BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC SƢ PHẠM HÀ NỘI ĐINH THỊ PHƢƠNG THU TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TRUNG ĐẠI VIỆT NAM TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII Chuyên ngành: Văn học Việt Nam Mã số: 9.22.01.21 TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN (Chuyên ngành Văn học Việt Nam) HÀ NỘI - 2020

Công trình đƣợc hoàn thành tại: Khoa Ngữ văn, Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: GS.TS. Lã Nhâm Thìn

Phản biện 1: PGS.TS. Biện Minh Điền - Trường Đại học Vinh Phản biện 2: PGS.TS. Lê Thời Tân - Trường Đại học Thủ đô Hà Nội Phản biện 3: PGS.TS. Dương Tuấn Anh - Trường Đại học Sư phạm Hà Nội

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Trường họp tại Trường Đại học Sư phạm Hà Nội, số 136 Xuân Thủy, Cầu Giấy, Hà Nội Vào hồi …….giờ ……..phút, ngày …… tháng……. năm 2020.

Có thể tìm hiểu luận án tại: - Thư viện Quốc Gia Việt Nam, Hà Nội. - Thư viện Trường Đại học Sư phạm Hà Nội.

1

MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài

1.1. Về khoa học

Tư tưởng thân dân là một tư tưởng lớn trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Nhận

thức về vai trò, sức mạnh của dân đối với sự tồn vong, phát triển của mỗi quốc gia, dân

tộc và định ra những đường lối chính trị, chính sách xã hội tiến bộ theo hướng thân

dân là một quá trình lâu dài trong lịch sử tư tưởng Việt Nam. Tư tưởng thân dân trong

văn học trung đại Việt Nam có những đặc điểm riêng so với văn học hiện đại. Trải qua

quá trình phát triển thăng trầm của các triều đại phong kiến, các thế hệ Nho sĩ trí thức

trung đại đã tiếp thu nguồn ảnh hưởng của hệ tư tưởng Nho, Phật, Đạo đồng thời kết

hợp với tinh thần dân tộc, tinh thần thời đại để đem đến cho văn học những màu sắc

phong phú của tư tưởng thân dân. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại từ thế kỉ

X đến hết thế kỉ XVII phản ánh những vấn đề lớn của lịch sử tư tưởng Việt Nam, văn

học Việt Nam. Tìm hiểu tư tưởng thân dân góp phần tìm hiểu sâu hơn những vấn đề về

tác giả, tác phẩm, những qui luật phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Với

những ý nghĩa đó, luận án lựa chọn đề tài Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại

Việt Nam từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII.

1.2. Về thực tiễn

Văn học trung đại được giảng dạy với số lượng lớn ở nhà trường từ phổ thông

đến đại học, đặc biệt là nhóm tác phẩm văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII liên

quan đến vấn đề tư tưởng thân dân. Đề tài có ý nghĩa thiết thực trong việc vận dụng

vào thực tiễn dạy - học và tiếp cận văn bản tác phẩm văn học trung đại. Đề tài từ góc

độ văn học góp phần lí giải những vấn đề đặt ra trong cuộc sống. Nhân dân vừa là chủ

thể lịch sử, vừa là động lực của sự phát triển xã hội. Vì vậy, bất cứ một giai cấp cầm

quyền nào muốn duy trì được sự ổn định của mình thì phải gắn bó với dân, phải có

chính sách dưỡng dân, giáo dân phù hợp. Việc đánh giá đúng đắn vị trí và vai trò của

dân trong lịch sử có ý nghĩa quan trọng đến sự tồn vong của mỗi hình thái xã hội trong

lịch sử, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt quá trình xây dựng, phát triển đất nước. Với những lý

do trên, đề tài có tính cần thiết, thời sự, khoa học và thực tiễn.

2

2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

2.1. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của đề tài nghiên cứu là làm nổi bật tư tưởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến thế kỉ XVII với sự vận động mang tính lịch sử qua

các giai đoạn với những khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu biểu. Trong đó, luận án

tập trung phân tích, lý giải căn rễ của tư tưởng thân dân, những nội dung cơ bản của tư

tưởng thân dân, xác định đặc trưng cũng như khả năng tiếp nối, phát triển trong quá

trình vận động của tư tưởng này qua các giai đoạn. Tư tưởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam gợi những bài học về tư tưởng thân dân trong thời hiện đại.

2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

Để đạt được mục đích nghiên cứu, luận án tập trung vào những nhiệm vụ

nghiên cứu chủ yếu: - Khái niệm dân và tư tưởng thân dân. Tiêu chí xác định tư tưởng

thân dân trong tác phẩm văn học; - Nghiên cứu những nội dung biểu hiện của tư tưởng

thân dân trong từng giai đoạn văn học với các khuynh hướng, tác giả, tác phẩm tiêu

biểu; - Đánh giá về đặc điểm của tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam giai

đoạn X - XVII, sự vận động phát triển của tư tưởng thân dân trong tiến trình lịch sử; -

Nghiên cứu những phương diện nghệ thuật thể hiện tư tưởng thân dân khi cần thiết.

3. Đối tƣợng nghiên cứu và phạm vi tƣ liệu khảo sát

3.1. Đối tượng nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của luận án là tìm hiểu tư tưởng thân dân trong văn học

trung đại Việt Nam theo giai đoạn văn học với những khuynh hướng, tác giả, tác phẩm

tiêu biểu của văn học trung đại từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Ở bốn thế kỷ đầu, chủ

yếu tập trung khảo sát các tác giả thời Lí - Trần. Tư tưởng thân dân trong văn học thế

kỷ XV thể hiện qua sáng tác của các nhà văn thời kì khởi nghĩa Lam Sơn, thời Hồng

Đức. Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỷ XVI với các tiêu biểu là Nguyễn Bỉnh

Khiêm; Phùng Khắc Khoan; thế kỉ XVII với các tác phẩm Thiên Nam minh giám,

Thiên Nam ngữ lục,...

3.2. Phạm vi tư liệu khảo sát

Tác giả luận án sẽ khảo sát tập trung những sáng tác của các tác giả thể hiện tư

tưởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Các nguồn tư liệu chính mà chúng tôi

lấy làm căn cứ để sử dụng trong quá trình nghiên cứu là: Thơ văn Lí - Trần [12,13,16];

Tổng tập văn học Việt Nam [116,134]; Nguyễn Trãi toàn tập [94]; Nguyễn Trãi toàn

tập. Tân biên [95,96,97]; Thơ chữ Hán Lê Thánh Tông [52]; Hồng Đức quốc âm thi

3

tập [42]; Tuyển tập thơ phú thời Mạc [184]; Toàn Việt thi lục [45]; Thơ văn Nguyễn

Bỉnh Khiêm (Tổng tập) [164]; Phùng Khắc Khoan, Hợp tuyển thơ văn [129]; Thiên

Nam ngữ lục - Diễn ca lịch sử [117]; Thiên Nam minh giám [47]. Ngoài văn học viết

luận án còn khảo sát thêm cả văn học dân gian.

4. Phƣơng pháp nghiên cứu

Luận án sử dụng những phương pháp nghiên cứu chủ yếu sau: Phương pháp

lịch sử cụ thể; Phương pháp nghiên cứu liên ngành; Phương pháp so sánh; Phương

pháp hệ thống.

5. Đóng góp mới của luận án

Luận án được hoàn thành sẽ có những đóng góp sau: - Xác lập và phân tích

những tiền đề của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XVII;

Làm sáng rõ sự vận động mang tính lịch sử của tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ

thứ X - hết thế kỉ XVII, sự kế thừa, tiếp nối và phát triển của tư tưởng thân dân qua các

giai đoạn thế kỉ X - thế kỉ XIV; thế kỉ XV; thế kỉ XVI - thế kỉ XVII; - Phân tích nội

dung tư tưởng thân dân ở từng giai đoạn, ở một số tác giả, tác phẩm tiêu biểu; - Từ tư

tưởng thân dân, luận án góp phần làm rõ hơn một số vấn đề mang tính quy luật trong

sự phát triển của văn học trung đại Việt Nam; - Luận án là tài liệu tham khảo có ý

nghĩa và thiết thực đối với công việc nghiên cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt

Nam, đồng thời có thể hữu ích với những người làm công tác xã hội quan tâm tới tư

tưởng thân dân.

6. Cấu trúc luận án

Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục Tài liệu tham khảo và Phụ lục, luận

án nội dung chính của luận án được triển khai thành năm chương như sau: Chương 1:

Tổng quan tình hình nghiên cứu và một số vấn đề liên quan đến đề tài (15 trang, từ trang 7

đến trang 22); Chương 2: Những tiền đề của tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ

X đến hết thế kỉ XVII (14 trang, từ trang 23 đến trang 37); Chương 3: Tư tưởng thân

dân trong văn học từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV (41 trang, từ trang 38 đến trang 79);

Chương 4: Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỉ XV (34 trang, từ trang 80 đến trang

114); Chương 5: Tư tưởng thân dân trong văn học từ thế kỉ XVI đến hết thế kỉ XVII

(34 trang, từ trang 115 đến trang 149).

