trái với cƣờng thƣờng, trái với nghĩa vua tôi, trái với lòng dân. Ở

cuối bản diễn ca, sau khi giãi bày về lí do viết tác phẩm, tác giả có rút ra những bài học

đạo lí thật sâu sắc, bài học ấy không chỉ để ngƣời đời sau soi vào tự ngẫm mình mà còn

thể hiện ƣớc mong của tác giả muốn có những vị vua tài chúa giỏi, trị nƣớc dân yên, ổn

định đƣợc xã hội:

Khuyên văn vũ giữ then cầm mực,

Chớ tham giàu dại thác làm chi

Chƣớc nào thơm để thẻ kia,

Kẻo phen có sử khen chê rằng hèn.

Việc nghèo hiềm khó khăn chớ ngại,

Kể chi khi nắng dãi mƣa mƣa rền.

Miễn là nƣớc trị dân yên

Cùng ra đời ở thế kỷ XVII, so với Thiên Nam minh giám thì Thiên Nam ngữ lục

là một bản diễn ca dài hơi và cặn kẽ hơn về lịch sử nƣớc nhà. Điều ấn tƣợng rõ rệt khi

đọc tác phẩm dài này chính là tƣ tƣởng thân dân đƣợc thể hiện khá đậm nét. Là một nhà

nho, tác giả Thiên Nam ngữ lục tất nhiên sẽ chịu sự chi phối ý thức hệ chính trị của thời đại,

song Thiên Nam ngữ lục rất chú ý đề cao vai trò, vị trí của ngƣời dân. Dân là gốc. Phải vun

trồng cái gốc ấy thì thánh chủ hiền thần mới xây dựng đƣợc cảnh thái bình thịnh trị. Chữ

“dân” đƣợc trở đi trở lại nhiều lần khi nhấn mạnh sự thịnh suy, hƣng phế của các triều đại.

Mở đầu cho tổ tông của dân Bách Việt là Lạc Long Quân và Âu Cơ, cái nhìn thần thoại của

tác giả đã hƣớng về nhân dân, đề cao “địa linh nhân kiệt” của đất nƣớc:

138

Khí thiêng tạo hóa có thƣờng,

Sơn xuyên hiểm trở, phong cƣơng khỏe bền.

Có ngƣời có vật tự nhiên,

Nhờ trong khí hóa hợp nên dân trời.

Hay đâu chữ nghĩa điều chƣơng,

Lấy dân làm cửa, lấy hang làm nhà.

Một trăm ngƣời con trai của Lạc Long Quân và Âu Cơ đƣợc coi nhƣ nối dõi cha

mẹ bảo nhau thuận hòa, mở mang bờ cõi, giống nòi, gìn giữ muôn dân:

Năm mƣơi về mẹ bấy lâu,

Ngồi trên thế giới bảo nhau rằng vầy:

Binh Hùng anh cả trên này,

Làm vua ra trị nƣớc này muôn dân.

Các vua Hùng đã mở nƣớc từ đó: “Hiệu Văn Lang quốc đặt ra, Ngƣời ngƣời giữ

phép, nhà nhà ở yên”. Đất nƣớc Văn Lang tây giáp Ai Lao, đông giáp Hải Tân, bắc giáp

Ngũ Lĩnh, nam giáp Chiêm Thành, đã phân ranh giới với nƣớc của Đế nghi ở phƣơng

Bắc một cách rạch ròi, lại thuộc về một dân tộc thống nhất, có văn minh, có đạo lý:

- Gái trai già trẻ đẹp lòng

Trị trong dân vật mở trong vƣơng đồ

- Muôn năm truyền dõi lâu xa,

Hanh thông hội gặp, thái hòa thời đăng.

Xa thƣ một mối lâng lâng,

Dân không tập ngụy, vật không bắt càn

Ngƣời dân nƣớc Nam hiền hòa là thế, dân tộc Việt Nam yên lành là thế nhƣng

nhiều lần bị tai họa ngoại xâm giày xéo, nô dịch. Nỗi phẫn nộ với giặc xâm lƣợc thƣờng

gắn liền với niềm thƣơng xót đối với nhân dân khốn khổ, lầm than vì đói kém, thiếu

thốn, lại bị cƣớp bóc, nô dịch, thuế khóa,…Thiên Nam ngữ lục đã có những lời thơ chan

chứa trữ tình nhƣ sau:

- Ân vƣơng sai tƣớng phá thành,

Binh dòng muôn đội, tƣớng tinh một nghìn.

Đạp bằng đất Việt sơn xuyên,

Có chẳng cho mọc, đƣờng nên tuyệt ngƣời.

- Tự ấy Thái thú nƣớc Ngô,

139

Tên là Thạch Đái sang mà cƣớp dân.

Nào ai là kẻ cấm ngăn,

Thuế chẳng có ngần dịch chẳng có ngơi.

- Trăm bốn mƣơi tám năm ròng,

Bắc sai sang nhậm, dân không còn ngƣời

- Loạn Nam biết mấy mƣơi lần,

Dân nhƣ đậu bánh bóc dần mà ăn

- Cƣớp ngƣời của chất bằng non,

Dân tựa gỗ tròn dầu mặc nẻo lăn

Dân tộc Việt Nam, nhân dân Việt Nam không bao giờ chịu khuất phục giặc xâm

lƣợc. Thời nào cũng vậy, mỗi khi có giặc ngoại xâm thì lại có những anh hùng dân tộc

ra tay cứu vớt nhân dân, đƣa nhân dân thoát khỏi cảnh lầm than, mang lại hòa bình an

lạc. Tác giả Thiên Nam ngữ lục đã hết lời ca ngợi sự nghiệp cứu nƣớc an dân của Thánh

Gióng, An Dƣơng Vƣơng, Hai Bà Trƣng, Bà Triệu, Lý Bôn, Triệu Quang Phục, Mai

Thúc Loan, Phùng Hƣng, Ngô Quyền, Lê Hoàn, Trần Hƣng Đạo, Lê Lợi,…

Thánh Gióng “Dung nhan diện mạo tót vời, Có tài trợ quốc, có tài cứu dân” đã

dẹp tan giặc Ân, khiến cho: “Nam biên lại bẵng bằng tờ/Nằm dù ngó cửa, ở dù an

thân”. Hai Bà Trƣng tuy là phụ nữ nhƣng dấy binh đánh thắng Tô Định, phân định ranh

giới sức ngang Mã Viện, khiến cho:

Muôn dân từ ấy khỏi hờn

Nẻo sông khỏi lội, đƣờng non khỏi trèo.

và đã mang lại nền hòa bình độc lập cho nhân dân:

Quét nhanh bụi bụi tro tàn,

Thu về thay thảy giang sơn bản đồ.

Lý Bôn thì vì dân đuổi giặc Lƣơng và lập nên nƣớc Vạn Xuân:

Bắc Nam quét sạch bằng tờ,

Dời binh thanh giá định đô Long Thành,

Ngoài trần sa mạc quét thanh,

Âu vàng khỏe đặt, cung xanh vững vàng.

Triệu Quang Phục nối đƣợc chí lớn của Lý Bôn cũng vì dân mà ra tay đánh giặc:

- Cầm quân ở đất Nam bang

Dặn làm vƣơng cho chính an dân tình

140

- Thôi bèn tƣớng sĩ khởi trình

Vì dân ra sức đem binh dẹp loàn

- Thôi liền ban tƣớc ban ân

Trên quan chỉ phí, dƣới dân an lòng

Hiệu xƣng là Triệu Việt Vƣơng

Nƣớc khỏe, binh cƣờng, giặc hết an dân.

Phùng Hƣng đuổi giặc, đánh chiếm đƣợc phủ thành Đại la, khiến cho:

Dân mừng xƣớng thái bình ca,

Đêm ngỡ những là ngày lại sáng lên

Mừng thay nƣớc trị dân yên

Anh thánh, em hiền bốn bể làm tôi

Ngô Quyền đuổi giặc Nam Hán, trả thù cho nhạc phụ là Dƣơng Đình Nghệ, thù

nhà nợ nƣớc cứu dân báo đáp trọn vẹn:

Hoàn thành đƣa lại nƣớc ta,

Sơ cẵng lập miếu phụng thờ Dƣơng công.

Khắp hòa chƣ tƣớng ngoài trong,

Cùng sa nƣớc mắt cùng lòng xót xa.

Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn mƣời hai sứ quân, từ thuở nhỏ đã cờ lau tập trận nhƣ là

mệnh trời đã trao cho sự nghiệp trị dân vậy:

- Toan nhau nói sự mở đồ,

Tập tành lớn dạy để hòa trị dân

- Đinh Hoàng từ đƣợc Trần quyền

Đức muôn vỗ chúng, ân nguyền trị dân

Lê Hoàn đánh tan giặc Tống, đã đƣợc nhân dân suy tôn:

Vua bèn xa giá hoàn kinh,

Muôn dân mừng rƣớc nhƣ quân rợp đƣờng.

Lý Công Uẩn dựng nên cơ đồ cũng là vì lấy dân làm gốc:

Những sự thảm khốc ngƣời ta,

Lòng dân chẳng muốn bây giờ trừ đi.

Việc gì dân nghe thì nghe,

Bỏ lệ Kiệt, Trụ phản về Đƣờng Ngu.

141

Thuận theo lòng dân chúng, nghe theo ý dân chúng, đó là bí quyết của sự thành

công, vì ý dân là ý trời:

- Trong làm kiệm ƣớc, ngoài trừ nhũng gian,

Thuế mƣời thu một dân an

- Chúng yêu trời cũng lòng yêu giữ giàng

Các triều vua nhà Lý trị vì vững bền cũng đều do thực hành ý thức gắn thiên

mệnh với dân ý, vì thƣơng xót dân mà nghĩ đến quyền lợi cho dân với những việc làm

cụ thể nhƣ giảm thuế, chỉnh hình điều luật,…

- Thƣơng dân giảm thuế quyên tô,

Luật lệnh dụng vừa, hình pháp dụng công.

- Thấy thƣơng dân ngậm ngùi ngùi

Lập thờ một miếu trợ ngƣời phải oan.

- Chính hình điều luật rõ ràng

Cấm đƣờng quyền thế, giới đƣờng lạm dân.

Trần Quốc Tuấn thời Trần đã dựa vào dân mà dẹp tan giặc Nguyên, làm nên sự

nghiệp hiển hách vô tiền khoáng hậu, làm cho thế nƣớc thái bình muôn thủa:

Sinh cầm Nguyên tƣớng họ Ô,

Thuyền Ngô chìm hết, quân Ngô tan tành.

Vua cùng chủ tƣớng hội binh,

Mừng khen Quốc Tuấn nên danh tƣớng tài ….

Một nhà bốn bể sum vầy,

Thịnh nhƣ viêm hỏa, khỏe tày Thái Sơn.

Thời Hậu Trần suy vong, Hồ Quý Ly lên ngôi, giặc Minh nhân cơ hội “mƣợn gió

bẻ măng” sang xâm lƣợc nƣớc ta. Hồ Quý Ly không đủ lực chống giặc cũng vì lòng dân

không thuận, không vun trồng đƣợc gốc rễ nên để họa xâm lăng làm cho dân chúng

khốn khổ. Những lời thơ của tác giả xiết bao xót đau khi nói về những thống khổ trăm

đƣờng của dân cũng nhƣ căm thù tội ác tày trời của giặc Minh trong suốt thời gian dài

đô hộ dân ta:

- Bốn phƣơng dân những lo phiền,

Loạn ly biết thƣở nào yên nghiệp nhà

- Bấy giờ dân lại gian nan ghê đƣờng

- Dấy từ Hoàng Phúc binh sang

142

Lấy tài tƣớng địa làm đƣờng dạy dân

Ƣớc mong đƣợc anh hùng thánh đế giúp dân hòa bình, yên ổn làm ăn là nguyện

ƣớc cao nhất của ngƣời dân trong hoàn cảnh nƣớc mất nhà tan:

- Dặn dò vui nghiệp làm ăn

Lòng ngƣời đến hỏi, lòng dân dập dờn.

Ƣớc mong thống nhất hoàn nguyên

Nƣớc trong một mối dân an bốn bề

Kẻo còn kinh khủng loạn ly

Học thì thất nghiệp, nông thì thất cơ…

- Hƣơu thành đôi đứa càng đua

Dân nhƣ cá cạn thôi cò thì lƣơn

Lòng ngƣời thảm khốc trăm đƣờng

Đêm ngày trông thánh mở mang cõi bờ

Và ƣớc mong đó đã thành hiện thực khi ngƣời anh hùng Lê Lợi xuất hiện giúp

dân đuổi giặc, dựng lại cơ đồ to lớn hơn:

Tôi hiền chúa thánh, vui làm quy mô.

Muôn dân nhà đủ ngƣời no

Nƣớc lặng bằng tờ, trị khỏe bằng non

Và cũng giống nhƣ Thiên Nam minh giám, Thiên nam ngữ lục dành nhiều lời ở

cuối bản diễn ca để ca tụng công đức của chúa Trịnh trong sự nghiệp phù Lê trung hƣng

đất nƣớc cũng nhƣ vị trí của nhà chúa đối với nhân dân:

- Việc nào việc chẳng sửa xong

Dân nào dân chẳng đẹp lòng thuở an

- Dân an nệm chiếu ức muôn,

Vật chẳng gầy mòn ngƣời chẳng gian tanh

Đây là điểm khác biệt hẳn so với thái độ chính trị của tác giả Đại Nam quốc sử

diễn ca lại coi các chúa Trịnh nhƣ kẻ gian thần lộng quyền, còn khi bàn về chúa

Nguyễn thì lời thơ vang lên ca tụng. Tuy nhiên, ta thấy rằng giống nhƣ cách nhìn của

tác giả Thiên Nam minh giám, dƣờng nhƣ đằng sau những lời ca tụng có phần “công

thức” đó và so với dung lƣợng lớn của tác phẩm thì lời ca ấy vẫn có vẻ khiêm nhƣờng,

bởi nhƣ tác giả bày tỏ ý định dâng lên cho chúa xem, nhƣng rồi vì lí do nào đó lại giữ

lại làm “bảo bối riêng để đời”. Lí do đó đã nói lên niềm ƣớc mong tha thiết của tác giả

143

nói riêng cũng nhƣ ý nguyện của muôn dân trong bối cảnh đất nƣớc lúc bấy giờ về một

nền thái bình, dân đƣợc hƣởng no ấm thực sự, giang sơn “thu về một mối”, “xa thƣ một

mối”, “một nhà bốn bể”, chứ không phải là cảnh chiến tranh huynh đệ tƣơng tàn, vua

chúa tranh quyền đạt vị để rồi ngƣời chịu thiệt thòi, đau khổ nhất là dân chúng.

Trong thế kỷ XVII, thống nhất Tổ quốc là nguyện vọng tha thiết của nhân dân,

và nguyện vọng này tất nhiên phản ánh vào những tác giả chân thành yêu nƣớc, thƣơng

dân. Vì thế cho nên, tuy đề cao chúa Trịnh nhƣng tác giả Thiên Nam ngữ lục không bao

giờ quên nói đến vai trò của dân chúng đối với lịch sử và dân tộc. Niềm tự hào dân tộc

luôn gắn liền với tƣ tƣởng thân dân là ƣu điểm nổi bật ở tác phẩm này. Không chỉ tƣờng

thuật lịch sử mà Thiên Nam ngữ lục còn thể hiện một tấm lòng yêu nƣớc nồng nàn, một

chủ nghĩa yêu nƣớc hào hùng nhƣng cũng thấm đẫm tính nhân dân sâu sắc. Nƣớc là

dân, dân là nƣớc, nhận thức ấy đã trở thành một chân lý. Nhận thức ấy lại đã từng đƣợc

Nguyễn Trãi xác định một cách rất rõ ràng dứt khoát trong nhiều tác phẩm của ông.

Thiên Nam ngữ lục khi thể hiện nhận thức ấy quả là đã kế thừa đƣợc những thành tựu

của các tác giả đời trƣớc để lại.

5.2.2. Cách nhìn lịch sử theo quan điểm của nhân dân, phù hợp với đạo lí, chính

nghĩa

Qua các tác phẩm Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục, ta thấy một

điểm chung rất tiến bộ trong tƣ tƣởng thân dân của các tác giả là khi viết về các gƣơng

sáng trời Nam, các bậc thánh đế, minh vƣơng, anh hùng, hào kiệt, một mặt, các tác giả

tin và giải thích theo hƣớng “thiên mệnh” của tƣ tƣởng Nho giáo. Mặt khác, do sống

gần nhân dân và tiếp thu ảnh hƣởng của văn hóa, văn nghệ dân gian nên các tác giả lại

đã lấy quan điểm nhân dân, nhận thức của dân để nhận thức về phẩm giá nhân vật lịch

sử và vận mệnh dân tộc. Các bậc thánh đế, minh vƣơng, anh hùng, hào kiệt qua các

triều đại ấy đƣợc trời sinh ra để chăn dắt muôn dân nhƣng dân lại là gốc nƣớc, cho nên

phải biết lắng nghe lòng dân, ý dân, vì ý dân cũng là ý trời. Và ảnh hƣởng của phong

trào nhân dân chống ách áp bức phong kiến, đòi hỏi hòa bình thống nhất khiến cho chủ

nghĩa nhân đạo vốn có trong văn học từ trƣớc lại đƣợc các tác giả phát huy thêm trong

cách nhìn vào lịch sử dân tộc, vào quá khứ cũng nhƣ vào tƣơng lai đất nƣớc. Cách nhìn

ấy gắn với niềm tin ở con ngƣời, với niềm yêu thƣơng nhân dân, thấy đƣợc vai trò, vị trí

to lớn của nhân dân đối với quốc gia, dân tộc.

144

Tác giả Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục cũng đã kế thừa và phát

huy đƣợc những hình thức nghệ thuật thể hiện tƣ tƣởng thân dân từ văn học viết cũng

nhƣ văn học dân gian đời trƣớc để lại. Thiên Nam minh giám viết theo lối thơ song thất

lục bát với các điệu vang ngân, trang trọng, réo rắt tạo ra một hiệu quả trữ tình đặc biệt,

có thể gọi đó là kiểu trữ tình vịnh sử. Thiên Nam ngữ lục là tập thơ trƣờng thiên dài hơn

tám nghìn câu thơ Nôm lục bát đã khéo sử dụng thể thơ dân tộc vì yêu cầu tự sự và trữ

tình. Về mặt ngôn ngữ, điểm nổi bật trong thành tựu của hai tác phẩm là sự tiếp thu

ngôn ngữ trong kho tàng văn học dân gian, ngôn ngữ hàng ngày của nhân dân. Điều đó

góp phần tạo nên tính sinh động mà chất phác, nôm na, mộc mạc nhƣng cũng rất khỏe

khoắn của các hình tƣợng, khiến cho tác phẩm dễ đi vào lòng ngƣời, dễ truyền bá trong

tâm hồn và tƣ tƣởng nhân dân.

Tiểu kết chƣơng 5

Từ thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XVII chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang

một trang mới với những biểu hiện suy thoái, khủng hoảng do sự mâu thuẫn giữa các

tập đoàn thống trị, điều đó ảnh hƣởng sâu sắc đến sự phát triển của văn học nói chung

và nội dung của tƣ tƣởng thân dân nói riêng trong giai đoạn này. Nguyễn Bỉnh Khiêm

và Phùng Khắc Khoan là hai tác giả đồng thời là hai nhà tƣ tƣởng lớn chi phối quan

điểm chính trị của thế kỉ XVI. Vì thế, chúng tôi lựa chọn hai tác giả tiêu biểu này để tìm

hiểu tƣ tƣởng thân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm xuất phát từ tấm chân tình nhân ái thƣơng

dân, trọng dân mà đi sâu phản ánh sâu sắc nỗi đau khổ của ngƣời dân vì chiến tranh

phong kiến, vì sự suy thoái của xã hội phong kiến đƣơng thời. Tƣ tƣởng của ông rất gần

với truyền thống đạo đức tốt đẹp và lâu đời của nhân dân. Trạng Bùng Phùng Khắc

Khoan không chỉ ƣu ái, thƣơng dân mà còn tích cực dự vào cuộc phục dựng lại thời thịnh

trị cho dân chúng bằng một tinh thần nhập thế hăng hái, luôn lo dân, mong cho dân đƣợc

thái bình với những hành động thực tiễn mang lại lợi ích cho dân trong lao động sản xuất.

Đóng góp của hai tác giả là đã đƣa tƣ tƣởng thân dân về gần hơn với cuộc sống bình dị,

dân dã của nhân dân, thể hiện đƣợc nguyện vọng tha thiết của ngƣời dân về một cuộc

sống thái bình, no ấm.

Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỷ XVII thể hiện rõ nét qua sáng tác của hai

tác phẩm thơ Nôm là Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục. Mặc dầu còn có hạn

chế bởi một số tƣ tƣởng Nho giáo, nhƣng đóng góp chung là các tác giả đã đề cao vị trí

145

của ngƣời dân trong tiến trình lịch sử, miêu tả đời sống dân tộc theo quan điểm của nhân

dân, nhận thức về phẩm giá nhân vật lịch sử và vận mệnh dân tộc theo nhận thức và quan

niệm của nhân dân. Hình thức thể hiện tƣ tƣởng thân dân của hai tác phẩm thể hiện ở việc

sử dụng thể thơ dân tộc, ở ngôn ngữ nôm na, mộc mạc, đậm sắc thái dân gian,…

146

KẾT LUẬN

1. Tƣ tƣởng thân dân là một nội dung lớn của văn học trung đại Việt Nam. Tìm

hiểu tƣ tƣởng thân dân góp phần tìm hiểu tác giả và sự phát triển của văn học. Tƣ tƣởng

thân dân, lấy dân làm gốc đã trở thành một nội dung xuyên suốt trong văn học của dân

tộc qua nhiều thế kỷ. Nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt

Nam tuy đã đƣợc đề cập đến nhƣng cũng chƣa có công trình nào nghiên cứu một cách

đầy đủ, hệ thống và toàn diện tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XVII. Có một số đề tài cũng nghiên cứu về tƣ tƣởng thân dân nhƣng không phải từ văn

học, trong văn học mà tiếp cận theo hƣớng triết học, tƣ tƣởng, tôn giáo,… Luận án đã

vận dụng các phƣơng pháp lịch sử cụ thể, phƣơng pháp nghiên cứu liên ngành, phƣơng

pháp so sánh và phƣơng pháp hệ thống để tiếp cận đề tài, chỉ ra những biểu hiện có tính

đặc trƣng ở các tác giả, tác phẩm văn học trung đại khi thể hiện tƣ tƣởng thân dân; đồng

thời cũng lí giải những tiền đề, những đặc điểm tạo nên tƣ tƣởng thân dân qua từng giai

đoạn văn học.

2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XVII đƣợc hình thành trên cơ sở lịch sử, xã hội, tƣ tƣởng, văn hóa của các thế kỉ này.

Những cuộc kháng chiến chống xâm lƣợc trong lịch sử dựng nƣớc và giữ nƣớc của cha

ông đã chứng minh vai trò, vị trí quan trọng của ngƣời dân. Các triều đình phong kiến

thƣờng dựa vào dân, coi dân là gốc, là nƣớc, tập hợp đƣợc sức mạnh đoàn kết toàn dân

để tạo nên những kỳ tích vang dội trong chiến đấu chống xâm lƣợc. Đồng thời các bậc

đế vƣơng cũng coi trọng tƣ tƣởng thân dân trong công cuộc xây dựng đất nƣớc, chế độ

xã hội phong kiến. Những chính sách khoan thƣ sức dân, chăm lo đời sống nhân dân là

những chính sách vô cùng tốt đẹp đƣợc thực hiện linh hoạt, tùy biến trong công cuộc

xây dựng và gìn giữ đất nƣớc.

Nói đến tƣ tƣởng thân dân không thể không nhắc đến sự ảnh hƣởng nhiều mặt

của Nho giáo, Phật giáo. Những tƣ tƣởng, quan niệm, nhận thức về dân của Nho giáo

vừa là một vũ khí sắc bén trong việc ổn định chế độ xã hội đồng thời cũng tạo điều kiện

cho sự thống nhất và cố kết toàn dân. Kế đến là sự ảnh hƣởng của tƣ tƣởng Phật giáo

với tinh thần bác ái từ bi đã tạo nên nét đặc sắc của tƣ tƣởng thân dân. Điều này thể hiện

rõ trong văn học thời Lí - Trần, những tác giả sáng tác văn học đồng thời là vua, quan -

Phật tử. Họ xuất gia theo Phật nhƣng không hề quên trách nhiệm của mình đối với dân

với nƣớc. Bên cạnh đó, văn hóa dân tộc với nền tảng tín ngƣỡng bản địa, văn học dân

147

gian truyền thống nhƣ tục ngữ, thành ngữ, ca dao, truyền thuyết, truyện cổ tích,…; nền

giáo dục khoa cử và những thành tựu phát triển của văn học - nghệ thuật cũng là những

yếu tố hình thành nên tƣ tƣởng thân dân.

3. Truy xuất khái niệm dân và thuật ngữ thân dân từ ngữ nghĩa tiếng Hán, tiếng

Việt, từ những tác phẩm kinh điển Nho giáo và từ quan niệm hiện đại, luận án đã đề

xuất cách hiểu về “dân” và “thân dân”, đồng thời xác định các khía cạnh nội dung cụ

thể của tƣ tƣởng thân dân ở ba phƣơng diện chủ yếu: Thƣơng dân; Trọng dân (ái dân);

Ơn dân. Về cơ bản nội dung tƣ tƣởng ơn dân chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tƣ tƣởng

của Nguyễn Trãi về dân là tƣ tƣởng vƣợt lên thời đại ông và rất có ý nghĩa đối với thời

hiện đại khi mà vai trò và vị trí cũng nhƣ nhận thức về dân đã có những bƣớc tiến bộ

vƣợt bậc. Tuy nhiên, những khía cạnh thân dân trên không phải tồn tại một cách bất

biến mà liên tục đấu tranh qua các giai đoạn lịch sử để trở thành một truyền thống của

văn học.

4. Từ việc giới thuyết khái niệm và xác định mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đã

tiến hành khảo sát các tác giả, tác phẩm thơ văn từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII thể hiện

nội dung của tƣ tƣởng thân dân. Giai đoạn từ thế kỉ X đến thế kỉ XIV đáng chú ý là các

tác phẩm thơ văn thời Lí - Trần. Các tác phẩm thơ văn thời Lí biểu hiện tƣ tƣởng thân

dân ở các phƣơng diện: từ tấm lòng yêu thƣơng dân, thấu hiểu ƣớc vọng của ngƣời dân

đến ý thức về vai trò, trách nhiệm trƣớc ngƣời dân. Tƣ tƣởng thân dân hội tụ ở một đội

ngũ các tác giả thuộc nhiều thành phần xã hội, từ vua quan, tƣớng lĩnh, nho sĩ trí thức

đến các nhà tu hành,... Vƣợt lên trên mọi sự khác biệt về đẳng cấp, tôn giáo, quyền lợi,

dòng tộc,…là mối quan tâm và tinh thần trách nhiệm chung, thống nhất của mọi ngƣời

về vận mệnh quốc gia, dân tộc, về nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ tổ quốc, bảo vệ nhân

dân. Văn học chức năng (văn chiếu) thời Lí có nội dung tƣ tƣởng thân dân chiếm ƣu thế

hơn thơ ca.

Các tác phẩm thơ văn thời Trần tập trung biểu hiện tƣ tƣởng thân dân qua hai

giai đoạn. Thời Thịnh Trần tƣ tƣởng thân dân thể hiện ở các phƣơng diện: thƣơng dân,

trọng dân, lấy dân làm gốc; hiểu rõ vai trò, sức mạnh của dân và khoan thƣ sức dân.

Thời Vãn Trần lòng thƣơng dân gắn với nỗi xót xa thế sự, thể hiện trọng trách của kẻ sỹ

đối với dân khi nhà Trần có những biểu hiện suy thoái.. Tƣ tƣởng thân dân trong giai

đoạn này đƣợc biểu hiện nổi bật qua các tác phẩm của Trần Nguyên Đán và Nguyễn Phi

148

Khanh. Khác với thời Lí, số lƣợng tác giả, tác phẩm ở thời Trần nhiều hơn và tƣ tƣởng

thân dân tập trung chủ yếu ở thể loại thơ, phú.

Sự khác nhau trong nội dung biểu hiện giữa hai giai đoạn xuất phát từ hoàn cảnh

thời đại. Thời thịnh Trần với chiến công oanh liệt chống giặc Nguyên Mông đã tạo nên

cho văn học một âm điệu hào hùng - âm vang của “hào khí Đông A”. Tác giả của văn

học là vua, vƣơng hầu, quan lại hay tƣớng sĩ,… từng cầm vũ khí xông pha trận mạc nay

lại cầm bút viết nên những áng thơ văn hùng tráng đầy tự hào về đất nƣớc, chan chứa

khát vọng lạc quan về cuộc sống của nhân dân. Cuối thế kỉ XIV, khi giai cấp quý tộc

nhà Trần đi xuống, nhà Hồ lên thay rồi cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lƣợc

thất bại, gây ra một nét tâm lí mới cho con ngƣời đƣơng thời. Văn học mang một nỗi

trăn trở, đau xót vì sự bất lực của con ngƣời trƣớc thời cuộc, trƣớc vận mệnh đất nƣớc.

Tâm trạng của mỗi nhà văn, nhà thơ phản ánh nỗi đau của một tầng lớp, của thời đại.

Phản ánh những cảnh đau khổ của nhân dân, cảm thán trƣớc thế sự trở thành giai điệu

phổ biến trong sáng tác của nhiều tác giả, tiêu biểu nhƣ Chu An, Trần Nguyên Đán,

Nguyễn Phi Khanh, Lê Cảnh Tuân, Đặng Dung, Phạm Nhữ Dực, Trƣơng Hán Siêu,…

Các tác giả thời Trần đã bộc lộ rõ tình cảm, nhận thức của mình về cuộc sống khổ cực

của ngƣời dân đồng thời thể hiện ý thức trách nhiệm của kẻ sĩ đƣơng thời trong việc yên

dân. Văn học thời Lí - Trần đã đặt những viên gạch đầu tiên của truyền thống tƣ tƣởng

thân dân, mở ra tiền đề cho văn học giai đoạn sau.

