intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Vai trò của vitamin C đối với tôm cá nuôi

Chia sẻ: Daica Da | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:4

184
lượt xem
36
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Trong nghiên cứu về thức ăn cho nuôi trồng thủy sản, Vitamin C đã được nghiện cứu và đánh giá là cần thiết cho tôm cá. Cá và giáp xác không có khả năng tự tổng hợp Vitamin C do thiếu enzyme gluconolactone oxidase cho bước cuối cùng của quá trình tổng hợp. Chính vì thế Vitamin C được động vật thủy sản hấp thu chủ yếu từ thức ăn.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Vai trò của vitamin C đối với tôm cá nuôi

  1. Vai trò của vitamin C đối với tôm cá nuôi ­ PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền, Khoa Thủy Sản, ĐH Cần Thơ VAI TRÒ CỦA VITAMIN C ĐỐI VỚI TÔM CÁ NUÔI PGS. TS. Trần Thị Thanh Hiền, Khoa Thủy Sản, Đại Học Cần Thơ. Trong nghiên cứu về thức ăn cho nuôi trồng thủy sản, Vitamin C đã được nghiện cứu và đánh giá là cần thiết cho tôm   cá. Cá và giáp xác không có khả năng tự tổng hợp Vitamin C do thiếu enzyme gluconolactone oxidase cho bước cuối   cùng   của   quá   trình   tổng   hợp.   Chính   vì   thế   Vitamin   C   được   động   vật   thủy   sản   hấp   thu   chủ   yếu   từ   thức   ăn. Vitamin C được ghi nhận là có vai trò quan trọng trong trao đổi chất, tham gia vào quá trình sinh trưởng và phát triển   của sinh vật bởi việc tạo thành collagen, tăng cường các phản ứng miễn dịch và sức đề kháng bệnh của tôm cá, tổng   hợp corticosteroids là  chất có  liên quan  đến khả  năng chịu  đựng của tôm cá  với sự  thay  đổi của môi trường.  Ở  giai   đoạn  ấu trùng, tôm cá  cần nhiều Vitamin C hơn giai  đoạn trưởng thành, nó  không những làm gia tăng tốc  độ  sinh  trưởng   mà   còn   làm   tăng   sức   đề   kháng   của   ấu   trùng. Thức  ăn thiếu Vitamin C là  nguyên nhân dẫn  đến các triệu chứng bệnh lý  như  các dạng dị  tật xương sống, tật  ưỡn   lưng và  hiện tượng xuất huyết  ở  gốc vây,  ở  xung quanh miệng và  mắt của cá, ... (Hình 1, 2, 3).  ở  tôm, khi thiếu   Vitamin C màu sắc cơ thể chuyển sang màu đen tối, do đó người nuôi gọi là bệnh chết đen ở tôm (Hình 4). Bảng 1: Một số dấu hiệu bệnh do thiếu Vitamin C trên cá   Dấu hiệu bệnh lý Tác giả Loài Có sự rạn nứt và xuất huyết ở đầu. Cá Trê Phi Eya (1996) Ăn mòn vây,mõm và mang. Cá Nheo Mỹ Vẹo cột sống, ưỡn lưng, xuất huyết Lim và Lovell (1979) Tật cong thân, ăn mòn vây đuôi, biến Dabrowksi và Cá Chép dạng mang và miệng. ctv (1988) Cá Trắm cỏ Vây và mắt bị xuất huyết Lin và ctv (1991)