4

Chƣơng 1

TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU

VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Giới thuyết khái niệm dân và tƣ tƣởng thân dân

1.1.1. Giới thuyết khái niệm dân

Chúng tôi đã truy xuất khái niệm dân bắt nguồn từ nghĩa gốc Hán, từ trong các

sách Từ điển tiếng Việt, đồng thời tìm hiểu kĩ khái niệm này theo quan niệm của Nho

giáo và sự mở rộng nội hàm của khái niệm dân theo quan niệm hiện đại. Từ những

điều đã trình bày ở trên, tác giả luận án xin rút ra mấy điểm chung về khái niệm dân (ở

đây là trong thời trung đại, bởi tư tưởng “thân dân” mà luận án nghiên cứu gắn với

thời này) với ý nghĩa khoa học sau: Dân là một khái niệm xuất hiện và tồn tại khi xã

hội có giai cấp, có nhà nước, dùng để chỉ những người lao động bình thường, đông

đảo, không có chức quyền và tương phản với những người cầm quyền ở các địa bàn

lãnh thổ, các nghề nghiệp khác nhau trong lĩnh vực sản xuất vật chất và hoạt động tinh

thần của một xã hội nhất định. Do đó, khái niệm dân mang màu sắc và ý nghĩa chính

trị khá rõ rệt, phần nào phản ánh được các mối quan hệ xã hội. Trong xã hội phong

kiến, tuy không còn bị xem là những công cụ lao động biết nói nhưng dân vẫn nằm

trong điạ vị phụ thuộc mà chế độ phong kiến Trung Quốc gọi là “thần dân”. Trong xã

hội hiện đại, vai trò của người dân mới được nhận thức đầy đủ hơn. Người dân được

đặt trong mối quan hệ về mặt quyền lợi và nghĩa vụ với nhà nước. Người dân có quyền

bầu cử, bầu ra những người xứng đáng vào bộ máy nhà nước, có thể đại diện cho

quyền lợi của mình thì khi đó dân mới có tư cách là công dân.

1.1.2. Giới thuyết khái niệm tư tưởng thân dân

Trên cơ sở tìm hiểu khái niệm tư tưởng thân dân theo quan niệm Nho giáo, luận

án đề xuất nội hàm cơ bản của khái niệm tư tưởng thân dân như sau: Tư tưởng thân

dân được hiểu là quan niệm, nhận thức về dân, cách ứng xử với dân theo hướng: gần

gũi, gắn bó với dân; thương dân, đề cao sức mạnh của dân (trọng dân), ơn dân. Tính

chất phức tạp, nhiều chiều trong khái niệm tư tưởng thân dân còn thể hiện ở việc xác

định chủ thể của tư tưởng thân dân. Đây là tư tưởng của giai cấp thống chí và của cả

các sĩ phu, nho sĩ trí thức. Tầng lớp thống trị dùng tư tưởng này để quản trị đất nước.

Tư tưởng thân dân của các sĩ phu - trí thức phong kiến thì trong tư tưởng ấy có gửi

gắm những mong ước, khát vọng của quần chúng. Vì vậy, nội hàm “tư tưởng thân

dân” ở từng triều đại tương ứng với khái niệm “dân” ở mỗi thời, qua đó cũng thể hiện

5

trình độ, nhận thức của tầng lớp “quân tử” thời ấy. Qua tư tưởng thân dân, có thể đánh

giá được sự tiến bộ, văn minh hay bảo thủ, lạc hậu của các triều đại.

1.1.3. Tiêu chí xác định tư tưởng thân dân trong tác phẩm văn học

Từ việc phân tích các mối quan hệ, các bình diện, các khía cạnh khác nhau

trong khái niệm dân và tư tưởng thân dân, luận án xác định tìm hiểu tư tưởng thân dân

trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII với các nội dung:

Tư tưởng thân dân thể hiện một cách trực tiếp là khi nói đến người dân, đây là nội

dung chủ yếu mà đề tài quan tâm nghiên cứu. Tư tưởng thân dân thể hiện một cách

gián tiếp là khi viết về đất nước, xã hội,… nhưng qua đó gửi gắm nguyện vọng về

cuộc sống của người dân. Khi viết về người dân trong cảnh đói khổ nhưng đồng thời

bày tỏ niềm mơ ước về một đất nước hòa bình, thịnh vượng để người dân đỡ khổ. Vì

thế, có những trường hợp, tư tưởng thân dân và tư tưởng yêu nước giao thoa với nhau.

Tuy nhiên, đây lại là hai phạm trù bởi lẽ, tư tưởng thân dân nhìn từ góc độ mục đích

viết về người dân cơ bản đứng trên lập trường nhân bản - nhân đạo về quyền sống con

người. Còn tư tưởng yêu nước về cơ bản đứng trên lập trường dân tộc.

Luận án của chúng tôi đề cập đến tư tưởng thân dân trong văn học tập trung qua

ba phương diện: Thứ nhất, thân dân là thương dân (ái dân). Đây là nền tảng cũng là

gốc rễ của tư tưởng thân dân. Thứ hai, thân dân là trọng dân, tức là đề cao người dân,

coi trọng vai trò, vị trí của người dân; coi dân là gốc của nước. Trọng dân thì mới phát

huy được sức mạnh của dân. Do đó, trọng dân là mức độ thứ hai, tiến lên một bước

khi nhận ra vai trò, ý nghĩa của dân trong kiến tạo xã hội. Thứ ba, thân dân là ơn dân.

Khi giới cầm quyền biết “ơn dân” là vị thế của dân đã được đánh giá cao và được tôn

trọng thật sự. Thái độ “biết ơn” dân là thái độ của kẻ dưới đối với người trên. Chỉ khi

có nhận thức cao mới có suy nghĩ và tình cảm biết ơn này và khi “biết ơn” mới có cách

hành xử, đối xử tương ứng. Về cơ bản nội dung này chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tư

tưởng của Nguyễn Trãi về dân là tư tưởng vượt lên thời đại ông và rất có ý nghĩa đối

với thời hiện đại khi mà vai trò và vị trí cũng như nhận thức về dân đã có những bước

tiến bộ vượt bậc.

1.2. Tổng quan tình hình nghiên cứu

Nhìn chung có những hướng nghiên cứu sau liên quan tới đề tài của luận án:

6

1.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân từ góc độ tư tưởng, triết học, lịch sử liên quan tới

đề tài

Có thể kể tới các tài liệu tiêu biểu sau: Lịch sử tư tưởng Việt Nam của nhà

nghiên cứu Nguyễn Đăng Thục; Tư tưởng phương Đông gợi những điểm nhìn tham

chiếu của tác giả Cao Xuân Huy; Tư tưởng Việt Nam thời Trần (2014) của Trần

Thuận; Khái lược lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam (2016) của nhà nghiên cứu

Nguyễn Tài Đông, Nguyễn Tài Thư; Vấn đề con người trong lịch sử tư tưởng Việt

Nam thế kỉ XV- XVIII của tác giả Nguyễn Bá Cường, Đại Việt sử ký toàn thư,.… Nhìn

chung, các nhà nghiên cứu về lịch sử tư tưởng Việt Nam một mặt chỉ ra rằng “thân

dân” là một tư tưởng lớn của thời đại, nó có liên quan chặt chẽ với lịch sử, tư tưởng,

văn hóa, triết học, tôn giáo, đặc biệt là Nho giáo, Phật giáo, mặt khác, tư tưởng thân

dân còn là tinh hoa trong truyền thống yêu nước, nhân đạo và văn hóa Việt Nam được

kết tinh trong sáng tác của nhiều tác gia lớn trong văn học trung đại Việt Nam.

1.2.2. Nghiên cứu tư tưởng thân dân trong văn học

1.2.2.1. Nghiên cứu tư tưởng thân dân trong sự phát triển của lịch sử văn học Việt

Nam

Nhìn chung, các công trình nghiên cứu về lịch sử văn học trung đại Việt Nam

đều coi tư tưởng thân dân là một truyền thống trong văn học Việt Nam. Có thể kể đến

các tài liệu nghiên cứu của tác giả Đinh Gia Khánh trong Hợp tuyển Văn học Việt Nam

từ thế kỉ X - XVII (1962); Văn học Việt Nam (Thế kỉ X - nửa đầu thế kỉ XVIII) (1978);

Văn chương Nguyễn Trãi (1984) của Bùi Văn Nguyên; Văn học trung đại Việt Nam

dưới góc nhìn văn hóa (2003) của Trần Nho Thìn. Văn học trung đại Việt Nam, Tập 1,

(2006) của Đinh Thị Khang; Văn học trung đại Việt Nam (Thế kỉ X - cuối thế kỉ XIX)

(2006) của Đoàn Thị Thu Vân,…Vấn đề tư tưởng thân dân đã được các nhà nghiên

cứu chú ý nhưng mới đặt ra ở mức độ sơ lược, khái quát vì đó chưa phải là những công

trình nghiên cứu chuyên sâu về tư tưởng thân dân trong văn học. Điểm mới trong

nghiên cứu của chúng tôi là nhìn nhận thấu đáo hơn tư tưởng thân dân ở những tác giả,

tác phẩm văn học cụ thể.

1.2.2.2. Nghiên cứu về các tác gia văn học, đặc biệt là các tác gia lớn có đề cập đến tư

tưởng thân dân

Nghiên cứu về tư tưởng thân dân từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII chúng tôi

nhận thấy các công trình, tài liệu nghiên cứu tập trung bàn luận đến các tác gia lớn là

Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh, Nguyễn Trãi, Lê Thánh Tông, Nguyễn Bỉnh

7

Khiêm, Phùng Khắc Khoan, …Nhìn chung các ý kiến đều đánh giá cao sự kết tinh tư

tưởng thân dân sâu sắc của các nhà nho trung đại ở các khía cạnh tiêu biểu: thương

dân, trọng dân - đề cao dân và thể hiện trách nhiệm đối với dân.

Tiểu kết chƣơng 1

Từ chỗ giới thuyết các khái niệm và thuật ngữ, chúng tôi đã mô tả tình hình

nghiên cứu vấn đề tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỉ X đến

hết thế kỉ XVII theo ba hướng chủ yếu: nghiên cứu về tư tưởng thân dân trong lịch sử

tư tưởng Việt Nam; nghiên cứu về tư tưởng thân dân trong sự phát triển của lịch sử

văn học Việt Nam; nghiên cứu tư tưởng thân dân ở các tác gia văn học, đặc biệt là các

tác gia lớn của văn học trung đại Việt Nam. Những công trình khảo sát lớn, vừa hay

nhỏ đều có ý nghĩa to lớn đối với người nghiên cứu trong quá trình thực hiện đề tài.