Văn học thế kỉ XV tiếp nối những thành tựu của văn học thời Lí - Trần. Nếu văn

chính luận (chiếu, biểu, cáo,…) trực tiếp biểu hiện tƣ tƣởng thân dân thì thơ trữ trình

thể hiện những cảm xúc, tâm trạng của ngƣời dân. Nửa đầu thế kỷ XV, tƣ tƣởng thân

dân thể hiện trong những tác phẩm văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn. Âm hƣởng chung

vẫn tráng ca, gắn liền với việc tái hiện ngƣời anh hùng Lê Lợi - linh hồn của khởi nghĩa

Lam Sơn, qua đó khẳng định sức mạnh của ngƣời dân ấp, dân lân trong công cuộc

kháng chiến và xây dựng đất nƣớc. Đại diện xuất sắc ở giai đoạn này là tác gia Nguyễn

Trãi - ông không chỉ là tác giả tiêu biểu nửa đầu thế kỉ XV mà còn là nhà văn lớn của

văn học trung đại Việt Nam với những áng thơ, văn mang nặng chí hƣớng ƣu ái, tấm

lòng hƣớng đến nhân dân vẹn toàn, to lớn. Điểm độc đáo làm nên tầm vóc hơn đời và

hơn ngƣời của Ức Trai là gắn nƣớc với dân, yêu nƣớc với thƣơng dân; Đề cao sức

mạnh của dân và biết Ơn dân. Nửa sau thế kỉ XV, tƣ tƣởng thân dân thể hiện nổi bật ở

các nhà thơ thời Hồng Đức và đặc biệt là trong các sáng tác của Hoàng đế Lê Thánh

149

Tông. Văn học thế kỉ XV đã tiếp nối một cách rực rỡ những thành tựu về tƣ tƣởng thân

dân của văn học thế kỉ trƣớc cả về nội dung và nghệ thuật biểu hiện, góp phần đƣa văn

học thời kỳ này đạt đến đỉnh cao trong văn học dân tộc.

Bƣớc sang thế kỉ XVI - XVII, chế độ phong kiến Việt Nam mặc dù vẫn phát

triển ổn định nhƣng lại xuất hiện những mầm mống suy thoái, khủng hoảng do sự mâu

thuẫn giữa các tập đoàn thống trị. Tiền đề chính trị, văn hóa, xã hội đó tất yếu ảnh

hƣởng đến nội dung tƣ tƣởng thân dân trong giai đoạn này. Thứ nhất là sự phân hóa

trong lực lƣợng sáng tác, tạo nên một bộ phận tác giả nhà nho ẩn dật bên cạnh nhà nho

hành đạo. Sáng tác của họ ít nhiều có màu sắc triết lý, phản ánh đƣợc nhiều mặt hiện

thực xã hội đƣơng thời cũng nhƣ nhiều khía cạnh sinh động, cụ thể trong cuộc sống

cũng nhƣ nguyện vọng chân chính của nhân dân. Trong đó đáng chú ý về tƣ tƣởng thân

dân ở thế kỉ XVI là hai tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và Phùng Khắc Khoan. Thơ chữ

Hán và chữ Nôm của Nguyễn Bỉnh Khiêm dù trữ tình hay triết lí đều toát lên một tấm

lòng hồn hậu, chân thành, giản dị, chứa nặng tấm lòng “ái ƣu vằng vặc”. Riêng thơ

Nôm của Trạng Trình đã đem đến một nét riêng trong việc tiếp thu vốn ngôn ngữ dân

gian, làm đẹp thêm dòng thơ dân tộc mà trƣớc đó Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông đã đóng

góp đáng kể. Nếu lòng thƣơng dân của Nguyễn Bỉnh Khiêm thể hiện trong chí ẩn dật

thì Phùng Khắc Khoan lại thể hiện ở chí hành đạo. Tấm lòng thƣơng dân của ông nồng

nhiệt với những vần thơ cháy bỏng lí tƣởng, muốn dốc hết tài đức của mình giúp dân có

cuộc sống hạnh phúc, no ấm. Hơn thế nữa, tâm nguyện ấy còn đi đôi với hành động hăng

hái, thiết thực mang lại lợi ích cho dân trong cuộc sống lao động sản xuất. Đặc biệt, ở

những vần thơ đi sứ, Phùng Khắc Khoan không chỉ thể hiện tài năng bang giao mà còn

góp phần bày tỏ khát vọng yêu chuộng hòa bình của nhân dân ta.

Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVII thể hiện nổi bật trong Thiên Nam

minh giám, Thiên Nam ngữ lục. Với cách nhìn lịch sử theo quan điểm của nhân dân, các

tác giả đã khẳng định vai trò và vị thế to lớn của ngƣời dân nhƣ gốc rễ làm nên thịnh

suy của các triều đại cũng nhƣ thúc đẩy sự phát triển của lịch sử dân tộc. Việc xây

dựng những hình tƣợng lịch sử kỳ vĩ gần với sử thi, sử dụng vốn ngôn ngữ dân gian

nhuần nhuyễn cũng góp phần tạo nên tính nhân dân của hai tác phẩm thơ Nôm độc đáo

này.

Nhìn chung lại, quá trình phát triển, vận động của tƣ tƣởng thân dân trong văn học

trung đại là một cuộc đấu tranh lâu dài theo từng giai đoạn lịch sử. Xét về mục đích và

150

phƣơng tiện, đề cập đến tƣ tƣởng thân dân trƣớc hết là đề cao, củng cố vai trò, địa vị của

tầng lớp thống trị, rút ra những bài học trong việc trị quốc trị dân của vƣơng triều phong

kiến. Khi trở thành cảm hứng trong sáng tác văn chƣơng, những nhà nghệ sỹ, trí thức

hƣớng đến ngƣời dân với cái nhìn, cảm nhận tích cực. Ở những tác giả có tiêu biểu, ngƣời

dân thực sự trở thành mục đích trăn trở, suy tƣ trong cả cuộc đời và sáng tác.

5. Tƣ tƣởng thân dân là một đề tài không chỉ có ý nghĩa trong văn học mà nó còn

liên quan đến văn hóa, triết học, lịch sử, tƣ tƣởng. Luận án đặc biệt có ý nghĩa thực tiễn

trong đời sống xã hội hôm nay. Luận án đƣợc hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích

và thiết thực cho công việc nghiên cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam và cho cả

những ngƣời làm công tác xã hội quan tâm tới tƣ tƣởng thân dân.

Luận án đƣợc hoàn thành sẽ mở ra những định hƣớng và phát triển mới của đề

tài: nghiên cứu tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam. Đây hứa hẹn sẽ là

một đề tài có tính quy mô lớn đồng thời có tính thực tiễn cao trong đời sống xã hội hiện

nay. Sự mở rộng đề tài theo hƣớng đó là rất cần thiết bởi cũng góp phần tìm hiểu các

tác giả trong chín thế kỉ của văn học trung đại Việt Nam.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đinh Thị Phƣơng Thu (2017), Tƣ tƣởng thân dân trong thơ thời Lí, Tạp chí

Giáo dục & Xã hội (Số 81), tr. 42-44.

2. Đinh Thị Phƣơng Thu (2017), Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Trần, Tạp

chí Dạy và Học Ngày Nay (Số tháng 12 - 2017), tr.14-16.

3. Đinh Thị Phƣơng Thu (2018), Tƣ tƣởng thân dân trong sáng tác văn học của

Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (Số 403),

tr.104-106.

4. Đinh Thị Phƣơng Thu (2018), Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa

Lam Sơn, Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội (số 1), tr.47-53.

5. Đinh Thị Phƣơng Thu (2019), Tƣ tƣởng thân dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Tạp chí Khoa học, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội (số 64), tr.91-97.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

TIẾNG VIỆT

1. Đào Duy Anh, (1974), Trần Thái Tông, Khoá hƣ lục, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

2. Đào Duy Anh (2003), Từ điển Hán - Việt, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

3. Trần Quang Ánh (1996), Quan niệm về dân và tƣ tƣởng thân dân trong “Luận

ngữ”, “Mạnh Tử”, Luận văn Thạc sĩ triết học, Khoa Triết học, Trƣờng Đại học

Khoa học xã hội và Nhân văn, ĐHQG Hà Nội.

4. Aristote (1964), Nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa nghệ thuật, Hà Nội.

5. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội,

Hà Nội.

6. Lại Nguyên Ân (Biên soạn) (2009), Các bài giảng về tƣ tƣởng phƣơng Đông, Nxb

Đại học Quốc Gia Hà Nội, Hà Nội.

7. Diệp Quang Ban (2009), Giao tiếp, Diễn ngôn và cấu tạo văn bản, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

8. Ban Tuyên giáo thành ủy Hà Nội, Hội Sử học Hà Nội, Trung tâm bảo tồn di sản

Thăng Long (2015), Vƣơng triều Mạc với sự nghiệp canh tân đất nƣớc, Kỉ yếu hội

thảo khoa học “Vƣơng triều Mạc trong lịch sử Việt Nam”, Nxb Chính trị Quốc gia.

9. Phan Kế Bính (1970), Việt Hán văn khảo, Mặc Lâm, Sài Gòn.

10. Phan Quý Bích (2006), Chữ “dân” trong di cảo văn chƣơng của Nguyễn Trãi,

nguồn: PhongDiep.net

11. Bùi Huy Bích (2007), Hoàng Việt thi tuyển, Nxb Văn học, Hà Nội.

12. Đào Phƣơng Bình, Phạm Tú Châu, Nguyễn Huệ Chi và nhiều tác giả (Biên soạn),

(1977), Thơ văn Lí - Trần, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

13. Đào Phƣơng Bình, Phạm Đức Duật, Trần Nghĩa và nhiều tác giả (Biên soạn),

(1978), Thơ văn Lí - Trần, Tập III, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

14. Nguyễn Thanh Bình (2007), Học thuyết chính trị - xã hội của Nho giáo và ảnh

hƣởng của nó ở Việt Nam (từ thế kỉ XI đến nửa đầu thế kỉ XIX), Nxb Chính trị

Quốc gia, Hà Nội.

15. Nguyễn Huệ Chi (1978), Các yếu tố Nho, Phật, Đạo đƣợc tiếp thu và chuyển hóa

nhƣ thế nào trong đời sống tƣ tƣởng văn học Lí - Trần, Tạp chí Văn học, Số 6.

16. Nguyễn Huệ Chi (Chủ biên) (1988), Thơ văn Lí - Trần, Tập II, Nxb Khoa học xã

hội, Hà Nội.

153

17. Nguyễn Huệ Chi, (Chủ biên) (1998), Hoàng đế Lê Thánh Tông - nhà chính trị tài

năng, nhà văn hóa lỗi lạc, nhà thơ lớn, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

18. Nguyễn Huệ Chi (2011), Bƣớc đầu suy nghĩ về văn học thời Mạc,

http://thuvienhoasen.org

19. Nguyễn Phƣơng Chi (2009), Kinh tế, xã hội thời Trần (thế kỉ XIII - XIV), Nxb

Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

20. Doãn Chính (2009), Về tƣ tƣởng triết học của Nguyễn Trãi, Tạp chí Triết học, Số 9.

21. Doãn Chính, Bùi Trọng Bắc (2015), Góp phần tìm hiểu tƣ tƣởng triết học của

Nguyễn Trãi, Nxb Chính trị Quốc gia.

22. Trƣơng Chính, Đặng Đức Siêu (1979), Sổ tay văn hóa, Nxb Văn hóa, Hà Nội.

23. Nguyễn Đình Chú (chủ biên) (1990), Tác giả văn học Việt Nam, Tập 1, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

24. Nguyễn Đình Chú (1995), Sự áp đảo của phƣơng Tây đối với phƣơng Đông trên

phƣơng diện văn hóa tinh thần truyền thống, Tạp chí nghiên cứu Đông Nam Á, số 3.

25. Phan Huy Chú (1961), Lịch triều hiến chƣơng loại chí, Tập 3, Nxb Sử học, Hà Nội.

26. Thiều Chửu (2012), Hán - Việt tự điển, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

27. Đoàn Trung Còn (dịch) (2011), Tứ thƣ, Trọn bộ 4 tập - Đại học, Trung dung,

Luận ngữ, Mạnh Tử, Nxb Thuận Hóa, Huế.

28. Quỳnh Cƣ, Đỗ Đức Hùng, (2000), Các triều đại Việt Nam, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

29. Nguyễn Bá Cƣờng (2016), Vấn đề con ngƣời trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam thế

kỉ XV- XVIII , Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

30. Trình Di, Chu Hy (2014), Kinh Dịch, (Ngô Tất Tô dịch), Nxb Văn hóa Thông tin.

31. Xuân Diệu, Huy Cận (1957), Nguyễn Trãi, nhà thơ mở đầu nền văn học cổ điển

Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Xuân Diệu (1980), Hành văn trong thơ Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ, Số 9.

33. Xuân Diệu (1980), Xúc cảm trong thơ Nguyễn Trãi, Báo Văn nghệ, Số 27.

34. Xuân Diệu (1998), Các nhà thơ cổ điển Việt Nam, Tạp chí Văn nghệ, Số 3.

35. Xuân Diệu (2000), Ba thi hào dân tộc, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

36. Phan Đại Doãn (Chủ biên) (1999), Một số vấn đề Nho giáo Việt Nam, Nxb Chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

37. Trần Văn Dũng (2003), Tƣ tƣởng yêu nƣớc và quan điểm thân dân, yêu dân trong

thơ Lê Thánh Tông, Thông tin khoa học, Trƣờng Đại học Hồng Đức, (Số 10).

154

38. Trần Văn Dũng (2006), Hồng Đức quốc âm thi tập trong tiến trình thơ

Nôm Đƣờng luật Việt Nam, Nxb Đại học Sƣ phạm, Hà Nội.

39. Võ Xuân Đàn (1996), Tƣ tƣởng Nguyễn Trãi trong tiến trình lịch sử Việt Nam,

Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

40. Quang Đạm (1999), Nho giáo xƣa và nay, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

41. Tần Tại Đông (2014), Giá trị của đạo đức Nho giáo trong thời đại ngày nay, (Lê

Tịnh dịch), Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

42. Phạm Trọng Điềm, Bùi Văn Nguyên (Phiên âm, chú giải, giới thiệu) (1982).

Hồng Đức Quốc âm thi tập, Nxb Văn học, Hà Nội.

43. Lê Quý Đôn (1962), Kiến văn tiểu lục, Nxb Sử học, Hà Nội.

44. Lê Quý Đôn (1978), Đại Việt thông sử, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

45. Lê Quý Đôn (2019), Toàn Việt thi lục, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc

học, Thành phố Hồ Chí Minh.

46. Nguyễn Tài Đông (Chủ biên), Nguyễn Tài Thƣ, (2016), Khái lƣợc lịch sử tƣ

tƣởng triết học Việt Nam, Nxb Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

47. Nguyễn Thạch Giang (1994), Thiên Nam minh giám, Nxb Thuận Hóa, Huế.

48. Nguyễn Thị Giang (2007), Tƣ tƣởng thân dân từ Nguyễn Phi Khanh đến Nguyễn

Trãi, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Khoa văn học, Trƣờng ĐH Sƣ phạm Hà

Nội, Hà Nội.

49. Trần Văn Giáp (1968), Phật giáo Việt Nam - Từ nguyên thủy đến thế kỷ XIII (Tuệ

Sĩ dịch), Tu thƣ viện Đại học Vạn Hạnh, Sài Gòn.

50. Gurevich A.JA. (1998), Các phạm trù văn hóa trung cổ, Nxb Giáo dục, Hà Nội

51. Mai Xuân Hải (1998), Lê Thánh Tông - Thơ văn và cuộc đời, Nxb Hội Nhà văn,

Hà Nội.

52. Mai Xuân Hải, Hoàng Hồng Cẩm, Phạm Thùy Vinh (2003), Thơ chữ Hán Lê

Thánh Tông, (Tổng tập), Viện nghiên cứu Hán Nôm, Nxb Văn học, Hà Nội.

53. Dƣơng Quảng Hàm (1968), Văn học Việt Nam sử yếu và Việt Nam thi văn hợp

tuyển, Bộ Giáo dục, Trung tâm học liệu xuất bản tại Sài Gòn.

54. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (đồng chủ biên) (2011), Từ điển

thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục Việt Nam.

55. Hêghen G.W.Ph. (1999), Mĩ học, Phan Ngọc giới thiệu và dịch (2 tập), Nxb Hà

Nội.

155

56. Nguyễn Duy Hinh (1999), Tƣ tƣởng Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

57. Phạm Thị Ngọc Hoa (2012), Thơ chữ Hán và thơ chữ Nôm Nguyễn Trãi – Quan

niệm thẩm mĩ và phƣơng thức nghệ thuật, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Viện Khoa

học xã hội Việt Nam, Học viện Khoa học xã hội.

58. Nguyễn Quang Hồng, Nguyễn Thế Nghị, (2001), Truyền kì mạn lục giải âm, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

59. Đặng Thị Bích Hồng (2013), Cảm hứng yêu nƣớc trong Quốc âm thi tập và Hồng

Đức quốc âm thi tập, Luận văn Thạc sĩ Khoa học Ngữ văn, Khoa Ngữ văn,

Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

60. Nguyễn Phạm Hùng (1993), Văn học Lí - Trần, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

61. Nguyễn Phạm Hùng (1996), Văn học Lí - Trần nhìn từ thể loại, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

62. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Trên hành trình văn học trung đại, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

63. Nguyễn Phạm Hùng (2001), Văn học Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XX, NXB

Đại học Quốc gia, Hà Nội.

64. Nguyễn Phạm Hùng (2008), Các khuynh hƣớng văn học Lí - Trần, Nxb Đại học

Quốc gia, Hà Nội.

65. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Văn học cổ Việt Nam tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Đại

học Quốc gia, Hà Nội.

66. Nguyễn Phạm Hùng (2011), Bản lĩnh dân tộc qua các tác phẩm Nam quốc sơn hà

và Phạt Tống lộ bố văn”, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn

67. Nguyễn Phạm Hùng (2013), Nguyễn Phi Khanh và nỗi niềm của ngƣời trí thức

trƣớc cảnh đất nƣớc loạn ly, nguồn: http://vanhoanghean.com.vn.

68. Cao Xuân Huy (1994), Tƣ tƣởng phƣơng Đông gợi những điểm nhìn tham chiếu,

Nguyễn Huệ Chi soạn, chú giải, giới thiệu, Nxb Văn học, Hà Nội.

69. Đoàn Hƣơng (2004), Văn luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

70. Trần Thị Hƣơng (2012), Tƣ tƣởng thân dân trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam đến

đầu thế kỉ XX, nguồn: http://dl.vnu.edu.vn

71. Trần Đình Hƣợu (1999), Nho giáo và văn học Việt Nam trung cận đại. Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

156

72. Lê Trọng Khánh (chủ biên) (1957), Nguyễn Bỉnh Khiêm nhà thơ triết lí, Nxb Văn

hóa, Hà Nội.

73. Đinh Gia Khánh, Bùi Văn Nguyên, Nguyễn Ngọc San, Ngô Lập Chi, Nguyễn Sĩ

Lâm (1962), Hợp tuyển thơ văn Việt Nam thế kỉ X - thế kỉ XVII, (Tập II), Nxb Văn

hóa, Viện Văn học, Hà Nội.

74. Đinh Gia Khánh (1977), Điển cố văn học, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội.

75. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Hồ Nhƣ Sơn (1997), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm,

Nxb Văn học, Hà Nội.

76. Đinh Gia Khánh, Bùi Duy Tân, Mai Cao Chƣơng (2002), Văn học Việt Nam (thế

kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

77. Vũ Khiêu (1984), Một số vấn đề lí luận về lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, Viện Triết

học xuất bản, Hà Nội.

78. Vũ Khiêu (1987), Ngƣời trí thức Việt Nam qua các chặng đƣờng lịch sử, Nxb

Thành phố Hồ Chí Minh.

79. Lê Thành Khôi (2014), Lịch sử Việt Nam từ nguồn gốc đến giữa thế kỉ XX, Nxb

Nhã Nam.

80. Trần Trọng Kim (1920), Việt Nam sử lƣợc, Nxb Tân Việt, Hà Nội.

81. Trần Trọng Kim (1930), Nho giáo, Nhà in Trung Bắc Tân Văn, Sài Gòn.

82. Trần Trọng Kim (2003), Việt Nam sử lƣợc, Nxb Văn học, Hà Nội.

83. Lê Đình Kị (1984), Từ trong di sản suy nghĩ về tƣ tƣởng sáng tác của ông cha,

Tạp chí Văn học, số 1.

84. Kônrát N.I. (1998), Phƣơng Đông và phƣơng Tây, Trịnh Bá Đĩnh dịch, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

85. Bùi Thị Ngọc Lan (2015), Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi và ý nghĩa của nó

đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam hiện nay, Luận văn thạc sĩ Triết học, cơ sở

đào tạo: Trƣờng Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn Hà Nội.

86. Nguyễn Lang (Thích Nhất Hạnh) (2018), Việt Nam Phật giáo sử luận - Toàn tập,

Nxb Văn học, Hà Nội.

87. Nguyễn Đức Lân (dịch) (1998), Tứ thƣ tập chú, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội.

88. Nguyễn Hiến Lê, Giản Chi (dịch) (1992), Tuân Tử, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

89. Nguyễn Hiến Lê (dịch), (1994), Lão Tử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

157

90. Nguyễn Hiến Lê (dịch), (1996), Khổng Tử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

91. Nguyễn Hiến Lê (dịch), (1996), Mạnh Tử, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

92. Nguyễn Hiến Lê (dịch), (2012), Lão Tử - Đạo đức kinh, Nxb Tổng hợp TP. Hồ

Chí Minh.

93. Đặng Thanh Lê (1992), Nghiên cứu văn học cổ trung đại Việt Nam trong mối

quan hệ khu vực, Tạp chí Văn học, Số 1.

94. Mai Quốc Liên (chủ biên), Kiều Thu Hoạch, Nguyễn Khuê, Nguyễn Quảng Tuân

(2000), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Văn học, Trung tâm nghiên cứu Quốc học, Hà Nội.

95. Mai Quốc Liên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

96. Mai Quốc Liên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

97. Mai Quốc Liên (2001), Nguyễn Trãi toàn tập tân biên, tập 3, Nxb Văn học, Hà Nội.

98. Ngô Sỹ Liên (2013), Đại Việt sử kí toàn thƣ, Trọn bộ, Nxb Thời đại, Hà Nội.

99. Trần Huy Liệu (1962), Nguyễn Trãi - Một nhân vật vĩ đại trong lịch sử dân tộc

Việt Nam, Nxb Sử học, Hà Nội.

100. Trần Huy Liệu (2000), Nguyễn Trãi, cuộc đời và sự nghiệp, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

101. I. X. Lixêvích (2003), Tƣ tƣởng văn học cổ Trung Quốc, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

102. Phạm Luận (2012), Nguyễn Trãi quốc âm thi tập, Nxb Giáo dục Việt Nam, Hà Nội.

103. Phƣơng Lựu (1985), Về quan niệm văn chƣơng cổ Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

104. Phƣơng Lựu (Chủ biên) (1999), Lí luận văn học, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội.

105. Phƣơng Lựu (2005), Tuyển tập, Tập một, Lí luận văn học cổ điển phƣơng Đông,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

106. Nguyễn Công Lý (2000), Văn học Phật giáo thời kì Lí - Trần, diện mạo và đặc

điểm, Luận án Tiến sĩ Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ phạm Hà Nội, Hà Nội.

107. Đặng Thai Mai (1960, 1969, 1973), Trên đƣờng học tập và nghiên cứu, (Tập I,

tập II, tập III), Nxb Văn học, Hà Nội.

108. Đặng Thai Mai (1977), Mấy điều tâm đắc về một thời đại văn học, Trích Thơ văn

Lí - Trần, Tập I, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

109. Nguyễn Đăng Na (1997), Văn xuôi tự sự Việt Nam thời Trung đại, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

110. Nguyễn Đăng Na (2003), Đặc điểm văn học Việt Nam trung đại: Những vấn đề

văn xuôi tự sự, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

158

111. Nguyễn Đăng Na (Chủ biên) (2006), Văn học trung đại Việt Nam, tập 1, Nxb Đại

học Sƣ phạm Hà Nội, Hà Nội.

112. Nguyễn Đăng Na (2007), Con đƣờng giải mã văn học trung đại Việt Nam, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

113. Nguyễn Đăng Na (2011), Bài “Quốc tộ” của quốc sƣ Pháp Thuận, nguồn:

http://thuvienhoasen.

114. Nghiêm Thị Thu Nga (2017), Một số điểm độc đáo về tƣ tƣởng thân dân thời

Trần, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật, số 398.

115. Trần Nghĩa (1974), Quan niệm văn học thời Lí Trần, Tạp chí Văn học, số 6.

116. Trần Nghĩa (Chủ biên), (1997), Tổng tập văn học Việt Nam, Tập 8A, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

117. Nguyễn Lƣơng Ngọc, Đinh Gia Khánh (Biên soạn), (1958), Thiên Nam ngữ lục -

Diễn ca lịch sử (Tác phẩm Nôm cổ, thế kỷ thứ XVII), Nxb Văn hóa, Cục xuất bản

- Bộ Văn hóa, Hà Nội.

118. Nguyễn Cẩm Ngọc (2012), Những căn cứ để khẳng định nhà nƣớc Lý - Trần là

nhà nƣớc quân chủ thân dân, nguồn: http://www.nhantainhanluc.com

119. Trƣơng Thị Thảo Nguyên (2010), Tƣ tƣởng về dân trong Nho giáo tiên Tần và

ảnh hƣởng của nó đối với tƣ tƣởng Việt Nam từ thế kỉ XI đến thế kỉ XV, Luận văn

Thạc sĩ Triết học, Khoa Triết học, Trƣờng Đại học Khoa học xã hội & Nhân văn,

ĐHQG Hà Nội.

120. Lại Thị Thanh Nguyên (2014), Tƣ tƣởng thân dân trong thơ đời Lí đến thơ đời

Trần, Luận văn Thạc sĩ khoa học Ngữ văn, Khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại học Sƣ

phạm Hà Nội.

121. Bùi Văn Nguyên, Phan Sĩ Tấn (1963), Giáo trình Lịch sử Văn học Việt Nam, Tập

II, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

122. Bùi Văn Nguyên (1978), Lịch sử văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

123. Bùi Văn Nguyên (1979), Tƣ liệu tham khảo Văn học Việt Nam, Tập II (Từ thế kỷ

XI đến giữa thế kỷ XVIII), Nxb Giáo dục, Hà Nội.

124. Bùi Văn Nguyên (1980), Chủ nghĩa yêu nƣớc trong văn học thời khởi nghĩa Lam

Sơn, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

125. Bùi Văn Nguyên, Đào Phƣơng Bình (1981), Thơ văn Nguyễn Phi Khanh, Nxb

Văn học, Hà Nội.

159

126. Bùi Văn Nguyên (1984), Văn chƣơng Nguyễn Trãi, Nxb Đại học và Trung học

chuyên nghiệp, Hà Nội.

127. Bùi Văn Nguyên (1994), Thơ quốc âm Nguyễn Trãi, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

128. Niculin N.I. (1981), Đất nƣớc và thiên nhiên trong thơ văn Nguyễn Trãi, Tạp chí

Triết học, (Số 1).

129. Nhà xuất bản Hội Nhà văn (2012), Phùng Khắc Khoan, Hợp tuyển thơ văn, Hà Nội.

130. Trần Văn Nhĩ, Đinh Ninh (2003), Thơ chữ Hán Nguyễn Trãi - Ức Trai thi tập,

Nxb Văn hóa - Văn nghệ, T.P Hồ Chí Minh.

131. Hoàng Phƣơng Nhung (2013), Nghiên cứu nội dung và nghệ thuật thơ văn của

Trần Nhân Tông, Luận văn Thạc sĩ khoa học ngữ văn, Khoa Ngữ văn, Trƣờng Đại

học Sƣ phạm Hà Nội, Hà Nội.

132. Vũ Ngọc Phan (2010), Tục ngữ, Ca dao, dân ca Việt Nam, Nxb Thời đại.

133. Vũ Tiến Quỳnh (Biên soạn) (1977), Văn học Việt Nam thời Lý - Trần, Nxb Văn

nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.

134. Trần Lê Sáng (Chủ biên) (1977), Tổng tập văn học Việt Nam, tập 2, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

135. Trần Lê Sáng (1981), Cuộc đời và thơ văn Chu Văn An, Nxb Hà Nội.

136. Trần Lê Sáng (1985), Phùng Khắc Khoan - Cuộc đời và thơ văn, Nxb Hà Nội.

137. Trần Lê Sáng, Phạm Kỳ Nam (dịch), (2004), Kinh Thƣ, Nxb Văn hóa Thông tin.

138. Đặng Đức Siêu (2004), Văn hóa cổ truyền phƣơng Đông, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

139. Phạm Trƣờng Sinh (2013), Tƣ tƣởng chính trị và quân sự của Hƣng Đạo Vƣơng

Trần Quốc Tuấn, nguồn: http://www2.vjol.info /index.php/khxh/article/viewFile/

17274/15353

140. Sở Văn hóa Thông tin Thể thao Hà Tây và UBND huyện Thạch Thất xuất bản

(1993), Phùng Khắc Khoan: Cuộc đời và thời đại, Kỉ yếu hội thảo khoa học về

Phùng Khắc Khoan năm 1992.

141. Nguyễn Hữu Sơn, Trần Đình Sử, Huyền Giang, Trần Ngọc Vƣơng, Trần Nho

Thìn, Đoàn Thị Thu Vân (1997), Về con ngƣời cá nhân trong văn học cổ Việt

Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

142. Nguyễn Hữu Sơn (2000), Về cảm quan Phật giáo trong thơ Nguyễn Trãi. Tạp chí

Văn học, (Số 6).

160

143. Nguyễn Hữu Sơn (tuyển chọn và giới thiệu), (2000), Nguyễn Trãi về tác gia, tác

phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

144. Nguyễn Hữu Sơn (2005), Văn học trung đại Việt Nam - Quan niệm con ngƣời và

tiến trình phát triển, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

145. Trần Đình Sử (1995), Những thế giới nghệ thuật thơ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

146. Trần Đình Sử (1998), Mấy vấn đề thi pháp văn học trung đại Việt Nam. Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

147. Trần Đình Sử (2005), Thi pháp văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc

gia, Hà Nội.

148. Thích Nguyên Tạng (1996), Ảnh hƣởng của Phật giáo trong đời sống của ngƣời

Việt, Tu viện Quảng Đức, Australia.

149. Duy Tân (1997), Lê Thánh Tông con ngƣời và sự nghiệp, Nxb ĐHQG Hà Nội.

150. Bùi Duy Tân (Chủ biên), (1997), Tổng tập văn học Việt Nam - Tập 6 - Tập 7, Nxb

Khoa học xã hội, Hà Nội.

151. Bùi Duy Tân (1997), Hồng Đức quốc âm thi tập - một tác phẩm lớn của văn học

tiếng Việt thế kỉ XV - nửa đầu thế kỉ XVIII, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

152. Bùi Duy Tân (1997), Cảm hứng dân tộc - cảm hứng nhân văn qua thơ Nôm vịnh

sử của Lê Thánh Tông, Tạp chí Văn học, (Số 8).

153. Bùi Duy Tân (2000), Trạng Bùng Phùng Khắc Khoan, Tác gia - Tác phẩm, Sở

văn hóa thông tin Hà Tây.

154. Bùi Duy Tân (2001), Lƣợc khảo văn bản tác phẩm Hán Nôm Phùng Khắc Khoan

(1528 - 1613), Tạp chí Hán Nôm, Số 3.

