BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRẦN ĐỨC HOÀN
VĂN HÓA KINH BẮC - VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
THÁI NGUYÊN - 2013
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN
TRẦN ĐỨC HOÀN VĂN HÓA KINH BẮC - VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM
Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.01.21
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG
2. PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC
THÁI NGUYÊN - 2013
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận án là trung
thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa
học nào. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Đức Hoàn
ii
Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Thị Việt
LỜI CẢM ƠN
Trung, PGS.TS Nguyễn Duy Bắc - những thầy cô đáng kính đã tận tình hướng dẫn và
động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.
Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới cơ sở đào tạo Đại học Thái Nguyên,
đơn vị đào tạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện để tôi hoàn
thành luận án này.
Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tư
liệu và kinh nghiệm quý báu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, xin bày tỏ lòng biết
ơn tới gia đình, người thân đã động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian qua.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Thái Nguyên, tháng 3 năm 2013
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Trần Đức Hoàn
iii
MỤC LỤC
Trang
LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i
LỜI CẢM ƠN............................................................................................................. ii
MỤC LỤC ............................................................................................................... iii
MỞ ĐẦU
.................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1
2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................2
3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................2
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3
5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (lịch sử vấn đề) ..................................................3
6. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................9
7. Đóng góp của luận án............................................................................................10
8. Cấu trúc luận án ....................................................................................................11
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VÙNG THẨM MỸ, VÙNG
VĂN HOÁ VÀ VÙNG VĂN HOÁ KINH BẮC ......................................12
1.1. Quan niệm về vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học ........................................12
1.2. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học..........15
1.2.1. Quan niệm về vùng văn hóa .....................................................................15
1.2.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa vùng, miền ..............................................17
1.2.3. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ trong sáng tác
của nhà văn ..............................................................................................18
1.3. Văn hóa Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc và trong thơ Hoàng Cầm.................23
1.3.1. Đặc điểm vùng văn hóa Kinh Bắc ............................................................23
1.3.2. Văn hoá Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc ................................................30
1.3.3. Văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của vùng thẩm mỹ trong thơ
Hoàng Cầm ..............................................................................................39
Chương 2: THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM.........44
2.1. Quan niệm về biểu tượng và biểu tượng thẩm mỹ.............................................44
2.1.1. Quan niệm về biểu tượng..........................................................................44
2.1.2. Quan niệm về biểu tượng thẩm mỹ ..........................................................46
iv
2.2. Biểu tượng thiên nhiên Kinh Bắc.......................................................................48
2.2.1. Biểu tượng dòng sông...............................................................................48
2.2.2. Biểu tượng núi, đồi ...................................................................................61
2.2.3. Biểu tượng lá, cỏ, quả...............................................................................66
2.3. Biểu tượng con người Kinh Bắc ........................................................................81
2.3.1. Biểu tượng con người trong truyền thuyết và lịch sử...............................82
2.3.2. Biểu tượng người mẹ ................................................................................88
2.4. Biểu tượng về văn hoá phong tục Kinh Bắc ......................................................94
2.4.1. Biểu tượng lễ hội ......................................................................................94
2.4.2. Hát Quan họ - một biểu tượng văn hoá thẩm mỹ độc đáo......................101
Chương 3: VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM NHÌN TỪ
PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ .............................................................107
3.1. Quan niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học .....................107
3.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ..........................................................................107
3.1.2. Quan niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học......................................109
3.2. Đặc trưng vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc trong ngôn ngữ nghệ thuật
thơ Hoàng Cầm.................................................................................................113
3.2.1. Sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ .....................................................113
3.2.2. Ngôn ngữ đầy ắp tính tượng trưng và giàu tính nhạc.............................129
KẾT LUẬN .............................................................................................................148
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU
CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................151
TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................152
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm được đánh giá là một tác giả tài hoa
và độc đáo, ông đã dệt được một hồn thơ mang bản sắc riêng. Hồn thơ ấy đã góp phần
tăng thêm sự phong phú, đa dạng cho nền thơ ca dân tộc thời kỳ hiện đại.
Tiếp cận thơ Hoàng Cầm ta có ấn tượng khá đặc biệt bởi một không gian thơ
riêng biệt - đó là không gian văn hoá vùng Kinh Bắc cổ kính và tao nhã. Ngoài những
khả năng thiên bẩm, ngoài ảnh hưởng của môi trường văn hoá gia đình, văn hoá thời đại,
văn hoá dân tộc, chúng ta có thể thấy ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá vùng - một yếu tố
quan trọng góp phần quyết định tạo nên hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Hoàng
Cầm. Chính điều đó đã tạo ra dấu ấn đặc trưng riêng của Hoàng Cầm trong số các chân
dung của thơ ca hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề văn hoá vùng trong thơ của
Hoàng Cầm mới chỉ dừng lại ở những phát hiện nhỏ, lẻ, chưa trở thành một hướng
nghiên cứu có tính hệ thống và cụ thể, vẫn chưa được giải mã một cách triệt để, đầy đủ,
nhằm chỉ ra những nét mới mẻ, độc đáo của vùng văn hóa và các biểu tượng nghệ thuật
trong thơ ông.
Do đó, nghiên cứu văn hoá vùng Kinh Bắc chính là góp phần giải mã thơ Hoàng
Cầm, chỉ ra những đặc trưng riêng biệt trong thơ Hoàng Cầm từ góc độ văn hóa học và
qua các biểu tượng văn hóa vùng. Đồng thời, việc nghiên cứu này cũng góp phần làm
sáng tỏ vùng văn hoá thẩm mỹ và giá trị quan trọng của nó trong việc hình thành hồn
thơ, đặc trưng thơ và tư tưởng, phong cách nghệ thuật của nhà thơ Hoàng Cầm. Qua cái
“phễu lọc văn hóa” Kinh Bắc, nhà thơ Hoàng Cầm đã làm sống lại những đặc điểm văn
hóa vùng Kinh Bắc trong thơ, đã góp phần luận giải, tôn vinh và làm tỏa sáng những giá
trị của một vùng đất có truyền thống văn hóa, văn hiến lâu đời. Đây cũng chính là đóng
góp quan trọng của Hoàng Cầm đối với thơ ca Việt Nam hiện đại, đối với vùng đất, con
người và quê hương yêu dấu của nhà thơ.
Trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Cầm, bên cạnh những sáng tác thơ còn phải
nói đến những tác phẩm văn xuôi và kịch thơ nổi tiếng. Đương nhiên, chỉ với mảng sáng
tác thơ của mình, Hoàng Cầm đã xứng đáng được xem là một trong những nhà thơ xuất
sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Giữa mênh mông cuộc đời, tâm hồn anh minh, sâu
lắng và luôn luôn rộng mở, tiếng thơ tràn đầy nhiệt huyết và giàu trải nghiệm về cuộc
2
sống ấy đã để lại dấu ấn văn hoá Kinh Bắc không thể phai mờ trong ông. Tuy vậy, đời
thơ nhiều tìm tòi, nhiều trăn trở của Hoàng Cầm đến nay vẫn chưa có được sự quan tâm
nghiên cứu một cách sâu sắc và hệ thống. Nhìn lại những cống hiến to lớn của Hoàng
Cầm đối với nền thi ca nước nhà, sẽ thấy rất cần thiết phải có những công trình nghiên
cứu chuyên sâu đối với di sản thi ca quý giá của ông, để cho cuộc đời sáng tạo không
mệt mỏi ấy được tri ân một cách đúng nghĩa.
Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài "Văn hoá Kinh Bắc -
vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm" để nghiên cứu với mong muốn phát hiện ra
những điểm sáng về giá trị văn hoá thẩm mỹ trong thơ ông, khẳng định một lần nữa tài
năng và những đóng góp nhiều mặt của thi nhân trong dòng chảy lớn của nền thơ ca Việt
Nam hiện đại. Điều đó có ý nghĩa không nhỏ đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học
tập môn Văn học ở trung học phổ thông, đại học và cao đẳng... Qua đó góp phần xây
dựng hệ quy chiếu mới để nghiên cứu thơ Hoàng Cầm.
Đây là một đề tài vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn và có những đóng
góp thiết thực vào việc tìm hiểu, giải mã thơ Hoàng Cầm.
2. Mục đích nghiên cứu
Mục đích của Luận án là nghiên cứu thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ giữa
vùng văn hóa, vùng thẩm mỹ Kinh Bắc dưới các góc độ biểu tượng văn hóa và các hệ
thống ngôn ngữ. Qua đó hy vọng sẽ gợi mở và cung cấp một số cơ sở có tính chất thao
tác để hiểu thơ ca Hoàng Cầm khi tiếp cận văn bản ngôn từ, khám phá sâu hơn về truyền
thống văn hóa Kinh Bắc, góp phần nghiên cứu, giảng dạy và thưởng thức thơ ca của ông
được thấu đáo hơn. Đồng thời khẳng định những sáng tạo độc đáo, những đóng góp tiêu
biểu, đáng trân trọng của nhà thơ Hoàng Cầm trong đời sống thơ ca Việt Nam.
3. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án cố gắng làm rõ khái niệm vùng thẩm mỹ, vùng văn hóa Kinh Bắc trong
mối quan hệ với sáng tác thơ Hoàng Cầm. Điều đó cho phép phân tích và chứng minh
tính chất tiêu biểu của nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Như vậy nhiệm vụ nghiên cứu của
Luận án là lý giải các biểu tượng văn hóa và chỉ ra những đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật
nổi bật của thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.
3
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: Văn hóa Kinh Bắc - Vùng thẩm mỹ trong
thơ Hoàng Cầm.
Góc nhìn của Luận án là văn hóa Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm trên các
phương diện cơ bản: vùng thẩm mỹ trong thơ nhìn từ hệ thống biểu tượng và hệ thống
ngôn ngữ.