Chƣơng 2

NHỮNG TIỀN ĐỀ CỦA TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC

TỪ THẾ KỶ X ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII

2.1. Tiền đề lịch sử, xã hội của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến

hết thế kỉ XVII

2.1.1. Lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc

Quá trình dựng nước và giữ nước của cha ông ta luôn đề cao tư tưởng thân dân,

coi khoan thứ sức dân là một quốc sách và thượng sách giữ nước. Từ xa xưa thân dân

được thể hiện qua những truyền thuyết về thời các vua Hùng đến thời Thục An Dương

Vương, thời Trưng Nữ Vương,... Suốt từ thế kỉ X đến thế kỉ XV, lịch sử đã đặt nước

Đại Việt độc lập trong tình thế luôn luôn phải đối phó với chiến tranh xâm lược từ phía

Bắc và phía Nam. Tuyệt đại đa số những vị vua sáng nghiệp được ca ngợi là những

người yêu nước, có tài năng và đức độ, có tinh thần thân dân, lấy việc “ái dân trị quốc”

làm đầu. Trong công cuộc xây dựng chính quyền phong kiến, về cơ bản giai cấp phong

kiến biết dựa vào sức mạnh của nhân dân, phát huy truyền thống yêu nước để xây

dựng và bảo vệ quốc gia, dân tộc.

2.1.2. Chế độ giáo dục, khoa cử

Thế kỉ X - XIV là giai đoạn đầu xây dựng Nhà nước phong kiến Việt Nam. Các

vị vua của cả triều Lí và triều Trần đều chú trọng đến giáo dục và tổ chức các cuộc thi

để tuyển chọn người tài giúp dân, giúp nước. Triều đình đã mở rộng Quốc tử giám để

đào tạo con em quý tộc, quan lại. Hơn nữa, việc học còn được mở rộng đến người dân,

8

con em thứ dân nếu có tài năng cũng được theo học, đỗ đạt sẽ được bổ nhiệm làm

quan. Các kì thi được tổ chức đều đặn để tuyển chọn nhân tài giúp nước, giúp dân.

Sang thế kỉ XV, Nho giáo thịnh trị thì triều đình nhà Lê càng chú trọng đến giáo dục,

thi cử, khuyến khích nhân tài ra giúp nước. Thành phần học trong Quốc tử giám được

mở rộng, việc sử dụng nhân tài không câu nệ vào đẳng cấp mà hướng đến cả người

dân. Thế kỉ XVI - XVII, tuy chế độ phong kiến trên đà suy thoái nhưng việc học, việc

thi vẫn được các tập đoàn phong kiến coi trọng. Nhà Mạc ngay sau khi xây dựng triều

chính, nhanh chóng tổ chức thi cử để chọn nhân tài. Nho giáo vẫn được đề cao, tầng

lớp nho sĩ, những người vốn đắc lực cho Nhà nước phong kiến vẫn được trọng dụng.

2.2. Tiền đề tƣ tƣởng, văn hóa của tƣ tƣởng thân dân trong văn học từ thế kỉ X đến

hết thế kỉ XVII

2.2.1. Tín ngưỡng bản địa và văn hóa dân gian

Nền văn hóa cổ truyền dân tộc và tín ngưỡng dân gian chính là nguồn sức mạnh

to lớn, là cơ sở để người Việt cổ chống lại sự “Hán hóa” suốt một ngàn năm Bắc thuộc

của phong kiến Trung Hoa. Những hình thức tín ngưỡng sinh hoạt tâm linh mang màu

sắc bản địa, luôn chiếm một vị trí quan trọng trong đời sống tinh thần của đại bộ phận

cư dân Việt. Cùng với tín ngưỡng văn hóa bản địa, những cơ sở tư tưởng cũng đã sớm

xuất hiện từ thời dựng nước: yêu nước và thương người hay tư tưởng yêu nước, tư

tưởng nhân văn, nhân đạo. Những câu chuyện truyền thuyết, cổ tích được lưu truyền

chính là bằng chứng sắc nét về sự phong phú của tư tưởng, tâm hồn người Việt. Văn

hóa dân gian luôn luôn được tiếp thu, bồi đắp để xây dựng văn hóa chính thống của

Nhà nước Đại Việt qua các triều đại. Từ các nhân tố của văn hóa, tín ngưỡng dân gian

truyền thống và sức sống nội tại của tinh thần dân tộc đã tạo nên nét riêng trong đạo lí

làm người của người Việt. Từ xa xưa, trong kho tàng văn học dân gian , nhân dân lao

động vừa là tập thể sáng tác văn học vừa là “nhân vật” trung tâm của đời sống xã hội.

Truyền thống của người Việt Nam bao đời nay luôn coi trọng con người. Họ đề cao lối

sống thủy chung, tình nghĩa; đề cao tinh thần đoàn kết, yêu thương gắn bó giữa gia

đình, làng xóm với cộng đồng, xã hội, dân tộc,… Những quan niệm đó được diễn tả

súc tích qua nhiều câu thành ngữ, tục ngữ, ca dao, qua các câu chuyện truyền thuyết

đậm giá trị nhân văn.

9

2.2.2. Nho giáo và tư tưởng thân dân

Trong nội dung của Nho giáo, chứa đựng các học thuyết, tư tưởng, đề cập đến

nhiều lĩnh vực, nhiều mặt của đời sống xã hội và con người, trong đó có tư tưởng về

dân và vai trò, vị trí của người dân như “Dân vi bang bản”, “Dân vi quý, xã tắc thứ

chi, quân vi khinh”,… Ảnh hưởng tư tưởng về dân của Nho giáo thể hiện khá cụ thể

trong tư tưởng nhân chính, nhân nghĩa; đường lối cai trị, quản lý xã hội, pháp luật và

việc thực hiện những chủ trương chính trị lớn của đất nước như việc dời đô, kế vị ngôi

báu, phát động kháng chiến chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ độc lập dân tộc, xây dựng

và phát triển bộ máy Nhà nước, kiến lập và thực thi pháp luật, giáo dục - khoa cử, xây

dựng và phát triển đất nước,… Bên cạnh việc phát huy những yếu tố khả thủ của Nho

giáo thì việc đưa những tư tưởng tích cực của quần chúng như tư tưởng thân dân, chủ

trương nhập thế, nêu cao phẩm chất, khí tiết trong sạch của kẻ sĩ,…đã khiến cho tư

tưởng Nho học ngày càng có vị trí và vai trò to lớn hơn, nhiều mặt hơn trong đời sống,

tư tưởng của người Việt.

2.2.3. Phật giáo và tư tưởng thân dân

Đạo Phật chủ trương bình đẳng, từ bi, bác ái. Từ bi, bác ái của Phật làm cho

lòng thương dân, thương người phong phú, tốt đẹp hơn. Những tư tưởng và hạt nhân

tích cực của giáo lí Phật giáo được người Việt Nam tiếp thu và truyền bá một cách

rộng rãi trong đời sống xã hội. Phật giáo chính là một tiền đề tôn giáo quan trọng của

tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam trong nhiều thế kỉ. Tinh thần bình

đẳng và bác ái của đạo Phật tìm thấy sự hòa điệu với tinh thần dân chủ, nhân ái truyền

thống có từ buổi đầu dựng nước là một ví dụ. Không những thế, khi chọn hệ tư tưởng

này, các nhà trí thức của dân tộc còn lọc ra từ nó cái gì cần thiết nhất cho thời đại và

luôn chú ý vận dụng vào thực tiễn đời sống. Bằng quan điểm thân dân, họ đã tập hợp

được sức mạnh vĩ đại của quần chúng trong công cuộc bảo vệ độc lập dân tộc và phát

triển đất nước.

Tiểu kết chƣơng 2

Ở chương 2, luận án đã nghiên cứu, lí giải lịch sử, xã hội là cơ sở hình thành tư

tưởng thân dân trong văn học từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII. Lịch sử của cha ông ta

ngay từ những ngày đầu dựng nước đã nổi bật lên đặc thù là sự gắn kết cộng đồng.

Qua các triều đại phong kiến ở nước ta, có những bậc đế vương rất nhân từ, thương

dân, trọng dân, đề cao “đức trị” trong việc chăm lo muôn dân, cho nên vừa cố kết được

lòng dân, vừa đảm bảo được sự bền vững, thịnh trị lâu dài của vương triều. Luận án

10

cũng chỉ ra ảnh hưởng của tiền đề tư tưởng, văn hóa tới tư tưởng thân dân trên các khía

cạnh: tín ngưỡng bản địa, văn hóa dân gian; hệ tư tưởng Nho giáo, Phật giáo và chế độ

khoa cử, giáo dục của các triều đại phong kiến ở nước ta trong các thế kỉ X - XVII. Tín

ngưỡng bản địa, văn hóa, văn học dân gian truyền thống không chỉ tạo nên sức sống

nội tại của tinh thần dân tộc mà còn tạo nên nét riêng trong tư tưởng thân dân của

người Việt. Nền giáo dục, khoa cử của các triều đại phong kiến luôn luôn được quan

tâm ngay trong hoàn cảnh chống ngoại xâm. Chính sách cầu hiền tài, coi “hiền tài là

nguyên khí của quốc gia” khiến cho tầng lớp thứ dân cũng được học, được bổ nhiệm

làm quan khi đỗ đạt. Điều đó tạo nên điều kiện thuận lợi để đất nước có những danh sĩ,

trí thức tài năng cống hiến cho nhân dân.