155. Bùi Duy Tân, Lại Văn Hùng (Tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Lê Thánh Tông về

tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

156. Lê Văn Tân (1976), Từ điển tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

157. Văn Tân, Đào Duy Anh, Trần Văn Giáp, (1976), Nguyễn Trãi toàn tập, Nxb Khoa

học xã hội, Hà Nội.

158. Hoài Thanh (1960, 1965, 1971), Phê bình và tiểu luận, Tập I, tập II, tập III, Nxb

Văn học, Hà Nội.

159. Hoài Thanh (1979), Vài nét về con ngƣời Nguyễn Trãi qua thơ Nôm, Báo Văn nghệ.

160. Vũ Thanh, Trần Thị Băng Thanh (Tuyển chọn và giới thiệu) (2000), Nguyễn Bỉnh

Khiêm - về tác gia và tác phẩm, Hà Nội.

161

161. Vũ Thanh (2007), Truyền kì mạn lục của Nguyễn Dữ, Truyện ngắn Việt Nam: Lịch

sử - Thi pháp - Chân dung. Nxb Giáo dục, Hà Nội.

162. Vũ Thanh (2010), Lí Công Uẩn và âm vang Chiếu dời đô, nguồn:

http://www.baoquangninh.com.vn/van-hoa/dien-anh/201010/Ly-Cong-uan-va-am-

vang-Chieu-doi-do-2129161/

163. Trần Thị Băng Thanh (2009), Cảm nghĩ về thơ Trần Nhân Tông, Tạp chí Hán

Nôm, (số 4).

164. Trần Thị Băng Thanh (Chủ biên) (2014), Thơ văn Nguyễn Bỉnh Khiêm (Tổng tập),

Nxb Văn học , Hà Nội.

165. Nguyễn Thị Phƣơng Thảo (2000), Sự phát triển ý thức nghệ sĩ từ thơ Lí -Trần đến

Nguyễn Trãi, Luận văn, Đại học Sƣ phạm Hà Nội.

166. Lê Mạnh Thát (2006), Lịch sử Phật giáo Việt Nam - 3 tập, Nxb Tổng hợp Thành

phố Hồ Chí Minh.

167. Lê Mạnh Thát (2006), Tổng tập Văn Học Phật giáo Việt Nam - 3 tập, Nhà xuất

bản Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh.

168. Trần Đình Thảo (1995), Về ảnh hƣởng của Nho giáo đối với con ngƣời Việt Nam

trong lịch sử, Tạp chí Triết học, (Số 4).

169. Lê Sĩ Thắng (1997), Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, Tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

170. Nguyễn Hoàng Thân (2011), Tìm hiểu tƣ tƣởng Trần Nguyên Đán trƣớc thời cuộc

khủng hoảng suy tàn qua văn chƣơng của ông, nguồn:

//text.123doc.vn/document/1912440-bao-cao-nghien-cuu-khoa-hoc-tim-hieu-tu-

tuong-tran-nguyen-dan-truoc-thoi-cuoc-khung-hoang-suy-tan-qua-van-chuong-

cua-ong-ppt.htm

171. Lã Nhâm Thìn (1997), Thơ Nôm Đƣờng luật, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

172. Lã Nhâm Thìn, (2000), Ảnh hƣởng của Đạo gia trong thơ Nguyễn Trãi. Tạp chí

Văn học, (Số 6).

173. Lã Nhâm Thìn (2002), Đặc trƣng quan niệm nghệ thuật về con ngƣời của Nguyễn

Trãi, Tạp chí Văn học, (số 10).

174. Lã Nhâm Thìn, (2009), Phân tích tác phẩm văn học trung đại Việt Nam từ góc

nhìn thể loại. Nxb Giáo dục Việt Nam.

175. Lã Nhâm Thìn (Chủ biên), (2011), Giáo trình văn học trung đại Việt Nam, Tập 1,

Nxb Giáo dục Việt Nam.

162

176. Lã Nhâm Thìn, Vũ Anh Tuấn (Đồng chủ biên) (2016), Hợp tuyển công trình

nghiên cứu Văn học dân gian và Văn học trung đại Việt Nam, Nxb Đại học Quốc

gia Hà Nội, Hà Nội, Trƣờng Đại học Sƣ Phạm Hà Nội, Khoa Ngữ văn.

177. Trần Nho Thìn (2003), Văn học trung đại Việt Nam dƣới góc nhìn văn hóa. Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

178. Trần Nho Thìn (2011), Tiếp cận các tác phẩm trong chƣơng trình phổ thông trung

học có liên hệ với văn hóa chính trị cổ - trung đại, in trong Tài liệu tập huấn phát

triển chuyên môn giáo viên trƣờng trung học phổ thông chuyên môn Ngữ văn.

179. Trần Nho Thìn (2012), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XIX, Nxb

Giáo Dục Việt Nam, Hà Nội.

180. Trần Nho Thìn (2016), Tƣ tƣởng thân dân của Nguyễn Trãi, Tạp chí Cửa Việt,

Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Trị, (số 26).

181. Trần Nho Thìn “Bình Ngô đại cáo” dƣới ánh sáng của loại hình học văn hoá

trung đại, nguồn:

http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5329&rb=0302,

182. Hải Thu (1996), Bàn thêm về thái độ của Nguyễn Trãi đối với nhân dân lao động,

Nghiên cứu lịch sử, (Số 85).

183. Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), (2012), Thơ văn phủ chúa Trịnh, Nxb Văn hóa

Thông tin, Hà Nội.

184. Đinh Khắc Thuân (Chủ biên), (2016), Tuyển tập thơ, phú thời Mạc, Nxb Khoa học

xã hội, Hà Nội.

185. Trần Thuận (2014), Tƣ tƣởng Việt Nam thời Trần, Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ

Chí Minh.

186. Nguyễn Đăng Thục (1992), Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, Nxb thành phố Hồ Chí Minh.

187. Nguyễn Đăng Thục (2006), Lịch sử triết học phƣơng Đông, Nxb Từ điển Bách khoa.

188. Nguyễn Thị Thu Thủy (2003), Thi pháp thơ Nôm Nguyễn Trãi, Luận án Tiến sĩ

Ngữ văn, Trƣờng Đại học Huế.

189. Nguyễn Tài Thƣ (1988), Lịch sử Phật giáo Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

190. Nguyễn Tài Thƣ, Nguyễn Sĩ Thắng (1993), Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam, Tập 1,

Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

191. Nguyễn Tài Thƣ (1997), Nho học và Nho học ở Việt Nam: Góc nhìn tín ngƣỡng và

vai trò lịch sử, Tạp chí Triết học, Số 5, tr.33-38.

163

192. Vũ Công Thƣơng (2017), Một số tƣ tƣởng cơ bản của Lí Công Uẩn qua tác phẩm

Chiếu dời đô, nguồn: http://giaoducthoidai.vn/van-hoa/mot-so-tu-tuong-co-ban-

cua-ly-cong-uan-qua-tac-pham-chieu-doi-do-3484704.html.

193. Hoàng Trung Thông, Nguyễn Hồng Phong, Văn Tân, Vũ Khiêu, Đinh Gia Khánh,

Nguyễn Đổng Chi và nhiều tác giả (1980), Nguyễn Trãi khí phách và tinh hoa dân

tộc, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

194. Quốc Trung, (dịch) (2011), Tứ thƣ, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội.

195. Lâm Quốc Tuấn (2016), Tinh thần thân dân trong văn hóa chính trị phƣơng Đông

và Việt Nam truyền thống, Tạp chí Lí luận chính trị, Số 2.

196. Khổng Tử (1991), Kinh Thi, (Tạ Quang Phát dịch), Nxb Văn học, Hà Nội.

197. Từ điển Hán Nôm, nguồn: http://hvdic.thivien.net.

198. Kiều Văn (Tuyển chọn) (2000), Lê Thánh Tông và hội Tao Đàn, Nxb Đồng Nai.

199. Đoàn Thị Thu Vân (Chủ biên), Lê Trí Viễn, Lê Thu Yến, Lê Văn Lực, Phạm Văn

Phúc (2006), Văn học Trung đại Việt Nam (Thế kỉ X - cuối XIX), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

200. Đoàn Thị Thu Vân (2007), Con ngƣời nhân văn trong thơ ca Việt Nam sơ kỳ trung

đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

201. Đoàn Thị Thu Vân (2010), Ba bài chiếu đời Lí - một tầm cao văn hoá mở đầu cho

kỷ nguyên Thăng Long - Đại Việt, nguồn: http://khoavanhoc.edu.vn/

202. Viện Khoa học Xã hội, Trung tâm nghiên cứu Hán Nôm (2000), (Kỷ yếu hội thảo khoa

học), Nguyễn Bỉnh Khiêm trong lịch sử phát triển văn hóa dân tộc, Nxb Đà Nẵng.

203. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2002), Tứ thƣ, tập 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

204. Viện nghiên cứu Hán Nôm (2002), Tứ thƣ, tập 2, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

205. Nguyễn Hùng Vĩ (2011), Để hiểu rõ hơn bài Quốc tộ của Thiền sƣ Pháp Thuận,

nguồn: http://khoavanhoc.edu.vn/

206. Lê Trí Viễn (1996), Đặc trƣng văn học trung đại Việt Nam, Nxb Khoa học xã hội,

Hà Nội.

207. Trần Nguyên Việt (2004), Lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam văn tuyển, tập 2, Nxb chính

trị Quốc gia, Hà Nội.

208. Vũ Văn Vinh (1998), Một số quan niệm về dân thời Lí -Trần, Tạp chí Triết học, (Số 1).

209. Trần Ngọc Vƣơng (Chủ biên) (2007), Văn học Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ

XIX - Những vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Giáo Dục, Hà Nội.

164

210. Trần Quốc Vƣợng (2003), Văn hóa Việt Nam, Tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học,

Hà Nội.

211. Trần Quốc Vƣợng (2012), Nguyễn Trãi trong bối cảnh văn hoá Việt Nam, nguồn:

http://khoalichsu.edu.vn/bai-nghien-cu/367-nguyn-trai-trong-bi-cnh-vn-hoa-vit-

nam-gs-trn-quc-vng.html

212. Hoàng Tâm Xuyên (1999), Mƣời tôn giáo lớn trên thế giới, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

TIẾNG PHÁP

213. Le Thanh Khoi (1955), Le Viet-Nam, Histoire et Cuvilisation, Nxb Minuit, Paris.

214. Le Thanh Khoi (1982), Histoire du VietNam, des origins à 1858, Nxb Sud Est, Paris.

165

PHỤ LỤC TÁC GIẢ, TÁC PHẨM THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

PHỤ LỤC 1: NHỮNG TÁC PHẨM THƠ VĂN THỜI LÍ

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

BẢNG 1: NHỮNG TÁC PHẨM VĂN NGHỊ LUẬN THỜI LÍ

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT TÁC GIẢ TÁC PHẨM

Khuyến Lí Công Uẩn (Khuyên Lí Công Uẩn) 1 Nguyễn Vạn Hạnh

“Cận giả thần kiến phù sấm chi dị, tri Lí thị tráng thịnh (? – 1018)

nhi hƣng nghiệp tất hỹ. Kim quan thiên hạ chi tính, Lý tối

đa, vô nhƣ Thân vệ khoan từ nhân thứ, phả đắc chúng

tâm, nhi chƣởng ác binh bính giả. Tông chủ vạn dân, xả

Thân vệ, kỳ thuỳ đƣơng chi.

Thần niên thất thập hữu dƣ, nguyện tƣ tu vật tử dĩ quan

đức hoá nhƣ hà. Thành thiên tải nhất ngộ chi hạnh dã”.

(Gần đây tôi thấy lời sấm lạ, biết rằng họ Lí cƣờng thịnh

tất dấy nên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ, ngƣời họ

Lí rất nhiều nhƣng không ai bằng Thân vệ, là ngƣời

khoan từ, nhân thứ, lại đƣợc lòng dân chúng, mà binh

quyền nắm trong tay. Ngƣời đứng đầu muôn dân chẳng

phải Thân vệ thì còn ai đƣơng nổi nữa!

Tôi đã hơn bảy mƣơi tuổi rồi, mong đƣợc thƣ thả hãy chết

để xem đức hoá của ông nhƣ thế nào, thực là sự may

muôn năm mới gặp một lần).

Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô) 2 Lí Công Uẩn

“… Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tƣ, hốt thiên mệnh, (Lí Thái Tổ)

võng đạo Thƣơng Chu chi tích, thƣờng an quyết ấp vu tƣ, (974 – 1028)

trí thế đại phất trƣờng, toán số đoản xúc, bách tính hao

tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất

tỉ.

Huống Cao Vƣơng cố đô Đại La thành, trạch thiên địa

166

khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam

Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hƣớng bối chi nghi.

Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải.

Dân cƣ miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi

phong…”

(…Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thƣờng

mệnh trời, không noi theo việc cũ Thƣơng Chu, cứ chịu

yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số

ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm

rất đau đớn, không thể không dời.

Huống chi thành Đại La, kinh đô cũ của Cao Vƣơng, ở

vào nơi trung tâm trời đất, đƣợc thế rồng cuộn hổ ngồi,

chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau

trƣớc. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao

mà sáng sủa, dân cƣ không khổ thấp trũng tối tăm, muôn

vật hết sức tƣơi tốt phồn thịnh).

Bình Nùng chiếu (Chiếu đánh dẹp họ Nùng) 3 Lí Phật Mã

“Trẫm tự hữu thiên hạ dĩ lai, tƣớng tƣớng chƣ thần my (Lí Thái Tông)

khuy đại tiết. Dị phƣơng thù vực bất lai thần. Nhi chƣ (1000 - 1054)

Nùng thế thủ phong cƣơng, thƣờng cung quyết cống.

Kim Tồn Phúc vọng tự tôn đại, thiết hiệu thi lệnh, tụ

phong mại chi chúng, độc biên bỉ chi dân. Trẫm dĩ chi

cung hành thiên thảo, phu Tồn Phúc đẳng ngũ nhân, tính

trảm chi vu đô thị”.

(Trẫm từ làm chủ thiên hạ tới nay, các bề tôi văn võ,

không ngƣời nào dám bỏ tiết lớn; phƣơng xa cõi lạ, không

thần phục. Mà họ Nùng đời này qua đời khác cũng giữ

yên bờ cõi đƣợc phong, hàng năm nộp đều cống phẩm.

Nay, Tồn Phúc càn rỡ, tự tôn tự đại, tiếm xƣng vị

hiệu, ban hành chính lệnh, tụ tập quân ông kiến, làm hại

dân biên thuỳ. Vì thế, trẫm cung kính thi hành mệnh trời

167

trách phạt, bắt đƣợc bọn Tồn Phúc, gồm năm ngƣời, đều

đem chém đầu ở chợ).

Xá thuế chiếu (Chiếu xá thuế)

“Viễn sự chinh phạt, phƣơng đoạt nông công, khởi liệu

kim đông, đắc đại phong thục! Cẩu bách tính chi ký túc,

tắc trẫm thục dữ bất túc. Kì tứ thiên hạ kim niên thuế chi

bán, dĩ uỷ bạt thiệp chi lao”.

(Việc đánh dẹp phƣơng xa làm tổn hại đến công việc nhà

nông. Thế mà có ngờ đâu, mùa đông năm nay lại đƣợc

mùa lớn! Nếu trăm họ đều no đủ thì trẫm còn lo gì thiếu

thốn? Vậy, xá cho thiên hạ một nửa tiền thuế năm nay để

an ủi nỗi khổ nhục lội suối trèo đèo).

Ngộ đại hàn, vị tả hữu bách quan (Gặp tiết đại hàn, bảo 4 Lí Nhật Tông

các quan tả hữu) (Thánh Tông)

“Trẫm cƣ thâm cung chi trung, ngự thú than, tập hồ cầu, (1023 – 1072)

lãnh khí do thả nhƣ thử. Huống tù nhân tại linh ngự chi

trung, thụ luy tiết chi khổ, khúc trực vị phân, phúc chi bất

sung, hình chi bất cái. Nhất vi hàn phong sở bức, khởi bất

tử ƣ vô cô. Trẫm thậm mẫn chi. Kì lệnh hữu ti phát khâm

tịch , cập phạn nhật nhị thứ cấp chi”.

(Trẫm ở trong thâm cung, sƣởi lò than thú, mặc áo hồ

cừu, thế mà khí lạnh còn ghê gớm đến thế. Huống chi

những ngƣời bị giam cầm trong ngục, khổ sở về gông

cùm, ngay gian chƣa định rõ, bụng không đủ cơm no, áo

không kín thân thể, một khi gặp cơn gió bấc thổi, há

chẳng phải là vô tội mà chết oan ƣ? Trẫm rất lấy làm

thƣơng xót. Vậy hạ lệnh cho hữu ty phát chăn chiếu và

mỗi ngày hai bữa cơm phát cho họ).

Cố động Thiên công chúa, vị ngục lại (Nhìn công chúa

Động Thiên, bảo ngục lại)

“Ngô chi ái ngô tử diệc do thiên hạ phụ mẫu chi ái kì tử

168

dã. Bách tính vô tri tự mạo điển hiến. Ngô thậm mẫn yên.

Ƣng tự kim dĩ hậu tội vô khinh trọng, nhất tong khoan

hựu”.

(Ta yêu con ta cũng nhƣ các bậc cha mẹ trong thiên hạ

yêu con cái họ. Trăm họ không biết gì nên tự phạm vào

hình pháp, lòng ta rất xót thƣơng. Cho nên từ nay về sau,

không cứ tội nặng hay nhẹ, đều nhất loạt khoan giảm).

Phạt Tống lộ bố văn (Bài văn lộ bố khi đánh Tống) 5 Lí Thƣờng Kiệt

“Thiên sinh chƣng dân, quân đức tắc mục. Quân dân chi (1019 – 1105)

đạo, vụ tại dƣỡng dân. Kim văn, Tống chủ hôn dung, bất

tuần thánh phạm. Thính An Thạch tham tà chi kế, tác

“thanh miêu”, “trợ dịch” chi khoa. Sử bách tính cao chi

đồ địa, nhi tƣ kỳ phì kỷ chi mƣu.

Cái vạn dân tƣ phú ƣ thiên, hốt lạc na yếu li chi độc. Tại

thƣợng cố nghi khả mẫn, tòng tiền thiết mạc tu ngôn.

Bản chức phụng quốc vƣơng mệnh, chỉ đạo Bắc hành.

Dục thanh yêu nghiệt chi ba đào, hữu phân thổ vô phân

dân chi ý; yếu tảo tinh uế chi ô trọc, ca Nghiêu thiên

hƣởng Thuấn nguyệt chi giai kỳ.

Ngã kim xuất binh, cố tƣơng chủng tế. Hịch văn đáo nhật,

dụng quảng văn tri. Thiết tự tƣ lƣờng, mạc hoài chấn

bố”.

(Trời sinh ra dân chúng, Vua hiền ắt hoà mục. Đạo làm

chủ dân, cốt ở nuôi dân. Nay nghe vua Tống ngu hèn,

chẳng tuân theo khuôn phép thánh nhân, lại tin kế tham tà

của Vƣơng An Thạch, bày những phép "thanh miêu", "trợ

dịch", khiến trăm họ mệt nhọc lầm than mà riêng thoả cái

mƣu nuôi mình béo mập.

Bởi tính mệnh muôn dân đều phú bẩm tự trời, thế mà

bỗng sa vào cảnh éo le độc hại. Lƣợng kẻ ở trên cố nhiên

169

phải xót. Những việc từ trƣớc, thôi nói làm gì!

Nay bản chức vâng mệnh quốc vƣơng chỉ đƣờng tiến

quân lên Bắc, muốn dẹp yên làn sóng yêu nghiệt, chỉ có ý

phân biệt quốc thổ, không phân biệt chúng dân. Phải quét

sạch nhơ bẩn hôi tanh để đến thuở ca ngày Nghiêu, hƣởng

tháng Thuấn thăng bình!

Ta nay ra quân, cốt để cứu vớt muôn dân khỏi nơi chìm

đắm. Hịch văn truyền tới để mọi ngƣời cùng nghe. Ai nấy

hãy tự đắn đo, chớ có mang lòng sợ hãi!).

Bảo Ninh Sùng Phúc tự bi (Văn bia chùa Bảo Ninh Sùng 6 Lí Thừa Ân (?- ?)

Phúc)

“Ô mục Thái phó Hà công Hƣng Tông. quyết tổ nguyên

thuộc Ung - châu, Đông - đô, Hà huyện, Thạch - bách

hƣơng, Ca - nông lý. Cao tổ Hà Đắc Trọng, dao văn

thánh hóa, thũng nguyện vi thần. Thủ thành Vị - long

châu dã. Dàn ký phú hỹ; thế xƣng trƣờng yên. Lũy thích

bát đại, viên cập tổ tiên, thái tƣớng nhị đại, dịch diệp di

xƣơng, mậu huân vĩnh trƣớc. Quản tứ thập cửu động,

nhất thập ngũ huyện. Thuần bị mỹ hóa; hàm qui nhất

quĩ”.

(Kính thay Thái phó Hà Hƣng Tông, thủy tổ là ngƣời ở

xóm Ca Nông, hƣơng Thạch Bách, huyện Hà, thuộc Đông

Đô, châu Ung Cao tổ là Hà Đắc Trọng, xa nghe giáo hóa

của vƣơng triều, dời gót xin làm thần thứ. Từ đó gìn giữ

an toàn châu Vị Long vậy. Dân đã ấm no; ngƣời đời tôn

trƣởng. Cho tới đời thứ tám, kể cả tổ tiên xƣa có hai đời

làm Thái bảo và Thái phó, nghiệp lớn càng thịnh, công cả

càng cao. Đƣợc coi giữ bốn mƣơi chín động, mƣời lăm

huyện, dân chúng đều thấm nhuần giáo hóa tốt đẹp, đều

hƣớng về một khuôn phép chung).

Ngưỡng Sơn Linh Xứng tự bi minh (Văn bia chùa Linh 7 Pháp Bảo

170

Xứng núi Ngƣỡng Sơn) (Giác Tính Hải

“Công nội thụ khoan minh; ngoại thi giản huệ. Di phong Chiếu)

dịch tục; hà đạn cần lao. Kịêm dĩ tòng sự, duyệt dĩ sử (?-?)

dân, dân sở lại chí. Khoan năng tế chúng, nhân, nhi ái

nhân, nhân sở kính chi. Uy nhi tiêm ác, chính dĩ quyết

ngục, ngục vô lạm chi. Thực tắc dân thiên, bang bản nông

vụ, vụ bất thất chi. Thiện nhi bất phạt, dƣỡng cập dã lão,

lão tất an chi. Nhƣ thử chi đạo, tắc khả vị ly dân chi bản,

an dân chi thuật, mỹ tại tƣ hỹ. Nhi công tam triều bật

chính kiêm ngự định biên loạn, u kỳ sổ niên nhi bát

phƣơng ninh bật, kỳ công thịnh hỹ”.

(Thái úy trong thì sáng suốt khoan hòa, ngoài thì nhân từ

giản dị. Những việc đổi dời phong tục, nào có quản công.

Làm việc thì siêng năng, sai bảo dân thì ôn hòa, cho nên

dân đƣợc nhờ là vậy. Khoan hòa giúp đỡ quần chúng,

nhân từ yêu mến mọi ngƣời, cho nên nhân dân kính trọng.

Dùng oai vũ để trừ bọn gian ác, đem minh chính để giải

quyết ngục tụng, cho nên hình ngục không quá lạm. Thái

úy biết dân lấy no ấm làm đầu, nƣớc lấy nghề nông làm

gốc, cho nên không để lỡ thời vụ. Tài giỏi mà không khoe

khoang, nuôi dƣỡng cả đến ngƣời già ở nơi thôn dã, cho

nên ngƣời già nhờ đó mà đƣợc yên thân. Phép tắc nhƣ

vậy có thể gọi là cái gốc trị nƣớc, cái thuật yên dân, sự

đẹp tốt đều ở đấy cả. Giúp chính sự cho ba triều, dẹp yên

lọan ngoài biên tái, chỉ khoảng vài năm mà tám phƣơng

yên lặng, công thật lớn lao).

8 Nguyễn Công Bật Đại Việt quốc dương gia đệ tứ đế Sùng thiên Diên linh

tháp bi (Bia tháp Sùng thiện Diên linh của vua thứ tƣ (?-?)

[nhà Lí], đƣơng làm chủ nƣớc Đại Việt)

“Thƣợng phƣơng thùy củng; hạ chính bật lân. Ngẫu biên

lại chi canh thƣờng; thành quai vi chi hữu hấn. Tinh trì

171

ngự địch; lôi phấn tỏa uy. Ung-châu quân chi chúng ức

thiên, hội hỹ do phong quyển ế; Nhƣ-nguyệt giang chi sƣ

bách vạn, hoán nhiên nhƣợc nhật tiêu băng. Tại khổn

ngoại chi tƣớng tự thi; khởi thần trung chi mƣu sở quyết.

Kỵ hậu trí hoàng cực ƣ mục thanh; tê sinh dân ƣ phú thọ.

Phiến nhân phong dĩ hóa suất; thi huệ trạch dĩ bàng

tuyên”.

(Trên vừa trị yên trong nƣớc; dƣới đƣơng giúp đỡ lân

bang. Bỗng lính thú nơi biên khu trở mặt; gây nên hiềm

khích dở dang. Vội vàng chống địch; làm nhục oai thù.

Quân châu Ung muôn ức tan tành nhƣ mây mù gió cuốn;

quân Nhƣ Nguyệt trăm vàn đổ vỡ nhƣ gặp nắng băng tan.

Tự thi hành do viên tƣớng ngoài biên; đâu có phải lòng

vua quyết định. Đƣa hoàng cực lên cõi thanh bình; dẫn

sinh dân đến nơi giầu có. Quạt gió nhân giáo hóa nƣớc

nhà; ra ơn huệ ban cho khắp chốn).

Thảo Ma sa động hịch (Hịch đánh động Ma sa) 9 Lí Càn Đức

“Trẫm ƣng nhất tổ nhị tông chi nghiệp, yêm hữu thƣơng (Lí Nhân Tông)

sinh; thị tứ hải triệu tinh chi dân, quân nhƣ xích tử. Chi dị (1066 - 1128)

vực hoài nhân nhi khoản phụ; thù phƣơng mộ nghĩa dĩ lai

tân. Thả Ma-sa động đinh, sinh ƣ ngộ chi cảnh thổ; nhi

Ma-sa động trƣởng, thế tác dƣ chi phiên thần. Xuẩn nhĩ

dung tù, hốt phụ tiên thần chi ƣớc; vong kỳ tuế cống, nãi

khuyết cố điểnchi thƣờng.

Trẫm mỗi tƣ chi, sự phi đắc dĩ. Kỳ dĩ kim nhật, trẫm tự

tƣớng thảo chi. Tƣ nhĩ tƣớng soái lục quân, các tận nhữ

tâm, hàm thính trẫm mệnh”.

(Trẫm nối nghiệp một Tổ, hai Tông mà trị muôn dân; coi

trăm họ trong bốn biển đều nhƣ con đỏ. Nhờ đó, Cõi lạ

mến nhân mà quy phụ; phƣơng xa mộ nghĩa mà tới chầu.

Vả chăng, dân đông Ma-sa sinh sông trong bờ cõi nƣớc

172

ta; động trƣởng Ma-sa đời đời làm phiên thần của trẫm.

Nay tên tù trƣởng ngu hèn, phụ lời ƣớc của tiên thần khi

trƣớc; dám quên việc triều cống, thiếu sót lệ thƣờng hàng

năm.

Trẫm mỗi lần nghĩ đến, thật việc không thể dừng. Vậy

chọn hônm nay, trẫm tự cầm quân tiến đánh. Hỡi các

tƣớng soái và sáu quân, ai nấy hãy dốc một lòng, cùng

lắng nghe mệnh trẫm).

Lâm chung di chiếu (Chiếu để lại lúc sắp mất)

“Trẫm văn, sinh vật chi động, vô hữu bất tử. Tử giả, thiên

địa chi đại số, vật lý đƣơng nhiên, nhi cử thế chi nhân

mạc bất vinh sinh nhi ố tử. Hậu táng dĩ khí nghiệp, trọng

phục dĩ tổn tính; trẫm thậm bất thủ yên. Dƣ ký quả đức,

vô dĩ an bách tính, cập chí tồ lạc, hựu sử nguyên nguyên

thôi ma tại thân, thần hôn lâm khốc, giảm kỳ ẩm thực,

tuyệt kỳ tế tự, dĩ trọng dƣ quá, thiên hạ kỳ vị dƣ hà?”.

(Trẫm nghe: các giống sinh vật không giống nào không

chết. Chết là số lớn của trời đất, là lẽ đƣơng nhiên của

muôn loài. Thế mà ngƣời đời không ai không ham sống,

ghét chết. [Có ngƣời] chôn cất linh đình đến huỷ hoại cả

cơ nghiệp; [có ngƣời] coi trọng việc tang chế đến hao tổn

cả tính mệnh, trẫm rất không ƣa. Trẫm đã ít đức, không

làm gì cho trăm họ đƣợc yên đến khi chết đi lại bắt dân

chúng mặc xô gai, sớm tối khóc lóc, giảm ăn uống, bỏ

cúng tế, để làm nặng thêm lỗi lầm của trẫm thì thiên hạ sẽ

bảo trẫm là ngƣời nhƣ thế nào?).

Thiên hạ hưng vong trị loạn chi nguyên luận (Bàn về 10 Nguyễn Nguyên Ức

nguồn gốc hƣng vong, trị loạn của thiên hạ) (Viên Thông)

“Thiên hạ do khí đã, trí chƣ an tắc an, trí chƣ nguy tắc (1080 – 1151)

nguy, cố tại nhân chủ sở hành hà nhƣ nhĩ. Hiếu sinh chi

đức hợp vu dân tâm cố dân ái chi nhƣ phụ mẫu, ngƣỡng

173

chi nhƣ nhật nguyệt. Thị trí thiên hạ đắc chi an giả dã.

Trị loạn tại thứ quan, đắc nhân tắc tị, thất nhân tắc loạn.

Thần lịch quan tiền thế đế vƣơng vị thƣờng bất dĩ dụng

quân tử nhi hƣng, bất dĩ dụng tiểu nhân nhi vong giả dã.

Nguyên kỳ trí thử phi nhất triêu nhất tịch chi cố; sở do lai

giả tiệm hĩ. Thiên địa bất năng đốn vi hàn thử, tất tiệm ƣ

xuân thu; nhân quân bất năng đốn vi hƣng vong, tất tiệm

ƣ thiện ác.

Cổ chi thánh vƣơng tri kỳ nhƣợc thử, cố tắc thiên bất tức

kỳ đức dĩ tu kỷ, pháp địa bất tức kỳ đức dĩ an nhân. Tu kỷ

giả, thận ƣ trung dã, lật nhiên nhƣ lý bạc băng; an nhân

giả, kính kỳ hạ dã, lẫm hồ nhƣợc ngự hủ sách. Nhƣợc thị

võng bất hƣng, phản thị võng bất vong. Kỳ hƣng vong chi

tiệm tại ƣ thử dã.