Các văn bản khảo sát chính: Hoàng Cầm- Tác phẩm thơ do Lại Nguyên Ân biên
soạn (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 2003). Các tập thơ của Hoàng Cầm: “Mưa Thuận
Thành” (Nxb Văn học 1991); “Bên kia sông Đuống” (Nxb Văn học 1993); “Lá Diêu
Bông” (Nxb Văn học 1993); “Về Kinh Bắc” (Nxb Văn học 1994; “99 tình khúc” (Nxb
Văn học 1996) và tập Men đá vàng” (Nxb Văn học 1995); Và các bài thơ lẻ in trên các
báo, tạp chí khác nhau và các tác phẩm thuộc các thể loại khác như: văn xuôi, kịch thơ…
Khảo sát, tham khảo thêm một số tác phẩm thơ ca viết về Kinh Bắc (tiêu biểu)
trong đời sống văn học nước nhà; một số nhà thơ cùng thời với Hoàng Cầm (để đối
chiếu, so sánh những nét độc đáo, đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm); các tài liệu sách,
báo, những tài liệu viết về đặc điểm văn hóa vùng Kinh Bắc nói riêng, về đặc điểm
văn hóa vùng nói chung… sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi làm nguồn tài
liệu tham khảo.
5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (lịch sử vấn đề)
Trong lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam, thơ Hoàng Cầm là một hiện tượng độc
đáo, đặc sắc với những đặc trưng thơ riêng biệt không thể trộn lẫn. Đó là một thứ thơ
sang trọng, đẹp một cách mong manh, lung linh những sắc màu thiên nhiên và huyền ảo
với các gam màu cổ tích, huyền sử mang tính sáng tạo, tính nghệ thuật cao và tính trực
cảm thẩm mỹ, gắn các giá trị văn hóa, phong tục của một vùng quê huê tình, cổ kính và
thanh tao với tình người Kinh Bắc. Thơ Hoàng Cầm làm say mê trái tim nhiều người đọc
nhưng cũng làm cho rất nhiều người khó tiếp cận. Do đó, có khá nhiều người đã viết, đã
bình, đã tiếp cận thơ Hoàng Cầm trong suốt nửa thế kỷ qua, đặc biệt là những năm 90
của thế kỷ XX. Song, phải chăng vì kén chọn người đọc nên đến nay những công trình
nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm còn ở mức độ khá khiêm tốn (?).
Tuy nhiên, người nghiên cứu dù đứng ở góc độ nào, luận bàn về phương diện gì
cũng đều thống nhất về tài thơ với tấm lòng yêu thơ, yêu cuộc sống hiếm thấy nơi ông,
ngưỡng mộ thật sự vẻ đẹp tâm hồn, cốt cách của thi nhân. Ở những mức độ khác nhau,
4
các bài viết thể hiện niềm ưu ái, sự đồng cảm và trân trọng nghệ thuật đối với những vần
thơ chan chứa tình đời, tình người, ngút đầy nỗi nhớ, niềm thương của ông. Các nhà phê
bình nghiên cứu đã xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để khám phá thế giới thơ Hoàng
Cầm, song hầu hết đều có sự thống nhất trong việc tìm hiểu và phân tích về cảm hứng,
giọng điệu, nghệ thuật... của nhà thơ, qua đó khẳng định giá trị nghệ thuật, bản sắc cá
nhân, thành tựu, đóng góp và vị trí riêng của thơ Hoàng Cầm trong tiến trình văn học
Việt Nam hiện đại.
Nghiên cứu đề tài về ảnh hưởng của văn hoá đối với văn học Việt Nam hiện đại,
chúng tôi nhận thấy đã có nhiều nhà nghiên cứu phát hiện ra nhiều vấn đề có giá trị thẩm
mỹ trong thơ ông. Nhưng về yếu tố văn hoá Kinh Bắc trong sáng tác của Hoàng Cầm thì
vẫn còn ít công trình nghiên cứu chuyên sâu.
Nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một số
khuynh hướng chính như sau:
5.1. Hướng nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hoàng Cầm
Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Hoàng Cầm là thi nhân được đánh
giá cao với những giá trị nghệ thuật của thơ trữ tình đương đại, theo Nguyễn Việt
Chiến: “Có thể nói, trong thơ Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm đã tạo ra một trường -
thẩm mỹ mới, nó vừa mang trong mình cốt cách của văn hoá vùng Kinh Bắc, vừa mở
ra một không gian lớn của thơ trữ tình với những tìm tòi nhằm đưa cái đẹp dân gian
vào hơi thở của mỗi bài thơ. Và chính điều này đã làm nên một trường - giang - thơ
lộng lẫy của riêng Hoàng Cầm - ông Hoàng của thơ trữ tình đương đại” [19, tr.59].
Chu Văn Sơn có nhận xét thơ Hoàng Cầm mang giọng điệu “tức nghẹn, nhấn chìm,
đè ngang” [146, tr.285].
Đặng Tiến trong bài Cây tam cúc cũng nhận xét: “Thơ Hoàng Cầm giàu âm
điệu... Có những câu thơ dìu dặt, luyến láy do sắp xếp; nhưng giọng điệu bài thơ có thể
xuất thần, vượt khỏi sự dụng công” [71, tr.61].
Đáng chú ý hơn cả là nhận xét của Nguyễn Đăng Điệp “Khi lắng nghe giai điệu
thơ Hoàng Cầm có thể thấy ông chịu ảnh hưởng khá rõ âm nhạc từ, khúc trong văn
chương cổ điển phương Đông… hoà quyện chặt chẽ với cái mượt mà của những làn điệu
dân ca quan họ đã tạo nên những màu sắc riêng: sang trọng, đằm thắm nhưng bay bổng,
hào hoa. Đó không phải là những phép cộng các thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà là sự
5
hoà nhuyễn trong một hồn thơ nhạy cảm, tất cả như tan vào nhịp thở, nhịp tim Hoàng
Cầm và vang lên thành một thứ giai điệu tiêu tao, sâu lắng, man mác một nét buồn xa
xăm. Ở một trang khác, tác giả có đoạn “ta còn thấy bóng dáng xa xôi của văn hoá
Chămpa ẩn sâu, tan vào văn hoá Kinh Bắc đã tạo nên một âm điệu rất riêng trong những
sợi dây tơ tinh tế Hoàng Cầm” [32, tr.205- 206- 207].
Như vậy có thể thấy các tác giả chủ yếu đi vào hai phương diện của giọng điệu
thơ Hoàng Cầm là giọng điệu quan họ và giọng điệu tức nghẹn. Tuy nhiên mới chỉ dừng
lại ở vấn đề nêu ra chứ chưa đi sâu nghiên cứu, lý giải một cách cụ thể. Những phát hiện
đó đều rất tinh tế và khá chính xác, đây sẽ là cơ sở khoa học để chúng tôi kế thừa và phát
triển trong quá trình nghiên cứu.
Xoay quanh ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm, các nhà nghiên cứu, phê bình có
những lời khen chê khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: “Anh không chỉ thạo
dùng chữ, nhất là sử dụng động từ. Cũng lạ ở con người mái tóc tro bụi này là việc
mày mò tìm ra cái lẩn đằng sau chữ, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, tạo nên bề
dày chữ nghĩa...” [71, tr.38]. Các tác giả Chu Văn Sơn, Đặng Tiến cũng có những
phân tích về Cây tam cúc của Hoàng Cầm và chỉ ra được các giá trị nghệ thuật của bài
thơ, đặc biệt là thành tựu về phương diện ngôn ngữ, đó là sự phối hợp nhuần nhuyễn
giữa tính truyền thống và tính hiện đại, giữa đặc trưng trữ tình và phẩm chất bác học
trong ngôn ngữ thơ. Các cây bút đã khẳng định đó chính là một thứ ngôn ngữ của thơ
mới, trẻ trung và có sức hấp dẫn lạ kỳ...
Bên cạnh đó, có nhiều nhà phê bình nghiên cứu đề cao dấu ấn của lối viết tự
động hoá. Ở đó, ngôn ngữ thơ không hề có dấu vết của sự gia công, gò giũa, mà là của sự
tuôn chảy thẳng ra từ mạch nguồn trữ tình. Để khẳng định cho ý kiến của mình, Đỗ Lai
Thuý có so sánh ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm với ngôn ngữ thơ Lê Đạt, ông coi Lê Đạt là
người “phu chữ”, còn “sáng tác kiểu Hoàng Cầm xem ra có phần nhàn nhã” [71, tr.59].
Nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, một số nhà nghiên cứu cũng đã phát
hiện và chỉ ra những nét đặc trưng trong thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm trên các
phương diện không gian, thời gian, cùng một số hình ảnh đặc sắc trong thơ ông như:
Đỗ Lai Thuý trong bài Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và... có nhận xét: “Thơ Hoàng
Cầm là thơ ẩn dụ. Hệ thống ẩn dụ của ông, một phần lấy nguyên từ cái “kho trời chung”
của văn hoá dân gian, phần khác lấy có cải biến, còn lại là cá nhân ông sáng tạo. Thơ
hoàng Cầm tràn ngập ẩn dụ đêm, mưa, trăng và gió...” [131], ông (Đỗ Lai Thuý) cũng có
6
những dòng so sánh giữa hai phong cách thơ Nguyễn Bính và Hoàng Cầm: “Thơ
Nguyễn Bính dân dã và chân quê hơn. Còn thơ Hoàng Cầm hiện đại và bác học hơn:
cùng viết về nông thôn nhưng thơ Nguyễn Bính là sự thương nhớ lo âu, khắc khoải về sự
phôi pha của quê hương, còn Hoàng Cầm không tả thực một vùng quê Kinh Bắc trong
thực tế mà còn thể hiện một Kinh Bắc bất tử trong thơ ông”. Tác giả cũng chỉ ra rằng
“Tập thơ Về Kinh Bắc là một giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh
rời rạc... đó là sự siêu thăng của mặc cảm Oeđipe, một thực tại siêu thực trong vô thức
Hoàng Cầm” [131].