Chƣơng 3

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC

TỪ THẾ KỈ X ĐẾN HẾT THẾ KỈ XIV

3.1. Khái quát về tƣ tƣởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam

Bức tranh toàn cảnh về tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam được

biểu hiện phong phú, chúng tôi nhìn nhận đối tượng theo tiến trình vận động lịch sử. Ở

từng giai đoạn văn học sẽ xuất hiện những tác giả, tác phẩm lớn và những khuynh

hướng khác nhau. Văn học trung đại Việt Nam mở ra từ thế kỉ X đến hết thế kỉ XIV

kéo dài thịnh vượng nhất trong thời đại Lí - Trần. Văn học giai đoạn này đã hướng đến

nội dung phản ánh công cuộc đấu tranh bảo vệ nền độc lập dân tộc, các vương triều

phong kiến Việt Nam không ngừng củng cố, phát triển đất nước, giai cấp phong kiến

có những tư tưởng tiến bộ về cơ bản đi theo nguyện vọng của người dân. Văn học

trung đại Việt Nam có bước chuyển tiếp theo ở thế kỷ XV, bên cạnh những điểm tiếp

nối tư tưởng thân dân của văn học Lí - Trần, văn học thế kỉ này tập trung phản ánh kì

tích của vương triều nhà Lê trong cuộc kháng chiến chống quân Minh, ca ngợi sức

mạnh thời đại và truyền thống dân tộc, sự phát triển ổn định, thịnh trị của vương triều

phong kiến qua những tác phẩm thơ, phú, văn chính luận cả về chữ Hán và chữ Nôm

đều đạt được thành tựu xuất sắc. Sang thế kỉ XVI - XVII, giai cấp phong kiến Việt

Nam bước vào thời kỳ khủng hoảng. Thời Lê sơ, Lê Mạc giai cấp phong kiến có

những lúc đi ngược lại quyền lợi của người dân. Tư tưởng thân dân giai đoạn này gắn

với sự trỗi dậy của tinh thần dân tộc, đi từ âm điệu ngợi ca vương triều phong kiến

sang âm hưởng phê phán hiện thực xã hội, đấu tranh chống lại sự suy thoái của chế độ

11

phong kiến vì quyền lợi của nhân dân. Khi chế độ phong kiến suy thoái dẫn đến suy

vong, về cơ bản đi ngược lại quyền lợi của người dân thì tư tưởng thân dân trong văn

học thế kỉ XVIII - thế kỉ XIX tập trung ở tư tưởng nhân đạo vì quyền sống của người

dân, xây dựng hình tượng người nông dân anh hùng trong cuộc kháng chiến chống

xâm lược. Nổi bật trong tư tưởng thân dân của văn học giai đoạn này là niềm thương

cảm đối với người dân, hướng về những con người nhỏ bé, đau khổ, những con người

bị áp bức; ước mơ về công lí chính nghĩa của nhân dân, mong ước cuộc sống hạnh

phúc và tương lai tươi sáng cho nhân dân. Nội dung đó được thể hiện trong những tác

phẩm thơ ca, khúc ngâm, tiểu thuyết chương hồi, văn tế… Trong môi trường quân chủ

chuyên chế, tư tưởng thân dân về cơ bản mang tính phê phán thực trạng xã hội phong

kiến và rất ít đề cập đến nhân nghĩa. Đây là bước chuyển tiến bộ của tư tưởng thân dân

trong giai đoạn cuối cùng của văn học trung đại. Tư tưởng thân dân không chỉ là vấn

đề có ý nghĩa ở thời trung đại mà nó còn được kế thừa, phát triển xuyên suốt trong suốt

tiến trình của lịch sử văn học Việt Nam. Tư tưởng thân dân tiếp tục được quan tâm và

vận dụng linh hoạt trong sự nghiệp đổi mới đất nước hiện nay. Tinh thần “lấy dân làm

gốc” đã và đang phát huy mạnh mẽ vai trò của quần chúng nhân dân, tạo nên động lực

lớn lao đối với sự phát triển của đất nước.

Chúng tôi lựa chọn nghiên cứu tư tưởng thân dân từ thế kỉ X đến hết thế kỉ

XVII là bởi lẽ trong suốt tám thế kỉ văn học gắn với năm triều đại phong kiến này, tư

tưởng thân dân đã có một quá trình vận động, phát triển với những nét riêng, vừa kế

thừa lại vừa nối tiếp liên tục từ giai đoạn này sang giai đoạn khác nhưng cũng có một

số điểm cơ bản chung mang tính quy luật của tư tưởng thân dân trong văn học trung

đại Việt Nam. Điều này đã được chúng tôi phân tích cụ thể và tổng hợp qua từng giai

đoạn văn học ở những nội dung tiếp theo của luận án. Tư tưởng thân dân hình thành

trong suốt chiều dài tám trăm năm của văn học đã trở thành sản phẩm tinh thần đầy tự

hào, làm nên hồn cốt sức mạnh của dân tộc Việt Nam.

3.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Lí

3.2.1. Trọng dân và hướng tới ước nguyện của người dân

Ca ngợi tấm lòng thương dân sâu sắc, luôn chăm lo cho cuộc sống nhân dân no

ấm, thịnh trị là một nội dung nổi bật của văn học đời Lí. Thời đại này, đi đôi với nhiệm

vụ bảo vệ độc lập dân tộc trước các thế lực ngoại xâm phương Bắc, là nhiệm vụ xây

dựng và củng cố vương quyền, chế độ, tạo lập cuộc sống thanh bình, no ấm cho nhân

12

dân. Xây dựng đất nước cường thịnh đồng nghĩa với việc có một vương triều hợp lòng

dân. Đất nước muốn yên ổn, đời sống muôn dân muốn an vui, no ấm, trước hết cần có

những người lãnh đạo tốt, những nhà lãnh đạo đúng. Đó là yêu cầu, là nguyện vọng,

mong muốn của nhân dân. Vì thế, việc thay đổi nhà Tiền Lê đã suy yếu, việc lựa chọn

và ủng hộ nhà Lí lên lãnh đạo đất nước là tất yếu, phù hợp với ý nguyện của nhân dân,

cũng như của mọi tầng lớp người trong xã hội. Các tác phẩm trực tiếp đề cập đến vấn

đề này về thơ có Quốc tự (Chữ “quốc”), Yết bảng thị chúng (Treo bảng nói rõ với mọi

người) của Nguyễn Vạn Hạnh (Thiền sư Vạn Hạnh); Nam quốc sơn hà (Khuyết danh).

Về văn chính luận có Khuyến Lí Công Uẩn (Khuyên Lí Công Uẩn), Xá thuế chiếu

(Chiếu xá thuế) của Lí Thái Tông; Ngộ đại hàn, vị tả hữu bách quan (Gặp tiết đại hàn,

bảo các quan tả hữu) của Lí Thánh Tông; Cố động Thiên công chúa, vị ngục lại (Nhìn

công chúa Động Thiên, bảo ngục lại); Lâm chung di chiếu (Chiếu để lại lúc sắp mất)

của Lí Nhân Tông,… Hai tác phẩm chính luận tiêu biểu nhất thể hiện rõ tư tưởng thân

dân thời Lý là: Thiên đô chiếu của Lí Công Uẩn (974 - 1028) và “Phạt Tống lộ bố

văn” (Bài văn lộ bố khi đánh Tống) của Lí Thường Kiệt . Không chỉ ca ngợi một chiều

mẫu hình những vị vua tài tướng giỏi, yêu nước thương dân, văn học cuối thời Lí còn

cất lên tiếng nói thẳng thắn, nghiêm khắc các vị vua đi ngược lại tư tưởng thân dân,

không còn “lấy dân làm gốc”, coi trọng việc hưởng lạc cá nhân hơn việc chăm lo đời

sống nhân dân (Gián Lý Cao Tông hiếu văn bi thiết chi thanh - Khuyên vua Lí Cao

Tông đừng xây dựng cung điện; “Truy hối tiền quá chiếu” (Chiếu hối lỗi); “Gián Lí

Cao Tông đại hưng lâu các (Khuyên vua Lí Cao Tông đừng xây dựng cung điện).

Những tiếng nói can gián đó dù không làm thay đổi triều đại nhưng lại nói lên ước

mong của tầng lớp nho sĩ trí thức về một nền chính sự lý tưởng cho nhân dân.

3.2.2. Ý thức về trách nhiệm trước người dân

Khát vọng mong muốn vận nước lâu dài, cuộc sống no đủ, hạnh phúc là khát

vọng muôn đời của con người. Để được như vậy nhà vua cần dùng đức của mình để trị

vì khiến nhân dân ngưỡng mộ, thuần phục, tin tưởng. Nhà thơ Đỗ Pháp Thuận đã nói

về nguyện vọng tha thiết đó của mình trong bài thơ “Quốc tộ” (Vận nước). Một điểm

đặc sắc ở các bài văn chiếu và văn nghị luận thời Lí là đã ghi lại khá trực tiếp đời sống

tư tưởng, tình cảm của vua chúa nhà Lí. Nội dung của các bài văn chiếu thời Lí trước

hết tập trung thể hiện tinh thần trách nhiệm của vua đối với nhân dân. Đó là một số

hoạt động được ghi lại trong sử, thể hiện trong những bài chiếu lệnh: Xá thuế chiếu”

13

(Chiếu xá thuế) của Lí Thái Tông Ngộ đại hàn, vị tả hữu bách quan (Gặp tiết đại hàn,

bảo các quan tả hữu) của Lí Thánh Tông; Cố động Thiên công chúa, vị ngục lại (Nhìn

công chúa Động Thiên, bảo ngục lại); “Lâm chung di chiếu” (Chiếu để lại lúc sắp mất)

của Lí Nhân Tông . Nội dung thứ hai trong các bài văn chiếu, văn nghị luận thời Lí là

thể hiện những yêu cầu, đòi hỏi về đạo đức và phẩm chất, ý thức tự tu dưỡng, tinh thần

trách nhiệm vì dân, vì đất nước của người làm vua. Đó có thể là yêu cầu của thần dân

đối với vua, nhưng đó cũng có thể là đòi hỏi của chính các vị vua đối với bản thân. Nội

dung này được thể hiện trong “Thiên hạ hưng vong trị loạn tri nguyên luận” của

Nguyễn Nguyên Ức; “Lâm chung di chiếu (Chiếu để lại lúc sắp mất) của Lí Nhân

Tông; “Lâm chung chúc Thái tử (Dặn Thái tử lúc sắp mất) của Lí Anh Tông; Truy hối

tiền quá chiếu, (Chiếu hối lỗi) của Lí Cao Tông,…

3.3. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thời Trần

3.3.1. Lấy dân làm gốc và khoan thứ sức dân trong thời Thịnh Trần

Xét từ góc độ chính trị - lịch sử, hiếm có triều đại quân chủ phong kiến nào mà

vua quan giữ cách ứng xử hòa mục, gần gũi với người dân như thời thịnh Trần. Trong

cuộc kháng chiến chống quân Nguyên - Mông cũng như công cuộc xây dựng phát triển

đất nước, tư tưởng thân dân thể hiện ở việc hiểu thấu nguyện vọng của người dân về

nền thái bình, độc lập của đất nước. Những nội dung này được thể hiện qua các bài thơ

Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) của Trần Quang Khải; Nghệ An hành điện

(Hành cung ở Nghệ An) của Trần Minh Tông; Văn chính luận tiêu biểu là Dụ chư tì

tướng hịch văn (Bài văn hịch dụ bảo các tì tướng). Không chỉ nói lên vai trò, nguyện

vọng độc lập của nhân dân trong bài hịch nổi tiếng, Trần Quốc Tuấn còn tha thiết để

lại lời gan ruột trong Lâm chung di chúc (Căn dặn trước khi mất). Các bài phú đời

Trần đề cao vai trò quyết định của yếu tố con người trong các chiến thắng của nhà

Trần (Bạch Đằng giang phú - Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu; Thiên Hưng

trấn phú (Phú trấn Thiên Hưng) của Nguyễn Bá Thông; Cảnh Tinh phú (Phú sao Cảnh

Tinh) của Đào Sư Tích,... Ngay cả trong những tác phẩm của nhà chùa như Cư trần

lạc đạo phú (Phú ở cõi trần vui đạo) của Trần Nhân Tông hoặc Vịnh Vân Yên tự phú

(Phú vịnh chùa Vân Yên) của Lí Đạo Tái (Huyền Quang),… thì những nội dung trên

cũng thể hiện một cách rõ rệt. Sau công cuộc bình Nguyên, vương triều Trần xây dựng

quốc gia thịnh trị. Lí tưởng giúp dân, đường lối trị nước, trách nhiệm, đạo đức của

người làm vua, phẩm chất, trách nhiệm của kẻ sĩ,… là những vấn đề quan trọng được

14

đặt ra. Trong thơ trữ tình, cảm hứng về dân được biểu hiện trong những rung cảm đầy

chất thơ của tâm hồn nghệ sỹ (Thiên Trường vãn vọng - Ngắm cảnh chiều ở Thiên

Trường; Tặng Bắc sứ Lí Tư Diễn (Tặng sứ Bắc Lí Tư Diễn); Tống Bắc sứ Ma Hợp,

Kiều Nguyên Lãng (Tiễn sứ Bắc Ma Hợp, Kiều Nguyên Lãng) của Trần Nhân Tông;

Tặng Bắc sứ Sài Tràng Khanh, Lí Chấn Văn đẳng (Tặng sứ Bắc Sài Tràng Khanh, Lí

Chấn Văn) của Trần Quang Khải. Có thể nói, tư tưởng thân dân đã thành cơ sở của

đường lối trị nước thời thịnh Trần. Trọng dân, lấy dân làm gốc, “khoan sức cho dân”

cùng những chính sách an dân, vì dân đã làm nền tảng cho Đại Việt có cuộc sống ổn

định, thực túc, binh cường, dân giàu, nước mạnh.

3.3.2. Thương xót người dân và xót xa trước thế sự trong thời Vãn Trần

Một trong những biểu hiện rõ nét nhất của tư tưởng thân dân trong thơ thời

Trần chính là lòng thương xót người dân và nỗi xót xa trước thế sự đương thời. Nỗi

khổ của con người xuất phát từ nhiều nguyên nhân. Xã hội rối ren, loạc lạc, nhà vua bỏ

bê chính sự, quan lại thi nhau vơ vét tiền bạc, thóc gạo của dân, trộm cướp nổi lên như

ong rồi mất mùa, hạn hán liên tiếp xảy ra. Thực trạng ấy đã khiến cho các nhà nho

chân chính hết sức đau lòng, không ít nhà Nho đã cất lên tiếng than bất bình về thời

thế. Phạm Nhữ Dực nói về nỗi khổ của người dân khi đất nước có chiến tranh. Ông đã

viết bài “Tị tặc sơn trung trừ dạ” (Đêm ba mươi tết tránh giặc trong núi). Chu Đường

Anh phê phán, oán trách nhà vua bỏ bê chính sự, mê đắm với những thú vui riêng,

khiến cho dân đen cơ cực trong bài “Đề Đường Minh Hoàng dục mã đồ” (Đề bức

tranh Đường Minh Hoàng tắm ngựa). Phạm Sư Mạnh tha thiết mong muốn vua

“Phụng tuyên đế đức thiếp kiềm lê” (Vâng đem đức chính nhà vua tới cho dân đen)

trong bài“Đề Gia Cát thạch” (Đề đá Gia Cát). Tiêu biểu cho tiếng nói thân dân - thế

sự đó là những tác phẩm của Trần Nguyên Đán (1325 - 1390) và Nguyễn Phi Khanh

(1355 - 1428). Thơ Trần Nguyên Đán nhiều lần nhắc đến chữ dân, có lúc ông gọi dân

là thương sinh, dân sinh hàm ý như ngấn lệ xót xa. Ông thể hiện tâm trạng day dứt bất

lực của bậc đại thần triều đình với muôn dân trong nhiều bài thơ trữ tình với giọng

điệu trầm uất, xót xa. Nguyễn Phi Khanh có điều kiện sống gần gũi nhân dân nhiều

hơn nên ông trực tiếp nói lên nỗi khổ của người dân với lòng thương xót vô hạn. Ông

tỏ thái độ phê phán gay gắt, quyết liệt đối với bọn thống trị tàn bạo, tham lam đẩy nhân

dân vào tình cảnh khốn quẫn. Trong hoàn cảnh đất nước khủng hoảng, thời thế loạn

lạc, rất nhiều trí thức thời cuối Trần đã thể hiện lý tưởng, trách nhiệm giúp dân, giúp

15

nước của mình. Điều này được nói lên nhiều hơn cả ở thể phú: Thiên thu kim giám phú

(Tấm gương sáng ngàn thu); Đề gia Cát thạch (Đề đá Gia Cát) của Phạm Sư Mạnh;

Cần Chính lâu phú (Phú lầu Cần Chính) của Nguyễn Pháp. Với Trần Nguyên Đán là

nỗi thẹn của một bậc quan đại thần ý thức về sự bất lực của chính mình trước thế sự

rối ren, ở Nguyễn Phi Khanh là sự tự vấn về trách nhiệm của kẻ sĩ là phải giúp

dân.Cùng chung lí tưởng với Trần Nguyên Đán, thơ Nguyễn Phi Khanh không chỉ

dừng lại ở những nỗi niềm thở than, thương xót mà còn thể hiện một ý chí nung nấu,

khắc khoải đem ngọn lửa nhiệt huyết giúp dân, giúp nước.

Tiểu kết chƣơng 3

Trong chương này, chúng tôi đã tiến hành khảo sát các tác phẩm thơ văn thời Lí

- Trần thể hiện tư tưởng thân dân. Trước tiên ở thời Lí, cảm hứng sáng tác về thân dân

thể hiện ở đội ngũ các tác giả thuộc nhiều thành phần xã hội lúc bấy giờ: vua quan,

tướng lĩnh đến nho sĩ trí thức, đáng chú ý hơn cả là sáng tác của các thiền sư. Họ đã

mang đến cho tư tưởng thân dân một màu sắc độc đáo bởi cảm hứng tôn giáo không

tách rời vận mệnh của xã tắc, nhân dân. Tiếp nối văn học đời Lí, chủ đề thân dân trong

văn học thời Trần thể hiện qua hai giai đoạn, chủ yếu là thể loại thơ trữ tình. Thời

thịnh Trần với những kỳ tích, âm vang chiến công trong cuộc kháng chiến chống giặc

Mông - Nguyên, bảo vệ nền độc lập dân tộc là lí do chủ yếu khiến cho thơ văn thời

này đề cao địa vị, vai trò của người dân. Thời cuối Trần do chế độ phong kiến có biểu

hiện suy thoái nên văn học hướng đến dân với âm hưởng sâu lắng, trữ tình hơn, vừa

thương xót dân vừa xót xa thế sự đồng thời thể hiện ý thức sâu sắc về trọng trách của

kẻ sĩ đối với dân. Các tác giả tiêu biểu giai đoạn này là Trần Nguyên Đán và Nguyễn

Phi Khanh. Nhìn chung, với tính chất là giai đoạn mở đầu nền văn học dân tộc, thơ văn

Lí - Trần đã đóng góp tích cực trong việc hình thành các truyền thống tư tưởng - nghệ

thuật của nền văn học.

16

Chƣơng 4

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC THẾ KỶ XV

4.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa đầu thế kỷ XV

4.1.1. Thương dân, đề cao vai trò sức mạnh của người dân trong văn học thời khởi

nghĩa Lam Sơn

Việc khẳng định vai trò của “địa linh, nhân kiệt”, ca ngợi vai trò của Lê Lợi,

lãnh tụ của nghĩa quân Lam Sơn là thể hiện sức mạnh đoàn kết của nhân dân trong

công cuộc chống xâm lược. Đây là một đề tài xuất hiện khá nhiều trong thơ, phú thời

đầu Lê, tiêu biểu là các tác giả: Nguyễn Mộng Tuân, Nguyễn Trãi, Lí Tử Tấn, Trình

Thuấn Du. Chắc hẳn những bậc Nho sĩ, trí thức như Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng

Tuân, Lí Tử Tấn muốn lấy văn chương, và qua văn chương để kín đáo, tế nhị nhắc nhở

các bậc đế vương. Từ vua sáng nghiệp như Lê Thái Tổ, tiếp sau đến vua Lê Thái Tông

lên ngôi còn trẻ tuổi, sự nghiệp trị vì lâu dài trước mắt, cho nên bài học về truyền

thống đoàn kết nhân dân càng vô cùng quan trọng. Tuy nhiên, khi cuộc kháng chiến đi

đến thắng lợi hoàn toàn, biên cương ổn định, vương triều vững mạnh thì vua Lê Thái

Tổ lại có những việc làm trái ngược với thân dân, nghi ngờ những nhân vật lỗi lạc đã

cùng nhà vua lãnh đạo cuộc đấu tranh chống quân Minh xâm lược. Vì vậy, tư tưởng

thân dân không phải là tư tưởng một chiều, bất biến mà có khi lại chịu sự quy định của

điều kiện hiện thực lịch sử.