(Thiên hạ cũng giống nhƣ đồ dùng, đặt chỗ yên thì đƣợc

yên, đặt chỗ nguy ắt gặp nguy; cốt yếu là hành vi của bậc

nhân chủ nhƣ thế nào mà thôi. Nếu đức hiếu sinh hợp với

lòng dân thì dân yêu nhƣ cha mẹ, ngửa trông nhƣ mặt trời

mặt trăng: đó là đặt thiên hạ vào chỗ yên vậy!

Nƣớc trị hay loạn cốt ở trăm quan; đƣợc ngƣời thì nƣớc

trị, mất ngƣời thì nƣớc loạn. Thần trải xem các bậc đế

vƣơng đời trƣớc, chƣa từng có ai không dùng quân tử mà

hƣng đƣợc nghiệp, không dùng tiểu nhân mà bị tiêu vong.

Tuy nhiên nguồn gốc dẫn đến sự hƣng vong đó không

phải là cái cớ một chiều một sớm. Chúng xuất hiện dần

dần. Ví nhƣ trời đất, không thể nóng hay rét bất thần

đƣợc, mà phải biến chuyển dần dần qua mùa xuân mùa

thu. Vua chúa cũng không thể bất thần hƣng hay vong

174

đƣợc, mà phải dần dần, do làm thiện hay gây ác.

Các bậc thánh vƣơng đời trƣớc đều bắt chƣớc trời, không

ngừng trau đức để sửa mình; bắt chƣớc đất, không ngừng

trau đức để yên dân. Sửa mình thì cẩn thận ở trong lòng,

run sợ nhƣ dẫm trên băng mỏng. Yên dân thì yêu mến

ngƣời dƣới, hãi hùng nhƣ cƣỡi ngựa nắm dây cƣơng sờn.

Làm đúng thế thì không thể không hƣng, làm trái thế thì

không thể không vong. Quá trình dần dà của sự hƣng

vong là ở chỗ đó).

Lâm chung chúc Thái tử (Dặn Thái tử lúc sắp mất) 11 Lí Thiên Tộ

“Quốc gia sơn kỳ thủy tú, nhân kiệt địa linh, châu ngọc (Anh Tông)

bảo bối, mị bất sinh yên. Tha quốc mạc tỉ dã. Nghi thận (1136 - 1175)

thủ chi”.

(Nƣớc ta non sông gấm vóc, nhân tài tuấn kiệt, đất nƣớc

anh linh, châu ngọc bảo bối, không cái gì là không có.

Nƣớc khác không thể nào bì đƣợc. Con hãy nên giữ nƣớc

cẩn thận).

Gián Lý Cao Tông đại hưng lâu các (Khuyên vua Lý 12 Khuyết danh

Cao Tông đừng xây dựng cung điện)

“Tích Ngụy Minh Đế thủy cấu Lăng tiêu các, hữu thƣớc

sào yên. Cao Đƣờng Long viết: Thi vân:

Duy thƣớc hữu sào,

Duy ƣu cƣ chi.

Kim cung thất sơ thành nhi thƣớc sào chi. Thần ngu dĩ vi

hữu dị tính cƣ chi. Thần nguyện bệ hạ viễn giám Cao

Đƣờng Long chi ngôn, tiên vụ khắc kỷ tu đức, hẫu nãi

hƣng kỳ công dịch, khả dã”.

(Xƣa Ngụy Minh Đế mới xây gác Lăng –tiêu, có chim

thƣớc đến làm tổ; Cao Đƣờng Long nói: Kinh thi có câu:

Chim thƣớc làm tổ,

Chim cƣu đến ở

175

Nay cung thất vừa làm xong mà chim thƣớc đã đến làm

tổ, thần ngu muội nghĩ rằng: [rồi sẽ] có họ khác đến đấy

ở.

Thần kính xin bệ hạ xét lời nói của Cao Đƣờng Long,

trƣớc chăm sửa mình, tu đức, sau hãy khởi công xây dựng

mới phải).

Truy hối tiền quá chiếu (Chiếu hối lỗi) 13 Lí Long Trát

“Trẫm ấu ƣng đại nghiệp, thâm xử cửu trùng, bất tri dân (Cao Tông)

sự chi gian nan; thính nạp tiểu nhân chi ngôn dĩ thủ oán (1173 - 1210)

ƣ hạ. Dân ký tƣ oán, Trẫm tƣơng trù y? Kim kỳ cải quá tự

tân, dữ dân canh thuỷ. Chƣ hữu điền địa sản nghiệp một

ƣ quan giả, tất hoàn chi”.

(Trẫm còn bé đã phải gánh vác nghiệp lớn, ở trong chốn

cửu trùng sâu thẳm, không biết nỗi khó nhọc của đời sống

muôn dân, lại nghe lời bọn tiểu nhân mà gây oán với

ngƣời dƣới. Dân đã oán than thì trẫm còn biết dựa vào ai?

Nay trẫm sẽ sửa đổi lỗi lầm, cùng trăm họ bắt đầu canh

tân. Ai có ruộng đất, sản nghiệp bị sung công sẽ đƣợc

hoàn lại.ký tƣ oán, Trẫm tƣơng trù y? Kim kỳ cải quá tự

tân, dữ dân canh thuỷ. Chƣ hữu điền địa sản nghiệp một ƣ

quan giả, tất hoàn chi.

Thảo Trần Tự Khánh chiếu (Chiếu đánh dẹp Trần Tự 14 Lí Hạo Sâm (Huệ

Khánh) Tông)

“Trần Tự Khánh tụ hung đảng, khấu nhƣơng kinh sƣ; (1194 – 1226)

thuỷ lục chiến công, thống quan tông xã. Viên ƣ khứ

đông, ngƣợc diễm du xí. Bỉ sƣ đồ tứ hành tham ngƣợc, lỗ

lƣợc ngã tài vật, phần đãng ngã cung thất, dĩ chí kinh

thành hạng mạch hoá thành khôi tẫn.

Trẫm nhân ức triệu thần thứ chi nộ, lại nhất tổ lục tông

chi linh, cung cử lục sƣ, thân hành chinh thảo. Tƣ nhĩ

tƣớng soái chi chúng, sĩ tốt chi đồ, hàm thính chiếu ngôn,

176

các tận nãi tâm, dụng tắc trẫm ý”.

(Trần Tự Khánh nhóm hung đảng, quấy rối kinh sƣ. Thuỷ

bộ đánh dồn, làm đau tông xã. Từ mùa đông trƣớc, lửa

bạo tàn càng ngụt cháy. Quân lính y hoành hành tham

ngƣợc, cƣớp đoạt của cải ta, đốt phá cung thất ta. Cho đến

đƣờng ngang ngõ tắt kinh thành, thảy đều hoá ra tro bụi.

Nay trẫm nhân nỗi giận của ức triệu thần dân, nhờ cậy

anh linh của nhất tổ lục tông, đem cả sáu quân thân hành

đánh dẹp. Hỡi các tƣớng soái, cùng khắp ba quân! Hãy

nghe lời chiếu, dốc hết lòng thành, cho xứng ý trẫm).

Thiên vị chiếu (Chiếu nhƣờng ngôi) 15 Khuyết danh

“Tự cổ Nam Việt đế vƣơng trị thiên hạ giả hữu hĩ. Duy

ngã Lý thụ thiên quyến mệnh, yêm hữu tứ hải, liệt thánh

tƣơng thừa, nhị bách dƣ niên. Nại dĩ thƣợng hoang anh

tật, thừa thống vô nhân, quốc thế khuynh nguy, mệnh

trẫm thụ minh chiếu, miễn cƣỡng tức vị. Tự cổ dĩ lai, vị

chi hữu dã.

Ta, trẫm li vi nữ chủ, tài đức câu khuynh, phụ bật vô

nhân, đạo tặc phong khởi, an khả bỉnh trì thần khí chi thái

trọng? Trẫm túc hƣng dạ mỵ, duy khủng nan kham. Mỗi

niệm cầu hiền lƣơng quân tử, đồng phụ chính trị. Túc dạ

quyền quyền, ƣ tƣ cực hỹ.

Thi viết:

Quân tử hảo cầu,

Cầu chi bất đắc,

Ngụ mỵ tƣ bặc,

Du tai du tai!

Kim trẫm phản phúc độc toán, duy đắc Trần Cảnh, văn

chất bân bân, thành hiền nhân quân tử chi thể, uy nghi ức

ức, hữu thánh thần văn vũ chi tƣ, tuy Hán Cao, Đƣờng

Thái vị chi năng quá. Tƣởng thục thần hôn, nghiệm chi

177

hữu tố, khả tốn đại vị, dĩ uỷ thiên tâm, dĩ phó trẫm hoài,

thứ khả đồng tâm túc lực, cộng phù quốc tộ, dĩ hƣởng thái

bình chi phúc. Bố cáo thiên hạ, hàm sử văn tri.”.

(Từ xƣa nƣớc Nam Việt đã có các bậc đế vƣơng trị vì

thiên hạ. Riêng nhà Lý ta vâng chịu mệnh trời, làm chủ

bốn biển, các vị thánh vƣơng truyền nối đã hơn hai trăm

năm. Ngặt vì Thƣợng hoàng mắc bệnh, không ngƣời nối

dõi, thế nƣớc nguy ngập, đành sai trẫm nhận minh chiếu,

gắng gƣợng lên ngôi. Từ xƣa đến nay chƣa từng có việc

ấy.

Than ôi, trẫm là nữ chúa, tài đức đều hèn, không ngƣời

phò tá, giặc cƣớp nổi lên nhƣ ong, đâu có thể gìn giữ ngôi

trời quá nặng? Trẫm thức khuya dậy sớm, chỉ e gánh vác

không nổi; những muốn tìm bậc hiền nhân quân tử, cùng

giúp chính sự. Việc đó đêm ngày canh cánh bên lòng, đến

nay đã gấp quá vậy. Kinh Thi có câu:

Quân tử tốt đôi,

Tìm mà chẳng đƣợc,

Thức ngủ nhớ mong,

Thổn thức trong lòng.

Nay trẫm một mình suy đi tính lại, duy có Trần Cảnh là

ngƣời văn chất rỡ ràng, thật đúng tƣ cách bậc hiền nhân

quân tử, uy nghi thận trọng, có phong tƣ của bậc văn võ

thánh thần, dù Hán Cao Tổ, Đƣờng Thái Tông cũng

không hơn đƣợc. Trẫm từng sớm hôm suy nghĩ, nghiệm

xét từ lâu: nên nhƣờng lại ngôi lớn để yên lòng trời, để

thoả ý trẫm, ngõ hầu có thể đồng lòng gắng sức, cùng phò

giúp nghiệp nƣớc, cùng hƣởng phúc thái bình.Vậy bố cáo

cho thiên hạ cùng nghe biết).

Gián Lý Cao Tông hiếu văn bi thiết chi thanh (Khuyên 16 Nguyễn Thƣờng

vua Lý Cao Tông không nên mê đắm âm nhạc buồn (?-?)

178

thảm)

“Ngô kiến Thi tự vân: “Loạn quốc chi âm oán, dĩ nộ kỳ

chính quai. Vong quốc chi âm ai, dĩ tƣ kỳ dân khốn.”

Kim chúa thƣợng tuần du vô độ, chính giáo quai ly, hạ

dân sầu khốn. Chí thử dũ thậm, nhi nhật văn ai oán chi

âm, vô nãi loạn vong chi triệu hồ?

Ngô tri xa giá thử hoàn, bất tái hạnh kỳ cung hỹ”.

(Tôi nghe, bài tựa Kinh Thi có nói: “Âm nhạc của nƣớc

loạn nghe ai oán vì giận chính sự nƣớc ấy sai trái. Âm

nhạc của nƣớc mất nghe bi thảm vì xót dân nƣớc ấy khốn

cùng”

Nay chúa thƣợng rong chơi vô độ, chính giáo sai lìa, dân

chúng buồn khổ. Đến nay càng tệ. Thế mà ngày ngày lại

nghe âm nhạc ai oán, đó chẳng phải là điềm nƣớc mất,

nƣớc loạn hay sao?

Tôi biết rằng xa giá chuyến này [từ hành cung Hải Thanh]

trở về tất sẽ không [bao giờ] lại ngự ra cung ấy nữa).

BẢNG 2: NHỮNG BÀI THƠ THỜI LÍ THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT TÁC GIẢ TÁC PHẨM

1 Nguyễn Vạn Hạnh Yết bảng thị chúng (Treo bảng nói rõ với mọi ngƣời)

Tật lê trầm Bắc thuỷ, (938 – 1018)

Lý tử thụ Nam thiên.

Tứ phƣơng qua can tĩnh,

Bát biểu hạ bình yên.

(Cây tật lê chìm xuống biển Bắc,

Cây mận mọc lên ở trời Nam.

[Ấy là lúc] bốn phƣơng dẹp yên binh lửa,

Và tám cõi mừng chúc cảnh thái bình).

2 Khuyết danh Đại đức (Đức lớn)

179

Đế đức càn khôn đại

Uy thanh tĩnh bất diên

U âm mông huệ trạch

Ƣu ốc ái xung thiên ”

(Đức lớn nhà vua nhƣ trời đất,

Uy danh làm cho tám cõi đƣợc yên ổn

Những nơi tối tăm cũng đƣợc nhờ ơn trạch

Và thấm nhuần đến cả Xung thiên)

3 Khuyết danh Nam quốc sơn hà (Sông núi nƣớc Nam)

Nam quốc sơn hà Nam đế cƣ,

Tiệt nhiên định phận tại thiên thƣ.

Nhƣ hà nghịch lỗ lai xâm phạm,

Nhữ đẳng hành khan thủ bại hƣ.

(Núi sông nƣớc Nam thì vua Nam ở,

Cƣơng giới đã ghi rành rành trên sách trời.

Cớ sao lũ giặc bạo ngƣợc kia dám tới xâm phạm?

Chúng bay hãy chờ xem, thế nào cũng chuốc lấy bại

vong).

4 Đỗ Pháp Thuận Quốc tộ (Vận nước )

Quốc tộ nhƣ đằng lạc, (914 - 990)

Nam thiên lý thái bình.

Vô vi cƣ điện các,

Xứ xứ tức đao binh.

(Vận nƣớc nhƣ dây mây quấn quít,

Trời Nam mở nền thái bình.

Thực hiện đƣờng lối vô vi ở nơi điện các,

Khắp nơi tắt hết cảnh chiến tranh loạn lạc).

180

PHỤ LỤC 2: NHỮNG TÁC PHẨM THƠ VĂN THỜI TRẦN THỂ HIỆN

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

BẢNG 1: NHỮNG TÁC PHẨM VĂN NGHỊ LUẬN THỜI TRẦN

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT TÁC GIẢ TÁC PHẨM

Dụ chư tỳ tướng hịch văn (Bài văn hịch dụ bảo các tỳ 1 Trần Quốc Tuấn

tƣớng) (1230 – 1300)

“Huống dƣ dữ nhữ đẳng, sinh ƣ nhiễu nhƣơng chi thu;

trƣởng ƣ gian nan chi thế. Thiết kiến nguỵ sứ vãng lai,

đạo đồ bàng ngọ. Trạo hào ô chi thốn thiệt nhi lăng

nhục triều đình; uỷ khuyển dƣơng chi xích khu nhi cứ

ngạo tể phụ. Thác Hốt Tất Liệt chi lệnh nhi sách ngọc

bạch, dĩ sự vô dĩ chi tru cầu; giả Vân Nam Vƣơng chi

hiệu nhi khu kim ngân, dĩ kiệt hữu hạn chi thảng hố.

Thí do dĩ nhục đầu nỗi hổ, ninh năng miễn di hậu hoạn

dã tai?

Dƣ thƣờng lâm xan vong thực, trung dạ phủ chẩm, thế

tứ giao di, tâm phúc nhƣ đảo. Thƣờng dĩ vị năng thực

nhục tẩm bì, nhứ can ẩm huyết vi hận dã. Tuy dƣ chi

bách thân, cao ƣ thảo dã; dƣ chi thiên thi, khoả ƣ mã

cách, diệc nguyện vi chi”.

(Huống chi, ta cùng các ngƣơi sinh ra phải thời loạn

lạc, lớn lên gặp buổi gian nan. Lén nhìn sứ nguỵ đi lại

nghênh ngang ngoài đƣờng, uốn tấc lƣỡi cú diều mà

lăng nhục triều đình, đem tấm thân dê chó mà khinh rẻ

tổ phụ. Ỷ mệnh Hốt Tất Liệt mà đòi ngọc lụa để phụng

sự lòng tham khôn cùng; khoác hiệu Vân Nam Vƣơng

mà hạch bạc vàng, để vét kiệt của kho có hạn. Thật

khác nào đem thịt ném cho hổ đói, tránh sao khỏi tai

hoạ về sau.

Ta thƣờng tới bữa quên ăn, nửa đêm vỗ gối, ruột đau

181

nhƣ cắt, nƣớc mắt đầm đìa, chỉ giận chƣa thể xả thịt, lột

da, ăn gan, uống máu quân thù. Dẫu cho trăm thân ta

phơi ngoài nội cỏ, nghìn thây ta bọc trong da ngựa,

cũng nguyện xin làm).

Đáp quốc vương tặc thế chi vấn (Trả lời nhà vua hỏi

về thế giặc)

“Ngã quốc thái bình nhật cửu, dân bất tri binh. Thị dĩ

tiền niên Nguyên nhân nhập khấu, hoặc hữu hàng, tỵ.

Lại tổ tông uy linh, bệ hạ thần vũ, khắc thanh Hồ trần.

Bỉ nhƣợc hựu lai, ngã sĩ tập ƣ công chiến. Bỉ quân đạn

ƣ viễn hành, thả trừng Hằng, Quán chi bại, vô hữu đấu

tâm. Dĩ thần quan chi, phá bỉ tất hỹ”.

(Nƣớc ta thái bình đã lâu ngày, dân không biết đến việc

binh, vì thế năm trƣớc quân Nguyên vào cƣớp phá,

cũng còn có kẻ đầu hàng hoặc trốn tránh. May nhờ uy

linh của tổ tông và võ lực thần thông của bệ hạ nên đã

quét sạch đƣợc bụi Hồ. Nếu nay bọn chúng lại sang thì

quân lính của ta đã quen chiến trận, mà quân lính của

chúng thì sợ phải đi xa, hơn nữa lại đã chờn về thất bại

của Hằng và Quán, nên không còn lòng nào để chiến

đấu nữa. Cứ ý thần xem ra thì đánh thắng chúng là điều

cầm chắc vậy).

Lâm chung di chúc (Căn dặn trƣớc khi mất)

“Đại khái bỉ thị trƣờng trận, ngã thị đoản binh, dĩ đoản

chế trƣờng, binh pháp chi thƣờng dã. Kỳ kiến bỉ quân

biến chí, nhƣ hoả nhƣ phong, kỳ thế dị chế. Nhƣợc

dụng tàm thực, hoãn hành, bất vụ dân tài, bất cầu tốc

thắng, tắc bạt dụng lƣơng tƣớng, quan kỳ quyền biến,

nhƣ vi kỳ nhiên, tuỳ thời chế nghi; thu đắc phụ tử chi

binh, thuỷ khả dụng dã. Thả khoan dân lực dĩ vi thâm

căn cố đế chi kế, thử thủ quốc chi thƣợng sách dã”.

182

(Tóm lại, giặc cậy trận dài, ta cậy binh ngắn, lấy ngắn

chế dài là lẽ thƣờng của binh pháp. Nếu thấy quân giặc

đến ồ ạt nhƣ lửa to gió táp thì đó là tình thế dễ chế ngự.

Nếu chúng dùng lối tằm ăn lá, hành binh dần dà, không

ham của dân, không cốt thắng mau, thì phải kén dùng

tƣớng giỏi, liệu xem quyền biến, giống nhƣ đánh cờ,

phải tuỳ tình thế mà đƣa nƣớc chống cho thích hợp.

Phải gây dựng đƣợc một "đội quân cha con" rồi mới có

thể sử dụng đƣợc. Vả lại, khoan sức cho dân để làm kế

sâu rễ bền gốc, đó là thƣợng sách giữ nƣớc vậy).

BẢNG 2: NHỮNG TÁC PHẨM THƠ PHÚ THỜI TRẦN

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT TÁC GIẢ TÁC PHÂM

Thiên Trường vãn vọng (Ngắm cảnh chiều ở Thiên 1 Trần Nhân Tông

Trƣờng) (1258 – 1308)

“Thôn hậu, thôn tiền đạm tự yên,

Bán vô, bán hữu tịch dƣơng biên.

Mục đồng địch lý quy ngƣu tận,

Bạch lộ song song phi há điền”.

(Trƣớc thôn, sau thôn, khí trời mờ nhạt nhƣ khói,

Bóng chiều tà nửa không, nửa có.

Trẻ chăn trâu thổi sáo dẫn trâu về hết,

Từng hàng cò trắng bay xuống ruộng).

Tặng Bắc sứ Lí Tư Diễn (Tặng sứ Bắc Lí Tƣ Diễn)

“Vũ lộ uông dƣơng phổ Hán ân,

Phụng hàm đan chiếu xuất hồng vân.

Thác khai địa giác giai hoà khí,

Tịnh hiệp thiên hà tẩy chiến trần.

Tận đạo tỉ thƣ thập hàng hạ,

Thắng nhƣ cầm điện ngũ huyền huân.

183

Càn khôn kiêm ái vô nam bắc,

Hà hoạn vân lôi phục hữu truân”.

(Ơn nhà Hán nhƣ mƣa móc tràn trề khắp nơi,

Chim phƣợng ngậm tờ chiếu đỏ xuất hiện nơi đám mây

hồng.

Mảnh đất mới mở rộng cũng có hoà khí,

Kéo sông Thiên hà rửa sạch bụi chiến tranh,

Mọi ngƣời đều bảo tờ chiếu ban xuống chỉ có mƣơi

hàng,

Nhƣng hơn hẳn tiếng hoà âm của chiếc đàn cầm năm

dây.

Trời đất vốn một lòng yêu thƣơng không phân biệt

nam, bắc.

Còn lo gì gặp bƣớc gian truân gió mƣa sấm sét).

Tây chinh đạo trung (Trên đƣờng Tây chính)

“Cẩm phàm khinh sấn lãng hoa khai,

Bồng để yêm yêm thủ bất đài.

Tam Giáp mộ vân vô nhạn đáo,

Cửu Than minh nguyệt hữu long lai.

Thê lƣơng hành sắc thiêm cung mộng,

Liêu loạn nhàn sầu đáo tửu bôi.

Hán Vũ phiên chiêu cùng độc báng,

Nam nhi đắc đắc nhƣợc vi tai!”

(Buồm gấm (thuyền chiến) nhẹ nhàng đuổi theo nhau

làm tung lên những hoa sóng,

Dƣới mui thuyền láp nháp ƣớt, đầu không muốn ngẩng

lên.

Tại Tam Giáp, trong mây chiều chim nhạn không thấy

bay đến,

Ở bãi Cửu Than vào đêm trăng sáng chắc rồng đã hiện

184

ra.

Vẻ thê lƣơng tạo thêm màu sắc buồn bã cho những cơn

mộng nơi hành cung,

Lòng ngổn ngang trăm mối (vì việc nƣớc) đã đến cùng

chén rƣợu.

Hán Vũ Đế đánh dẹp phiên bang nhiều lần mang tiếng

hiếu chiến,

Nam nhi tuy làm đƣợc nhƣ vậy cũng không phải là

chuyện đáng khen đâu!).

Họa Kiều Nguyên Lãng vận (Họa thơ Kiều Nguyên

Lãng)

“Phiêu phiêu hành lý lĩnh vân nam,

Xuân nhập mai hoa chỉ lƣỡng tam.

Nhất thị đồng nhân thiên tử đức.

Sinh vô bổ thế trƣợng phu tàm.

Mã đầu phong tuyết trùng hồi thủ,

Nhãn để giang san thiểu trụ tham.

Minh nhật Lô giang yên thuỷ khoát,

Bồ đào nộn lục tẩy tâm đàm).

(Bƣớc chân sứ giả phơi phới nhƣ áng mây ngàn bay về

phƣơng Nam,

Mùa xuân vừa đến, hoa mai chỉ lác đác vài ba nụ.

Thƣơng yêu mọi ngƣời nhƣ nhau là ân đức của thiên tử,

Sống mà không giúp gì cho đời là điều đáng thẹn của kẻ

trƣợng phu.

Gió tuyết trƣớc đầu ngựa, ngƣời lại trở về,

Non sông đầy trong đáy mắt, hãy dừng ngựa lại chốc lát.

Ngày mai đã qua sông Lô mênh mông khói nƣớc,

Xin cạn chén rƣợu bồ đào non tƣơi để rƣới mát tấm lòng).

Tặng Bắc sứ Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng (Tiễn sứ

Bắc Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng)

185

“Thiều tinh lƣỡng điểm chiếu thiên Nam,

Quang dẫn thai triền dạ nhiễu tam.

Thƣợng quốc ân thâm tình dị cảm,

Tiểu bang tục bạc lễ đa tàm.

Tiết lăng chƣớng vụ thân vô dạng,

Tiên phất xuân phong mã hữu tham.

Đỉnh ngữ nguyện ôn Trung Thống chiếu,

Miễn giao ƣu quốc mỗi nhƣ đàm).

(Hai ngôi sao sứ thần chiếu xuống trời Nam,

Ánh sáng dẫn theo cung độ mỗi đêm diễu quanh ba vòng

Ơn thƣợng quốc sâu sắc dễ cảm tình ngƣời,

Phong tục nƣớc nhỏ đơn giản thẹn lễ nghi sơ suất.

Cờ tiết mao vƣợt qua lam chƣớng, ngài vẫn bình an.

Ngọn roi quất trong gió xuân, ngựa có ngựa kèm.

Xin hãy ôn lại lời nói “chuông vạc” trong tờ chiếu năm

Trung Thống,

Để tránh cho nhau khỏi mối phiền lo nƣớc luôn luôn

nung đốt trong lòng).

Ai phù lỗ ((Thƣơng tên giặc bị bắt) 2 Lí Đạo Tái

“Khoá huyết thƣ thành dục ký âm, (Huyền Quang)

Cô phi hàn nhạn tái vân thâm. (1254 – 1334)

Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt,

Lƣỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm”.

(Chích máu viết thƣ muốn gửi lời,

Cánh nhạn lạnh lùng bay xuyên vào đám mây ngoài

quan ải.

Bao nhiêu nhà buồn ngắm bóng trăng đêm nay?

Đôi nơi xa cách nhƣng tấm lòng nhớ thƣơng vẫn chỉ là

một)

186

3 Bùi Tông Hoan Đinh Mùi cửu nguyệt đại thủy, Đam Đam đê quyết

(Tháng chín năm Đinh Mùi nƣớc lớn, đê Đam Đam vỡ) (? - ?)

“Hồ Tử hà phiền lâm Hán hoàng,

Vũ công trách nhậm yếu hiền lƣơng.

Tảo tri nhân sự biền chi lực,

Tu bị thiên tai thuỷ hạn thƣờng.

Thịnh hạ hà tằng bất lâm lạo,

Sơ xuân do vị cẩn đê phƣờng (phòng).

Chí kim thánh chúa ƣu dân thiết,

Toại hữu ky thần sách cứu hoang”.

(Sao phải làm phiền vua Hán đến xem sông Hồ Tử,

Trách nhiệm đắp đê trị thuỷ cốt ở kẻ hiền tài.

Nếu sớm biết việc ngƣời phải dùng sức đến chai tay,

Thì phải phòng bị thiên tai thƣờng xảy ra hạn úng.

Giữa mùa hè oi bức đâu từng không mƣa dầm nƣớc lũ,

Thế sao còn chƣa đề phòng cẩn thận từ đầu xuân?

Nay thánh hoàng hết sức lo lắng cho dân,

Nên có kẻ bề tôi chạy việc cứu đói).

Trùng đáo Quỳnh lâm Bích Động am lưu đề (Đề thơ 4 Nguyễn Sƣởng

khi trở lại am Bích Động) (? - ?)

“Hoa biểu phong xuy kỵ khứ hạc,

Thảo lƣ vân hộ ngoạ cƣơng long.

Thƣơng sinh nhất niệm kham trù trƣớng,

Nguyệt lãnh Quỳnh Lâm bán dạ chung.

(Giáo thổi cột hao biểu, cƣỡi hạc bay đi,

Mây che mái nhà tranh, rồng nằm trên gò.

Mỗi lần nghĩ tới dân chúng lại ngậm ngùi,

Ánh trăng làm lạnh tiếng chuông chùa Quỳnh Lâm lúc

nửa đêm).

Nghệ An hành điện (Hành cung ở Nghệ An) 5 Trần Mạnh

187

“Sinh dân nhất thị ngã bào đồng, (Trần Minh Tông)

Tứ hải hà tâm sử khốn cùng. (1300 - 1357)

Tiêu tƣớng bất tri Cao Tổ ý,

Vị Ƣơng hƣ phí nhuận thanh hồng.

(Hết thảy sinh dân đều là ngƣời ruột thịt của ta,

Nỡ lòng nào để cho bốn bể khốn cùng.

Tƣớng quốc họ Tiêu không hiểu ý của Cao Tổ,

Tô điểm đỏ xanh cung Vị Ƣơng chỉ là tiêu phí vô ích).

Bạch Đằng giang phú (Phú sông Bạch Đằng) 6 Trƣơng Hán Siêu

“Hành thả ca viết: (? - 1354)

“Đại giang hề cổn cổn, Hồng đào cự lãng hề triều tông

vô tận.

Nhân nhân hề văn danh, Phỉ nhân hề câu dẫn.”

Khách tòng nhi canh ca viết:

“Nhị thánh hề tịnh minh, Tựu thử giang hề tẩy giáp

binh.

Hồ trần bất cảm động hề, thiên cổ thăng bình.

Tín tri: bất tại quan hà chi hiểm hề, Duy tại ý đức chi

mạc kinh.”

(Rồi vừa đi vừa ca rằng:

“Sông Đằng một dải dài ghê,

Sóng hồng cuồn cuộn tuôn về bể Đông.

Những ngƣời bất nghĩa tiêu vong,

Nghìn thu chỉ có anh hùng lƣu danh!”

Khách cũng nối tiếp mà ca rằng:

“Anh minh hai vị thánh quân,

Sông đây rửa sạch mấy lần giáp binh.

Giặc tan muôn thuở thanh bình,

Bởi đâu đất hiểm, cốt mình đức cao.”).

7 Trần Quang Khải Tặng Bắc sứ Sài Tràng Khanh, Lý Chấn Văn đẳng

188

(Tặng sứ Bắc Sài Tràng Khanh, Lý Chấn Văn) (1241 – 1294)

“Nhất phong phƣợng chiếu hạ thiên đình,

Chỉ xích hoàng hoa vạn lý hành.