Một số bài viết có đề cập đến thi pháp thơ Hoàng Cầm, và đều thống nhất một
nhận xét về thơ ông là lối thơ siêu thực, phạm trù siêu thực, hoặc “đi theo hướng thơ “phi
lý” [2, tr.29], hoặc “Tính hiện đại ở thơ Hoàng Cầm không phải là như ở thơ Vũ Hoàng
Chương, mà là một vùng cây cỏ, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực
hoá thành Cỏ bồng thi, cầu bà sấm, bến cô mưa và Lá diêu bông, hay những người con
gái mờ ảo, những mối tình hư ảo xứ Kinh Bắc, xoá nhoà trong mưa bụi bay” [2, tr.30].
Đỗ Đức Hiểu trong bài Thơ mới- cuộc nổi loạn của ngôn từ thơ cho rằng thế
giới thơ Hoàng Cầm là một “thế giới ảo” tràn ngập những hình ảnh siêu thực. Ở một
phương diện cụ thể, tác giả khẳng định: “Mưa Thuận Thành là một thế giới siêu Thuận
Thành, siêu Kinh Bắc, siêu mưa” [146, tr.280]. Cũng đứng trên góc độ này, Phan Huy
Dũng nhận xét: “Bài thơ Lá diêu bông sáng tác theo lối siêu thực. Nhà thơ tái hiện một
cách trung thành những phút mê sảng của tâm hồn, lối viết tự động dẫn tới sự ghép nối lạ
lùng các hình ảnh, sự chuyển kênh đột ngột của cảm giác, những từ ngữ kỳ dị rất khó
giải thích” [24, tr.117].
Có thể nhận thấy rằng, các bài viết, bài nghiên cứu, các ý kiến trên đây đều thống
nhất chỉ ra: Trong nghệ thuật thơ Hoàng Cầm có một thế giới ảo, có những hình tượng
thơ siêu thực, có những yếu tố của tiềm thức, vô thức, tâm linh... Và chúng tôi cũng đồng
nhất với cách gọi của Trần Thị Huyền Phương: Thơ Hoàng Cầm là sự kết hợp giữa hai
yếu tố thực và hư.
5.2. Hướng nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn hóa Kinh Bắc trong thơ
Hoàng Cầm
Khi phát hiện ra văn hoá Kinh Bắc chính là những ảnh hưởng quan trọng làm nên
cội nguồn thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Hình như có một không gian
7
Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh. Và trên cái nền thời
gian, không gian ấy, cứ thấp thoáng một cô gái quê Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ
duyên dáng, tình tứ…” [4, tr.56].
Hoài Việt khi nghiên cứu về thơ văn và cuộc đời Hoàng Cầm cũng nhận xét: “Ở
Hoàng Cầm “chồi tâm” nảy lên từ nền văn hiến truyền thống Kinh Bắc, vùng đất cổ còn
để lại đến đời nay bao nhiêu đình chùa, miếu mạo, bao nhiêu ông trạng, ông nghè, ông
cống, bao nhiêu trai Cầu Vồng - Yên Thế, gái Nội Duệ - Cầu Lim. Hoàng Cầm đắm
mình trong đó. Văn chương Hoàng Cầm vục uống từ suối nguồn đó, say sưa có lúc đến
chuệnh choạng”, đến với thơ văn Hoàng Cầm là đến với “non sông gấm vóc này có một
bề dày lịch sử truyền thống oanh liệt” [71, tr.34].
Nguyễn Xuân Lạc viết về cảm hứng thơ Hoàng Cầm “Người thơ mang tên vị
thuốc đắng ấy lại sinh ra và lớn lên trong một vùng đất thơ ngọt ngào. Đó là xứ Kinh Bắc
- một trong ba cái nôi lớn của dân tộc Việt Nam... Xứ Kinh Bắc thơ mộng hữu tình...
Vùng đất thơ ấy đã bồi đắp cho thơ Hoàng Cầm từ nhiều phía, nhiều nguồn”, ra đi kháng
chiến, Hoàng Cầm “đem theo cả một hành trang Kinh Bắc trong hồn thơ Thanh niên của
mình” [71, tr.14-15].
Cũng theo hướng tiếp cận này, Nguyễn Đăng Điệp chú ý đến yếu tố văn hoá bao
bọc từ thuở ấu thơ “Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng sương khói văn hoá dân
gian đã ăn quá sâu vào tuổi thơ Hoàng Cầm... Nằm sau trong câu chữ Hoàng Cầm là sự
ngân vọng của những lớp trầm tích văn hoá được thẩm thấu qua bộ lọc tinh tế của thi
nhân... Cái yếu tố sâu xa nhất tạo nên ma lực thơ Hoàng Cầm là ở chỗ ông biết đánh thức
hồn quê Kinh Bắc trong cõi vô thức, tiềm thức” [32, tr.195, tr.206].
Như vậy, có thể nói các bài viết trên chủ yếu đề cập đến vấn đề cảm hứng thơ
Hoàng Cầm - và đã khẳng định những cảm hứng đó đều được bắt nguồn từ vùng văn hoá
truyền thống Kinh Bắc. Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ đặc biệt để Hoàng Cầm dệt lên
hồn thơ đẫm chất trữ tình của mình.
Với bài viết Chị đừng đi, Ngô Thảo lại đề cập đến yếu tố tâm linh trong thơ
Hoàng Cầm. Đó chính là tâm thế sáng tạo của nhà thơ: “hầu suốt hành trình đi tới về với
thời gian, thế giới tinh thần, tâm linh ông luôn đi ngược, lặn sâu vào quá khứ. Quá khứ
không chỉ hiện ra qua lớp từ cổ, những địa danh cổ, nếp sống cổ, phong tục tập quán cổ...
ông đã tạo ra được một không gian cổ trọn vẹn, đặc biệt kỳ diệu trong tập thơ Về Kinh
8
Bắc. Bao nhiêu từ thô lậu của đời thường, nào yếm, váy, giải yếm, đặt trong thế giới này
bỗng mang một màu sắc gợi tả khác xa ý nghĩa cụ thể” [146, tr.301].
Khẳng định bản lĩnh và tài năng thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Việt Chiến viết: “Tài
năng ông là ở chỗ tìm tòi đổi mới thơ mà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển,
nâng cao tư duy thơ mà giọng điệu vẫn không xa lạ với mọi người” [19, tr.57] và chỉ rõ:
“Hoàng Cầm là ông Hoàng của thơ trữ tình... Thơ trữ tình của Hoàng Cầm có một phong
thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cả một vùng Kinh Bắc - cái
nôi của nền văn hoá Sông Hồng” [19, tr.56].
Năm 2007, cuốn sách Thơ Hoàng Cầm với văn hoá Kinh Bắc của Nguyễn Thị
Minh Bắc có đề cập đến góc độ văn hoá, nhưng chưa chỉ ra được những biểu tượng văn
hoá trong thơ ông - điều cốt lõi làm nên những thành công về bản sắc, phong cách nghệ
thuật và tài năng của nhà thơ.
Năm 2011, Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản cuốn Hoàng Cầm- Hồn thơ độc
đáo do tác giả Lại nguyên Ân chủ biên có tập hợp các bài viết về cuộc đời và sự nghiệp
thơ ca Hoàng Cầm. Đây là một cuốn sách tập hợp khá đầy đủ những bài viết, bài đánh
giá, nghiên cứu phê bình về thơ Hoàng Cầm dưới nhiều góc độ như: Hoàng Cầm, ông
hoàng của thơ trữ tình… của Nguyễn Việt Chiến, Hoàng Cầm - gã phù du Kinh Bắc của
Chu Văn Sơn, Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm của Đỗ Lai Thúy, Hành trình xóa bỏ
ẩn dụ như một lối tìm đến ngôn ngữ thi ca mở: Hoàng Cầm của Khánh Phương, Thơ
Hoàng Cầm - truyền thống và hiện đại của Đặng Tiến, Người dệt thơ từ những giấc mơ
của Nguyễn Đăng Điệp… nhưng cũng chưa đề cập nhiều đến các biểu tượng văn hóa
Khinh Bắc trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.
Năm 2012, Luận án Tiến sĩ của Lương Minh Chung [22] với đề tài Thơ Hoàng
Cầm từ góc nhìn văn hóa đã xác định điểm nhìn văn hóa trong việc nghiên cứu thơ
Hoàng Cầm. Tuy nhiên tác giả Luận án này chưa nhấn mạnh cái căn nguyên tạo nên giá
trị văn hóa vùng đã thẩm thấu một cách trực tiếp, sâu đậm đến hồn thơ, phong cách thơ
Hoàng Cầm. Theo chúng tôi, đây là vấn đề hết sức quan trọng. Tác giả Lương Minh
Chung đã đi sâu vào các vấn đề lý thuyết, lý luận chung về mối quan hệ giữa môi trường
văn hóa và con người, và dưới góc nhìn văn học như một công cụ để khai thác. Vậy nên
ở đây chúng tôi không đi sâu vào vấn đề lý thuyết, lý luận chung đó nữa, hơn nữa tác giả
cũng có đề cập đến việc phản ánh các biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm dưới góc nhìn
9
văn hóa trong mối quan hệ tổng thể của văn hóa Việt Nam, thế nên chưa giải mã cội
nguồn sâu xa ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục, lối sống, tâm hồn con người, lịch sử và
thiên nhiên Kinh Bắc đã ảnh hưởng trực tiếp tới hồn thơ Hoàng Cầm như thế nào. Chính
vì thế mà chúng tôi đi sâu vào vấn đề cội nguồn văn hóa vùng để khẳng định đó chính là
vùng thẩm mỹ độc đáo, đặc biệt ảnh hưởng đến hồn thơ, phong cách thơ, tư tưởng nghệ
thuật của nhà thơ đất Kinh Bắc này.