4.1.2. Ý thức về trách nhiệm của kẻ sĩ đối với người dân

Sau chiến tranh, đứng trước nhiệm vụ xây dựng đất nước và đem lại cuộc sống

ấm no cho nhân dân, Lê Thái Tổ đã ban hành Chiếu cầu hiền tài, kêu gọi những ai có

năng lực, có lương tâm, có lòng yêu nước thương dân thì hãy tham gia xây dựng, củng

cố đất nước. Những lời lẽ sâu sắc và tiến bộ trong bài Chiếu cầu hiền tài của Lê Lợi

quả đã thôi thúc mạnh mẽ nhân sĩ hăng hái tham ra giúp nước như Nguyễn Phu Tiên,

Nguyễn Nghiễm, Nguyễn Mộng Tuân, Lí Tử Tấn, Nguyễn Trãi,… Hình ảnh “Đài

xuân” đất nước trở thành nguồn cảm hứng trong thơ phú của nhiều nhân sĩ thời đó.

Cùng trong bài phú về núi Chí Linh, bốn tác giả Nguyễn Trãi, Nguyễn Mộng Tuân, Lí

Tử Tấn, Trình Thuấn Du đều đề cao triết lí vì dân, nhờ có “thịnh đức”, “đại đức” của

chủ tướng Lê Lợi đã làm nên chiến thắng giặc Minh. Nhìn chung, tư tưởng thân dân

của các tác giả thời khởi nghĩa Lam Sơn đã được thể hiện một cách phong phú và tiến

bộ, không phải là nhận thức mơ hồ, chung chung mà nảy sinh từ thực tiễn của đất

nước. Nêu cao sức mạnh và vị trí, vao trò của dân, thương dân, luôn nghĩ về trách

17

nhiệm của mình với dân, các tác giả thời kì này đã phản ánh thực tế của lịch sử cũng

như yêu cầu của lịch sử.

4.1.3. Tư tưởng thương dân, trọng dân và ơn dân trong sáng tác của Nguyễn Trãi

Đối với Nguyễn Trãi, nước gắn với dân và ngược lại. Yêu nước phải đi đôi với

thương dân, hướng tới người dân vô tội. Cứu nước trước hết là để cứu dân thoát khỏi

ách áp bức của ngoại bang. “Trừ bạo, yên dân” là ngọn cờ giương cao trong kháng

chiến chống giặc Minh xâm lược, đồng thời cũng là đường lối chính trị mà Nguyễn

Trãi theo đuổi trong suốt thời kì xây dựng đất nước.Tấm lòng yêu dân, quan điểm thân

dân của Nguyễn Trãi có nhiều điểm tiến bộ so với Nho giáo. Ức Trai cảm thông sâu

sắc với quần chúng lao động - tầng lớp thấp nhất trong xã hội phong kiến - luôn hứng

chịu những áp bức, nhất là dưới ách đô hộ của giặc Minh. Ông đã gọi họ là “dân đen”,

“con đỏ” với tất cả tình thương xót chân thành; lên án mạnh mẽ những kẻ xâm lược

bạo tàn đã gây ra thương đau đối với người dân vô tội (Đại cáo bình Ngô, Quân trung

từ mệnh tập). Trong các bài Lam Sơn thực lục, Chí Linh sơn phú và các bài chiếu, biểu

sau này dưới triều Lê, Nguyễn Trãi cũng luôn xuất phát từ lòng thương xót người dân

vô tội mà chỉ ra những lầm than khốn khổ của họ. Nếu trong thơ Nôm, tấm lòng ái

quốc ưu dân thôi thúc, mãnh liệt như “nước triều đông” cuồn cuộn chảy trong trái tim

đầy nhiệt huyết của nhà thơ, thì trong thơ chữ Hán, Ức Trai đã bày tỏ lòng ưu ái vì

nước vì dân cô đọng, kết tinh như hạt châu nơi đáy bể. Nguyễn Trãi nhắc nhiều đến lí

tưởng "ái quốc ưu dân" - một nội dung quan trọng của học thuyết Nho giáo. Tuy nhiên

thơ ông không phải là sự lặp lại một cách khô cứng những lí thuyết có sẵn mà thể hiện

chiều sâu những suy tư trăn trở. Nhưng nỗi lòng thương dân của Nguyễn Trãi thường

đặt trong những thử thách, biến cố lớn của chính sự, thời cuộc, có lúc đã rơi vào bi

kịch đớn đau. Hoài bão cháy bỏng về một xã hội vua Nghiêu Thuấn, dân Nghiêu

Thuấn của Nguyễn Trãi không thực hiện được, nhưng trong lòng Ức Trai, đó là lí

tưởng chân thành và tha thiết muốn xây dựng một xã hội tốt đẹp, trong đó có những

bậc đế vương luôn quan tâm đến đời sống của nhân dân, coi đời sống nhân dân là mục

đích của đời mình. Trong sáng tác của Nguyễn Trãi ta còn thấy một điểm mới ở tư

tưởng thân dân của ông. Đó là sự trân trọng dân, biết ơn dân. Ông không chỉ coi dân là

niềm ưu ái thứ nhất của đời mình mà còn nhận ra vai trò sức mạnh to lớn của dân, chở

thuyền và lật thuyền cũng là dân. Trọng dân, ông xem dân là động lực, là sức mạnh tạo

nên mọi biến cố xã hội. Trong cuộc kháng chiến gian khổ chống giặc Minh, người anh

18

hùng yêu nước ấy thấy rõ vai trò của nhân dân trong việc làm nên chiến thắng của dân

tộc. Khẳng định vai trò của tầng lớp manh (người dân cày lưu tán), lệ (người tôi tớ đi

ở), đó là một tư tưởng lớn của Ức Trai trong “Đại cáo bình Ngô”. Chính vì trọng dân

mà vị đại quan như Nguyễn Trãi luôn giữ mình thanh cao. Ông luôn sợ mất lòng người

dân. Nỗi lo ấy là lo giữ được chữ tín trong dân, để dân tin, dân trọng, dân làm theo.

Nỗi lo ấy là nỗi lo không giữ được phẩm chất, cốt cách của mình thanh cao giữa cuộc

sống mà “miệng thế nhọn hơn chông mác nhọn”. Nguyễn Trãi thấy được vai trò lớn

lao của dân không chỉ trong kháng chiến mà ngay trong cuộc sống đời thường. Ông

nhận thức sâu sắc rằng những phường dân đen, con đỏ ấy làm ra của cải vật chất cho

xã hội. Thóc gạo, cơm ăn, áo mặc đều là do dân; lâu đài, cung điện đều do mồi hôi,

công sức của nhân dân. Những suy nghĩ đó khiến ông day dứt, cảm giác mang nợ dân,

phải đền ơn dân: “Ăn lộc đền ơn kẻ cấy cày” (Bảo kính cảnh giới, bài 19). Câu thơ cho

thấy tầm nhìn, tầm tư tưởng lớn của Ức Trai. Thông thường, người làm quan thời

trước phải “ơn vua” “ơn xã tắc” nhưng Ức Trai lại tự nhủ phải “đền ơn kẻ cấy cày”,

đền ơn những người một nắng hai sương lam lũ vất vả, làm ra hạt lúa củ khoai, bát

canh thơm ngọt hôm nay. Nguyễn Trãi đã có một nhận thức mới mẻ “ơn dân” - đây là

một bước tiến quan trọng trong hành trình phát triển tư tưởng thân dân của thời đại.

4.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học nửa cuối thế kỷ XV

4.2.1. Tư tưởng thân dân thể hiện qua tinh thần ca ngợi cuộc sống thái bình, trăm họ

yên vui

Văn học nửa cuối thế kỷ XV được sáng tác trong hoàn cảnh chế độ phong kiến

Việt Nam ở vào thời kì đỉnh cao thịnh trị. Nói đến tư tưởng thân dân trong văn học nửa

cuối thế kỷ XV không thể không nói đến sự đóng góp đáng kể của những cây bút trong

Hồng Đức quốc âm thi tập. Tập thơ mang vẻ đẹp tâm hồn, trí tuệ của vị Hoàng đế anh

minh và của các văn nhân thời đại ông. Bên cạnh âm hưởng chung là khẳng định triều

đại Lê Thánh Tông, ca ngợi bậc minh quân và cuộc sống thái bình, thịnh trị, ca ngợi

đất nước, chan chứa niềm tự hào dân tộc thì chủ đề tư tưởng thân dân là một nội dung

nổi bật của tập thơ. Không chỉ vịnh cảnh, vịnh người mà cả những bài vịnh vật như

con cóc, cái cối xay, các nhà thơ cũng mượn chúng để nhắc đến dân. Hình ảnh người

dân lao động trong Hồng Đức quốc âm thi tập là ông ngư, người đi cày, người quẩy

củi,… trong con mắt của thi nhân qua nghệ thuật ước lệ viết về tứ thú, người dân hiện

lên bình dị, chân chất, với cái nhìn trìu mến, cảm thông. Thái độ thương dân, đồng

19

cảm với nỗi cơ cực vất vả, hiểu thấu khát khao của người dân lao động ở các nhà thơ

Hồng Đức chính là nền tảng, là tiền đề của chủ nghĩa nhân đạo phát triển mạnh mẽ

trong văn học những giai đoạn sau.