Bắc khuyết y quan tranh tổ đạo,

Nam châu thảo mộc tận tri danh.

Khẩu hàm uy phúc quân bao biếm,

Thân bội an nguy quốc trọng khinh.

Cảm chúc tứ hiền quân phiếm ái,

Hảo vi noãn dực Việt thƣơng sinh.

(Một phong chiếu phƣợng từ sân trời ban xuống,

Nhà vua trao trách nhiệm sứ giả cho ông đi ngoài vạn

dặm.

Các bậc áo mũ ở Bắc triều tranh nhau tiễn ngƣời lên

đƣờng,

Cây cỏ ở Nam giao đều biết danh tiếng ông.

Nói lời oai phúc, ông thay nhà vua mà khen chê,

Thân mang sự an nguy quan hệ đến việc trọng khinh

của nhà nƣớc.

Dám mong bốn vị sứ giả tài giỏi có lòng yêu thƣơng

công bằng rộng lớn,

Hãy che chở cho thƣơng sinh nƣớc Việt).

Xuân nhật thôn cư (Ngày xuân ở nông thôn) 8 Nguyễn Ức (?)

“Trúc kính âm âm, thảo sắc thê,

Sài môn thâm toả, trú yên mê.

Chi đầu hoa trọng phong tu phấn,

Liêm ngạch cần hƣơng yến tử nê.

Khoá bộc vận đồng kiêu dƣợc phố,

Hô nhi khiên độc thí xuân lê.

Bàng nhân thuyết trƣớc vi quan hảo,

Lãn noạ vô tâm báo xú thê.

189

(Lối trúc râm mát, màu cỏ xanh tƣơi,

Cửa sài đóng chặt, khói ban ngày mờ toả.

Phấn ở hoa đầu cành làm nặng râu ong,

Bùn ở khóm rau cần trƣớc mành cửa làm thơm dấu

chân chim én.

Bảo đầy tớ xách thùng tƣới vƣờn cây thuốc,

Gọi thằng con dắt nghé, thử chiếc cày xuân.

Ngƣời chung quanh cứ bảo đi làm quan tốt,

Lƣời không nghĩ việc báo đáp cho ngƣời vợ quê).

Tƣ đồ cố quốc (Nơi ở cũ của quan Tƣ đồ) 9 Nguyễn Tử Thành

“Lang miếu ƣu phƣơng thiết, (?)

Yên hà tật vị tô.

Ung dung Nghiêu cố thác,

Khải ốc Thuấn mƣu mô.

Y quốc cam tâm bệnh,

Phì dân liệu tự cồ.

Cửu trùng phƣơng đãi dụng,

Chỉ bất trí tƣ đồ”.

(Lòng lo triều đình đang khẩn thiết,

Thú yên hà vẫn chửa nguôi.

Ung dung, ấy chỗ trông cậy của vua Nghiêu,

Cởi mở, kìa nguồn mƣu kế của vua Thuấn.

Chạy chữa cho cả nƣớc, riêng cam tâm bệnh,

Làm cho dân béo tốt, biết mình sẽ gầy.

Nhà vua đang chờ đợi dùng,

Chức tƣ đồ còn bỏ trống).

Án Thao Giang lộ (Đi kinh lý lộ Thao Giang) 10 Phạm Sƣ Mạnh

“Quan hà vạn lý nhất chính sam, (?)

Vũ bá phong sƣ tích chƣớng lam.

Tục tạp Nhiêm Bàng kiêm Bặc Bắc,

190

Địa liên Thiện Thiện dữ Vân Nam.

Đan tâm bạch phát thiên môn cửu,

Bích thuỷ thanh sơn biên quận tam.

Ngã vị triều đình phỏng dân mịch,

Sản trừ đố tệ, cách gian tham.

(Quan hà vạn dặm, một chiếc áo đƣờng trƣờng,

Thần mƣa thần gió quét chƣớng lam.

Phong tục nơi đây còn lẫn với Nhiêm Bàng, Bặc Bắc,

Đất đai tiếp giáp với Thiện Thiện và Vân Nam.

Lòng son, tóc bạc với chín cửa trời,

Nƣớc biếc non xanh nơi ba biên quận.

Ta vì triều đình đến thăm hỏi sự khổ của dân,

Trừ tệ sâu mọt, diệt tệ gian tham).

Đề Gia Cát thạch (Đề đá Gia Cát)

“Phong xuy ngọc tiết hƣớng Phong Khê,

Mãn tụ thiên hƣơng phủng tử nê.

Gia Cát hồng thanh tam đới chấn,

Tản Viên sơn sắc cửu tiêu tề.

Nhân tòng phƣợng các loan đài thƣợng,

Địa nhập xà hƣơng hổ lạc tê (tây).

Vạn lý bất vi nhan chỉ xích,

Phụng tuyên đế đức thiếp kiềm lê”.

(Gió thổi cái tiết bằng ngọc, đến thăm đất Phong Khê,

Nâng tờ chiếu “tử nê”, hƣơng trời đầy tay áo.

Tiếng hang Gia Cát chấn động ba giải đất,

Sắc núi Tản Viên sánh ngang với chín tầng mây.

Ngƣời thì đến từ trên gác phƣợng đài loan,

Đất thì vào tới phía tây của hang hùm xóm rắn.

Dù muôn dặm chẳng cách xa thiên nhan là mấy,

Vâng đem đức chính nhà vua tới cho dân đen).

191

PHỤ LỤC 3: NHỮNG BÀI THƠ CỦA TRẦN NGUYÊN ĐÁN

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT TÊN BÀI THƠ CÂU THƠ

Nhất tiếu vô ƣu trang thất bảo, 1 Bảo Nghiêm tháp (Tháp Bảo

Long xà đôi trác dịch dân lao. Nghiêm)

(Cƣời cho sự vô lo, đem thất bảo điểm tô lên

tháp,

Chạm trổ rồng rắn làm dân phải mệt nhọc).

Bồ luân hảo vị hạ dân hồi, 2 Tặng Chu Tiều Ẩn (Tặng Chu

Xƣơng kỳ xã tắc thiên phƣơng tác. Tiều Ẩn)

(Bánh xe cỏ bồ hãy vì dân mà quay trở lại.

Xã tắc đƣơng hồi thịnh, trời cũng giúp vì).

Cảnh ngƣỡng dân quy Hữu nhị đài. 3 Hạ Giới Hiên công trứ nhiếp

Thành vật công thâm phù thái vận, Hữu bộc xạ (Mừng ông Giới

(Dân đều ngƣỡng mộ Hữu nhị đài. Hiên đƣợc bổ chức Hữu bộc

Việc đã thành, công càng sâu, giúp cho vận xạ)

hội thái hoà).

Thiên chiếu đinh ninh dung bác thủ, 4 Dụng Hồng Châu Đồng úy

Yếu tiên trung đảng hậu từ chƣơng. Phạm Công vận phụng trình

(Chiếu vua cặn kẽ cho phép lấy rộng. khảo thí chư công (Dùng vần

Trƣớc phải xem phần trung chính, sau hãy xét thơ của quan Đồng úy Hồng

đến văn chƣơng). Châu là Phạm Công để đƣa

trình các ông đang chấm thi)

Nhất chú ngự hƣơng thông đế khuyết, 5 Canh thí cục chư sinh xướng

Nguyện văn trung hiếu Trạng nguyên danh. thù giai vận (Họa vần bài thơ

(Đốt nén hƣơng vua thấu đến cửa thƣợng đế, xƣớng họa của các thí sinh ở

Mong đƣợc nghe tên vị Trạng nguyên trung, trƣờng thi)

hiếu).

Trung hƣng văn vận mại Hiên, Hy, 6 Đề Quan Lỗ Bạ thi tập hậu

Triệu tính âu ca lạc thịnh thì. (Đề sau tập thơ “Quan Lỗ

Đấu tƣớng tùng thần giai thức tự, Bạ”)

192

Lại viên tƣợng thị diệc năng thi.

(Vận hội văn chƣơng đời Trung hƣng hơn cả

đời Hiên, Hy,

Muôn dân ca hát vui đời thịnh trị.

Tƣớng võ, quan hầu đều biết chữ,

Thƣ lại, thợ thuyền cũng làm thơ).

Sóc phong tế vũ chuyển thê lƣơng, 7 Ký tặng Nhị Khê Kiểm chính

Khách xá tiêu tiêu khách tứ trƣờng. Nguyễn Ứng Long (Gửi tặng

Ly hạ u tƣ tồn vãn tiết, Kiểm chính Nguyễn Ứng

Khê biên tố diễm thí tân trang. Long ở Nhị Khê)

Hồ nhi vị khoản Hoa Môn tái,

Bùi lão tƣ qui Lục Dã đƣờng.

Điếu nguyệt canh vân hà thái tảo?

Thiên chung vạn vũ Tử vi lang.

(Gió bắc, mƣa phùn trở nên lạnh lẽo,

Nơi quán trọ đìu hiu, lòng khách vấn vƣơng.

Vẻ thanh u dƣới giậu, tiết muộn giữ tròn,

Sắc trắng đẹp bên khe, dáng mới dƣờng thử.

Rợ Hồ chƣa đến nộp hàng khoản ở ải Hoa

Môn,

Ông Bùi đã muốn về dƣỡng lão ở nhà Lục Dã.

Câu trăng cày mây, sao mà sớm thế?

Nghìn hộc lúa, muôn ngôi nhà là của Tử vi

lang).

An dân tế vật chƣ công sự, 8 Họa Hồng Châu kiểm chính

Trạch bạn hành ngâm mạc tự cô. vận (Họa bài thơ của viên

(Yên dân, giúp đời, sự nghiệp của các ngƣời, Kiểm chính ở Hồng Châu)

Lang thang ca hát bên chằm, đừng cho mình

là lẻ loi).

Chí sĩ ninh từ đạo hải nguy, 9 Canh Tân Bình An phủ Phạm

Cao ca tràng khiếu nhậm thiên nghê. công Sư Mạnh “Tân Bình thư

193

Sƣơng soa thử lạp thù minh chúa, sự” vận (Họa vần bài thơ

Hổ lạc xà khu uý viễn lê. “Tân Bình thƣ sự” của quan

(Ngƣời chí sĩ đâu chịu chối từ cái nguy vƣợt An phủ sƣ trấn Tân Bình

biển, Phạm Sƣ Mạnh)

Cất cao tiếng hát với tất cả lòng mình.

Mang tơi sƣơng, đội nón nắng, đền đáp minh

chúa,

Vào hang hùm, tới ổ rắn, yên ủi dân xa).

Thƣơng sinh chỉ nhật đƣơng tô tức, 10 Tứ Tiến sĩ (Tặng Tiến sĩ)

Biên tái vô trần ngục tụng hy.

(Chẳng bao lâu nữa, dân đƣợc nghỉ ngơi,

Nơi biên thuỳ hết giặc, việc kiện tụng cũng ít

đi).

Bạch nhật thăng thiên dị, 11 Đề Huyền Thiên quán (Đề

Trí quân Nghiêu Thuấn nan. quán Huyền Thiên)

Trần ai lục thập tải,

Hồi thủ quí hoàng quan.

(Ban ngày bay lên trời còn dễ,

Giúp vua để vua đƣợc nhƣ Nghiêu, Thuấn

mới khó.

Sáu mƣơi năm sống trong cõi trần,

Ngoảnh lại luống thẹn với ngƣời đội mũ

vàng).

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm, 12 Nhâm Dần niên lục nguyệt tác

Hòa cảo miêu thƣơng hại chuyển thâm. (Thơ làm vào tháng sáu năm

Tam vạn quyển thƣ vô dụng xứ, Nhâm Dần (1362)

Bạch đầu không phụ ái dân tâm.

(Năm nay hạ hạn lại thu mƣa,

Đau nỗi mùa màng những thiệt thua

Bạ vạn sách dầy đành xếp xó,

Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ).

194

13 Mậu Thân chính nguyệt tác Mậu Thân chính nguyệt tác

Tam phân đầu bạch thốn tâm đan, (Thơ làm vào tháng Giêng

Thế thƣợng phân phân vạn sự nan năm Mậu Thân (1368)

Tự tiếu bất nhƣ Tiền Nhƣợc Thuỷ,

Niên tài tứ thập tiện hƣu quan.

(Ba phần tóc trên đầu đã bạc, vẫn tấc lòng

son,

Sự đời bối rối, muôn việc khó khăn.

Tự cƣời mình không bằng ông Tiền Nhƣợc

Thuỷ,

Tuổi mới bốn mƣơi đã cáo quan về hƣu).

Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngƣ, 14 Dạ quy chu trung tác (Thơ làm

Sóc yên đông Biện dĩ khâu khƣ. trong lúc đêm đi thuyền về)

Qui chu vị ổn giang hồ mộng,

Phân thủ ngƣ đăng chiếu cổ thƣ.

(Nhân dân muôn nƣớc nhƣ cá trong vạc nƣớc

sôi,

Đất Yên phƣơng bắc, đất Biện phƣơng đông đã

thành gò đống.

Trên chiếc thuyền về, chƣa yên giấc mộng giang

hồ,

Mƣợn ánh đèn thuyền chài soi đọc cuốn sách cổ)

Quan xá thu sƣơng lâu chyển trì, 15 Bất mị (Không ngủ)

Cổ viên tùng cúc tại thiên nhi (nhai).

Mục tiền tân thị quan tâm sự,

Bệnh dũ bất nhƣ do bệnh thì.

(Chốn quan xá trong sƣơng thu, giọt đồng hồ

nhỏ chậm,

Tùng cúc nơi vƣờn cũ ở tận chân trời xa.

Trƣớc mắt toàn là những việc phải quan tâm,

Bệnh khỏi không bằng khi còn bệnh).

195

PHỤ LỤC 4: NHỮNG BÀI THƠ CỦA NGUYỄN PHI KHANH

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

An đắc thử thân nhƣ thác thƣợc, 1 Xuân hàn

Hòa phong hƣ biến cửu châu tâm. (Rét mùa xuân)

(Mong sao thân này đƣợc nhƣ cái ống bễ,

Thổi ngọn gió hoà khắp lòng ngƣời chín châu).

Triều môn bán thị ngao hồng trạch, 2 Hạ Kinh Triệu doãn

Đồn lĩnh do tàn kiếp thạch yên. Nguyên Công vi Vân

Trù hoạch tiểu thi kinh quốc thủ, Đồn kinh lược sứ

Chiết xung chung lại tế thời hiền. (Mừng quan Triệu

(Nơi cửa Triều, phần nửa dân nháo nhác nhƣ nhạn trên Doãn kinh đô

đầm, Nguyễn Công

Chốn núi Đồn, còn nhƣ đám khói than cháy dở. đi làm Kinh lƣợc sứ

Bàn kế hoạch hãy ra tay giúp nƣớc, ở Vân Đồn)

Nơi xung yếu phải nhờ bậc cứu đời).

Tỉnh hậu xuất môn huề bộc khứ, 3 Thôn gia thú

Phùng nhân chỉ hƣớng thuyết nông tang. (Thú quê nhà)

(Tỉnh dậy ra cửa dắt đầy tớ đi theo,

Gặp ai cũng chỉ nói chuyện nông tang)

Thánh thế thảng hoài di khí vật, 4 Hạ trung thư thị lang

Nguyện thi tài tảo đáo nông tang. (Mừng quan thị lang

(Đời thịnh trị, chúa có đoái trông đến vật bị vứt bỏ còn tòa trung thƣ)

sót lại,

Thì xin nguyện đem tài mọn văn đến tận thôn xóm).

Bằng trƣợng tân thi tác đồ chí. 5 Giang hành thứ

Hành quan tứ hải quĩ văn đồng. Hồng Châu kiểm

(Xin nhờ bài thơ mới này làm bức họa đồ ghi lại, chính vận

Rồi sẽ thấy bốn biển chung một kiểu xe, cùng một thứ (Đi trên sông, họa

chữ). vần thơ của kiểm

196

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

chính Hồng Châu)

Tự quí vi lao hà bổ báo, 6 Phụng chiếu Trường

Nguyệt dƣơng hoàng hóa đảm thiên kiêu. An đạo trung tác.

(Tự thẹn chút đỉnh khó nhọc này, nào đã báo đáp đƣợc (Thơ làm trong lúc

gì, phụng chiếu vua đi

Nguyện nêu đức hóa của nhà vua, trấn áp giặc trời). Trƣờng An)

Ân cần biệt hậu tu tiên sách, 7 Dữ Chương Giang

Thánh chúa phƣơng kim chính cấp hiền. đồng niên Trương

(Từ biệt ân cần khuyên hãy gắng Thái học

Thánh hiền đang chọn gấp tài danh). (Gửi bạn đồng niên

là Thái học sinh họ

Trƣơng ở Chƣơng

Giang)

Ƣu quốc chính tu ngô bối sự, 8 Hỉ Học sĩ Trần

Bằng cừ vị thuyết Nghệ An dân. Nhược Hư tự Nghệ

(Lo việc nƣớc chính là phận sự của bọn chúng ta, An chí

Nhờ ai nhắn nhủ điều đó với dân Nghệ An). (Mừng học sĩ Trần

Nhƣợc Hƣ từ Nghệ

An đến)

Tảo hƣớng Nam Đài chuyên đối liễu, 9 Tống Thái Trung đại

Kinh quí Quì vũ tá ngô hoàng. phu Lê Dung Trai

(Hãy sớm đến Nam Đài để làm việc chuyên đối cho chu Bắc hành

tất, (Tiễn quan Thái

Khi trở về đem tài năng của Quì, Vũ phò tá vua ta). Trung đại phu Lê

Dung Trai đi sứ

phƣơng Bắc)

Hoa bào thiểm xuyết quần công hậu, 10 Họa Chu Hàn lâm vị

Nguyệt khánh quyên ai hiệu nhất quan. ương tảo triều

(Tự thẹn mang áo bào đẹp đứng sau các ngài, (Họa bài thơ vào

197

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Nguyện dốc tài mọn làm hết chức vụ của mình.) chầu vua lúc trời

chƣa sáng của quan

Hàn lâm họ Chu)

Ô hô thế đạo hà nhƣ ngã? 11 Thu nhật hiểu khởi

Tam phủ di biên phú Đại đông! hữu cảm

(Than ôi ! Cuộc đời nhƣ vậy, ta biết tính sao đây? (Ngày thu sáng dậy

Ba lần vỗ sách cũ mà ngâm thơ Đại đông!). cảm xúc nên thơ)

Vƣơng sự hữu trình quân chính cấp, 12 Tuyên chiếu bãi, biệt

Hung hoài mạc hƣớng tửu bôi hƣu. vận phó Nguyễn

(Lệnh vua có thời hạn, việc quân gấp rút, Viêm

Xin ông chớ có mê say chén rƣợu!) (Tuyên chiếu

xong, từ biệt quan

vận phó Nguyễn

Viêm)

Nguyện bằng thiên thƣợng thanh quang dạ, 13 Trung thu cảm sự

Biến chiếu nhân gian tật khổ sầu. (Nhân tiết Trung

Trƣờng sử quốc gia đa hạ nhật, thu, cảm xúc trƣớc

Ngũ hồ qui mộng đáo biên chu. sự việc)

(Xin nhờ cái đêm trong sáng ở trên trời kia,

Soi thấu nỗi đau khổ của thế gian này.

Mãi mãi làm cho nƣớc nhà đƣợc những ngày nhàn hạ,

Thì giấc mơ quay về Năm hồ sẽ tới đƣợc chiếc thuyền

con).

Thuỳ đạo giang thôn sinh kế bạc, 14 Sơn thôn cảm hứng

Tang ma nhiễu ốc lục sơ phì. (Cảm hứng ở xóm

(Ai bảo sinh kế thôn quê đơn bạc, núi)

Dâu gai quanh nhà màu xanh vừa đâm).

Phong trần thiên địa không tao phát, 15 Tị khấu sơn trung Yên chƣớng lâm man chỉ đoạn hồn. (Lánh giặc trong núi) Mạn hữu thôn hoài lao cảnh cảnh,

198

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Dạ y Ngƣu Đẩu vọng trung nguyên.

(Đất trời gió bụi mà cứ gãi tóc suông.

Lam chƣớng núi rừng, chỉ những mòn mỏi tâm hồn!

Dai dẳng một tấm lòng canh cánh lo âu,

Đêm đêm theo sao Ngƣu sao Đẩu trông ngóng về trung

nguyên).

Viêm viêm cửu thổ chính tiêu tầm. 16 Giáp Tí hạ hạn hữu

Nhất vũ hoàng thiên phổ trạch thâm. sắc chư lộ đảo vũ, vị

Thỉnh tội quốc tƣơng hành thịnh đảo, đảo nhi tiên vũ

Sơ hòa dân dĩ thiếp hoan tâm. (Mùa hạ năm Giáp

Ngọa long tự thị nhân gian vật, Tí (1384) hạn hán,

Tiếu tƣợng năng vi tuế hạ lâm. vua có sắc cho các lộ

Tỉ thị bộc uông hà dụng giả, cầu mƣa, chƣa cầu

Chí thành cảm triệu cổ do câm (kim). trời đã mƣa)

(Rừng rực đất đai khắp nƣớc đang lúc khô cháy,

Một trận mƣa của trời gieo khắp ơn sâu.

Quốc gia sắp làm lễ thỉnh tội để cầu mƣa trọng thể,

Trời mới đem lại khí hoà, dân đã thấm khắp niềm vui.

Rồng nằm vốn là con vật của nhân gian,

Tiếu tƣợng của trời có thể hẹn mƣa dầm trong năm hạn.

Chẳng phải dùng làm gì cái lễ đƣa một thân hình gầy

còm ra phơi ngoài chợ,

Xƣa nay chỉ có lòng chí thành là cảm đến trời).

Đạo huề thiên lý xích nhƣ thiêu, 17 Thôn cư cảm sự ký

Điền dã hƣu ta ý bất liêu? trình Băng Hồ Tướng

Hậu thổ sơn hà phƣơng địch địch, công

Hoàng thiên vũ lộ chính thiều thiều! (Ở quê xúc động

Lại tƣ võng cổ hồn đa kiệt, trƣớc sự việc xảy ra,

Dân mệnh cao chi bán dĩ tiêu. gửi trình Tƣớng

Hảo bả tân thi đƣơng tấu độc, công Băng Hồ)

199

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Chỉ kim ngọa bệnh vị năng triều.

(Ruộng lúa hàng nghìn dặm cháy đỏ nhƣ thiêu,

Dân gian nơi đồng nội thở than không biết nhờ cậy vào đâu?

Ruộng đất cõi trần khô nẻ thảm hại,

Mà mây mƣa trên tròi thì vòi vọi chẳng thấy!

Màng lƣới tham quan lại vơ vét, phần nhiều làm cho kiệt

quệ,

Mỡ dầu mạng dân sống còn, một nửa đã tiêu hao!

Xin đem bài thơ mới này thay cho tờ tấu,

Hiện nay đang nằm trên giƣờng bệnh chƣa thể đến chầu

đƣợc).

- Vạn tính ngao ngao đãi bộ cầu, 18 Hồng Châu kiểm

Thùy gia kim ngọc á cao khâu! chính dĩ dư vận tác

(Muôn họ đang nhao nhác chờ miếng cơm manh áo, thuật hoài thi, kiến

Nhà ai đó vàng ngọc sánh ngang gò cao!). phúc, dụng kỳ vận dĩ

- Tây phong quát mộng truyền biên tín, tặng, kỳ nhất

Tràng đoạn nam nhiên tứ ngũ châu. (Kiểm chính Hồng

(Gió tây đánh thức giấc mộng, truyền tin tức từ biên Châu dùng vần của

cƣơng tới, tôi để làm

Đứt ruột về bốn năm châu mảnh đất phía nam). bài thơ Thuật hoài,

sau khi đọc tôi lại

dùng vần ấy

làm thơ tặng anh)

Chúc tụng khởi tƣ môn hạ sĩ, 19 Nguyên nhật thướng

Quyền quyền chỉ vị ái tƣ dân. Băng Hồ tướng công

(Chúc tụng đây há phải vì tình riêng của kẻ sĩ dƣới (Ngày Nguyên Đán

trƣớng, dâng lên tƣớng công

Mà chỉ vì tấm lòng thắm thiết yêu thƣơng dân). Băng Hồ

Liên cừ vạn tính giai ngô dữ, 20 Thù Đạo Khê Thái

Tị ốc thùy gia diện diện hàn. học “Xuân hàn” vận

200

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

(Chỉ xót thƣơng cho muôn họ đều là đồng bào của ta, (Đáp lại bài thơ "Cái

Dƣới những mái nhà chen chúc của ai kia, khuôn mặt rét mùa xuân" của

nào cũng rét buốt). Thái học Đạo Khê)

PHỤ LỤC 5: NHỮNG TÁC PHẨM VĂN HỌC THỜI KHỞI NGHĨA LAM SƠN

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT Tác giả, tác phẩm Tác phẩm thể hiện tƣ tƣởng thân dân

1 Nguyễn Mộng Tuân Hỗ giá dư Thanh Hư

(?-?) (Theo xe vua thăm động Thanh Hƣ)

Cù ca nhƣỡng kích khách thăng bình

(Xin thề theo ý đó, cùng dân chúng hòa vui,

Nhân dân đánh khăng, hét hò ngoài đƣờng mừng thuở

thăng bình…)

Quân chu (Vua nhƣ thuyền)

Tải phúc tòng tri chỉ tại dân,

Cự chu tất cánh dụng hiền thần

(Chở hay úp (tức theo hay chống) lâu nay cốt ở dân

Muốn dung thuyền lớn là phải dùng đến kẻ hiền thần)

Dân thủy (Dân nhƣ nƣớc)

Đãng đãng dân tình dị khứ lƣu,

Tín tai! Nhƣ thủy hoặc trầm phù!

Quần sinh tụ tán doanh hƣ thế,

Chúng chí tong vi thuận nghịch lƣu

Tựu Hán, bái nhiên quy mạc ngƣ,

Vong Tần, hoán nhƣợc đãng nan thu.

Quân tâm lẫm nhƣợc vu uyên trụy,

Kỳ tế thƣờng hoài vị tế ƣu

(Tình hình dân chúng thƣờng giao động lúc ngƣợc lúc

xuôi.

Giống thay! Nhƣ là nƣớc lúc nổi lúc chìm!

201

Cảnh dân lúc hợp, lúc tan, nhƣ nƣớc lúc đầy, lúc vơi.

Chí dân theo hay chống giống nhƣ nƣớc lúc xuôi, lúc

ngƣợc.

Đã theo Hán thì đi ùn ùn không ai cản nổi.

Đã bỏ Tần thì tản khắp nơi không nhóm lại đƣợc.

Lòng vua cứ nơm nớp nhƣ sắp sa xuống vực.

Đã qua rồi mà vẫn lo nghĩ nhƣ chƣa qua).

Phú Lam Sơn

Dùng cái thế bao quát bốn phƣơng

Có thấm đƣợc đạo lớn mới thu đƣợc ngƣời tài muôn nẻo,

Có nắm đƣợc lòng ngƣời mới tỏa đƣợc đạo lớn trăm

đƣờng. (Vân Trình dịch thoe nguyên thể)

Phú cờ nghĩa

Kẻ đã dựng cờ Thái thƣờng

Tất có đức cao kế vị,

Phất cao cờ nghĩa, trời, dân đồng tình,

Đất nƣớc từ đây, thái bình thịnh trị. (Vân Trình dịch theo

nguyên thể)

Phú Chí Linh

Nguyền một tấm lòng, vững với đá kia không chuyển.

Gắng từng sọt đất, đắp nên núi nọ cho toàn

Mất giữ lại đƣợc – Nguy đổi thành an,

Đội quân tình thiết cha con, thân cùng cam khổ, tƣớng sĩ

sức dƣ hùng hổ, sắt luyện tâm can. (Vân Trình dịch theo

nguyên thể).

Phú mưa rửa giáp binh

Dấy một lữ mở nƣớc cứu đời,

Vững một lòng vì dân rửa nhục.

Sóng bể làm mƣa, quyết rửa sạch tanh hôi,

Thuốc thần làm tễ, mong chữa lành ghẻ ác. (Vân Trình

dịch theo nguyên thể).

202

2 Lí Tử Tấn Phú núi Chí Linh

Trời dựng núi này chừ cao ngất (1378 - 1457)

Hổ phục, rồng chầu chừ hai bên

Nghiệp lớn, muôn đời thịnh trị,

Xã tắc trăm họ bình yên…

Đá đẹp gỗ quý chữ nơi miếu đƣờng đắp xây khôn xiết;

Cây rậm cỏ dày chừ giúp nhân dân củi đuốc biết bao!...

- Than ôi:

Không cứ ở đất hiểm,

Mà cốt ở đức lành

Không cứ ở quân số

Mà cốt ở lòng thành…

Đài xuân đắp cao muôn trùng,

Nền tảng nghiệp đế, bình phong nƣớc nhà.

Miền Tây muôn thuở nguy nga.

Đây là “cõi thọ” đây là “đài xuân”!

Phú trận Xương Giang

Than ôi!

Đức có cao, công mới lớn.

Ngƣời có hùng, đất mới linh.

Giữ nƣớc không cốt ở thế hiểm,

Giữ dân không cốt ở hùng binh

Lòng trời mà đã giúp

Sức ngƣời đâu dám tranh…

Dân mến ngƣời có đức.

Trời giúp bậc chí thành.

Nay kính đặt mấy câu ca rằng:

Đức nhà vua thịnh, non sông linh.

Áo nhung một mảnh, võ công thành,

Từ đây khắp cõi đều yên lành.

Kéo dải Ngân Hà rửa giáp binh.

203

Sông này dài nhƣ dải áo, muôn thuở thăng bình.

Phú cõi thọ

Nƣớc vững không chỉ vì núi khe hiểm trở;

Dân thuần không cốt ở hình phạt ra oai.

Dùng hiền tài để làm giạu chặn, phên cài.

Lo trị nƣớc từ khi chƣa loạn,

Lo giữ nhà từ lúc chƣa nguy.

Phú ở nơi thoáng rộng

Thánh thƣợng ta nay:

Lấy nhân dựng nƣớc,

Lấy nhân trị dân

Coi muôn ngƣời nhƣ một, nên muôn vật có nơi có chốn;

Tự mình làm gƣơng tốt, thì thiên hạ có nghĩa, có nhân.

3 Trình Thuấn Du Phú núi Chí Linh

Bao nỗi lao tâm, bao phen khổ tứ. (1402 – 1481)

Mong nhục sớm rửa, mong việc chóng thành.

Nằm gai nếm mật,

Thƣơng cảm dân sinh

Hạ mình cầu hiền sĩ,

Cày cuốc luyện nông binh

Đói rét cam chịu khổ,

Gian nguy chờ thăng bình…

Đâu đƣợc nhƣ vua ta,

Lƣợng lớn nhƣ trời bể.