Trong các bài đánh giá, nghiên cứu phê bình trên về cuộc đời và sự nghiệp thi ca
của Hoàng Cầm có đề cập ít nhiều đến vùng thẩm mỹ Kinh Bắc trong sáng tác thơ
Hoàng Cầm, nhưng mới chỉ nói đến ở mức độ đề cập tới vấn đề chứ chưa đi vào phân
tích hoặc làm rõ vấn đề, do đó chưa có tính hệ thống, chưa khảo sát một cách toàn diện,
cũng như chưa khái quát hóa trở thành một luận điểm mang tính khoa học, góp phần giải
mã thơ Hoàng Cầm và chỉ ra những đặc điểm, đặc trưng, những sáng tạo độc đáo của
nhà thơ Kinh Bắc hết sức tài hoa này trên góc độ biểu tượng và đặc trưng ngôn ngữ với
mối quan hệ với văn hóa vùng Kinh Bắc. Tuy nhiên những ý kiến, nhận xét, đánh giá của
các nhà nghiên cứu, phê bình trên đều có giá trị khơi gợi, mở hướng cho chúng tôi việc
xác định mục tiêu của đề tài để tiếp tục triển khai các nội dung, phương pháp nghiên cứu,
làm sáng tỏ và khẳng định một cách chắc chắn dựa trên các căn cứ khoa học vấn đề: văn
hóa Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ độc đáo trong thơ Hoàng Cầm. Vùng thẩm mỹ độc
đáo và sâu sắc ấy tự thân đã góp phần quan trọng tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm, tạo nên
một tư tưởng nghệ thuật và phong cách thơ Hoàng Cầm.
Vì thế chúng tôi muốn lựa chọn đề tài này nhằm mục đích giải mã một cách khoa
học, tương đối thấu đáo về thơ Hoàng Cầm từ góc độ văn hóa học trong mối liên hệ với
vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Từ đó khẳng định: Văn hoá Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ
độc đáo trong thơ Hoàng Cầm.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành Văn hoá - Văn học: Cách
tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá học giúp chúng tôi lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm
nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá,
thẩm mỹ liên quan đến con người, thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn
ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của
10
tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường
phát triển nói chung của văn học.
- Phương pháp lịch sử: Không những giúp người viết tìm hiểu những vấn đề
liên quan hoàn cảnh xã hội và cá nhân đã ảnh hưởng như thế nào tới quá trình sáng
tác của tác giả mà còn góp phần xác định được vị trí của tác giả đó trong quá trình thơ
ca dân tộc.
- Phương pháp hệ thống, phân tích: Đây là một trong những phương pháp cần
thiết giúp chúng tôi khảo sát, tìm hiểu những chi tiết, hình ảnh được lặp lại có ý nghĩa
quan trọng trong việc xác định những biểu tượng nghệ thuật độc đáo trong thơ Hoàng
Cầm, từ đó phân tích, nhận xét, đánh giá mang tính khái quát, hệ thống cho mỗi vấn đề
được trình bày.
- Phương pháp so sánh: So sánh đồng đại và lịch đại trên quan điểm lịch sử để
thấy được tính tiếp thu và kế thừa trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.
- Vận dụng một số phương pháp của Thi pháp học để tiếp cận hệ thống các
phương thức biểu hiện bằng biểu tượng nghệ thuật của văn học, bắt nguồn từ quan điểm
thẩm mỹ nhận định về thế giới nghệ thuật để soi tỏ vấn đề nghiên cứu Văn hóa Kinh Bắc
- Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm.
7. Đóng góp của luận án
- Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về vùng thẩm mỹ và mối quan hệ giữa
vùng văn hoá với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học. Qua đó thấy được mối quan hệ
giữa môi trường văn hoá với sáng tác văn học.
- Khảo sát, hệ thống hóa, phân tích, đánh giá những biểu tượng văn hóa Kinh Bắc
trong sáng tác thơ của Hoàng Cầm, chỉ rõ một số đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật thơ
Hoàng Cầm trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.
- Khẳng định những nét đặc sắc về nội dung và những sáng tạo độc đáo trong
nghệ thuật thơ của Hoàng Cầm, nhằm góp thêm một cách tiếp cận về thơ của ông.
- Khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ tài hoa này trong dòng
chảy của nền thơ ca Việt Nam hiện đại và góp một cách phân tích để hiểu thơ, nhận thức,
giảng dạy và cảm thụ thơ Hoàng Cầm sâu sắc hơn.
11
8. Cấu trúc luận án
Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung của Luận án được triển khai trong 3 chương:
Chương 1: Vấn đề lý luận về vùng thẩm mỹ, vùng văn hoá và vùng văn hoá
Kinh Bắc.
Chương 2: Thế giới biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm.
Chương 3: Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm nhìn từ phương diện ngôn ngữ.
Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu của Luận án
Sau cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.
12
Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VÙNG THẨM MỸ, VÙNG VĂN HOÁ
VÀ VÙNG VĂN HOÁ KINH BẮC
1.1. Quan niệm về vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học
Trong sáng tác nghệ thuật, trong đó có văn học, các nhà văn thường có một “vùng
sáng tác” nhất định để lấy thi liệu, thi đề cho cảm hứng của mình.
Có thể nói mỗi nhà văn có một “chất dính” (chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh)
riêng để thể hiện ngòi bút của mình. Khi nhà văn có sự quan sát thực tế đời sống ở nhiều
lĩnh vực khác nhau, “chất dính” ấy vẫn chỉ có thể bắt lấy được những gì mình thích hợp
với nó mà thôi. Ở Thạch Lam là những phố huyện nghèo nàn, xơ xác, buồn vắng hoặc
những vùng ngoại ô tối tăm của Hà Nội, với những linh hồn bé nhỏ tội nghiệp, lặng lẽ
sống với những ý nghĩ, những mơ ước, những cảm giác hiền lành, nếu không phải là ngơ
ngác, lo lắng nhìn về một tương lai mù mịt; ở Nguyên Hồng là những con đường phố tấp
nập nơi thành phố cảng Hải Phòng chói chang màu phượng vĩ, nơi đây, bên cạnh cuộc
sống ồn ào, náo nhiệt là cuộc sống khó khăn của những người thợ nghèo khổ đang đồng
thời diễn ra trong than bụi; với Nguyên Ngọc lại là vùng đất Tây Nguyên; Nguyễn Bính
với mảnh đất Sơn Nam; nhà văn Sơn Nam với vùng đất Nam Bộ; Kim Lân với những
thú phong lưu đồng ruộng nơi vùng Kinh Bắc; Anh Thơ cũng có vùng sáng tác riêng với
những cảnh chợ phiên nghèo và những dòng sông, những phong tục tập quán vùng Kinh
Bắc... Không gian trong thơ Hoàng Cầm cũng là không gian của vùng Kinh Bắc trù mật
về một nền văn hoá, văn hiến lâu đời, tuy nhiên thơ ông lại mang một chiều sâu của giá
trị văn hóa thẩm mỹ khác. Nhà thơ đã khai thác, xây dựng mối quan hệ giữa văn hoá và
văn học để soi chiếu, từ đó đưa những hình ảnh đặc trưng, những biểu tượng văn hóa vào
trong thơ nhằm tái hiện hiện thực đời sống đến vùng thẩm mỹ của văn chương. Bằng bút
pháp nghệ thuật, nhịp điệu thơ văn, tính sáng tạo trong tư duy ngôn ngữ, giọng điệu và
cấu trúc văn bản, nhà thơ đã sáng tạo những ý tưởng thẩm mỹ mang tính đặc trưng riêng.
Như thế, mỗi nhà văn đều có một hệ đề tài quen thuộc và ưa thích của chính
mình, có thể gọi đó là vùng đối tượng thẩm mỹ (chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh). Ở
đây, các vùng đối tượng thẩm mỹ tự nó đã ghi đậm dấu ấn chủ thể sáng tác để tạo nên
phong cách thơ đặc biệt và tư tưởng nghệ thuật riêng cho nhà thơ.
Trong sáng tác văn học nói chung, sáng tác thơ ca nói riêng, mỗi nhà thơ thường
tạo cho mình một không gian nghệ thuật, một thế giới nghệ thuật riêng và trước hết nó
13
phải hấp dẫn, lôi cuốn tác giả. Từ đó nhà thơ bắt lấy cảm hứng từ vùng thẩm mỹ với
những thi liệu, thi đề trong sự cảm nhận riêng ấy mà sáng tạo thế giới nghệ thuật riêng
theo chủ quan của mình, hấp dẫn cho mình và cho bạn đọc.
Nói đến vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học trước hết phải nói đến quê hương -
nơi có thiên nhiên, văn hoá và con người với những dấu ấn riêng biệt: phải là vùng quê
“sơn thuỷ hữu tình”, độc đáo, đẹp một vẻ đẹp rất riêng, không thể trộn lẫn với vùng khác.
Thiên nhiên của quê hương không những tạo nên vẻ đẹp mà còn như dấy lên khí thiêng
của đất và người. Trải qua hàng ngàn năm, đất và người quện bên nhau, vật vã với thiên
nhiên làm nên sự sống biến đổi không ngừng. Thiên nhiên của quê hương có tài nguyên
về văn hoá, nhân văn vô giá mà biết bao thế hệ, cuộc đời đã đổ mồ hôi, xương máu để
gìn giữ, phát triển và bảo vệ, làm nên sự sống của con người nối tiếp nhau, hòa quyện
nhau, bổ sung cho nhau. Trong sáng tác văn học, các nghệ sĩ thường lấy đó làm cảm
hứng và coi đó như một vùng thẩm mỹ riêng trong sáng tác của mình.
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong
tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể
hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động
lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả
đó, văn hoá của một dân tộc, một vùng miền cũng như của toàn thể nhân loại từng
trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành
những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi
định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng
bằng ngôn từ nghệ thuật.