4.2.2. Tư tưởng thân dân thể hiện qua tinh thần tự răn mình của đấng quân vương:

Kính trời, thương dân; trên dưới đồng lòng, xã tắc bền vững

Khác với tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi và của nhiều nhà nho trước đó, Lê

Thánh Tông đề cập nhiều đến vai trò của dân, từ đó xác định nghĩa vụ của dân đối với

nhà vua, cũng như thái độ, trách nhiệm của nhà vua, người cầm quyền đối với dân. Ở

cương vị ngôi vua, ông luôn luôn thương dân, lo dân, trọng dân và nghĩ về những

chính sách an dân. Ông thi hành đường lối chính trị “nhân chính”, coi “an dân”, “nuôi

dân” là gốc rễ của đạo làm vua. Tư tưởng thân dân của Lê Thánh Tông kế thừa những

hạt nhân tích cực trong tư tưởng thân dân, an dân của những tác giả tiến bộ trước, như

Trần Hưng Đạo, Trần Nguyên Đán, Nguyễn Trãi,… và đã tiếp thu được ở phần tư

tưởng tích cực của Nho giáo “dân vi bang bản, bản cố bang ninh” (dân là gốc nước,

gốc vững thì nước mới bền).

Tiểu kết chƣơng 4

Có thể nói, thơ văn thế kỷ XV đạt được những thành tựu rực rỡ của tư tưởng

thân dân. Nửa đầu thế kỷ XV, tư tưởng thân dân thể hiện trong những tác phẩm văn

học thời khởi nghĩa Lam Sơn nhưng tiêu biểu nhất là tác gia Nguyễn Trãi - ông không

chỉ là tác giả tiêu biểu ở nửa đầu thế kỷ XV mà còn là đại diện lớn của văn học trung

đại Việt Nam với những áng thơ văn mang nặng chí hướng ưu ái, tấm lòng hướng đến

nhân dân vẹn toàn, to lớn. Nửa sau thế kỷ XV, tư tưởng thân dân thể hiện nổi bật ở các

nhà thơ thời Hồng Đức và đặc biệt là trong các sáng tác của Hoàng đế Lê Thánh Tông.

Tập thơ “Hồng Đức quốc âm thi tập” đã dành một số lượng bài không nhỏ viết về

người dân với sự đồng cảm, mến yêu, gần gũi. Đáng chú ý nhất thời này là tác giả Lê

Thánh Tông - một Hoàng đế yêu nước, giàu lòng nhân ái, thương dân sâu sắc. Ông đề

cập nhiều đến vai trò của dân cũng như trách nhiệm của nhà vua, người cầm quyền đối

với dân. Ở cương vị cao nhất, ông luôn luôn tự răn mình phải kính trời, thương dân,

tạo nên một triều đại trên dưới đồng lòng, xã tắc bền vững. Đây chính là điểm đặc sắc

và đóng góp tích cực của tư tưởng thân dân văn học giai đoạn này.

20

Chƣơng 5

TƢ TƢỞNG THÂN DÂN TRONG VĂN HỌC TỪ THẾ KỶ XVI

ĐẾN HẾT THẾ KỶ XVII

5.1. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVI

5.1.1. Tư tưởng thân dân trong sáng tác văn học của Nguyễn Bỉnh Khiêm

5.1.1.1. Hướng đến nỗi khổ của người dân vì chiến tranh phong kiến

Là một người trí thức giàu tâm huyết, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã có lúc rất hăng

hái tham gia chính sự, những mong giúp cho các triều vua bình định, thống nhất đất

nước, giúp cho nhân dân thoát khỏi cảnh bế tắc đau khổ, lầm than. Từ bỏ chốn quan

trường, trở về làng Trung Am, Nguyễn Bỉnh Khiêm lựa chọn cuộc sống nhàn dật giữa

thiên nhiên và những người dân cuốc cày chài lưới trên quê hương Vĩnh Lại trù phú

miền Hạ Hồng. Ông chọn một ngả rẽ, treo lại mơ ước đau đáu: xây dựng một đất nước

“dân Nghiêu Thuấn, vua Nghiêu Thuấn”. Phát triển quan niệm của các bậc tiền bối,

Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh vai trò, vị trí của người dân đối với đất nước. Hai

nguyên nhân khiến cho dân khổ được Nguyễn Bỉnh Khiêm nhấn mạnh là vì chiến

tranh, vì quan lại. Với sự thấu hiểu cuộc sống người dân ở mọi khía cạnh, với sự mẫn

tiệp của bậc tôn trưởng đối với “thôn dân làng xóm”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã nhìn

thấu tỏ diện mạo hiện thực xã hội đương thời. Trong cuộc đời ẩn dật sống giữa lòng

dân, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã tiếp thu được ảnh hưởng tích cực của văn hóa dân gian,

của tư tưởng nhân dân, của lối sống thuần hậu và chất phác nơi thôn dã. Thêm nữa,

ông kế thừa được tư tưởng thân dân ở những bậc trí thức lớn thời Lí, thời Trần, thời

Lê, chính vì vậy tư tưởng thân dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm vừa xứng đáng với

truyền thống đạo đức tốt đẹp của dân tộc vừa mang nét riêng, tính thời sự trong sự

chuyển biến của thời đại ông.

5.1.1.2. Hướng đến nỗi khổ của người dân vì xã hội phong kiến suy thoái

Trước tình hình đất nước rối ren của chế độ phong kiến thế kỷ XVI, Nguyễn

Bỉnh Khiêm hiểu thấu khát vọng lớn nhất của người dân là được sống một cuộc sống

yên bình. Là một trí thức giàu tâm huyết, Nguyễn Bỉnh Khiêm trăn trở nghĩ đến trách

nhiệm của mình. Một nội dung đặc sắc xuất hiện nhiều ở thơ Nôm Nguyễn Bỉnh

Khiêm là mảng thơ truyền thụ đạo lí. Một bài thơ Nôm của Tuyết giang phu tử thường

mang một ý tứ về lẽ biến dịch, lẽ tương sinh, tương khắc, một sự răn dạy, một sự mỉa

mai, chê trách, một quan niệm nhân sinh,... rút ra quan điểm, kinh nghiệm thực tiễn

của nhân dân và sự chiêm nghiệm của bản thân. Nhìn suốt thơ chữ Hán và thơ Nôm

21

của Nguyễn Bỉnh Khiêm, ta thấy niềm ưu ái lớn của ông dành cho người dân thật sáng

trong, cao đẹp, bình dị mà sâu sắc. Tư tưởng và hành động, hoài bão và mong ước của

ông dành cho dân, cho nước mặc dù không được đông đảo giai cấp thống trị đương

thời chấp nhận và tích cực thực hiện nhưng đã có ảnh hưởng khá sâu sắc đến một bộ

phận không nhỏ quan lại, nho sĩ và nhân dân.

Tư tưởng và hành động, hoài bão và mong ước của ông dành cho dân, cho nước

mặc dù không được đông đảo giai cấp thống trị đương thời chấp nhận và tích cực thực

hiện nhưng đã có ảnh hưởng khá sâu sắc đến một bộ phận không nhỏ quan lại, nho sỹ

và nhân dân. Nhiều người tôn thờ ông, kính phục đạo đức và cuộc sống thanh bạch của

ông, họ coi đó là tấm gương lớn mà suốt đời họ nguyện noi theo. Có người ngợi ca tri

thức của ông, cho rằng ông đã đạt tới sự tinh tuý, cao sâu nhất của đạo thánh hiền.

5.1.2. Tư tưởng thân dân trong sáng tác văn học của Phùng Khắc Khoan

5.1.2.1. Trọng dân, thương dân và hướng về cuộc sống bình dị của người dân

Đọc thơ Phùng Khắc Khoan, dù là chữ Hán hay chữ Nôm, ta thấy tư tưởng thân

dân luôn được thể hiện một cách nồng nhiệt và có nhiều điểm tương đồng với Nguyễn

Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Trong hoàn cảnh loạn lạc, chiến tranh, quan lại hà khắc,

hoài bão chính trị của ông tuy chưa thể vượt ra khỏi ý thức hệ phong kiến, mà vẫn cứ

không xa nguyện vọng của nhân dân ta thời đó. Nhà thơ thương dân vô hạn, lo cho

dân, lao tâm khổ tứ, tìm mưu tính kế để cứu dân thoát khỏi vòng nước sôi lửa bỏng.

Ông đã biến những suy tư ấy thành hành động giúp dân, giúp nước thiết thực và mãnh

liệt. Là bậc đại nho nhưng sinh ra và lớn lên từ thôn quê làng Bùng, Phùng Khắc

Khoan đúng là một ông trạng quê, sống gần gũi nhân dân nên hơn ai hết ông rất am

hiểu tâm tư tình cảm của họ, ông quý trọng công sức khó nhọc của dân để làm ra hạt

gạo. Thương dân, nhà thơ mong ước sao năm nào người nông dân cũng được mùa, lúa

chất ăm ắp đầy kho, bởi đó không chỉ là phúc lành của dân mà còn là niềm vui thái

bình của đất nước. Tấm lòng nhân ái, thương dân của Phùng Khắc Khoan còn thể hiện

rất thực tiễn qua những việc ông làm. Điều này được thể hiện qua bài Lâm tuyền vãn.

Một trong những điểm nổi bật trong tư tưởng thân dân của Phùng Khắc Khoan được

thể hiện một cách tài năng và độc đáo qua những vần thơ đi sứ của ông “Mai Lĩnh sứ

hoa thi tập”. Tác phẩm được viết trong chuyến hành trình đi sứ của Phùng Khắc

Khoan luôn ẩn chứa những cung bậc tình cảm tha thiết, những suy tư trĩu nặng, những

22

cảm xúc chân thật về quê hương, đất nước, về đời sống nhân dân.

5.1.2.2. Ý thức về trách nhiệm trước người dân

Thơ Phùng Khắc Khoan thể hiện rất rõ ý chí của bậc trung quân, ái quốc. Tư

tưởng thân dân của ông gắn liền với triết lí nhân nghĩa. Khát vọng được thấy dân sống

ấm no như trong thời Nghiêu Thuấn thái bình thịnh trị dường như đã trở thành nỗi

khắc khoải lớn trong suốt cuộc đời làm quan 50 năm của ông. Ảnh hưởng được những

hạt nhân tích cực từ người thầy đáng kính của mình là Nguyễn Bỉnh Khiêm, trong tư

tưởng của Trạng Trình và Trạng Bùng có những điểm gặp gỡ, tương đồng là lẽ tất

nhiên. Cùng có chí “nhàn dật”, sơn thủy lâm tuyền, nhưng Nguyễn Bỉnh Khiêm lánh

mình vào mây trắng, tưởng nhàn nhã thung dung như một bậc ẩn sĩ lánh đời mà tấm

lòng tiên ưu với dân với nước vẫn chẳng dời thế tục. Còn ở Phùng Khắc Khoan, cũng

có khi phẫn uất vì lòng trung không được tỏ, từng nghĩ đến việc lánh mình vào suối

rừng nhưng trong thâm tâm, ông vẫn yêu cuộc sống, vẫn nặng lòng khôn nguôi với đất

nước, nhân dân.