Đức lớn thƣơng dân, lấy lòng Thuấn, Nghiêu làm lòng;

Thần Vũ không giết, lấy chí Thang, Vũ làm chí.

Ải Chi Lăng, tù binh vài mƣơi vạn, khác nào chim mắc

bẫy kêu thƣơng…

4 Nguyễn Húc Dã lão ai (Thƣơng ông già thôn quê)

Chắc hẳn trời già riêng ban ơn (1379 – 1469)

Bù cho vợ con đỡ đói rét.

204

Nhặt bông chằm áo không đủ mặc,

Góp tiền mua thóc chẳng dính rang.

Chỉ cách đổi vàng từ xƣơng trắng,

Mơ thuốc hoàn hồn trong thành hoang!

(Dịch thơ: Vân Trình)

Thương loạn (Thƣơng đời loạn)

Quay xe trở lại, dạ thƣơng đau,

Một cánh đồng hoang bãi cỏ rầu.

Kiệt quệ mƣời năm còn khói lửa.

Mơ màng nghìn dặm cảnh thƣơng châu

Thanh nê tự kiếm cơm trong núi,

Hoàng Thạch ai trao sách tại cầu?

Ngoảnh lại Tràng An trời thăm thẳm

Túp nhà ta biết gửi nơi đâu?

(Bùi Văn Nguyên và Nguyễn Sĩ Lẫm dịch thơ)

5 Nguyễn Thiên Túng Tỉnh (Cái giếng)

Hà nhƣ dƣơng khởi vi lâm vũ? (?-?)

Ba cập khô điền tác tuế phong

(Muốn tung nƣớc ấy thành mƣa móc,

Tƣới nƣớc đồng khô tốt khắp nơi)

PHỤ LỤC 6: NHỮNG TÁC PHẨM THƠ VĂN CỦA NGUYỄN TRÃI

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

BẢNG 1: TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN CHÍNH LUẬN

CỦA NGUYỄN TRÃI

STT Tên tác phẩm Những câu văn thể hiện tƣ tƣởng thân dân

-“Dân ta khổ vì giặc đã lâu, phàm đến châu huyện 1 Lam Sơn thực lục

nào, mảy may không đƣợc xâm phạm.

Nhân dân chẳng ai là không mừng, tranh nhau đem

trâu rƣợu ra đón khao để cung vào quân dụng. Vua

đem chia cho tƣớng và lính. Ai nấy đều nức lòng,

205

nguyện ra sức liều chết. Rồi vua tiến vào thành Nghệ

An. Trong khoảng một tuần (mƣời ngày), binh sĩ họp

đủ, cùng nhau hiệp lực...”.

-“Bấy giờ nhân dân ở lộ Thanh Hóa và bà con thân

thuộc của vua đều tranh nhau đến cửa quận, nguyện

hăng hái ra sức để mƣu báo đền. Chƣa đầy ba ngày,

bộ ngũ sắp xong hết, liền vây thành Tây Đô. Lê Lễ,

Lê Triện yên ủi, vỗ về nhân dân, rèn luyện binh sĩ để

mƣu tiến đánh”.

-“Bấy giờ nhân dân các quận huyện các xứ nghe tin

vua đã đến Thanh Hóa, đều hăng hái đến cửa doanh

trại, xin ra sức rong ruổi để lập chút công danh”.

-“Vua đến Đông Đô. Trong ba ngày đầu, nhân dân

kinh lộ và các phủ, châu, huyện cùng các tù trƣởng ở

biên trấn đều tấp nập đến cửa quân, nguyện ra sức

liều chết đánh thành giặc ở các nơi. Vua đem lòng

thành để phủ dụ, úy lạo, bảo cho họ biết lẽ thuận

nghịch. Phàm sĩ dân và quân nhân đến cửa quân,

vua đều nhún lời hậu lễ mà đãi, đều tùy tài cao thấp

cắt đặt làm các chức. Thƣởng tƣớc để khuyến khích

khiến ngƣời ta tự gắng, lại dùng hình phạt thêm vào

khiến ngƣời ta tự răn. Bởi thế ai nấy đều cảm kích

nguyệ hết sức liều chết, cho nên đến đâu là lập đƣợc

công ngay”.

-“Phục thù báo oán, đó là thƣờng tình của ngƣời ta.

Không thích giết ngƣời, đó là bản tâm của kẻ nhân

giả. Vả ngƣời ta đã đầu hàng mà lại giết thì không

còn gì không lành hơn nữa. Để hả mối giận một sớm,

mà mang tiếng giết hàng muôn đời, thì sao bằng để

sống ức vạn ngƣời mà hết mối chiến tranh cho hậu

thế, nhƣ thế chẳng là lớn sao!”.

206

-“Khi vua kinh doanh bốn phƣơng, phía bắc đánh

giặc Minh, phía nam đuổi quân Lào, trải trăm trận,

đến đâu thắng đấy, chỉ có bọn vũ thần là Lê

Thạch, Lê Lễ, Lê Sát, Lê Vấn, Lê Lý, Lê Ngân, ba

mƣơi lăm ngƣời; văn thần là bọn Lê Văn Linh, Lê

Quốc Hƣng; cùng với binh sĩ cha con, hai trăm quân

thiết đội, hai trăm nghĩa sĩ, hai trăm dũng sĩ, bốn

mƣơi thớt voi, cả xe cộ cùng ngƣời già yếu, ngƣời hộ

vệ và vợ con, chỉ hai nghìn ngƣời mà thôi”.

-“Kẻ làm con cháu về sau đƣợc hƣởng phú quý phải

nhớ tổ tiên trẫm tích lũy nhân đức bao nhiêu đời, và

công lao trẫm dựng nghiệp khó khăn bao nhiêu.

Đƣợc mặc gấm vóc rực rỡ phải nhớ ngày xƣa trẫm

mặc quần áo lam lũ, không kể mùa đông hay mùa

hạ! Đƣợc hƣởng cỗ bàn ngon quý phải nhớ trẫm mấy

tuần hết lƣơng nhịn đói nhịn khát. Thấy cung điện

tráng lệ phải nhớ xúa trẫm nằm đất ngủ sƣơng mà

trốn nấp trong rừng núi”.

-“Nhân nghĩa chi cử, yếu tại an dân; 2 Bình Ngô đại cáo

Điếu phạt chi sƣ, mạc tiên khứ bạo”. (Đại cáo bình Ngô)

(Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân;

Quân điếu phạt trƣớc lo trừ bạo).

-“Khoảnh nhân Hồ chính chi phiền hà, trí sử nhân

tâm chi oán bạn. Cuồng Minh tứ khích, nhân dĩ độc

ngã dân; ác đảng hoài gian, cách dĩ mại ngã quốc.

Hàn thƣơng sinh ƣ ngƣợc diễm, hãm xích tử ƣ họa

khanh.

Khi thiên vọng dân, quỷ kế cái thiên vạn trạng; liên

binh kiết hấn, nẫm ác đãi thị thập niên. Bại nghĩa

thƣơng nhân, kiền khô cơ hồ dục tức; trọng khoa hậu

liễm, sơn trạch mỵ hữu kiết di. Khai kim trƣờng tắc

207

mạo lam chƣớng nhi phủ sơn đào sa, thái minh châu

tắc xúc giao long nhi cắng yêu thốn hải. Nhiễu dân

thiết huyền lộc chi hãm tỉnh, điễn vật chức thúy cầm

chi võng ta. Côn trùng thảo mộc, giai bất đắc dĩ toại

kỳ sinh; quan quả điên liên, câu bất hoạch dĩ an kỳ

sở. Tuấn sinh dân chi huyết, dĩ sùng công tƣ chi giải

vũ. Châu lý chi chinh dao trọng khốn, lƣ diêm chi trữ

trục giai không. Quyết Đông Hải chi thủy, bất túc dĩ

trạc kỳ ô; khánh Nam Sơn chi trúc, bất túc dĩ thƣ kỳ

ác. Thần dân chi sở cộng phẫn, thiên địa chi sở bất

dung”.

(Vừa rồi:

Nhân họ Hồ chính sự phiền hà

Để trong nƣớc lòng dân oán hận

Quân cuồng Minh thừa cơ gây hoạ

Bọn gian tà còn bán nƣớc cầu vinh

Nƣớng dân đen trên ngọn lửa hung tàn

Vùi con đỏ xuống dƣới hầm tai vạ

Dối trời lừa dân đủ muôn ngàn kế

Gây thù kết oán trải mấy mƣơi năm

Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Ngƣời bị ép xuống biển dòng lƣng mò ngọc, ngán

thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng

sâu nƣớc độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lƣới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hƣơu đen, nơi nơi cạm đặt.

Tàn hại cả giống côn trùng cây cỏ,

Nheo nhóc thay kẻ goá bụa khốn cùng.

Thằng há miệng, đứa nhe răng, máu mỡ bấy no nê

208

chƣa chán,

Nay xây nhà, mai đắp đất, chân tay nào phục dịch

cho vừa?

Nặng nề những nổi phu phen

Tan tác cả nghề canh cửi.

Độc ác thay, trúc Nam Sơn không ghi hết tội,

Dơ bẩn thay, nƣớc Đông Hải không rửa sạch mùi!

Lẽ nào trời đất dung tha? Ai bảo thần dân chịu

đƣợc?).

-“Yết can vi kỳ, manh lệ chi đồ tứ tập;

Đầu giao hƣởng sĩ, phụ tử chi binh nhất tâm”.

(Nhân dân bốn cõi một nhà, dựng cần trúc ngọn cờ

phấp phới;

Tƣớng sĩ một lòng phụ tử, hoà nƣớc sông chén rƣợu

ngọt ngào).

-“Bỉ ký uý tử tham sinh, nhi tu hảo hữu thành;

Dƣ dĩ toàn quân vi thƣợng, nhi dục dân chi đắc tức.

Phi duy mƣu kế chi cực kỳ thâm viễn,

Cái diệc cổ kim chi sở vị kiến văn.

Xã tắc dĩ chi điện an,

Sơn xuyên dĩ chi cải quan.

Càn khôn ký bĩ nhi phục thái,

Nhật nguyệt ký hối nhi phục minh.

Vu dĩ khai vạn thế thái bình chi cơ”

(Họ đã tham sống sợ chết mà hoà hiếu thực lòng,

Ta lấy toàn quân là hơn, để nhân dân nghỉ sức.

Chẳng những mƣu kế kì diệu,

Cũng là chƣa thấy xƣa nay.

Xã tắc từ đây vững bền,

Giang sơn từ đây đổi mới.

Càn khôn bĩ rồi lại thái,

209

Nhật nguyệt hối rồi lại minh.

Ngàn năm vết nhục nhã sạch làu,

Muôn thuở nền thái bình vững chắc).

-“Đất Nghệ An chiếm lại, Tây Đô thu nhanh về tay. 3 Chí Linh sơn phú

Gạo nƣớc đón rƣớc, (Phú núi Chí Linh)

Ngƣời theo đƣờng đầy.

Hào kiệt nghiến răng vì căm giận,

Phụ lão nức nở thấy ngày nay.

Tiếng quân ta ngày càng vang dậy,

Giặc mỏi mệt ngày càng thua chạy.

Trận Thị Cầu nhƣ ổ kiến làm đê vỡ,

Trận Tốt Động nhƣ gió mạnh gãy cành cây”.

-“Đến nhƣ thần võ không giết,

Đức lớn hiếu sinh.

Nghĩ vì kế lâu dài của nhà nƣớc,

Tha kẻ hàng mƣời vạn sĩ binh.

Sửa hoà hiếu cho hai nƣớc,

Tắt muôn đời chiến tranh.

Chỉ cần vẹn đất, cốt sao an ninh”

(Bản dịch của Đào Duy Anh trích “Nguyễn Trãi toàn

tập”, Nxb Khoa học xã hội, 1976).

4 Quân trung từ mệnh tập -“Nay các quan trấn thủ phủ vệ vâng mệnh Triều

đình, chăn nuôi dân chúng, ví nhƣ cha mẹ nuôi con,

ai cũng là hết lòng thƣơng yêu. Nay tôi mang tội vô

cô, ngậm tình oan khổ, đã không đƣợc lƣợng trên

thƣơng xét, lại còn đem quân đến đánh, khiến nhân

dân một phƣơng không đƣợc ở yên, đó tuy là tội của

tôi, nhƣng cũng do quan trên vỗ yên không phải đạo

vậy” (Thƣ cho Tổng binh cùng quan phủ vệ Thanh

Hóa).

-“Vì ngài tính kế ngày nay, không gì bằng cởi giáp

210

nghỉ binh, ngồi nhàn mà nhận hàng, đó là thƣợng

sách. Thế tuy là may cho bọn tôi cùng ngài, mà cũng

là may lớn cho vạn dân thiên hạ vậy” (Thƣ cho

Phƣơng Chính).

-“Bảo cho mày ngƣợc tặc Phƣơng Chính: Kể đạo

làm tƣớng, lấy nhân nghĩa làm gốc, trí dũng làm

của. Nay bọn mày chỉ chuộng lừa dối, giết hại kẻ vô

tội, hãm ngƣời vào chỗ chết mà không xót thƣơng,

việc ấy trơi đất không dung, ngƣời mà đều giận, cho

nên liền năm chinh phạt, hằng đánh hằng thua”

(Thƣ trả lời Phƣơng Chính).

-“Phàm mƣu việc lớn phải lấy nhân nghĩa làm gốc,

nên công to phải lấy nhân nghĩa làm đầu. Chỉ nhân

nghĩa có gồm đủ thì công việc mới xong xuôi. Nƣớc

mày nhân dịp họ Hồ lỗi đạo, mƣợn tiếng điếu dân

phạt tội, kỳ thực làm việc bạo tàn, lấn cƣớp đất nƣớc

ta, bóc lột nhân dân ta, thuế nặng hình phiền, vơ vét

cua quý, dân mọn xóm làng không đƣợc sống yên.

Nhân nghĩa mà lại thế ƣ? Nay ở nƣớc mày, dân oán

thán giận, kế tiếp đại tang, thế mà đã không biết tự

xét lỗi mình, lại còn cùng binh độc vũ, cam lòng xâm

lƣợc phƣơng xa, khiến cho sĩ tốt phơi thây, nhân dân

lầm bụi...” (Lại thƣ trả lời Phƣơng Chính)

-“Giá đƣợc ngài nhận lời, không những sinh linh

nƣớc tôi đƣợc khỏi lầm than, mà binh sĩ Trung Quốc

cũng khỏi nỗi khổ gƣơm giáo vậy” (Thƣ trả lời bọn

Tổng binh Vƣơng Thông Thái giám Sơn Thọ).

-“Từ nay về sau, giá ngài bỏ cái lòng nghi hoặc, dốc

lòng hòa hảo, thì dƣới sẽ làm cho An Nam thoát khổ

lầm than, trên sẽ khiến Trung Quốc khỏi nỗi nhọc

mệt, thực là phúc cho thiên hạ lắm” (Lại Thƣ trả lời

211

Vƣơng Thông).

-“Dân chúng giạt xiêu, luôn năm lìa tan khôn kể xiết;

binh sĩ đánh chăc, luôn năm chết chóc đáng thƣơng

thay. Bọn thần nghĩ dân đen là kẻ vô cô, thƣơng họ

Trần gặp khi tuyệt tự...” (Biểu cầu phong).

-“Từ khi giặc Minh chiếm cƣớp đất ta, ngƣợc đãi

dân ta, phạm vào lăng miếu các tiên đế, diệt hết con

cháu của họ Tràn, thần nằm gai nếm mật, hơn ba

mƣơi năm, chỉ cốt phục thù, mong đƣợc rửa nhục”

(Văn tấu cáo).

-“Tôi cho việc ngày nay với việc ngày trƣớc khác

nhau. Họ Hồ thì dối trời hại dân còn tôi thì kính trời

thuận dân, lẽ thuận nghịch không giống nhau là

một” (Thƣ cho Vƣơng Thông).

-“Muốn tiền của có nhiều thì đục khoét của dân mà

lấp hố dục; muốn nhà cửa cao đẹp thì cƣớp việc mùa

màng để bắt dựng xây. Thuế công thu vào một phần

giám lâm ăn ngoài quá nửa. Quan lại thƣơng dân

chúng thì tuyệt khoogn có ai, mà xem dân nhƣ cừu

thù, thì đều nhƣ thế cả. Càng ngày càng tệ, dân sống

không yên, nhƣ đắm nƣớc sâu, nhƣ thui lửa nóng.

Khốn nỗi trời thì cao, mà Triều đình xa, tình dƣới

không kêu thấu đƣợc...” (Tờ tấu cầu phong).

-“Ta thƣờng nghe, binh cốt để bảo vệ cho dân, không

phải để làm hại dân, dẹp yên để không phải giết,

không phải là để giết nhiều ngƣời. Cho nên có câu

rằng: “Binh là bất đắc dĩ mới phải dùng thôi” (Thƣ

gửi Lƣơng Minh, Hoàng Phúc)

-“Tôi thƣờng nghe: đạo ngƣời quân tƣ làm trọn cái

tốt đẹp của ngƣời khác; lòng ngƣời có nhân thƣờng

muốn (đạt ý ngƣời khác lên ngƣời trên). Trƣớc đay

212

tôi gửi thƣ đến nói về việc quan hệ lớn giữa nhà

nƣớc thành hay bại, cùng sinh dân vui hay buồn.

Ngƣời có lòng muốn yên dân, há hẳng chạnh lòng

thƣơng xót ƣ?” (Cháu ba đời vua nhà Trần nƣớc An

Nam trƣớc, là Trần Cảo Thƣ gửi quan Tổng binh

Vân Nam kiêm Quốc Công, cùng các vị quyền Ba Ti

Xét).

BẢNG 2: NHỮNG BÀI THƠ THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG “ỨC TRAI THI TẬP”

STT Tên bài thơ Những câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Tha niên Nhị Khê ƣớc, 1 Tặng hữu nhân

(Tặng bạn) Đoản lạp hà xuân sừ.

(Hẹn nhau năm nào về Nhụy Khê,

Đội nón ngắn (chụp) vác cuốc làm nông dân)

Thần châu nhất tự khởi can qua, 2 Loạn hậu cảm tác

(Sau loạn cảm tác) Vạn tính ngao ngao khả nại hà?

(Từ khi xẩy ra chiến tranh trên đất tổ (Thần châu)

Muôn dân rên xiết biết làm sao đƣợc).

Phúc chu thủy tín dân do thủy 3 Quan hải

(Đóng cửa biển) (Thuyền bị lật mới tin rằng dân là nhƣ nƣớc)

Thánh tâm dục dữ dân hƣu tức, 4 Quan duyệt thủy trận

(Xem duyệt thủy trận) Văn trị chung tu trí thái bình.

(Lòng thánh muốn cho dân nghỉ ngơi,

Rốt cuộc nên xây dựng thái bình bằng văn trị).

Ức tích Lam Sơn ngoạn Vũ Kinh, 5 Hạ quy Lam Sơn 2

(Mừng về Lam Sơn) Đƣơng thời chí dĩ tại thƣơng sinh.

(Nhớ khi xƣa ở Lam Sơn xem sách võ kinh,

Bấy giờ chí cũng đã vì dân đen rồi (mà đấu tranh).

Nguyện bả lan thang phân tứ hải, 6 Đoan ngọ nhật

(Ngày Đoan ngọ) Tòng kim tháo tuyết cựu ô dân.

213

(Nguyện mang nƣớc thang lan chia khắp bốn biển,

Từ nay rửa sạch cái dơ bẩn cũ cho dân).

Cửu trùng chẩn niệm cập hà manh, 7 Đề Hoàng ngự sử Mai

tuyết hiên (Đề Mai tuyết (Chín trùng thƣơng xót dân phƣơng xa).

hiên của Hoàng ngự sử)

8 Mạn hứng 2 (Hứng chơi) Thƣơng sinh tại niệm độc tiên ƣu.

(Vì dân đen luôn luôn để dạ lo trƣớc cho họ).

Ta dƣ cửu bị nho quan ngộ, 9 Đề Từ Trọng Phủ canh

Bản thị canh nhàn điếu tịch nhân. ẩn đường

(Đề nhà ngƣời cày ruộng (Thƣơng ta bấy lâu bị cái mũ nhà nho làm cho lầm lỡ,

và ẩn dật Từ Trọng Phủ) Ta vốn là kẻ cày trong cảnh nhàn hạ, câu ở nơi thanh

vắng).

Bình sinh độc bão tiên ƣu niệm, 10 Hải khẩu dạ bạc 1 (Cảm

xúc trong đêm đậu thuyền Tọa ủng hàn khâm dạ bất miên.

ở cửa biển) (Suốt đời riêng ôm cái chi “lo trƣớc thiên hạ”,

Ngồi khoác mảnh chăn lạnh, thâu đêm không ngủ).

Khê động hữu manh sơn bát vạn, 11 Tầm Châu

Thú lâu xuy giác nguyệt tam canh.

(Khe động có dân ở, núi tám vạn ngọn,

Lầu lính thú thổi tù và, trăng sáng ba canh).

BẢNG 3: NHỮNG BÀI THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

CỦA NGUYỄN TRÃI TRONG “QUỐC ÂM THI TẬP”

STT Tên bài thơ Những câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Bằng tôi nào thuở ích chƣng dân 1 Trần tình 1

Bốn dân nghiệp có cao cùng thấp. 2 Tức sự

Vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu Thuấn 3 Tự thán 4

4 Bảo kính cảnh giới 10 Trị dân sơ lập lòng cho chính.

5 Bảo kính cảnh giới 16 Nô bộc có nhiều dân có khó.

6 Bảo kính cảnh giới 43 Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,

214

Dân giàu đủ khắp đòi phƣơng.

Bảo kính cảnh giới 57 Đem dân mựa nữa mất lòng dân. 7

Dành còn để trợ dân này. Tùng 8

Bóng cả còn nhờ rợp đến dân. Cây đa già 9

Ngâm sách thằng chài trong thuở ấy. Ngôn chí 8 10

Bạn chúng thằng chài chác cá tƣơi. Tự thán 6 11

Gửi tính ngƣ tiều hai đứa lẩn. Tự thán 25 12

Mấy đứa ngƣ tiều bậu bạn thân. Tự thán 32 13

PHỤ LỤC 7: NHỮNG BÀI THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG “HỒNG ĐỨC QUỐC ÂM THI TẬP”

Những câu thơ thê hiện hình ảnh

Tên mục Tên bài thơ ngƣời dân lao động trong

HĐQATT

Khắp lâng lâng phúc thứ dân Tết nguyên đán 1

Năm phúc hây hây dƣới thứ dân Lại thơ tết nguyên đán (Bài

2)

Gió hây hây khắp muôn dân Họa vần bài vịnh tết nguyên Thiên địa môn đán (Bài 3)

Đặt yên chăn chiếu khắp muôn dân Họa bài vịnh tết nguyên đán

(Bài 4)

Vịnh cảnh mùa xuân (Bài 5) Ơn nhiều chẩn chải Hán nuôi dân

Vì nƣớc dân thủa dấu âu Nhân đạo môn Quân thần (Bài 38)

Cày y cúi đỡ dân Thƣơng ngóng Phong cảnh Họa bài người đi cày (Bài

môn 56)

Bát vịnh kết ngâm (Bài 10) Dân kể ức vàn tay phủ trị

Ai rằng ơn chẳng đến muôn dân Ông đầu rau (Bài 43)

Giúp đƣợc dân làng kẻo nắng nôi Phẩm vật môn Con cóc (Bài 48)

Vần chuyển hƣơng dân đủ tháng Cối xay (Bài 63)

ngày

Thời bình dân lại giấc êm ngơi Nhân ngâm Vua hỏi bày tôi thân cận

215

chƣ phẩm thi (Bài 29)

tập

Vì dân đức cả chỉn lòng ngƣời Lại bài Khổng thánh văn

miếu (Bài 73)

Trợ dân dẹp loạn trả thù mình Trưng Vương (Bài 87)

Số là vực nƣớc cứu dân thơ Liễu doanh (Bài 20)

Mái nọ bên tƣờng đủng đỉnh chày Lại vịnh cảnh mùa thu (Bài

10)

Tuần điếm kìa ai khua mõ cá Canh 1 (Bài 33)

Dâng hƣơng những kẻ nện chày kình Thiên địa môn Lầu treo cung nguyệt ngƣời êm giấc Canh 2 (Bài 34)

Làng nọ nông phu đã thức nằm Canh 5 (Bài 37)

Thƣơng ngƣời còn lội dƣới khe Vịnh nắng hè (Bài 45)

Kẻ hái rau Tần nƣớc bọt se Vịnh nắng hè (Bài 46)

Tuyết buổi chiều ở trên sông Áo tơi sù sụ khách ngồi câu

Lẻ tẻ đầu non ngƣời quẩy củi Đan hà hiểu vọng

Một chiếc thuyền chài diễn nƣớc đƣa Mấy mầm liễu đỏ một

Khuất cụm câu buông cần nhè nhẹ thuyền chài (Bài 18)

No miếng ngƣ hà bữa bữa thừa

Bãi một thuyền ai giục sóng đƣa Lại bài trên (Bài 19)

Lòng bòng vó cất bên kia bãi. Phong cảnh Vụng Bàn Than (Bài 36)

Ngƣ ông đƣa đẩy khoan thì nhặt môn

Gió hiu hiu, thuyền be bé Ngư giang hiểu vọng (Bài

Mƣa phun phún, nón kềnh kềnh 45)

Đêm thanh cảnh vắng ngƣời chăng Chuông Phả Lại nguyệt

tục Bình Than (Bài 49)

16 bài tứ thú từ bài 50 đến

bài 65

Thục nữ tơi bời vui cửa dệt Lại vịnh hòn đá giặt vải mùa

rét (Bài 46) Phẩm vật môn

Dễ đứa điền phu làm biếng thƣa Người bù nhìn (Bài 53)

216

Vƣờn đào ngõ mận từng len lỏi Người ăn mày (Bài 68)

Gác tía lầu son mặc nghỉ ngơi

PHỤ LỤC 8: NHỮNG BÀI THƠ THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG THƠ CHỮ HÁN CỦA LÊ THÁNH TÔNG

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Phúc thiện họa dâm thiên địa đạo 1 Chinh tây kỷ hành

Điếu dân phạt tội đế vƣơng binh thi tập (Bài 8)

(Làm thiện đƣợc phúc, gieo ác gặp họa, ấy là lẽ trời

đất,

Đánh kẻ có tội, cứu vớt dân lành, ấy là quân của bậc

đế vƣơng).

Hàm cổ tung hoành lăng bích lãng 2 Chinh tây kỷ hành

Tráng tâm đa thiểu tại thƣơng sinh thi tập (Bài 25)

(Chân bƣớc mạnh, tung hoành lƣớt trên sóng biếc

Chí lớn lao nhiều ít cũng vì muôn dân)

Khƣớc lân nô lệ cù lao sĩ 3 Chinh tây kỷ hành

Phúc thủ nang vô mộc quách tiền thi tập (Bài 29)

(Luống thƣơng binh sĩ dầm bùn vất vả

Ngã chết mà trong túi không tiền sắm áo quan).

Bà ba sái ngạn ngƣ thôn võng 4 Lương minh cẩm tú

Thiều đệ nghênh phong cổ khách thuyền thi tập (Bài 3)

(Rải rác trên bờ là lƣới phơi của xóm chai,

Xa xa đón gió là thuyền bè của thƣơng khách)

Đình chu bả lãm hệ vân căn 5 Lương minh cẩm tú

Kiều biên thƣơng bạc long cao hỏa thi tập (Bài 6)

Châu ngoại nhân ly độc tỵ côn

(Dừng thuyền, lấy dây buộc vào chân mây

Ngoài bãi, thuyền buôn đốt đèn bằng cao xƣơng rồng

Ngoài bãi, ngƣời dân phơi “quần mũi trâu” trên giậu)

6 Lương minh cẩm tú Xích Lỗ giang trung phiếm khách thuyền,

217

Lữ hoài hƣớng tứ cộng mang nhiên. thi tập (Bài 9)

Chử đầu hải thú hà vi bảo,

Ngạn chủy nhân gia lại tác duyên.

(Chiếc thuyền khách lƣớt trên sông Xích Lỗ,

Nỗi xa nhà, lòng nhớ quê khiến lòng ta man mác.

Phòng thủ bờ biển, nơi đầu bãi lấy sông làm lũy,

Nhà dân góc sông lấy gỗ nhỏ làm kèo nhà).

Tịnh hà thôn lạo mao vi ốc 7 Lương minh cẩm tú

Tiệt phố quan tân trúc tác kỳ thi tập (Bài 11)

Nữ hiệp phong tình khoa uyển miễn

Dân điều quyết thiệt ngữ chu ly

(Thôn xóm ven sông nhà cửa lợp bằng cỏ tranh,

Cửa quan đầu bến, tre pheo vút nhƣ cờ xí.

Con gái ƣa tục thắt lƣng ong, tỏ vẻ làm duyên,

Ngƣời dân uốn lƣỡi chim cƣu, nói giọng ríu rít)

Xúc văn ý đức nhu nê nhật 8 Văn minh cổ xúy thi

Tứ cảnh vô ngu lạc trị bình tập (Bài 5)

(Nuôi dƣỡng, làm tốt văn đứclà việc làm cần thiết

thƣờng ngày,

Khắp bốn cõi hết lo, mọi ngƣời vu icanhr thái bình

thịnh trị)

Lê nguyên bão noãn hƣu trƣng ứng 9 Quỳnh uyển cửu ca

Túc dạ cần cần lũ chiến căng. thi tập (Bài 1)

(Dân chúng sống ấm no, điềm lành ứng hiện,

Song ta vẫn khuya sớm chăm chỉ chính sự, nơm nớp

lắng lo)

Ngọc chúc điều hòa hàn noãn tự 10 Quỳnh uyển cửu ca

Hoa di cộng lạc thái bình niên thi tập (Bài 2)

(Điều hòa mọi việc sáng suốt theo mùa nóng lạnh có

thứ tự,

Ngƣời Kinh và ngƣời các dân tộc ít ngƣời cùng vui

218

hƣởng thái bình).

Sơn hạ canh sừ khổ, 11 Cổ tâm bách vịnh

Thƣơng tâm vọng bích vân thi tập (Bài 2)

(Cày bừa dƣới chân núi thực là cực nhọc

Lòng buồn ngƣớc nhìn làn mây xanh)

Bảo bang vong khử ác, 12 Cổ tâm bách vịnh

Nguyện trị bất thân hiền. thi tập (Bài 9)

Dẫn dẫn quy vu loạn,

Chung nan thiệp đại xuyên.

(Muốn giữ gìn đất nƣớc mà quên trừ bỏ kẻ ác,

Mong đất nƣớc thịnh trị mà không gần gữi ngƣời

hiền,

Đất nƣớc dần dà rồi sẽ chìm trong họa hoạn,

Cuối cùng sẽ không thể vƣợt qua sông lớn).