Văn hoá nói chung là một khái niệm rất rộng, để tạo nên vùng văn hoá thì cần
phải có ba tiêu chí là: tộc người, môi trường tự nhiên và những biến thiên trong văn hóa -
lịch sử. Ba tiêu chí trên tạo nên một diện mạo để nhận diện về vùng văn hoá. Ví dụ vùng
văn hoá Kinh Bắc với chủ thể là tộc người Kinh - Việt; với người Tây Bắc là tộc người
Tày - Nùng... nhưng nói đến văn hoá thẩm mỹ thì khái niệm đã được thu hẹp lại, mang
tính chất giới hạn nội dung của văn hoá. Văn hoá thẩm mỹ chủ yếu thuộc về các lĩnh vực
nghệ thuật như: văn hoá nghệ thuật, trò chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội, văn
chương nghệ thuật, sân khấu, diễn xướng, sinh hoạt ca hát... Và có thể coi đó chính là
vùng thẩm mỹ để văn học nghệ thuật có điều kiện nảy sinh và thể hiện.
14
Trong thực tế, cuộc sống hình thành văn hoá, cuộc sống nào thì văn hoá đó.
Vì vậy mới có văn hoá thị thành, văn hóa đồng bằng, văn hoá vùng miền, văn hoá
Quốc gia...
Văn học là một bộ phận của văn hoá, nó luôn phụ thuộc vào bề dày của cuộc
sống tâm thức con người trong một vùng đất thơ, văn. Vùng đất nào mang bản sắc vùng
đất đó. Nghĩa là, trong thực tế đời sống văn học, ta thường thấy mỗi nhà văn đều có một
vùng đề tài riêng để sáng tác. Tất nhiên đó là vùng mà họ ưa thích, ở đó luôn sẵn có
những thi liệu, thi đề gợi nguồn cảm hứng cho họ, và họ bắt nhịp rất nhanh để có được
những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao, tạo được dấu ấn trong phong cách
sáng tạo cá nhân. Khi thoát ra khỏi đề tài ấy, thì nhà văn rất ít cơ hội để thể hiện ngòi bút
của mình, theo đó, tác phẩm trở nên nhạt nhẽo, không còn sắc nét nữa, dẫn đến hình
tượng nghệ thuật thiếu sức sống, thiếu linh hồn, bản chất thẩm mỹ trong sáng tác sẽ bị
mất thiêng, thậm chí cấu trúc văn bản trở nên rời rạc, thừa thãi, vô duyên.
Biểu trưng, biểu tượng văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương
phản chiếu của văn hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh, sự biểu hiện và
các biểu trưng, biểu tượng của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là
bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh,
trò chơi…); là những vẻ đẹp của văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút
Nguyễn Tuân (Hoa thuỷ tiên, Nghệ thuật pha trà, Thư pháp…); là không gian văn hóa
làng quê và những phiên chợ quê trong thơ Nữ sĩ Anh Thơ; là những tín ngưỡng, phong
tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín
ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên
đồng, hát Chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…); Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi
đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử như trong
kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện
qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ
Giát của nhà văn Nguyễn Minh Châu…
Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật trong vùng sáng tác riêng của mình là
một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được
rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không
gian văn hoá thẩm mỹ này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật,
sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách
15
phổ biến, đánh giá, thưởng thức trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao
dung mới luôn tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển, có điều văn học
có thể hiện được hay không lại là vấn đề khác. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là
nhiệt kế vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá của một xã hội
trong một thời điểm lịch sử nhất định. Điều đó cho thấy người nghệ sĩ khi sống và gắn bó
máu thịt với một vùng đất, văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của vùng đất đó sẽ ăn sâu
vào tiềm thức để rồi tạo nên những tác phẩm nghệ thuật. Các tác giả văn học (tiêu biểu),
tất yếu sẽ hình thành một tư duy nghệ thuật cùng những quan điểm sáng tác mới, từ đó
nảy sinh phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà văn. Vì thế, khi sáng tác, những giá trị
văn hóa vùng đất ấy đã đi vào trang viết của họ một cách tự nhiên như một điều tất yếu
không thể nào khác được.
Tuy nhiên không phải nhà văn nào cũng có vùng thẩm mỹ riêng cho sáng tác
mình. Giá trị vùng thẩm mỹ chỉ thực sự được nảy sinh khi nhà văn đó gắn bó máu thịt
hoặc có một xúc cảm thẩm mỹ đặc biệt để viết nên những tác phẩm mang dấu ấn đặc
trưng riêng biệt cho mình. Khi tác phẩm ra đời thể hiện được những thi đề vừa quen
thuộc, vừa mới lạ dựa trên những thi liệu từ cội nguồn truyền thông vốn có của vùng quê
ấy (như những hình ảnh, cảnh vật, những sự kiện, hiện tượng, những con người và các
mối quan hệ với các yếu tố văn hóa cơ bản, cốt lõi đã và đang tồn tại ở chính nơi đó).
Điều đó sẽ gây cảm hứng, cảm xúc mãnh liệt trong suối nguồn sáng tác của người nghệ
sĩ. Cũng từ đó góp phần tạo nên thế giới hình tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng, sinh
động trong tác phẩm. Và cũng chính từ đây hình tượng nghệ thuật được hình thành và
bám trụ một cách sâu sắc trong đời sống văn học của nhà văn, để rồi tư tưởng nghệ thuật
của nhà văn được hình thành và phát triển. Và ta gọi đó chính là không gian sáng tác
riêng, hay là vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học.
1.2. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học
1.2.1. Quan niệm về vùng văn hóa
Vùng văn hóa là hiện tượng, là thực tế xã hội - lịch sử đã được các nhà văn hóa
nghiên cứu và phân định. Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, mỗi nền văn
hóa đều được hình thành bởi các vùng, miền văn hóa với những đặc trưng, sắc thái riêng
làm thành tính thống nhất và đa dạng của các nền văn hóa.
Học thuyết của các nhà dân tộc học Xô Viết trước đây về khu vực lịch sử - dân
tộc học, hay lịch sử - văn hóa, thực chất là học thuyết về vùng văn hóa.
16
Về khái niệm văn hóa vùng, miền, cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam viết: “Là
một thực thể văn hóa bao gồm những nét đặc trưng, những sắc thái riêng mà các vùng
khác không có hoặc có mà không điển hình, không tiêu biểu. Những nét đặc trưng văn
hóa vùng thể hiện trên các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể trên các lĩnh vực kinh
tế (làm ruộng nước hay nương rẫy, trồng trọt hay tiến hành kinh tế chiếm đoạt, thừa
hưởng của cải sẵn có của tự nhiên), văn hóa vật chất (nhà cửa, y phục, trang sức, ăn
uống, phương tiện di chuyển), văn hóa xã hội (các chu kỳ trong đời người: cưới xin, sinh
đẻ, ma chay, nếp sống), văn hóa tinh thần (tín ngưỡng, lễ hội, văn hóa dân gian, sinh hoạt
cộng đồng),…” [101, tr.818].
Hiện có khá nhiều quan niệm về vùng văn hoá, trong đó quan niệm của Trần
Quốc Vượng đảm bảo được tính ngắn gọn của một định nghĩa, thể hiện rõ quan điểm
tiếp cận, đồng thời nêu bật được đặc trưng cơ bản của một vùng văn hoá: “Một vùng văn
hóa là một tổng thể - hệ thống một không gian văn hóa (cutural space) với một cấu trúc -
hệ thống (structure- system) bao gồm các hệ dưới - hay tiểu hệ (sub- system) theo lối tiếp
cận hệ thống (system-analysis)” [150, tr.401].
Về mặt không gian, Việt Nam có địa bàn hẹp nhưng lại trải dài từ Bắc vào Nam
với bờ biển dài trên 3.000 km, đa dạng về địa hình, điều kiện khí hậu, về tộc người và
phân bố tộc người. Về mặt thời gian, Việt Nam có quá trình phát triển sự sống và văn
hóa lâu đời, trong đó từ rất sớm đã có xu hướng phát triển dần vào phương Nam tạo nên
sự đa dạng văn hoá giữa các vùng đất cũ và vùng đất mới, nhất là trong quá trình phát
triển vào Nam, cư dân người Việt luôn sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới trên cơ sở
ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội mới của mình.
Do vậy, từ trước khi có những nghiên cứu khoa học về văn hoá và vùng văn hoá,
người Việt đã cảm nhận được những khác biệt giữa các xứ, các vùng văn hoá. Trong
Việt Nam văn hoá sử cương (1938) - được coi là công trình nghiên cứu có tính hệ thống
đầu tiên về văn hoá Việt Nam, tuy không sử dụng khái niệm vùng văn hoá nhưng Đào
Duy Anh đã rất chú ý đến tính đa dạng của văn hoá Việt Nam khi xem xét sự khác biệt
về hoàn cảnh sinh hoạt của cư dân ở những địa vực khác nhau trong nội bộ nền văn hoá
Việt Nam [5, tr.16-23]. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX, việc phân vùng văn hoá Việt
Nam được đặc biệt chú trọng và có nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng trong
việc nghiên cứu tính đa dạng của văn hoá Việt Nam cùng những biểu hiện đặc trưng của
mỗi vùng văn hoá.
17
Vùng văn hóa còn là một không gian văn hóa nhất định, được tạo thành bởi các
đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lý của một hay nhiều tộc người. Theo đó là sự sáng
tạo ra một hệ thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện
trong môi trường xã hội nhân văn và thông qua các hình thức ứng xử của con người với
tự nhiên, xã hội và ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử lâu dài có tính đồng nhất, ít
xảy ra xung đột.
Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc và nhiều vùng miền. Kết quả nghiên cứu
của các nhà lịch sử và văn hóa học Việt Nam cho thấy nước ta có từ 6 đến 9 vùng văn
hóa, với những đặc trưng và sắc thái riêng, làm thành tính thống nhất và đa dạng,
phong phú của văn hóa Việt Nam. Theo Ngô Đức Thịnh Việt Nam có 7 vùng văn hóa
lớn: 1- Vùng văn hóa Trung du và đồng bằng Bắc bộ với trung tâm là Thăng Long - Hà
Nội; 2- Vùng văn hóa Việt Bắc; 3- Vùng văn hóa Tây bắc và miền núi Bắc trung bộ; 4-
Vùng văn hóa đồng bằng duyên hải Bắc trung bộ; 5- Vùng văn hóa duyên hải Trung và
Nam trung bộ; 6- Vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên; 7- Vùng văn hóa Nam bộ
mà trung tâm là Sài Gòn - Gia Định [122].