5.2. Tƣ tƣởng thân dân trong văn học thế kỉ XVII

5.2.1. Tư tưởng trọng dân, thương dân

Điểm nổi bật ở Thiên Nam minh giám là khi nêu gương sáng trời Nam qua các

triều đại, tác giả không chỉ biểu dương, ngợi ca những bậc hiền tài có công với đất

nước mà qua đó còn khẳng định niềm yêu thương nhân dân của họ. Sự nghiệp cứu

nước của những bậc vĩ nhân ấy bao giờ cũng là vì dân, coi trọng vị trí, vai trò to lớn

của nhân dân. Cùng ra đời ở thế kỷ XVII, so với Thiên Nam minh giám thì Thiên Nam

ngữ lục là một bản diễn ca dài hơi và cặn kẽ hơn về lịch sử nước nhà. Điều ấn tượng rõ

rệt khi đọc tác phẩm dài này chính là tư tưởng thân dân được thể hiện khá đậm nét. Là

một nhà nho, tác giả Thiên Nam ngữ lục tất nhiên sẽ chịu sự chi phối ý thức hệ chính

trị của thời đại, song Thiên Nam ngữ lục rất chú ý đề cao vai trò, vị trí của người dân.

Dân là gốc. Phải vun trồng cái gốc ấy thì thánh chủ hiền thần mới xây dựng được cảnh

thái bình thịnh trị. Chữ “dân” được trở đi trở lại nhiều lần khi nhấn mạnh sự thịnh suy,

hưng phế của các triều đại.

5.2.2. Cách nhìn lịch sử theo quan điểm của nhân dân, phù hợp với đạo lí, chính nghĩa

Qua các tác phẩm Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục, ta thấy một

điểm chung rất tiến bộ trong tư tưởng thân dân của các tác giả là khi viết về các gương

sáng trời Nam, các bậc thánh đế, minh vương, anh hùng, hào kiệt, một mặt, các tác giả

23

tin và giải thích theo hướng “thiên mệnh” của tư tưởng Nho giáo. Mặt khác, do sống

gần nhân dân và tiếp thu ảnh hưởng của văn hóa, văn nghệ dân gian nên các tác giả lại

đã lấy quan điểm nhân dân, nhận thức của dân để nhận thức về phẩm giá nhân vật lịch

sử và vận mệnh dân tộc. Tác giả Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục cũng đã

kế thừa và phát huy được những hình thức nghệ thuật thể hiện tư tưởng thân dân từ

văn học viết cũng như văn học dân gian đời trước để lại.

Tiểu kết chƣơng 5

Từ thế kỷ XVI đến hết thế kỷ XVII chế độ phong kiến Việt Nam chuyển sang

một trang mới với những biểu hiện suy thoái, khủng hoảng do sự mâu thuẫn giữa các

tập đoàn thống trị, điều đó ảnh hưởng sâu sắc đến sự phát triển của văn học nói chung

và nội dung của tư tưởng thân dân nói riêng trong giai đoạn này. Tư tưởng thân dân

thế kỉ XVI đã phản ánh được nhiều mặt sinh động trong cuộc sống cũng như nguyện

vọng chân chính của nhân dân. Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phùng Khắc Khoan là trường

hợp tiêu biểu nhất. Tư tưởng thân dân trong văn học thế kỷ XVII thể hiện rõ nét qua

hai tác phẩm thơ Nôm là Thiên Nam minh giám và Thiên Nam ngữ lục.

KẾT LUẬN

1. Tư tưởng thân dân là một nội dung lớn của văn học trung đại Việt Nam. Tìm

hiểu tư tưởng thân dân góp phần tìm hiểu sâu hơn những vấn đề về tác giả, tác phẩm,

những qui luật phát triển của văn học trung đại Việt Nam. Luận án đã vận dụng các

phương pháp lịch sử cụ thể, phương pháp nghiên cứu liên ngành, phương pháp so sánh

và phương pháp hệ thống để tiếp cận đề tài, chỉ ra những biểu hiện có tính đặc trưng ở

các tác giả, tác phẩm văn học trung đại khi thể hiện tư tưởng thân dân; đồng thời cũng

lí giải những tiền đề, những đặc điểm tạo nên tư tưởng thân dân qua từng giai đoạn văn

học.

2. Tư tưởng thân dân trong văn học trung đại Việt Nam từ thế kỷ X đến hết thế

kỷ XVII được hình thành trên cơ sở lịch sử, xã hội, tư tưởng, văn hóa của các thế kỉ

này. Những cuộc kháng chiến chống xâm lược trong lịch sử dựng nước và giữ nước

của dân tộc đã chứng minh vai trò, vị trí quan trọng của người dân. Đồng thời các bậc

đế vương cũng coi trọng tư tưởng thân dân trong công cuộc xây dựng đất nước, chế độ

xã hội phong kiến. Những chính sách khoan thứ sức dân, chăm lo đời sống nhân dân là

những chính sách vô cùng tốt đẹp được thực hiện linh hoạt, tùy biến trong công cuộc

xây dựng và gìn giữ đất nước. Nói đến tư tưởng thân dân không thể không nhắc đến sự

24

ảnh hưởng nhiều mặt của Nho giáo, Phật giáo. Bên cạnh đó, văn hóa dân tộc với nền

tảng tín ngưỡng bản địa, văn học dân gian truyền thống như tục ngữ, thành ngữ, ca

dao, truyền thuyết, truyện cổ tích,…; nền giáo dục khoa cử và những thành tựu phát

triển của văn học - nghệ thuật cũng là những yếu tố hình thành nên tư tưởng thân dân.

3. Truy xuất khái niệm dân và thuật ngữ thân dân từ nghĩa gốc Hán, tiếng Việt,

từ những tác phẩm kinh điển Nho giáo và từ quan niệm hiện đại, luận án đã đề xuất

cách hiểu về “dân” và “tư tưởng thân dân”, đồng thời xác định các tiêu chí của tư

tưởng thân dân. Tư tưởng thân dân có khi được thể hiện trực tiếp, có khi gián tiếp

nhưng nhìn chung thống nhất ở các phương diện: Thương dân (ái dân), Trọng dân, Ơn

dân. Về cơ bản ơn dân chỉ xuất hiện ở Nguyễn Trãi. Tư tưởng của Nguyễn Trãi về dân

là tư tưởng vượt lên thời đại ông và rất có ý nghĩa đối với thời hiện đại khi mà vai trò

và vị trí cũng như nhận thức về dân đã có những bước tiến bộ vượt bậc.

4. Từ việc giới thuyết khái niệm và xác định mục tiêu nghiên cứu, chúng tôi đã

tiến hành khảo sát các tác giả, tác phẩm thơ văn từ thế kỷ X đến hết thế kỷ XVII thể

hiện nội dung của tư tưởng thân dân. Nhìn chung lại, quá trình phát triển, vận động của

tư tưởng thân dân trong văn học trung đại là một cuộc đấu tranh lâu dài theo từng giai

đoạn lịch sử. Xét về mục đích và phương tiện, đề cập đến tư tưởng thân dân trước hết

là đề cao, củng cố vai trò, địa vị của tầng lớp thống trị, rút ra những bài học trong việc

trị quốc trị dân của vương triều phong kiến. Khi trở thành cảm hứng trong sáng tác

văn chương, những nhà nghệ sĩ, trí thức hướng đến người dân với cái nhìn, cảm nhận

tích cực, yêu thương, trân trọng và hiểu rõ chân lí “lấy dân làm gốc”. Ở những tác giả

lớn, người dân thực sự trở thành mục đích trăn trở, suy tư trong cả cuộc đời và sự

nghiệp sáng tác.

5. Luận án được hoàn thành sẽ là tài liệu tham khảo bổ ích và thiết thực cho

công việc nghiên cứu, giảng dạy văn học trung đại Việt Nam và cho cả những người

làm công tác xã hội quan tâm tới tư tưởng thân dân. Luận án được hoàn thành sẽ mở ra

những định hướng và phát triển mới của đề tài: nghiên cứu tư tưởng thân dân trong

văn học trung đại Việt Nam. Đây hứa hẹn sẽ là một đề tài có tính quy mô lớn đồng

thời có tính thực tiễn cao trong đời sống xã hội hiện nay. Sự mở rộng đề tài theo

hướng đó là rất cần thiết bởi cũng góp phần tìm hiểu các tác giả trong chín thế kỉ của

văn học trung đại Việt Nam.

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA TÁC GIẢ

ĐÃ CÔNG BỐ CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

1. Đinh Thị Phương Thu (2017), “Tư tưởng thân dân trong thơ thời Lí”,

Tạp chí Giáo dục & Xã hội (81), tr. 42-44.

2. Đinh Thị Phương Thu (2017), “Tư tưởng thân dân trong văn học thời

Trần”, Tạp chí Dạy và Học Ngày Nay, tháng 12, tr.14-16.

3. Đinh Thị Phương Thu (2018), “Tư tưởng thân dân trong sáng tác văn học của Trần Nguyên Đán, Nguyễn Phi Khanh”, Tạp chí Văn hóa Nghệ thuật (403), tr.104-106.

4. Đinh Thị Phương Thu (2018), “Tư tưởng thân dân trong văn học thời khởi nghĩa Lam Sơn”, Tạp chí Khoa học, Đại học Sư phạm Hà Nội (1), tr.47-53.

5. Đinh Thị Phương Thu (2019), “Tư tưởng thân dân trong thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm”, Tạp chí Khoa học (64), Đại học Sư phạm Hà Nội, tr.91-97.