Bột Hải Cung hiền thú, 13 Cổ tâm bách vịnh

Dân an đạo tặc thanh. thi tập (Bài 28)

Mại đao linh mãi độc,

Tâm giám quỷ thần minh.

(Quan Thái thú Bột Hải họ Cung là ngƣời hiền đức,

Trong vùng ông cai trị nhân dân yên vui, trộm cƣớp

dẹp sạch.

Ông lệnh cho mọi ngƣời bán đao đi để mua nghé,

Tấm lòng ông sáng nhƣ gƣơng, có quỷ thần chứng

giám).

Chân ẩn vân nham hạ, 14 Cổ tâm bách vịnh

Yên hà cố tật thâm. thi tập (Bài 72)

Sơn khê hành đại giá,

Kinh phá dã nhân tâm.

(Bậc chân nhân sống ẩn dật dƣới vách núi mây phủ,

Sống ở nơi mây rang đã quen, từ lâu đã trở thành cố

tật rồi.

219

[Bỗng một hôm] xa giá nhà vua đến bên khe suối,

Việc đó làm kinh sợ tấm lòng của ngƣời dân dã).

Lịch lịch tam thùy cửu Đậu Lƣ, 15 Trú Long Nhãn

Chỉ tƣờng nhân nghĩa lực hành thu (Dừng lại ở Long

Tiên tiên hoàng độc khứ lai kiện Nhãn)

Tiều tụy nhƣ kim tổng bạch đầu.

(Rành rành ba mặt biên thùy đã theo về với đại nghĩa

từ lâu,

Giờ đây chính là lúc chỉ dốc hết sức làm việc nhân nghĩa.

Đàn bò vàng kia vẫn đi lại tung tang,

Còn bây giờ ta tiều tụy mệt mỏi, đầu bạc trắng cả rồi).

Biên manh cửu lạc thừa bình hóa, 16 An Bang phong thổ

Tứ thập dƣ niên bất thức binh. (Cảnh vật vùng An

(Ngƣời dân vùng biên giới từ lâu đƣợc hƣởng giáo Bang)

hóa, sống thanh bình,

Hơn bốn mƣơi năm chẳng biết chiến tranh là gì).

Địa hữu phì nhiêu dân chúng quả 17 An Bang trị sở

Uy vƣơng vị tất cự phanh a (Trị sở vùng An

(Đất đai phì nhiêu, dân chúng thƣa thớt, Bang)

Uy quyền nhà vua một chốc chƣa hẳn đã vỗ yên đƣợc

góc núi sông này).

Nhân gia đa thiểu lục âm hạ 18 Tang Châu

Chuyết thốc tàm trung địch bạc can. (Bãi dâu)

(Dƣới lùm cây dâm mát thấp thoáng mấy bóng nhà dân,

Trong buồng tằm làm kén phên sậy đã khô cả).

Khê thủy khu kỳ tiểu kính tà 19 Kỳ thập tam

Đào hoa lƣu thủy dã nhân gia. (Bài 13)

(Dòng suối quanh co, con đƣờng mòn chênh vênh,

Chỗ có hoa đào nở bên dòng suối, [ấy là] nhà ngƣời

thôn dã).

Vạn khoảnh thanh thanh thị hạ điền, 20 Hỉ cố thi

220

Tề dân đƣơng dĩ thực vi thiên. (Bài thơ mừng lúa

Thôn đầu tam lƣỡng nông phu đáo, tốt)

Giai vị kim niên thắng tích niên.

(Muôn khoảnh ruộng lúa chiêm mọc lên xanh tốt,

Việc nuôi dân là phải lấy ăn làm gốc

Mé đầu xóm, dăm ba bác nông dân đi tới,

Họ trò chuyện với nhau rằng lúa má năm nay tốt hơn

năm ngoái).

Nam huân lâu các nhật trƣờng thì 21 Kỳ nhị (Bài 2)

Hoàn phiến huy phong ngọ mộng nghi

Phất phất lƣơng phong nghi ngọ mộng

Hạ huề lao khổ vị tằng tri

(Trên tầng gác Nam huân giữa buổi ngày dài,

Quạt là phẩy gió buổi trƣa ngon giấc.

Gió mát hiu hiu giấc trƣa ngon lành,

Nỗi vất vả làm ruộng dƣới nắng hè không hề biết tới).

Xích diệm hành thì hạ nguyệt trƣờng 22 Kỳ tam (Bài 3)

Chƣởng trung vô hạn hữu thanh lƣơng

Túng giao nhất giải ngô dân uấn

Tứ hải nhân phong quảng phụng dƣơng.

(Khi cái nóng hừng hực đƣơng lan tràn, ấy là lúc

tháng hè dằng dặc

Nhƣng trong tay đã có làn gió mát vô hạn,

Ví bằng giải oi nồng đƣợc cho hết thảy dân ta,

Ấy là lúc “gió nhân” trong bốn bể nổi lên rộng khắp).

221

PHỤ LỤC 9: NHỮNG TÁC GIẢ THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỈ XVI ĐẾN HẾT THẾ KỈ XVII

BẢNG 1: NHỮNG BÀI THƠ THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG “BẠCH VÂN AM THI TẬP” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

STT Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

Phỉ cốc ô hà thú, 1 Hoa cương tỉnh (Giếng

Phi nê thực hà cầm. Hoa Cƣơng)

Trạch dân công thậm đại,

Hiệp vật niệm vƣu thâm.

(Không hang cho chuột đất,

Không lầy nhử chim trời.

Giúp dân công rất lớn,

Tƣới vật sắc thêm tƣơi)

Trí trạch vị thù ngô túc chí, 2 Tân quán ngụ hứng (Ngụ

Khu khu thâm quý lão phi tài. hứng quán Trung Tân)

(Chƣa thỏa đƣợc chí giúp chúa ban ơn cho dân từ

xƣa của ta,

Đau đớn nỗi hổ thẹn vô vàn vì lão đây vốn không

có tài).

Duy thiên sinh chƣng dân, 3 Tăng thử (Ghét chuột)

Bão noãn các hữu dục.

(Trời sinh ra dân chúng,

No ấm là điều ai nấy đều mong muốn).

Lao bần nông phu than,

Cơ tích điều dã khốc.

(Vất vả nghèo khổ, ngƣời nông phu than vãn,

Đói và gầy, trên ruộng đồng kêu khóc)

Dân mệnh vi chí trọng,

Tàn hại hà thái khốc.

(Sinh mệnh của dân chúng rất quan trọng,

222

Tàn hại sao mà quá thảm khốc).

Tận sử điêu sái dân,

Cộng hƣởng thái hƣởng phúc.

(Để khiến cho những ngƣời dân khốn khổ,

Cùng đƣợc hƣởng thái bình).

Duy thiên công vô tƣ, 4 Thương loạn (Thƣơng

Hựu dân quyến hữu đức. cảnh loạn ly)

Dĩ nhân phạt bất nhân,

Vƣơng sƣ tri tất khắc.

Cứu thử điêu mạc dân,

Sử tê nhân thọ vực.

(Chỉ có ông trời là không thiên lệch riêng ai,

Giúp đỡ dân và yêu thƣơng kẻ có đức.

Lấy lòng nhân mà đánh kẻ bất nhân,

Quân nhà vua biết là tất thắng,

Cứu cho dân điêu đứng bệnh hoạn này,

Là bƣớc lên đài nhân cõi thọ).

Nhuận dân trạch tƣ phổ, 5 Hí tác (Thiếu thời) – Viết

Tháo đức ngọc kỳ ôn. đùa (Làm thời trẻ)

(Ơn lớn này đƣợc tƣới tắm khắp, dân đƣợc sống

vui.

Nhƣ ngọc ấm áp, khiến đức lớn tinh sạch).

Hà thời tái đồ Đƣờng, Ngu trị, 6 Ngụ hứng (Bài 3)

Y cựu kiền khôn nhất thái hòa.

(Bao giờ lại thấy đời Nghiêu Thuấn,

Xoay lại kiền khôn buổi thái hòa)

Tất cánh dục cầu ngô lạc xứ, 7 Ngụ hứng (Bài 4)

Tri ngô hậu lạc tại tiên ƣu.

(Rút cục ai muốn tìm cái chỗ vui của ta,

Thì cần biết rắng ta “vui sau thiên hạ, lo trƣớc

thiên hạ).

223

Nhạc Dƣơng lâu thƣợng phong tiền địch, 8 Ngụ hứng (Bài 6)

Xuy khởi tiên ƣu hậu lạc tâm.

(Tiếng sáo trƣớc gió trên lầu Nhạc Dƣơng,

Khơi dậy tấm lòng lo trƣớc vui sau”).

Hà niên tái đổ Đƣờng, Ngu trị, 9 Tự thuật

Thƣờng liễu quân dân trí trạch tâm.

(Ngày nào lại thấy đời thịnh trị,

Thế là trả nợ xong ý nguyện phò vua ban ơn trạch

cho dân).

Quân ƣơng nhƣ hữu quang minh chúc, 10 Cảm hứng (Bài 3)

Ƣng chiếu cùng lƣ bộ ốc dân.

(Nhà vua nếu có ngọn đuốc sáng,

Xin hãy chiếu vào chốn hang cùng ngõ hẻm của

ngƣời dân).

Thù tặc vị tiêu dân vị tĩnh, 11 Tự thuật (Thuật ý mình –

Đệ hiềm tế kiển lão phi tài. Bài 2)

(Thù giặc chƣa tan dân vẫn khổ,

Giúp đời lão thẹn chẳng tài chi).

Lão lai vị ngải tiên ƣu chí, 12 Tự thuật (Bài 3)

Đắc, tang, cùng, thông khởi ngã ƣu.

(Già chẳng nguôi niềm ƣu ái cũ, Cùng - thông,

đắc- tang, chỉ lo đời).

Cổ lai quốc dĩ dân vi bản, 13 Cảm hứng (Bài 1)

Đắc quốc ƣng tri tại đắc dân.

(Xƣa nay nƣớc lấy dân làm gốc,

Đƣợc nƣớc vì chƣng bởi đƣợc dân).

Nông phu bất nhẫm trọng ca huệ, 14 Cảm hứng (Bài 2)

Chiến sĩ vô công khổ hạ qua.

… Thiên nhƣ tảo vị sinh dân kế,

Ƣng tích nghiêm ngƣng tác thái hòa

(Ngƣời nông dân thu hoạch kém phải hát mãi bài

224

ca đƣợc mùa,

Ngƣời lính đánh trận không đƣợc công thƣởng gì

chi khổ vì phải vác qua.

…Ông trời ví còn sớm nghĩ đến kế cuộc sống của

dân,

Thì nên phá vỡ băng lạnh đông cứng, tạo ra cảnh

ấm áp êm dịu).

Tiểu khấu bô tru tái chấp mê, 15 Thảo tặc hữu cảm (Cảm

Cƣỡng huy nhung sách cứu di lê. nghĩ khi đi đánh giặc)

(Bọn giặc cỏ bị bắt chạy trốn vẫn còn chấp mê,

Gắng phất cao cờ chỉ huy, định kế hành quân để

cứu ngƣời dân sống sót).

Cửu hạn nhân giai khổ oán tƣ, 16 Đảo vũ (Cầu mƣa)

Vị dân đảo vũ hựu hà từ.

(Nắng hạn lâu ngày, mọi ngƣời đều khổ sở oán

thán,

Sao có thể chối từ việc vì dân mà cầu mƣa).

Đãn nguyện thử tâm thƣờng biến chiếu, 17 Tiến chúc (Dâng nến)

Cùng lƣ vô xứ bất hòa ninh.

(Chỉ ƣớc mong rằng cái tâm kia mãi mãi soi chiếu

khắp nơi,

Ngõ hẻm dân cùng, bất kỳ đâu cũng đƣợc sống

yên ổn).

Cố quốc tâm hoài tu ngã đức, 18 Quá quy hóa trứ danh

An lƣu phƣơng thả cẩn quân châu (chu). (Qua nơi đóng doanh trại

(Có danh nghĩa thì quân tiến ra thật là hùng tráng, ở Quy Hóa)

Biết đoái sợ dân thì không còn kẽ hở để gieo vào).

Xuân thu thống nhất xa thƣ hỗn, 19 Liệt Khê trú doanh

Đổ thán dân giai nhẫm tịch tê. (Đông Doanh trại ở Liệt

(Thống nhất bờ cõi, xa thƣ cùng một lối, Khê)

225

Dân lầm than khổ cực đều đƣợc nằm trên nệm

chiếu yên ổn).

Tây thổ di lê vị phủ hanh, 20 Tiễn Thanh Hoa tham

Cửu trùng tạm khuất ngã công hành. chính Cao Hương tướng

(Đất miền Tây còn có số dân vỗ về chƣa ổn, công (Tiễn tƣớng công

Nhà vua tạm thời sai ông lên đƣờng) Cao Hƣơng, tham chính

Thanh Hóa)

Biên manh tạm dĩ li điêu sái, 21 Tây Hỗ trú Đào Lâm, ngộ

Công thủ ƣng ta nhất phủ ma. vũ, hí tác giản Tân Xương

(Dân nghèo ở biên cƣơng tạm thời đã ra khỏi vòng Nguyễn cấp sự (Đi hộ giá

điêu đứng, miền Tây, nghỉ lại ở Đào

Bàn tay ông thật nên đến vỗ về một lƣợt khắp cả). Lâm, gặp mƣa, viết chơi

gửi ông cấp sự họ Nguyễn

ở Tân Xƣơng)

Đảo huyền dân cửu li hung đạo, 22 Tây hỗ quá Lục Yên châu

Trắc đát thùy vô xúc thiện đoan. hữu cảm, thứ Lễ Độ Bá

(Lâu nay dân sa vào tay bọn trộm cƣớp hung dữ vận (Hộ giá miền tây qua

nhƣ kẻ bị treo ngƣợc, châu Lục Yên, cảm khái

Không ai là không động lòng thiện mà tỏ tình họa vần thơ của Lễ Độ

thƣơng xót). Bá)

Biên manh cộng hƣởng thần cƣ Bắc, 23 Tây hỗ, Văn quan quân

Thƣợng đức hoài nhu giáo kị Nam. tiến bộ tặc, thế hữu khả

Địa hiểm khán lai phi túc thị, cầm, hỉ tác Bộ Văn Đạt bá

Bảo dân đƣơng cố úy dân nham. vận (Đi hộ giá miền Tây,

(Dân biên bỉ cùng hƣớng về ngôi Bắc Đẩu, nghe quan quân tiến đánh

Đức độ của hoàng thƣợng hòa dịu giáo hóa đến bắt bọn giặc, thế có thể

tận phƣơng Nam. đƣợc chúng, mừng làm

Xem ra địa thế hiểm trở, chƣa là điều đủ để tin bài họa vần Văn Đạt Bá)

cậy;

Việc bảo vệ dân nên tính đến sự lo sợ dân những

nơi rừng sâu núi thẳm).

226

Đảo huyền dân cửu li hung ngƣợc, 24 Tòng tây chinh

Yếm loạn thiên tƣơng khải trị bình. (Theo quan quân đánh

Kí thủ vƣơng sƣ hoàn khải nhật, dẹp miền tây - bài 1)

Luân cân bố hạt nhậm nhàn tình.

(Nhân dân từ lâu đã bị khốn khổ nhƣ bị treo ngƣợc

bởi bọn hung tàn,

Trời ghét cảnh loạn lạc sắp ra tay mở hội trị bình.

Hãy nhớ ngày quân đội nhà vua chiến thắng trở

về,

Quan quân và dân chúng đều đƣợc thỏa ƣớc muốn

thanh nhàn).

Lão bệnh trùng phùng thử loạn li, 25 Tòng tây chính

Dự tham nhung mạc hiệu truy tùy. (Theo quan quân đánh

Sơn hà phong cảnh do tiền độ, dẹp miền tây - bài 2)

Thành quách nhân dân dị tích thì.

(Già yếu lại gặp cảnh loạn li,

Đƣợc tham dự vào việc phò tá trong màn trƣớng

tƣớng soái.

Sông núi, cảnh vật vẫn nhƣ dạo trƣớc,

Thành quách và nhân dân thì đã khác xƣa).

Thánh chủ chỉ kim nhân thắng bạo, 26 Quá Tây Giang (Qua sông

Cứu dân vụ tại quảng chiêu hang. Tây Giang, bài 1)

(Nhà vua bây giờ chỉ lo việc lấy đức nhân thắng

cƣờng bạo,

Trong kế sách cứu dân, điều cốt yếu là mở rộng

việc chiêu hàng).

Cửu trùng chính cấp cầu nhân tƣớng, 27 Quá Tây Giang (Qua sông

Chửng cứu ƣng tô thử nhất phƣơng. Tây Giang, bài 1)

(Chiếu tìm tƣớng giỏi nay ban bố,

Cứu vớt dân lành tính phút giây).

28 Quá Tây Giang (Qua sông Chỉ duyên lão giặc giai vi ngạnh,

227

Trí sử biên dân giáp lộng hoàng. Tây Giang, bài 5)

(Chỉ tại quân giặc ngoan ngạnh ngày càng lấn

bƣớc láo xƣợc,

Nên dẫn đến cả khối dân biên cƣơng dung đến

giáp binh).

Di dân cửu dĩ la điêu sái, 29 Hạ ngự giá thướng kinh

Nguyện bố khoan nhân ủy hệ tô, (bài 1)

(Từ lâu dân chúng chìm đau khổ,

Xin mở lòng nhân tận núi gò).

Tùy xứ lƣu dân hoài tỉnh ấp, 30 Tức sự (Thơ tức sự)

Hà thời chiến sĩ tức can qua?

(Khắp nơi ngƣời dân lƣu lạc đang nhớ về làng

quê,

Biết bao giờ, ngƣời chiến sĩ mới nghỉ tay gƣơm

giáo?).

Thông minh chính trực vị chi thần, 31 Quá Từ Liêm thần tử trách

Để sự dung gian cánh hại dân. thần (Qua đền thần ở Từ

Độ thủ lão quyền khoa kiếm kích, Liêm, trách thần)

Cùng lƣ bố ốc bộn yên trần.

Lƣu vong nhật tiệm nan sinh khí,

Chửng cứu thùy năng bất sát nhân.

(Tai nghe sáng suốt, mắt nhìn sáng suốt, có lòng

chính trực mới gọi là thần,

Cớ sao lại dung dƣỡng kẻ gian đến nỗi làm hại

dân?

Đôi tay lão luyện, tàn độc khoe nào kiếm nào kích,

Khắp ngõ hẻm nhà gianh đều mịt mù khói bụi.

Dân lƣu vong ngày càng khó lấy lại sinh khí,

Dẹp loạn cứu dân ai lại có thể không phải giết

chóc?).

32 Hí tác kí chương đức y gia Tây nam hội kiến dân tô tức,

228

Bốc nhật đƣơng quy quân thủy quy tử Lễ Bá Hầu huynh đệ

(Mong giữa hội vui thấy dân vùng Tây nam đƣợc (Viết đùa chơi gửi an hem

hồi sinh lại, Lễ Bá Hầu, con của nhà

Xem ngày nào nên về thì anh hãy về) thầy thuốc ở Chƣơng

Đức)

Quốc thế dân tâm vƣu khả úy, 33 Hạ Khiêm Đại Vương đản

Nguyện gia cẩn giới bất vong nguy. nhật (Mừng ngày sinh

(Thến nƣớc và lòng dân là điều rất đáng sợ, nhật Khiêm Đại Vƣơng)

Xin ngài cẩn trọng răn đe, chớ quên lúc nguy

khó).

Hà nhật tái phùng Nghiêu Thuấn thế, 34 Tân niên hí tác

Thái bình thiên tử, thái bình dân, (Năm mới, viết chơi)

(Bao giờ đƣợc gặp đời thịnh trị của vua Nghiêu,

vua Thuấn?

Vua của thời thái bình, dân của thời thái bình).

Thử lạc túng phi hiền giả lạc, 35 Hồng Châu xuân hội (Hội

Thụ suy đồng lạc cập tƣ dân. xuân ở Hồng Châu)

(Thú vui này nếu không phải là thú vui những kẻ

hiền,

Thì ai là kẻ san sẻ niềm vui chung này đến cho

dân?)

Huyện trái dục cầu thƣờng bất xứ, 36 Vĩnh lại huyện tri huyện

Nhất liêm chi ngoại cánh vô dƣ. Trần Lâm (Gửi tri huyện

(Nợ của dân trong huyện muốn tìm giả hết bất kỳ Vĩnh Lại là Trần Lâm)

ở đâu,

Ngoài một chữ liêm, không có thiếu gì).

Đế vƣơng đại đạo cự tinh nghiên, 37 Quân đạo thi (Đạo làm

Hạ dục kiềm lê, thƣợng kính thiên. vua)

Chế trị, bảo bang tƣ kế thuật,

Thanh tâm, quả dục tuyệt du điền.

(Đạo lớn bậc đế vƣơng rất mực tinh tế,

229

Dƣới thì nuôi dƣỡng dân đen, trên thì kính trời

Chế định nền thịnh trị, giữ gìn đất nƣớc, nghĩ đến

việc noi theo, kế thừa,

Giữ tâm trong sạch, ít dục vọng, dứt bỏ việc vui

chơi, săn bắn).

Nhất ngữ nhất ngôn thƣờng trí giới, 38 Quân thần thi

Phân du phân niệm vĩnh khang dân (Đạo vua tôi- Bài 1)

(Một lời nói phát ra đều nhằm vào việc răn bảo

nhau,

Mọi suy nghĩ tính toán đều lo đến việc khiến cho

dân đƣợc giàu mạnh).

Vọng kim lƣỡng tận khắc nan đạo, 39 Quân thần thi (Đạo vua

Chính sự năng tu dân duyệt thâm. tôi- Bài 2)

(Mong mỏi ngày nay vua và bầy tôi đều hiểu rõ

cái khó khăn của mình,

Nền chính sự thƣờng xuyên tu chỉnh thì dân chúng

mừng rỡ sâu sắc).

Dân thủy thản kim nhân cố kết, 40 Trì thi (Cái ao)

Ẩn nhiên diệc thị nhất thang trì.

(Dân là nƣớc, huống nữa ngày này lấy điều nhân

để cố kết vững vàng,

Trong đó có ẩn náu một cái ao nƣớc sôi đấy).

41 Thạch tỉnh thi (Giếng đá) Đãn nguyện quân tâm hoằng đức trạch,

Ấp tƣ chú bỉ ủy quần tình.

(Chỉ cầu mong nhà vua mở rộng ơn đức,

Đem nƣớc giếng này tƣới mát, thỏa lòng chúng

dân).

Dân thực thành vi vƣơng chính tiên, 42 Điền thi (Ruộng đồng)

Bản nguyên tòng xuất tại ƣ điền…

Tô trừ y Hán trọng dân thiên.

Vô khinh dân sự kim do ổ,

230

Tứ dã hàm đăng đại hữu niên.

(Lo cái ăn cho dân thực là việc trƣớc tiên trong

nền vƣơng chính,

Cái gốc chính để làm đƣợc nhƣ vậy là nhờ ở ruộng

đất…

Chớ xem thƣờng việc làm ăn của dân, ngày nay

cũng nhƣ ngày xƣa vậy,

Nhƣ thế thì khắp các chốn đồng quê đều đƣợc mùa

lớn).

Ngũ đạt tứ thong giai đắc sở, 43 Đình thi (Ngôi đình)

Kì hàn thử vũ miễn tƣ dân.

(Năm đƣờng bảy ngả qua đây đều đƣợc nơi nghỉ

chân tốt,

Cầu mong dân lành (có nơi dừng nghi mà) khỏi bị

nắng mƣa giá rét).

Thùy tri lão lạt khƣơng đồng vị, 44 Quế thi (Cây quế)

Y quốc y dân hữu diệc phƣơng.

(Ai hay khi già có chất cay cùng một vị giống nhƣ

gừng,

Là vị trong phƣơng thuốc diệu kỳ để chữa cho

nƣớc, cho dân).

Chỉ kim lễ vị hiền nhân thiết, 45 Tịch thi (Chiếc chiếu)

Trạch cập tƣ dân nhẫm tịch khang.

(Đến nay lễ đƣợc đặt ra vì ngƣời hiền,

Ban ơn trạch đến chúng dân, khiến họ đƣợc yên

vui trong chăn chiếu).

Thiên nhƣ dục giải ngô dân uẩn, 46 Hạ thử thi (Nắng hè)

Ƣng tá huân phong nhất trận xuy.

(Trời nếu nhƣ muốn cởi bỏ nỗi uất ức cho dân ta,

Thì xin hãy thổi một trận gió hòa dịu).

47 Thu thủy thi (Nƣớc mùa Đãn nguyện quân vƣơng thƣờng trạm nhƣợc,

231

Trạch lƣu viễn bị cửu vi dân. thu)

(Những mong quân vƣơng luôn lƣu ý,

Làm cho ân trạch tuôn trào đến dân mọi miền xa).

Sơ phạp đống lƣơng phù đại hạ, 48 Trung Tân quán nhị lão

Hảo tƣơng ấm tí cập tƣ dân. dung thụ (Hai cây đa già ở

(Vốn không có tài rƣờng cột chống đỡ ngôi nhà quán Trung Tân)

lớn,

Hãy đem bóng mát che chở cho dân này).

Hảo tƣơng nhất chƣớc thiên nhiên thủy, 49 Da tử thi (Quả dừa)

Tô khƣớc thƣơng sinh khát vọng tâm.

(Khéo đem một gáo nƣớc thiên nhiên,

Làm sống lại lòng khao khát của chúng dân).

Thiên hạ điêu sái cửu vị tô, 50 Mạch môn đông (Vị thuốc

Thí đầu nhất chủy tẩy lao nhiệt. mạch môn đông)

(Thiên hạ đau khổ điêu linh từ lâu mà chƣa đƣợc

cứu,

Hãy thử múc một thìa để tẩy hết nỗi lao khổ).

Hà hạnh tái phùng Nghiêu Thuấn trị, 51 Ngụ ý (Ngụ ý mình)

Nhất triền nguyện tác thái bình dân.

(May sao lại đƣợc gặp thời thịnh trị của đế Nghiêu

đế Thuấn,

Một lòng mong làm ngƣời dân của thời thái bình).

Hoàn lí bất phùng nguy hiểm xứ, 52 Quan kì ngụ hứng (Gửi

Bình cƣ khởi phục cố dân loan. hứng khi xem đánh cờ -

(Nếu nhƣ không gặp chỗ nguy hiểm, bài 2)

Thì ngày thƣờng há lại đoái nghĩ đến ngƣời dân

ƣ?).

232

BẢNG 2: NHỮNG BÀI THƠ THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG “BẠCH VÂN QUỐC NGỮ THI TẬP” CỦA NGUYỄN BỈNH KHIÊM

Tên bài thơ Câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân STT

Ái ƣu vằng vặc trăng in nƣớc, Bài 1 1

Danh lợi lâng lâng gió thổi hoa.

Án sách hãy còn án sách cũ,

Nƣớc non bạn với nƣớc non nhà.

Giàu cơm thịt khó cơm rau, 2 Bài 4

An phận là tiên lọ phải cầu.

Giàu sang ngƣời trọng, khó ai nhìn, 3 Bài 5

Mấy dạ yêu vì kẻ lỡ hèn.

Thanh vắng thú quê dầu nấn ná, 4 Bài 8

Dữ lành miệng thế mặc chê khen.

Niềm xƣa trung ái thề chăng phụ, 5 Bài 12

Cảnh cũ điền viên thú đã quen.

Chớ chớ thờ ơ nhìn mấy biết, 6 Bài 13

Đỏ thì son đỏ, mực thì đen.

Yêu đòi phận, dầu tự tại, 7 Bài 14

Lành dữ khen chê ai mặc ai.

Buồn về biếng thấy cái đao binh, 8 Bài 15

Yên phận thời lành, ở một mình.

Nghĩa cả luống quên tôi chƣa cũ,

Thề xƣa nỡ phụ nƣớc non xanh.

Nhàn đƣợc thú quê dầu nấn ná, 9 Bài 17

Nghĩ xem thế sự biếng đua tranh.

Ân chúa đã nhiều chƣa báo, 10 Bài 21

Lòng còn canh cánh ắt khôn nài.

Nghèo hiểm là khi vị nƣớc, 11 Bài 24

Khó khăn dầu mệnh ở trời.

Cầu lui đƣờng lợi khôn đi, đỗ,

233

Rộng hẹp lòng nhân mặc nghỉ ngơi.

Ba đời chúa đƣợc phúc tình cờ, 12 Bài 27

Ơn nặng, chƣa từng báo tóc tơ.

Đã ngoài mọi sự chăng còn ƣớc, 13 Bài 29

Ƣớc một tôi hiền chúa thánh minh.

Khó khăn mới biết ngƣời quân tử, 14 Bài 30

Nghèo hiểm thời hay tiết trƣợng phu.

Anh hùng ngƣời lấy tài làm trọng, 15 Bài 31

Ẩn dật ta hay thú có mầu.

Của nha còn ấy hai pho sách, 16 Bài 36

Ơn chúa chăng quên một bữa cơm.

Dữ lành miệng thế mặc chê khen, 17 Bài 39

Mùi thế gian nhiều mặn nhạt, 18 Bài 43

Đƣờng danh lợi có chông gai.

Có quyền thời có của ngƣời cho, 19 46

Mất vốn chi đầu hoạ đắn đo.

Ang thịt mỡ bùi ruồi đến đỗ,

Bát bồ hòn đắng kiến đâu bò.

Dầu nhẫn dầu chê dầu miệng thế, 20 Bài 48

Cơ mầu tạo hoá mặc tự nhiên.

Giàu ngƣời họp, khó ngƣời tan, 21 Bài 49

Đƣợc thời thân thích chen chân đến, 22 Bài 58

Thất thế hƣơng lân thỉnh mặt đi.

Thớt có tanh tao ruồi đỗ bấy,

Ang không mật mỡ kiến bò chi!

Thế nay những trọng ngƣời nhiều của,

Lặng đến tay không ai kẻ vì?

234

Ruộng thời hai khảm đất con ong, 23 Bài 60

Đầy tớ ta cày kẻo muộn mòng.

Kiến nhân thác bởi sanh bùi ngọt, 24 Bài 62

Ruồi lánh mình vì bát đắng cay.

Giàu sang ngƣời đến họp đam chiêu, 25 Bài 63

Bần tiện ai kẻ trọng yêu?

Của khỏi làng, nhà nên quý giá,

Ngƣời lìa quê, phúc lấy làm phiêu.

Nuôi con mới biết lòng cha mẹ,

Nẻo loạn thì thƣơng thời Thuấn Nghiêu.

Kẻ khó nhờ ơn có kẻ giàu, 26 Bài 64

Làm chi đua cãi mất lòng nhau.

Ngƣời hơn ta thiệt thì dầu vậy,

Đấy thẳng đây chùng chẳng đứt đâu.

Dại nọ chƣa đo sao đã đắn,

Khôn thì thốt trƣớc lại lo sau.