Như vậy, việc phân vùng văn hóa không căn cứ và tùy thuộc vào đơn vị hành
chính hiện tại, mà căn cứ vào quá trình hình thành các vùng không gian văn hóa và
những đặc điểm địa lý, điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của mỗi vùng văn hóa với những
đặc trưng và sắc thái riêng được phản ánh ở các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể
hình thành nên. Hoàng Nam trong cuốn Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người- văn hoá
Việt Nam viết “Tự nhiên và con người hòa đồng, kết thành một thể thống nhất, dù là
thống nhất tương đối, tạo thành các vùng văn hóa” [89, tr. 49].
1.2.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa vùng, miền
Bản sắc văn hóa vùng, miền là khái niệm mang tính đặc trưng cho bản sắc riêng
từng vùng, miền dưới sự thống nhất của cùng cội nguồn tạo ra bản sắc văn hóa chung,
theo đó, nó góp phần cơ bản để tạo nên tính đa dạng cho bức tranh văn hoá dân tộc. Văn
hoá vùng, miền chỉ sự khác biệt, tính độc đáo, thậm chí là viễn dị của văn hóa du lịch,
văn hóa đại chúng cùng sự đề cao những di sản độc đáo của mỗi vùng, miền. Đồng thời
nó cũng chỉ sự khác biệt của đặc trưng về phong tục, tập quán, nghi lễ, ngôn ngữ… Văn
hoá tộc người theo không gian địa lí trên một vùng, miền nhất định. Những nhóm tộc
người khác nhau ở những chỗ khác nhau sẽ tạo nên sự phân hoá vùng văn hoá, và có sự
khác biệt độc đáo, mang bản sắc vùng, miền riêng của những sáng tạo văn hóa (trong đó
18
có các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật). Bản sắc văn hóa vùng, miền biểu hiện
cho sự định hướng và lựa chọn trong hành động của con người vùng, miền ấy.
Theo cách tiếp cận lý thuyết và lý giải khái niệm bản sắc văn hóa thì bản sắc văn
hóa vùng, miền là cái định hướng cho mọi sáng tạo văn hóa của vùng, miền, là cái ổn
định nhất nhưng không phải là cái bất biến. Nó là cái góp phần làm nên các giá trị tinh
thần và vật chất của con người ở một vùng miền nhất định.
Như vậy có hai yếu tố để tạo nên bản sắc văn hóa vùng.
Thứ nhất là yếu tố về môi trường sinh thái- tự nhiên mà từ đó sinh ra/quy định
cách thức cư trú, canh tác, đấu tranh sinh tồn và phát triển.
Thứ hai là yếu tố chứa đựng các hình thức biểu hiện văn hóa của con người, tạo
ra cung cách nhận thức- hoạt động riêng, tạo ra nếp sống, phong tục tập quán, văn học
nghệ thuật, ngôn ngữ và các quan hệ giao lưu kinh tế- văn hóa... giữa nội bộ cộng đồng
hay với cư dân của các vùng đất/ địa phương khác.
1.2.3. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ trong sáng tác của nhà văn
Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục…
là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể hiện quan
niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ
những thành quả đó một cách sinh động nhất, thậm chí hiệu quả nhất. Để có được những
thành quả đó, văn hoá của một vùng miền, dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại phải
trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành
những giá trị được định vị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó,
vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành của vùng đất, dân tộc đó. Cũng có thể
nói văn hoá vùng, miền có một giá trị nhất định, tạo nên các giá trị thẩm mỹ của vùng
thẩm mỹ để văn học lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật và các biểu tượng nghệ thuật định
hình nên cốt cách riêng, bản sắc riêng trong quá trình sáng tạo của nhà văn.
Đến lượt mình, mỗi cá nhân đều góp phần tạo nên bản sắc của một nền văn hóa,
nền văn hóa ấy, đến lượt nó lại có vai trò nâng đỡ, tạo mới để tạo ra bản sắc cá nhân. G.
Devereux - nhà nhân học văn hóa Pháp đương đại đã nói đại ý: văn hóa là tâm lý được
phóng chiếu ra ngoài, và tâm lý là văn hóa được phóng chiếu vào trong. Cả cá nhân và
văn hóa đều là những thực thể tạo tác, luôn được sinh thành và không ngừng bồi đắp.
Việc lựa chọn cho mình một giá trị văn hóa có vai trò quan trọng với mỗi cá nhân, đặc
19
biệt với nghệ sĩ, sẽ góp phần hình thành tư duy nghệ thuật. Trong rất cách ứng xử của
một số nhà thơ hiện đại nói chung, (ở đây) Hoàng Cầm đã chọn con đường trở về với
văn hóa dân gian, định vị mình trong bản sắc không gian văn hóa riêng, hay nói cách
khác là trong vùng thẩm mỹ riêng - vùng Kinh Bắc và lấy đó làm khởi nguồn thẩm mỹ
trong sáng tác thơ ca. Nghiên cứu tư duy thơ Hoàng Cầm, sẽ là thiếu sót nếu không nói
đến dấu ấn của lối tư duy dân gian, dân tộc trong vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Do đó,
nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, một phần chính là đi tìm dấu ấn của tư duy văn hóa dân
gian trong thơ ông. Qua đó để thấy một phương diện cốt yếu trong tư duy nghệ thuật của
nhà thơ, đồng thời cho thấy một thi sĩ hiện đại đã trở về nguồn văn hóa dân gian, dân tộc
trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ như thế nào? Văn hóa vùng đi qua màng lọc tư duy
nghệ thuật hiện đại sẽ biến đổi ra sao sau cái “phễu lọc văn hóa” ấy? Sự dung hợp giữa
hiện đại và truyền thống sẽ tạo ra thành quả gì cho văn chương đương đại qua đóng góp
của thi sĩ Hoàng Cầm?
Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần của một nền văn hóa thực chất được
tạo ra từ một/ một số kiểu tư duy nhất định trong sự trở về với văn hóa và chính bản
thân cách tư duy ấy cũng trở thành một giá trị, một bản sắc văn hóa riêng. Tư duy thơ
từ góc độ văn hóa dân gian vùng, miền, dân tộc được coi là cách nghĩ, cách cảm của
tập thể nhân dân lao động được hình thành từ lâu đời, được bảo lưu và bồi đắp qua thời
gian, trở thành những trầm tích văn hóa, từ đó hình thành nên tâm thức của cả cộng
đồng. Tâm thức cá nhân của người nghệ sĩ sẽ trực tiếp cho chúng ta tri nhận điều đó.
Do đó, tư duy văn hoá dân gian, dân tộc trong mối liên hệ vùng thẩm mỹ là một phạm
trù rất rộng. Nó có thể được thể hiện qua hoạt động thực tiễn của con người, qua các
nghi lễ, phong tục dân gian, và đặc biệt được bảo lưu trong những tác phẩm văn học
dân gian, hoặc trong những tác phẩm văn học viết được dân gian hóa… Điều đó được
thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung - quan niệm về thế giới, cuộc sống con
người và cách thể hiện nội dung ấy qua hình thức nghệ thuật biểu đạt. Có thể khái quát
tư duy dân gian, dân tộc nói chung và soi chiếu vào thơ Hoàng Cầm để thấy rõ điều
này trong một số đặc điểm như sau:
Thứ nhất: Sự thể hiện thế giới này về cái thần kì tồn tại như một hiện thực tất yếu,
cái huyền ảo không phải là một hư cấu mà họ tin rằng nó thật sự tồn tại theo quan điểm
vạn vật nhất linh (Thánh Gióng, Từ Thức, Giáng Tiên, Mỵ Châu, Chương Chi…);
20
Thứ hai: Thể hiện sự hồn nhiên trong hành trình đi tìm hạnh phúc, thể hiện trong
những khát vọng, ước mơ (trong thơ Hoàng Cầm là sự thể hiện ở một số lễ hội);
Thứ ba: Sự thể hiện cách nghĩ, cảm bằng các biểu tượng, mô típ (trong thơ Hoàng
Cầm gắn với các biểu tượng như mưa, đêm, men, núi, đồi, hát quan họ, lễ hội, dòng
sông, con người…);
Thứ tư: Tư duy dân gian trong cộng đồng người Việt nói chung và vùng Kinh
Bắc nói riêng bên cạnh những nét chung thuộc về tâm thức nhân loại như trên còn có
những nét riêng: trọng nghĩa tình, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người nhìn chung là
thụ động, gắn với tín ngưỡng thờ mẫu, đề cao thiên tính nữ, đề cao văn hóa cộng đồng…
Vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ có quan hệ, tác động qua lại, trực tiếp với nhau
và có ảnh hưởng trực tiếp tới tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ - tất nhiên với những
nghệ sĩ nhạy cảm, tài năng. Do đó, văn học biểu hiện văn hoá, ghi lại một cách sáng tạo
những giá trị thẩm mỹ của văn hóa, cho nên văn học là tấm gương phản chiếu của văn
hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá vùng và vùng thẩm mỹ
qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn như các bức tranh văn hóa trong sáng tác của Hồ
Xuân Hương, Nguyên Tuân, Nguyễn Xuân Khánh… đã nói ở trên, rồi những giá trị văn
hóa phong tục, thiên nhiên, con người Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm có tác động
không nhỏ đến hoạt động sáng tác văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí
quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn
đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật trong sáng tác của mình đã là một sản
phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn
luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian
văn hoá, không gian của vùng thẩm mỹ này góp phần chi phối tích cực cách xử lý đề tài,
thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng
tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức trong quá trình tiếp
nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới, mỗi một vùng thẩm mỹ mới đều là cơ hội
tạo điều kiện thuận lợi cho văn học giao lưu và phát triển. Nó chứng minh giá trị vùng
thẩm mỹ nhất định của một vùng văn hóa.