  2. Giảm hàm lượng khoáng, mất sắc tố ở da, tổn thương da, mất vẩy, xuất Cá Rô phi Shiau và Jan (1992) huyết da và vây. Ở cá nheo Mỹ tỉ lệ chết của cá giảm dần khi tăng tỉ lệ Vitamin C từ 0 lên 3000 mg/kg thức ăn khi gây cảm nhiễm bệnh   với vi khuẩn Edwarsiella ictaluri, khả năng chống lại vi khuẩn Edwarsiella tarda sẽ  tăng khi ăn thức ăn có  hàm lượng  Vitamin C là 150 mg/kg so với thức ăn chứa 60 mg Vitamin C/kg. Đối với tôm càng xanh, khi bổ sung 1500 mg Vitamin   C/kg thức  ăn,  ấu trùng tôm có khả năng chống lại virus  Vibrio harveyi. Đối với tôm cá  bố  mẹ, khi bổ  sung Vitamin C   vào thức ăn có khả năng làm tăng tỉ lệ nở, khả năng chịu đựng của cá bột và ấu trùng. Lượng Vitamin C cần bổ sung cho động vật thủy sản rất khác nhau tùy theo từng đối tượng nuôi và từng loại Vitamin  C. Theo Viện nghiên cứu thủy sản quốc gia Mỹ  (1993) hàm lượng Vitamin C cần thiết cho cá  giống dao  động trong  
  3. khoảng từ 25­50 mg/kg thức ăn. Đối với các loài tôm cá nuôi, nhu cầu Vitamin C cũng khác nhau tùy theo loài (Bảng   2).                                              Bảng 2: Nhu cầu Vitamin C của một số loại tôm cá.   Nhu cầu Kích cỡ (g) Tác giả Loài (mg/kg) Cá Trê Phi Eya (1996) 45 19,9 Cá Nheo Mỹ Lim và Lovell (1979) 60 15 Cá Trê trắng Misfra và ctv (1996) 69 1,5 Cá Chép Gouillou-Coustans Cá bột 45 (1998) Cá Chẽm Merchie và ctv 1996) Cá bột 20 Cá Rô phi Shiau và Jan ( 1992) 79 1,1 Tôm he Nhật Bản Shigueno và Itoh Giống 99 (1988) Giống 209 Chen và Chang, (1994) Tôm Sú Ấu trùng Merchie và ctv (1997) 200 D' Abramo và Giống 100 ctv (1994) Tôm Càng Xanh Ấu trùng 200 Hien và ctv (2004) Tôm thẻ chân He và Lawrence (1993) Giống 120 trắng                                           (Nguồn: D' Abramo et al., 1997, Halver et al. (2002); Hien, 2004) Để  làm giảm sự  hòa tan nhanh của Vitamin C trong nước, người ta dùng ethylcellulose hoặc dầu  để bao lấy các hạt   Vitamin C thành thể Vitamin C vi bọc (Vitamin C coated), hàm lượng Vitamin C ở dạng này khoảng 80­90% và có thể   lưu trữ  trong vài tháng mà  không bị  oxy hóa. Sản phẩm thành công nhất của việc gia tăng  độ  bền của Vitamin C là   nhóm   Vitamin   C   dạng   muối   phosphate   như   ascorbate­2­mono   phosphate   (AMP),   ascorbate­2­poly   phosphate  (APP), ... Sự hiện diện của các nhóm này sẽ làm tăng khả năng chịu nhiệt, giảm khả năng tan trong nước và oxy hóa   của Vitamin C. Quá  trình chế  biến thức  ăn cũng  ảnh hưởng lớn  đến hoạt tính và  sự  mất  đi của Vitamin C. Qua quá  trình gia nhiệt (ép  đùn) Vitamin C tinh thể  mất  đi hơn 90%, vi bọc mất  đi 40­50%, trong khi Vitamin C dạng muối   photphat chỉ  mất  đi khoảng 5­10%. Vì  vậy trong sản xuất thức  ăn công nghiệp nên sử  dụng loại Vitamin C kháng   nhiệt, còn người nuôi thủy sản có  thể  bổ  sung Vitamin C vào thức  ăn loại vi bọc. Trong nuôi thủy sản,  định kỳ  mỗi   tháng bổ  sung Vitamin C khoảng 3­5 ngày liên tục. Khi thời tiết thay  đổi hoặc cả  khi xung quanh vùng nuôi có  dịch  
  4. bệnh thì cũng nên bổ sung Vitamin C vào thức  ăn. Liều lượng sử dụng tùy thuộc vào loại Vitamin C, khoảng từ 500­ 1000 mg/kg thức ăn.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2