Gần son thì đỏ, mực thì đen, 27 Bài 69

Giữ đạo hiếu trung là của báu, 28 Bài 70

Miễn qua ngày tháng phận ta an.

Thớt có tanh tao ruồi háo miệng, 29 Bài 71

Gang không mật mỡ kiến đam thân.

Cơm ăn chẳng quản dƣa muối, 30 Bài 73

Áo mặc nài chi gấm thêu.

Đành hay muôn sự của đều chung, 31 Bài 75

Cờ đến tay ai, ai mới phất.

Ƣu ái chăng khuây niềm trƣớc, 32 Bài 76

Thị phi biếng nói sự nay.

Thế gian biến cải vũng nên đồi, 33 Bài 77

235

Mặn nhạt, chua cay lẫn ngọt bùi.

Còn bạc, còn vàng, còn đệ tử,

Hết cơm, hết rƣợu, hết ông tôi.

Xƣa nay đều trọng ngƣời chân thật,

Ai nấy nào ƣa kẻ đãi buôi.

Ở thế mới hay ngƣời bạc ác,

Giàu thì tìm đến, khó thì lui.

Đời này nhân nghĩa tựa vàng mƣời, Bài 80 34

Có của thì hơn hết mọi lời.

Chớ thuở đƣợc thời mèo đuổi chuột, Bài 81 35

Đến khi thất thế hổ tha bò.

Ăn ít ấy hơn, hờn ấy thiệt, Bài 82 36

Khôn thời ngƣời dái, dại ngƣời thƣơng.

Ƣa ngọt thì hơn, nhiều kẻ trọng, Bài 83 37

Quá chua ra úng, có ai màng?

Ở có đức lành hơn ở dữ,

Trời sinh, trời ắt đã dành phần, 38 Bài 86

Tua hãy cho hiền, dạ có nhân.

Khó nhớ oán thân, mình mới nhẹ,

Giàu: trọng, sang: yêu, khó: chẳng vì. 39 Bài 88

Nhị kết hoa thơm, ong đến đỗ,

Mỡ bùi mật ngọt, kiến nào đi.

Cơm ăn chẳng quản mùi xa, bạc, Bài 90 40

Áo mặc nề chi vẻ rách lành.

Dẫu có ai han thời sẽ nhủ: Bài 93 41

Thái bình thiên tử, thái bình dân.

Thú thanh nhàn, lều một căn. Bài 94 42

Quét cửa kho, chờ khách đến,

236

Trồng cây đức, để con ăn.

Vuốt mặt còn trừ qua mũi nọ, 43 Bài 96

Rút dây lại né động dừng chăng?

Lửa vô tình nọ bừng bừng cháy, 44 Bài 101

Của bất nhân kia rối rối qua.

Cơm cháo bỗng xui ngƣời hoá quý,

Oản xôi dễ khiến bụi nên ma.

Khôn mà hiểm độc là khôn dại, 45 Bài 102

Dại vốn hiền lành ấy dại khôn.

No lòng ấm cật ơn nhờ chúa, 46 Bài 105

Tiết ngọc gan vàng giữ phận tôi.

Sự thế cuộc cờ đâu miễn đƣợc, 47 Bài 107

Lòng ngƣời, sóng bể cạn thì sâu.

Tiền ròng, bạc chảy: tƣng bừng đến, 48 Bài 110

Nhà khó, tay không: lững thững đi.

Đời chẳng trọng ngƣời bằng trọng của, 49 Bài 112

Bạn dù hay mặt chửa hay lòng.

Thịt chó, chó ăn, loài chó dại, 50 Bài 114

Lông chim, chim tiếc, ấy chim khôn.

Bò đàn những bạn cái bò cái,

Cá cả mong ăn con cá con.

Đôi chữ công danh còn xắm nắm, 51 Bài 119

Một niềm ƣu ái hãy lăm le.

Giàu chê khó, khó chê giàu. 52 Bài 120

Ngƣời hàng thịt nguýt ngƣời hàng cá,

Đứa bán bò gièm đứa bán trâu.

Bé vú thở than ngƣời cả vú,

Ít râu inh ỏi kẻ nhiều râu.

237

Yên bách tính, thì yên trị đạo, 53 Bài 121

Non nƣớc vui chơi đã mặc dầu, 54 Bài 123

Hãy còn canh cánh chí sơ âu.

Rƣợu, cảnh quê hƣơng nhặt chốc mòng, 55 Bài 124

Chiêm bao ngờ đã tới non sông.

Bạn nhiều cày cuốc ngày ngày họp, 56 Bài 125

Gánh nặng yên hà chốn chốn thâu.

No bữa hôm, đủ bữa mai, 57 Bài 130

Gẫm lâu chăng đã thú nhà vui.

Ruộng năm bảy khảm trồng cây lúa,

Tằm chín mƣời nong để giống ngài.

Phúc nào gặp đƣợc cong đời trị, 58 Bài 134

No ấm cũng nhờ phúc thái bình.

Lƣỡi thế gẫm xem mềm tựa lạt, 59 Bài 136

Miệng ngƣời toán lại sắc nhƣ chông.

Muốn cho nhà chúa bằng Nghiêu Thuấn, 60 Bài 139

Phải đạo làm tôi kẻo hổ ngƣơi.

Mừng thấy thời vần đời mở trị, 61 Bài 142

Thái bình thiên tử, thái bình dân.

Giàu vì phận, khó vì phận, 62 Bài 143

Khôn mặc ngƣời, dại mặc ngƣời.

Nƣớc yên chín thực ấy nhà yên. 63 Bài 144

Đời thái bình ca khúc thái bình. 64 Bài 149

Cơm áo lo đền thiên tử trị,

Ngƣời gồng gánh, kẻ lầm than, 65 Bài 151

Ta biết so ta kể thực nhàn.

238

BẢNG 3: NHỮNG BÀI THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

TRONG THƠ PHÙNG KHẮC KHOAN

STT Tên bài thơ Những câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân dân

-“Phát kinh phát cức trồng gai, 1 Lâm tuyền vãn (Thơ Nôm

Đan lƣới, đan chài dƣỡng thú ngƣ ca”. theo thể lục bát)

-“Muốn ăn trái lật trái lê,

Họa nhà con cái chợ quê theo tìm”.

-“Ngày nhiều vật lạ của tƣơi,

Che chở nghìn đời dân ấm no”.

Cƣ nhân do nghĩa ngô nho sự, 2 Đề Hoằng Đạo thư đường

Tế khế khang dân chí khí hùng. (Đề vào phòng đọc sách

(Ở nhân noi nghĩa là việc của nhà nho ta, “Hoằng Đạo”)

Giúp đời yên dân chí khí thật là hào hùng).

Tôn chủ tí dân Nho sự nghiệp, 3 Kỳ nhị (Bài 2)

Khẳng vi bạch diện nhất thƣ sinh.

(Tôn chúa, cứu dân là sự nghiệp của nhà nho ta,

Sao chịu làm một anh học trò bạch diện thƣ sinh

mãi).

Vị thủy điếu hoàng kỳ Thƣợng Phụ, 4 Dao thọ phụ thân (Từ nơi

Ngu đình chủng đức mại Cao Dao. xa chúc thọ phụ thân)

(Giống Thƣợng Phụ ở bờ sông Vị, trƣớc còn câu

cá đợi thời,

Nhƣ Cao Dao ở triều Ngu chăm ban bố đức trạch

cho dân).

Tự cổ tác tiền công đức hậu, 5 Qua Lam Sơn miếu hữu

Dữ trƣng thiên hựu dữ dân thân. cảm (Cảm tƣởng khi qua

(Xƣa nay ngƣời sáng nghiệp công đức đầy đặn, Lam Sơn miếu)

Càng nghiệm rõ trời giúp ngƣời có đức và dân quy

về ngƣời có nhân).

Can qua lạc khổ lƣu ly, 6 Thương loạn (Nhị thủ)

Trƣờng sƣ anh hùng mạn tự ti (tƣ), (Bài một)

239

(Gƣơm đao chống chọi nhau, dân khổ lƣu lạc ly

tán triền miên,

Làm cho đám anh hùng phải tự nghĩ lại chăng).

Đại đông chi hậu xuân ƣng phục, 7 Thương loạn (Nhị thủ)

Thánh tá hân quan sĩ nữ tuy. (Bài hai)

(Sau cái đông giá rét, xuân tƣơi ắt ấm trở lại,

Thánh nhân xuất hiện, ta vui mừng đƣợc thấy dân

yên vui).

Uy hòa tịnh chí tang sƣ luật, 8 Doanh trung trừ tịch (Thời

Cam khổ du đồng thức sĩ tình. tại Thể Khê) (Đêm ba

(Ân uy đủ cả, đúng đắn luật quân, mƣơi tết ở doanh trại)

Cam khổ cùng nhau, biết rõ tình sĩ tốt). (Bấy giờ tôi ở Thể Khê)

Nhƣợc ngôn ý quốc y dân thủ, 9 Đoan Ngọ dược (Thuốc

Nhân nghĩa vi đan thƣớng thánh hoàng. hái ngày Đoan Ngọ)

(Còn nói tới phƣơng thuốc chữa bệnh cho nƣớc

khỏi loạn, cho dân khỏi khổ,

Xin dâng nhà vua thứ linh đan nhân nghĩa).

Duy dƣ dân tụ sở vô cải, 10 Tây Đô hoài cổ

Vạn cổ sơn hà vạn cổ thâu (thu).

(Nơi đây chỉ còn nhân dân sum họp nhƣ xƣa,

không gì thay đổi,

Muôn thuở vẫn non sông ấy, muôn thuở vẫn mùa

thu này).

An dân toàn lại hoàng vƣơng đức, 11 Phụng sai vãng Thiên

Đầu bút hà công cảm thuyết Ban. Quang phủ tập, đọa qua

(Yên đƣợc dân, toàn nhờ đức tốt của nhà vua, Ngọc Lâu tức sự (Phụng

Ném bút theo việc quân, lập công gì mà dám nói mệnh vua đến Thiên Quan

nhƣ Ban Siêu thuở xƣa). vỗ về triệu tập dân chúng

ly tán, đƣờng qua Ngọc

Lâu, tức sự làm thơ)

12 Hành niên (Năm trải qua) Tế thời cƣờng phiến kim luân phú,

240

Tùy phận liêu an nghĩa mệnh toàn.

(Chuyện kinh luân thắng thua đều tùy vào thời thế

có phú cho không?

Tùy theo danh vị trong xã hội hãy giữ bình yên, lẽ

phải và tính mệnh cho nhân dân).

Hậu Tắc giáo dân càn giáng chủng, 13 Thử (Lúa nếp)

Chu Công ái chủ ngụ Trần thi.

Chƣng dân nãi lạp công vi đại,

Đãn nguyện hoàng vƣơng giá sắc tri.

(Hậu Tắc dạy dân siêng năng đặt giống,

Chu Công yêu chúa, gửi gắm khi trình bày bài thơ.

Dân chúng đƣợc hạt gạo ăn, công lao lớn lắm,

Chỉ mong đấng quân vƣơng biết đến công việc cấy

cày).

Niên phong chính thị nông phu khánh, 14 Tắc (Lúa Tắc)

Hỉ khởi ca canh lạc thái bình.

(Năm đƣợc mùa chính là phúc lành cho nông phu,

Mừng rỡ hát ca, vui đời thái bình).

Công thành sự nghiệp bằng trung nghĩa, 15 Tự xướng tự họa

Ức vạn duy sinh hoạt Bắc Nam.

(Sự nghiệp thành công đều nhờ vào trung nghĩa,

Ức vạn sinh linh đƣợc sống yên ổn ở Bắc và

Nam).

Triều đình hữu đạo dân vô sự, 16 Đề xuyên sơn dịch (Đề

(Triều đình có đạo, dân vô sự) trạm Xuyên Sơn)

Xu đƣờng chí yết thƣợng ty Hán, 17 Quảng Tây lưu đề (Thơ đề

Giáp đạo nhân nghênh tân sứ Lê. lƣu lại Quảng Tây)

(Lên công đƣờng, mang lễ vật yết kiến quan trên

ngƣời Hán,

Hai bên đƣờng, dân đón chào sứ giả mới của nhà

Lê).

241

Nghĩ hƣớng đế tiền ca đế đức, 18 Đáo An Nam ngẫu thành

Giải ngô dân uấn phụ dân tài. (Đến An Nam, bất chợt

(Ta muốn đến trƣớc vua, ca tụng công đức nhà thành thơ)

vua,

Đức nhà vua nhƣ gió nam giải nỗi buồn giận cho

dân và làm cho của dân giàu có).

Thuấn vô hoang đãi tồn trung xứ, 19 Kỳ ngũ (Bài năm)

Thang khắc khoan nhân lâm hạ thì.

(Tồn tâm nhƣ vua Thuấn không lƣời nhác, không

phóng túng,

Trị dân nhƣ vua Thang có đức khoan nhân).

Kinh thành đông xuất thị Thông Châu 20 Nam hoàn quá Thông

Thành quách nhân dân thái khẩn trù. Châu (Về Nam qua Thông

(Ra khỏi Bắc Kinh ấy Thông Châu, Châu)

Thành quách nhân dân ở sát nhau).

Văn đạo Giao Nam tục, 21 Tặng An Nam sứ thần bài

Dân cƣ chƣớng hải nhuyên… luật thập vận (Tặng sứ

Cống bằng trùng dịch thiệt, thần nƣớc An Nam mƣời

Gia dƣỡng bát tàm miên vần thơ bài luật)

(Nghe nói phong tục phía Nam Giao châu, „

Dân cƣ ở sát ngay bờ biển,…

Triều cống phải nhờ qua nhiều lần phiên dịch,

Dân gia một năm nuôi tám lứa tằm).

BẢNG 4: NHỮNG TÁC PHẨM THƠ CHỮ HÁN THỜI MẠC

THỂ HIỆN TƢ TƢỞNG THÂN DÂN

STT Tác giả Tác phẩm

1 Nguyễn Hàng (?-?) Tịch cư ninh thể phú

- Yêu thay miền thôn tịch

Yêu thau miền thôn tịch!

Cƣ xử dầu lòng,

242

Ngao du mặc thích.

Khéo chiều ngƣời mến cảnh yên hà:

Dễ quyến khách vui miền tuyền thạch.

Xó xỉnh góc trời mom đất, một bầu thu cảnh mọn

hẹp hòi;

Áy o ruộng núi vƣờn đèo, bốn mùa đủ thứ vui cộc

kệch..

Có một sự gắn bó, hòa hợp giữa con ngƣời với

cảnh vật, ngƣời coi cảnh nhƣ bạn bè thân thiết,

cảnh giúp ngƣời quên đƣợc những nỗi ƣu tƣ:

Khách nhàn họp ba chồi cúc muộn, đứng dựa bên

thềm;

Bạn lão sum mấy gốc mai già, hen kề tận ngạch.

Gió nhân là quạt mát, điêm trần ai thau thảy tan

không;

Nƣớc trí ấy gƣơng trong, miền tụy lụy lâng lâng

rửa sạch.

… Dấu ngựa xe chẳng đến, cỏ bén hơi xuân;

Bạn viên hạc quen tìm, hoa cƣời đón khách…

Rƣờm rà hàng cổ thụ, lồng những tàn dù;

Quanh quất dài kỳ phong, bao làm thành quách.

Vƣợn chào hòa khiếu hót, cách ngàn đƣa khúc

xƣớng ca;

Suối chảy lẫn thông reo, bên tai rõi nhịp đàn, nhịp

phách.

Chợ chân trời, mây họp đùn đùn;

Chày sƣờn núi, nƣớc đâm thình thịch.

Đại đồng phong cảnh phú

- Non Xuân Sơn, cao thấp triều tây;

Sông Lôi Thủy quanh co nhiễu tả.

Ngàn tây chìa cánh phƣợng, dựng thửa hƣ không;

243

Thành nƣớc uốn hình rồng, dãi cùng dãy đá.

Đùn đùn non Yên Ngựa, mấy trƣợng khỏe thế kim

thang;

Cuồn cuộn thác Con Voi, chín khúc bền hình quan

tỏa…

Hình thế ấy khen nào còn xiết;

Phong cảnh này thực đã nên danh!

… vũng con con thả muống một bè;

…vƣờn mọn mọn trồng huyên mấy rạch.

Cảnh chắt chiu nƣơng đậu, nƣơng khoai;

Mùa đắp đổi hàng kê hàng mạch.

Cày lũng tuyết sớm giong đủng đỉnh, trải thung

chè, trèo đèo sở, nẻo tắt hình gối hạc ngẳng

nghiu;

Hái củi mây, hôm quẩy xênh xang, qua dặm liễu,

tới ngàn sâm, đƣờng uốn khúc ruột dê ngóc

ngách.

2 Nguyễn Giản Thanh Phụng thành xuân sắc phú

Nẻo họp châu xa, ngọc bạch, dân mến về chầu. (1482 – 1552)

Tộ mừng bàn thạch, Thái Sơn, thế bền khôn động.

Nƣớc yên vững đặt âu vàng;

Đất thịnh vốn chƣng thành Phụng…

Tuy đã nhiều non nhiều nƣớc, mạnh thửa thành

trì;

Sao bằng lấy nhân lấy nghĩa, bền làm phong vực.

3 Khuyết danh Việt sử diễn âm

-Dân ta bọc lấy để nay làm lề.

Năm ấy hồng thủy chỉn ghê,

Cấy cày chẳng đƣợc chợ quê mất mùa.

Thóc gạo chẳng có hòa mua,

Trời làm mất mùa dân khổ thƣơng bi.

244

-Sự làm cho lỗi chẳng bằng lòng dân.

-Dẹp đƣợc tám cõi biên man,

Nƣớc ta giàu có việc khoan dân rồi.

-Nhà Trần xƣa có đức lành,

Nền vua nhân hậu dõi sinh chúa hiền…

Trị vì thiên hạ bốn phƣơng,

Vạn dân phú thứ một dƣờng ấm no.

-Lấy nhân đổi ngƣợc đẹp lòng vạn dân.

Chữ rằng ứng thiên thuận nhân,

Lê hoàng thiện vị xa gần đều yên.

Dựng nghiệp thánh, kế thần truyền,

Mùa hè tháng sáu lên đền đăng quang.

-Trung hung khôi phục một lòng dấu dân.

-Giả mƣu lập Hoàng Vƣơng khi ấy,

Làm cho dân đâu đấy lầm than,

-Âu loan trợ nƣớc liều mình vực dân.

-Ân uy khắp mọi nơi đều mến

Đã thuận trời lại đến lòng dân.

4 Hà Nhậm Đại (1525 - ?) Khiếu vịnh thi tập

-Cốt nhục tƣơng tàn chính sĩ tiêu

Nội gia sủng đố ngoại gia kiêu

Hình hà chính thảm dân li khổ

Hựu thị Lê triều nhất ngọa triều

(Cốt nhục tàn sát lẫn nhau, chính khí kẻ sĩ tiêu tan

Họ nội hiềm khích oán ghét, họ ngoại lộng hành

Hình phạt hà khắc khuôn phép thảm thƣơng, dân li

tán khổ sở

Thật đúng là triều Lê có một ông vua nằm thiết

triều).

(Thơ vịnh Lê Uy Mục)

-Thế biến thiên di hận vị câm (cấm)

245

Túc tiêu đồ báo định thần tâm.

Lão phu bất thức tằng tri phủ,

Nhất phiến trung thành phó chuyển luân.

(Đời biến phải chạy loạn, hận chẳng cam,

Sớm khuya mƣu báo đáp, đã định trong lòng kẻ

làm tôi.

Lão phu chẳng hiểu rằng có ai biết cho mình

không,

Một tấm lòng trung thành phó cho chiếc bánh xe

lăn).

(Vịnh Nguyễn Hữu Nghiêm)

5 Vũ Cán (1475 - ?) Hạn điền câu (Tát nƣớc ruộng hạn)

Điền gia vọng vọng tích lƣỡng càn,

Câu cừ tranh huề cƣ thủy cụ.

Nhật dạ tòng sự bát thích gian,

Lão ông bộ nhi phu hoán phụ.

Ấp bỉ chú tƣ ký quyên trích,

Kết cao ninh từ ngƣỡng nhi phủ.

(Nhà nông cứ trông ngóng thở than vì hạn hán

nặng,

Đua nhau mang gầu ra ngoài rãnh tát nƣớc.

Ngày đêm quần quật với manh áo làm đồng,

Ông già mớm cơm cho trẻ, chồng gọi vợ đi làm.

Múc chỗ này đổ ra chỗ kia mong đƣợc từng giọt

nƣớc,

Gàu múc hết sấp lại ngửa nào có quản chi).

Tây đô thành hoài cổ (Bài 2) - Giáp Trƣng

Phủ tắc quân nhân ngƣợc tắc cừu,

Lão ô hà khổ dụng tà mƣu.

Tức chân tình hiện thời nan yểm,

Tác ngụy tâm lao nhật bất hƣu.

246

(Vỗ về chăm dân là bậc quân vƣơng, tàn ngƣợc là

kẻ thù,

Con quạ già việc gì phải dùng mƣu gian cho khổ.

Khi cái thực chất đã hiển hiện ra thì khó mà che

lấp cho đƣợc,

Toan tính việc gian trá, nhọc lòng hàng ngày

chẳng ngớt).

PHỤ LỤC 10: TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG HAI TÁC PHẨM

DIỄN CA LỊCH SỬ “THIÊN NAM MINH GIÁM” VÀ “THIÊN NAM NGỮ LỤC”

Những câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân Những câu thơ thể hiện tƣ tƣởng thân

dân trong Thiên Nam minh giám dân trong Thiên Nam ngữ lục

- Nối Hồng Bàng tới tuần họ Thục, - Khí thiêng tạo hóa có thƣờng,

Đời có ngƣời cổ phúc vạn dân. Sơn xuyên hiểm trở, phong cƣơng khỏe

- Hai Trƣng vì nghĩa thƣơng dân, bền.

Giận Tô quái gở cất quân trả hờn. Có ngƣời có vật tự nhiên,

Dấy một cơn rồng vƣơn hùm thét, Nhờ trong khí hóa hợp nên dân trời.

Nổi gió oai thổi hết loài gian. Hay đâu chữ nghĩa điều chƣơng,

Lạ thay đôi sức hồng nhan , Lấy dân làm cửa, lấy hang làm nhà.

Sau mƣơi thành lẻ đặt yên bằng tờ. - Năm mƣơi về mẹ bấy lâu,

Dựng ngôi báu cõi bờ bằng vững, Ngồi trên thế giới bảo nhau rằng vầy:

Phụng mệnh trời gái chẳng dám đƣơng. Binh Hùng anh cả trên này,

…Dạy dân lấy nghĩa thói vầy Lỗ Trâu. Làm vua ra trị nƣớc này muôn dân.

Đời rằng có bụt đâu ở thế? - Gái trai già trẻ đẹp lòng

- Đấng tôn thất khá khen Quốc Tuấn, Trị trong dân vật, mở cong vƣơng đồ.

Đuổi giặc Nguyên nhiều bận ra tay. - Muôn năm truyền dõi lâu xa,

Sau thiêng vì bởi trƣớc ngay, Hanh thông hội gặp, thái hòa thời đăng.

Một phen kiếm động nhiều ngày giặc kinh. Xa thƣ một mối lâng lâng,

- Phạm Ngũ Lão đã nên danh tƣớng, Dân không tập ngụy, vật không bắt càn

Chí hồng bằng mở lƣợng bể non… - Ân vƣơng sai tƣớng phá thành,

Quên mình vì nƣớc chẳng nài công phu. Binh dòng muôn đội, tƣớng tinh một

247

Nguyện chẳng tiếc trăng thu rong ruổi, nghìn.

Miễn chin trùng cao gối điện Nghiêu. Đạp bằng đất Việt sơn xuyên,

Xử lòng khả nghị ngƣời thiều, Có chẳng cho mọc, đƣờng nên tuyệt

Ra biên nhớ chúa vào triều dân trông. ngƣời.

- Lê Hoàng cất ba nghìn hùm soi, - Tự ấy Thái thú nƣớc Ngô,

Gối bác trời khua đuổi giặc Minh, Tên là Thạch Đái sang mà cƣớp dân.

Dƣới cờ những tƣớng hùng anh, Nào ai là kẻ cấm ngăn,

Vì dân lấy đức tuốt thành lấy oai. Thuế chẳng có ngần dịch chẳng có ngơi.

-Sánh văn võ ai bằng Nguyễn Phục? - Trăm bốn mƣơi tám năm ròng,

Trên ngay vua dƣới phúc vạn dân. Bắc sai sang nhậm, dân không còn ngƣời

Trời Nam làm đấng thƣợng thân, - Loạn Nam biết mấy mƣơi lần,

Nền vƣơng càng vững mạch dân càng dài. Dân nhƣ đậu bánh bóc dần mà ăn

- Nghĩ trong đời nhiều tệ ắt ghê. - Cƣớp ngƣời của chất bằng non,

Xấu danh nhục nƣớc hổ thì, Dân tựa gỗ tròn dầu mặc nẻo lăn

Dân đà chung khổ còn gì hòa đau. - Lạ thay ở huyện Tiên Du,

- Vâng mệnh trời vì dân đánh tội, Đất thiêng Phù Đổng sinh sơ một ngƣời.

Bốn phƣơng vầy một mối xa thƣ. Dung nhan diện mạo tót vời,

Ra oai mở đức chở che, Có tài trợ quốc, có tài cứu dân.

Dân về tựa nƣớc hiền về tựa non. - Chọn tài hào kiệt anh hùng,

-Rƣợu hằng treo khuyên thƣởng ba quân. Có mƣu hộ quốc có lòng vực dân.

An hem cùng sức giúp dân, - Kể từ Hùng tổ trị dân,

Một niềm đốc thực chín lần đã hay Lên ngôi sánh với thánh nhân Đào đƣờng.

Phù nghĩa công tài nay ai sánh? Tới nay Chu mạt Noãn vƣơng,

- Còn những đấng văn chƣơng biết lý, Ông cha con cháu giữ giàng trị dân.

Đông đầy triều khôn kể xiết xong. - Nam biên lại bẵng bằng tờ

Nguyên công Bùi công Lƣu công, Nằm dù ngó cửa, ở dù an thân.

Đấng dùng ích nƣớc đấng dùng chăn dân. - Muôn dân từ ấy khỏi hờn

- Bè bè nhúc nhúc dƣới loài, Nẻo sông khỏi lội, đƣờng non khỏi trèo.

Hổ chăng những đấng trên đời có danh? - Quét nhanh bụi bụi tro tàn,

Lộc nƣớc dành nuôi quân thƣởng sĩ, Thu về thay thảy giang sơn bản đồ.

Báo nộp về vàng để ruộng mua, - Bắc Nam quét sạch bằng tờ,

248

Dan tay kết đảng làm hồ, Dời binh thanh giá định đô Long Thành,

Vào toan luồn lọt ra lo hiếp ngƣời. Ngoài trần sa mạc quét thanh,

- Muôn dân nhà đủ ngƣời no, Âu vàng khỏe đặt, cung xanh vững vàng.

Cởi hờn vỗ dạ chẳng lo cửa cài. - Cầm quân ở đất Nam bang

-Khuyên văn vũ giữ then cầm mực, Dặn làm vƣơng cho chính an dân tình

Chớ tham giàu dại thác làm chi - Thôi bèn tƣớng sĩ khởi trình

Chƣớc nào thơm để thẻ kia, Vì dân ra sức đem binh dẹp loàn

Kẻo phen có sử khen chê rằng hèn. - Thôi liền ban tƣớc ban ân

…Việc nghèo hiềm khó khăn chớ ngại, Trên quan chỉ phí, dƣới dân an lòng

Kể chi khi nắng dãi mƣa mƣa rền. Hiệu xƣng là Triệu Việt Vƣơng

Miễn là nƣớc trị dân yên. Nƣớc khỏe, binh cƣờng, giặc hết an dân.

- Dân mừng xƣớng thái bình ca,

Đêm ngỡ những là ngày lại sáng lên

Mừng thay nƣớc trị dân yên

Anh thánh, em hiền bốn bể làm tôi

- Hoàn thành đƣa lại nƣớc ta,

Sơ cẵng lập miếu phụng thờ Dƣơng công.

Khắp hòa chƣ tƣớng ngoài trong,

Cùng sa nƣớc mắt cùng lòng xót xa.

- Toan nhau nói sự mở đồ,

Tập tành lớn dạy để hòa trị dân

- Đinh Hoàng từ đƣợc Trần quyền

Đức muôn vỗ chúng, ân nguyền trị dân

- Vua bèn xa giá hoàn kinh,

Muôn dân mừng rƣớc nhƣ quân rợp

đƣờng.

- Những sự thảm khốc ngƣời ta,

Lòng dân chẳng muốn bây giờ trừ đi.

Việc gì dân nghe thì nghe,

Bỏ lệ Kiệt, Trụ phản về Đƣờng Ngu.

- Trong làm kiệm ƣớc, ngoài trừ nhũng

249

gian,

Thuế mƣời thu một dân an

- Chúng yêu trời cũng lòng yêu giữ giàng

- Thƣơng dân giảm thuế quyên tô,

Luật lệnh dụng vừa, hình pháp dụng công.

- Thấy thƣơng dân ngậm ngùi ngùi

Lập thờ một miếu trợ ngƣời phải oan.

- Chính hình điều luật rõ ràng

Cấm đƣờng quyền thế, giới đƣờng lạm

dân.

- Sinh cầm Nguyên tƣớng họ Ô,

Thuyền Ngô chìm hết, quân Ngô tan tành.

Vua cùng chủ tƣớng hội binh,

Mừng khen Quốc Tuấn nên danh tƣớng

tài ….

Một nhà bốn bể sum vầy,

Thịnh nhƣ viêm hỏa, khỏe tày Thái Sơn.

- Bốn phƣơng dân những lo phiền,

Loạn ly biết thƣở nào yên nghiệp nhà

- Bấy giờ dân lại gian nan ghê đƣờng

- Dấy từ Hoàng Phúc binh sang

Lấy tài tƣớng địa làm đƣờng dạy dân

- Dặn dò vui nghiệp làm ăn

Lòng ngƣời đến hỏi, lòng dân dập dờn.

Ƣớc mong thống nhất hoàn nguyên

Nƣớc trong một mối dân an bốn bề

Kẻo còn kinh khủng loạn ly

Học thì thất nghiệp, nông thì thất cơ…

- Hƣơu thành đôi đứa càng đua

Dân nhƣ cá cạn thôi cò thì lƣơn

Lòng ngƣời thảm khốc trăm đƣờng

250

Đêm ngày trông thánh mở mang cõi bờ

-Tôi hiền chúa thánh, vui làm quy mô.

Muôn dân nhà đủ ngƣời no

Nƣớc lặng bằng tờ, trị khỏe bằng non

- Việc nào việc chẳng sửa xong

Dân nào dân chẳng đẹp lòng thuở an

- Dân an nệm chiếu ức muôn,

Vật chẳng gầy mòn ngƣời chẳng gian tanh