Trên tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu thẩm mỹ
của tác phẩm văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá ở một thời đại. Nói cách khác, thực
tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho việc nghiên cứu văn hoá và
các giá trị thẩm mỹ khác. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam
21
đầu thế kỷ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá Tây Âu
trong xã hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người thị dân so với người
sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo, một bên, và với người nông dân bị giới
hạn trong văn hoá nông thôn ở làng xã, một bên khác. Hoặc thông qua hệ thống thơ ca
Hoàng Cầm, nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu được các giá trị văn hóa của vùng thẩm mỹ
đất Kinh Bắc, qua đó xác lập được hệ giá trị trong mối tương quan với các vùng thẩm
mỹ, vùng văn hóa khác của đất nước.
Vùng văn hoá và vùng thẩm mỹ có liên quan mật thiết với nhau, do đó nếu vùng
văn hoá và vùng thẩm mỹ chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại,
văn học cũng tác động đến văn hóa, thẩm mỹ hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua
những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong, nhà văn lớn của dân
tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn, tiêu biểu. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ tích
cực đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá
trị thẩm mỹ, văn hoá vùng miền, dân tộc, quốc gia. Dù là phản ứng trước những làn sóng
văn hoá tiêu cực đi chăng nữa hay là cổ động cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí thức sáng
tác tinh hoa bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới
của văn hoá, văn học cho dân tộc.
Giữa vùng thẩm mỹ, vùng văn hoá và văn học có mối quan hệ hữu cơ mật thiết
như vậy, nên việc tìm hiểu các giá trị thẩm mỹ của văn học dưới góc nhìn văn hoá là một
hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học từ xã hội học,
mỹ học, thi pháp học…, thì cách tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá học giúp chúng ta
lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên
trong nó. Những yếu tố văn hoá, thẩm mỹ liên quan đến con người, thiên nhiên, địa lý,
lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những
phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý
sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.
Cách tiếp cận văn hoá vùng, vùng thẩm mỹ qua văn học như vậy thực chất là đặt
văn học trong không gian văn hoá mà những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách
tinh vi vào thế giới sáng tạo nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Ở những người
nghệ sĩ lớn, đó là sự tiêu hoá và thẩm thấu vào từng hình tượng, chi tiết của tấm thảm dệt
ngôn từ, giọng điệu, hình tượng, biểu tượng nghệ thuật. Sự thẩm thấu này truyền đi cả
theo hai chiều lịch đại và đồng đại. Một mặt, những giá trị từ văn hoá truyền thống lan
22
chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình tượng và ngôn từ của tác phẩm
mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một cách tự giác. Mặt khác, những giá trị văn
hoá, thẩm mỹ mới hình thành vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức,
đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực tiếp hay gián tiếp bằng thứ ngôn ngữ nghệ thuật trong
tác phẩm của mình. Đối với những tài năng, cả hai chiều thẩm thấu ấy hoà trộn một cách
nhuần nhuyễn đến mức khó mà tách bạch rõ ràng.
Thực tế cho thấy văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất, sự đan xen
vùng văn hoá, vùng thẩm mỹ có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn
đến sự kết tinh, chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn
giao cho cái mới, văn học có thể được coi là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị
chuyển tiếp của thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường
của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những xung đột tinh thần,
nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người, hoặc một tiếng nói
chung cho một vùng, miền.
Hơn nữa, ở xa, văn học cũng được thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một
không gian văn hoá rộng: văn hoá phương Đông, văn hoá dân tộc. Ở gần, văn học thừa
hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá, thẩm mỹ hẹp: văn hoá tộc
người, văn hoá vùng, thẩm mỹ vùng. Những vùng văn hoá, vùng thẩm mỹ giao nhau sẽ
tạo ra những nét chung trong văn học của từng vùng, miền, đồng thời nó vẫn giữ lại
những nét riêng làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hoá, từng
vùng thẩm mỹ, từ đó phân biệt “lãnh thổ” trên bản đồ văn học, ví dụ như: Việt Bắc,
Kinh Bắc, Huế, Tây Nguyên, Sơn Nam, Cà mau…. Thiên nhiên, địa lý, phong tục, tập
quán, lề thói sinh hoạt ở mỗi vùng đất là cái nôi văn hoá, thẩm mỹ hình thành nên tính
cách con người và tính cách văn chương ở đây, thể hiện qua tâm lý, hành động, ngôn
ngữ và giọng điệu.
Trong một phối cảnh văn hoá như vậy, chúng ta sẽ thấy sự nối tiếp và gần gũi
giữa Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân ở nửa cuối thế kỷ XX với Hồ Biểu Chánh,
Nguyễn Bửu Mộc, Nguyễn Chánh Sắt ở Miền Nam ở nửa đầu thế kỷ đó, hoặc sự tiếp nối
giữa Anh Thơ và Hoàng Cầm ở Miền Bắc trong thế kỷ XX. Và mặc dù không thiếu
những nét chung với những nhà văn cùng cộng đồng vận mệnh trong thế kỷ đầy biến
động này, ngay trong đề tài về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác của họ cũng có một
23
khoảng cách nhất định với sáng tác của Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến… ở
miền Trung và Trần Tiêu, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư… ở miền Bắc.
Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của
văn hoá truyền thống và đặc từng trưng vùng thẩm mỹ. Có thể nói nhà văn đích thực là
một nhà hoạt động văn hoá đích thực, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá, sản
phẩm của các hình tượng nghệ thuật với các giá trị thẩm mỹ vùng cốt lõi, và người đọc là
một đối tượng thụ hưởng văn hoá, thẩm mỹ. Trong thời đại ngày nay, đa số các quốc gia
đều là xã hội đa văn hoá, đa thẩm mỹ, văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá, như cái
đẹp của nghệ thuật truyền thống, chân chính.
1.3. Văn hóa Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc và trong thơ Hoàng Cầm
1.3.1. Đặc điểm vùng văn hóa Kinh Bắc
Kinh Bắc được coi là cái nôi sinh thành dân tộc Việt, cái nôi của lịch sử dân tộc,
đất nước, là mảnh đất màu mỡ sản sinh và nuôi dưỡng văn hoá người Việt không chỉ ở
Đồng Bằng Bắc Bộ, mà còn ở cả nước. Nơi đây phong cảnh hữu tình, có núi đồi, có sông
ngòi, có đồng bằng rộng, bằng phẳng, thổ nhưỡng cao ráo thích hợp với canh tác nông
nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.
Kinh Bắc là miền đất mang nhiều dấu ấn của các di tích về văn hóa, lịch sử và
huyền thoại. Nếu bờ Bắc của sông Đuống là vùng đất phát tích vương triều Lý, triều đại
khởi đầu nền văn minh Đại Việt, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc thì bên
bờ Nam của sông Đuống lại đậm đặc dấu thiêng, truyền thuyết về Kinh Dương Vương,
Lạc Long Quân - Âu Cơ là Thủy tổ của người Việt Nam, mở ra thời đại các Vua Hùng
dựng nước làm rạng rỡ non sông đất Việt. Thật hiếm có nơi nào như Thuận Thành - một
huyện mà có đến ba Thủy tổ: Kinh Dương Vương - Thủy tổ dân tộc, Sĩ Nhiếp - Thủy tổ
nền Hán học và chùa Dâu - chùa Tổ của Phật giáo. Điều đó khẳng định nơi đây được coi
là cái nôi văn hóa của dân tộc Việt.
Kinh Bắc với những lớp lang văn hóa của diễn trình lịch sử văn hoá Việt Nam
được ghi nhận/phản ánh với nhiều dấu tích còn lại và đang tiếp tục phát triển trong thời
đại ngày nay, chứng tỏ nơi đây là một vùng văn hoá với nhiều yếu tố vẫn còn nguyên giá
trị để khai thác, khám phá và nghiên cứu. Văn hoá Kinh Bắc đã ảnh hưởng trong sự phát
triển chung của xã hội Việt Nam (vùng miền nói riêng, cả nước nói chung) về tất cả các
mặt như kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục... Trong đó, xét một mặt nào đấy (ví dụ văn
24
học nghệ thuật) - trên lĩnh vực văn học thì văn hoá Kinh Bắc có ảnh hưởng rất sâu đậm
trong chiều sâu của lịch sử văn hoá tâm linh dân tộc.
Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi xuất phát từ thực tế kết cấu địa lý và các đặc
điểm về văn hoá Kinh Bắc, lấy văn hoá Kinh Bắc là một vùng thẩm mỹ đặc biệt, có ảnh
hưởng rất lớn trong đời sống văn học nghệ thuật của các tác giả quê ở Kinh Bắc và cả
một số tác giả người không phải gốc ở Kinh Bắc nhưng cũng có những cảm xúc thi ca
mãnh liệt về vùng đất này, đặc biệt là trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.
Về vị trí địa lý vùng Kinh Bắc
Kinh Bắc xưa chủ yếu thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Vùng đất
xứ Bắc được hình thành từ khi lập quốc, mang hiệu là Việt Thường, rồi Xích Quỷ. Trải
qua các đời như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sau đó Hùng Vương thứ nhất mới
rời lên Phong Châu (Phú Thọ), lấy Quốc hiệu là Văn Lang.
Thời Hùng Vương (thiên niên kỷ I Trước Công nguyên) dưới sự thống trị của nhà
Tần (214 - 209 Trước Công nguyên Kinh Bắc thuộc bộ Vũ Ninh, bao gồm các vùng Tây
Âu, Luy Lâu, Long Biên, Kê Từ của nhà nước Văn Lang. Dưới sự thống trị của phương
Bắc - nhà Hán (110 - 210 ), triều Ngô, Tấn, Đường, thì Kinh Bắc có nhiều thay đổi với
nhiều tên gọi và cương vực địa lý khác nhau.
Đến thời Lý- Trần gọi là Bắc Giang lộ và Như Nguyệt giang lộ. Cái tên “Kinh
Bắc” theo sử chép là thấy từ đời Trần. Lộ Bắc Giang cũng gọi là lộ Kinh Bắc. Vào năm
Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Thái Tổ - người sáng lập ra triều Lê (1428 - 1788) đã
chia cả nước ra làm năm đạo thì có Bắc đạo- là vùng Kinh Bắc. Năm Quy Thuận thứ bẩy
(1466), khi Lê Thánh Tông tổ chức vương quốc thành Thừa tuyên và chia nước ra làm
13 đạo, ấn định bản đồ địa lý cả nước Nam thì có thừa tuyên Bắc Giang hay Kinh Bắc
với 4 phủ và 19 huyện.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú cũng cho rằng Thừa tuyên
Bắc Giang tới khi ấn định bản đồ mới đổi là Kinh Bắc. Nhưng trong Dư Địa Chí (1345) -
Nguyễn Trãi đã viết: “Thiên Đức, Vệ Linh ở về Kinh Bắc”. Trong Đại Nam nhất thống
chí (q.19. Bắc Ninh) cho biết: “Đời Trần là lộ Bắc Giang, lại gọi là lộ Kinh Bắc”.
Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), Thánh Tông tổ chức lại đất nước thành 13 xứ.
Kinh Bắc đạo trở thành Kinh Bắc xứ. Tổ chức này tồn tại cho đến cuối triều Lê. Đến thời
Gia Long - người sáng lập ra triều Nguyễn (1802), chia đất nước thành 24 trấn, 4 doanh
25
và 2 thành. Kinh Bắc xứ mang tên là Kinh Bắc trấn. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi
là Bắc Ninh phủ với 4 phủ, 2 phân phủ và 20 huyện.
Bản đồ hành chính Kinh Bắc vào những năm đầu thế kỷ XIX so với cuối những
năm cuối thế kỷ XIX đã có những thay đổi lớn. Đặc biệt ở năm Đồng Khánh thứ 2
(1887), một số tổng đã được tách ra khỏi các huyện Siêu Loại, Gia Lâm và Lang Tài về
tỉnh Hưng Yên. 05 xã của Văn Giang được gộp vào tỉnh Hải Dương. Năm Thành Thái
thứ 7 (1895), một số huyện của Kinh Bắc như Hiệp Hoà, Yên Dũng, Lục Ngạn, Yên
Thế, Việt Yên và Hữu Lũng được tách ra thành tỉnh Bắc Giang với phủ Lạng Giang.
Năm Thành Thái thứ 14 (1902) lại tách tiếp một số huyện như Đa Phúc và Kim Anh về
tỉnh Phúc Yên. Còn lại là tỉnh Bắc Ninh.
Từ kinh thành Thăng Long nhìn ra tứ trấn thì Kinh Bắc là vùng đất phía Bắc. Trải
qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, dù mang nhiều tên gọi, có diện tích khác nhau nhưng
từ xưa đến nay, Kinh Bắc vẫn là vùng đất trung tâm của châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu
vực sông Hồng và sông Thái Bình, là vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, cao thoáng, giàu
nguồn nước, tiện cho việc làm ăn, cư trú, nhất là về canh tác nông nghiệp. Kinh Bắc
cũng là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời cũng là bộ phận cốt lõi của quốc gia
Văn Lang - Âu Lạc. Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, đấy “chính là thời phát sáng rực rỡ văn
minh Đông Sơn Việt cổ, rồi là thời giao thoa văn hoá Việt - Hán để sinh thành ra văn
minh Đại Việt thời trung đại” [149, tr.154].
Kinh Bắc là vùng đất của nhiều núi và sông, đây cũng là những giới hạn địa lý tự
nhiên ngăn cách với các vùng lân cận. Phía Bắc, ngăn cách với địa phận tỉnh Lạng Sơn
có dãy núi Bảo Đài. Phía Nam ngăn cách với Quảng Ninh và Hải Dương là dãy Huyền
Đinh và Yên Tử. Phía Tây ngăn Hà Nội bởi con sông Hồng...
Cảnh quan Kinh Bắc rất sinh động và phong phú, có đồng bằng phì nhiêu, là nơi
gặp gỡ của các mạch giao thông đường thuỷ và đường bộ Nam - Bắc, Đông - Tây, tạo
thuận lợi cho giao thương, tiếp xúc kinh tế, văn hoá giữa nước ta với các nước trong khu
vực Đông Nam Á và các vùng lân cận. Thế sông ngòi dày đặc chen lẫn gò đồi, núi rừng
rải rác vừa tạo thế hiểm trở cho vùng đất là phên dậu của kinh thành Thăng Long, lại rất
thuận tiện cho việc làm ăn, phát triển kinh tế. Sông núi đã quy vùng ôm lấy một quê
hương có nhiều cánh đồng rộng mỏi cánh cò. Giữa những cánh đồng bát ngát ấy, có khi
nổi lên những ngọn đồi thoai thoải, trong đó là một cảnh chùa tĩnh mịch cổ kính, hoặc
26
những xóm làng xanh tươi... len lách trong quê hương quan họ lồng bóng trong nhiều
dòng sông thơ mộng.
Chảy qua vùng Kinh Bắc có ba con sông chính là sông Cầu, sông Thương và
sông Lục Nam hợp thành hệ thống sông Thái Bình, lại có nhánh sông là sông Đuống
chảy từ sông Hồng sang nên đất đai càng mang nhiều màu mỡ, tạo điều kiện cho dân cư
tập trung làm ăn, buôn bán, giao thương. Trên triền các bờ sông là các làng nghề nổi
tiếng, trong Dư Địa Chí, phần Kinh Bắc, Nguyễn Trãi có viết về sự đa dạng trong các
làng nghề truyền thống: “...Ở vùng đất ấy, đất thì trắng, mềm, ruộng thì vào hạng thượng
thượng. Làng Bát Tràng làm đồ bát chén, làng Huê Cầu nhuộm thâm, huyện Hữu Lũng
có mía, huyện Yên Thế có tên nỏ và vôi...” [139, tr.33], hoặc các làng nghề khác như
Gốm Thổ Hà, Gốm Phù Lãng, Gốm Làng Ngòi, tranh Đông Hồ... Trong khi đó, ở Phủ
Lạng Giang núi rừng chen lẫn khe động sâu thẳm, tạo thế hiểm trở trong việc xây dựng
phòng tuyến chống giặc phương Bắc, đây là nơi diễn ra chủ yếu các cuộc chặn đánh và
truy quét kẻ thù bành trướng xâm lược từ phương Bắc tràn xuống qua các thời Tống,
Nguyên, Minh, Thanh...; từng ghi nhiều chiến công nổi tiếng như: chiến công trên chiến
tuyến sông Như Nguyệt (thời Lý), ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên (thời Trần),
trận Xương Giang (thời Lê), trận ải Nội Bàng- Xa Lý, bến Bình Than (thời Trần),...
“Kinh Bắc xưa là bộ Vũ Ninh... Đấy là trấn thứ tư trong 4 kinh trấn và đứng đầu phên
dậu phía Bắc” [139, tr.32]. Vị trí và vai trò ấy trong suốt thời kỳ lịch sử của dân tộc cho
đến nay vẫn không thay đổi.
Đến thời Pháp thuộc, địa vực hành chính Kinh Bắc được chia làm hai tỉnh Bắc
Ninh và Bắc Giang. Nhưng dù sao vẫn nằm trong vùng Kinh Bắc, hình thành và phát
triển văn hoá với những đặc trưng và bản sắc riêng.
Bên cạnh những huyền thoại về khởi nguồn của dân tộc ta, Kinh Bắc còn có cả
một kho tàng truyền thuyết, thần tích, thần phả và hệ thống thờ tự các bộ tướng của vua
Hùng. Bên cạnh đó, vùng đất này còn nổi tiếng về truyền thống hiếu học, khoa bảng, về
di tích lịch sử văn hoá với những danh lam thắng cảnh, những lễ hội truyền thống, những
phong tục về nếp sống cổ truyền của dân tộc, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá
của đất nước, là “phên dậu” của kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Về vùng
văn hoá Kinh Bắc là về với quê hương “ngàn năm văn hiến” của dân tộc, một vùng văn
hoá có những bản sắc riêng và giữ vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành và phát
triển của nền văn hoá Việt Nam.
27
Điều kiện hình thành bản sắc văn hóa Kinh Bắc
Kinh Bắc là một vùng quê có nhiều đặc trưng văn hóa. Trên vùng châu thổ sông
Hồng nặng phù sa, xanh rờn ngô lúa, xóm làng quần tụ bao đời, là một vùng lịch sử và
văn hóa cổ, nơi đây có truyền thống khoa bảng và lưu giữ được những truyền thuyết,
huyền thoại đẹp với bao di tích đình, đền, chùa, lăng, mộ cổ kính vào bậc nhất so với
nước và các lễ hội dân gian truyền thống. Vùng đất này chẳng những là nơi trù phú về
kinh tế, mà còn từng là trung tâm Phật giáo của cả nước, là trung tâm giao lưu văn hóa, là
quê hương của đất trăm nghề, là nơi có phong cảnh nên thơ với những cánh đồng bát
ngát, những dãy đồi thoai thoải, những dòng sông uốn mình chảy êm đềm. Ai đã một lần
về Kinh Bắc, đều cảm nhận được chất thơ nơi xứ sở cổ kính bậc nhất đất nước, nơi lắng
đọng phù sa văn minh suốt thời kỳ mở nước, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.
Từ những tìm hiểu về khái niệm bản sắc văn hóa và văn hóa Kinh Bắc, chúng tôi
nhận thấy: Bản sắc văn hóa Kinh Bắc là kết tinh những giá trị văn hóa đặc sắc, đậm đặc
của vùng Kinh Bắc. Nó được hình thành, tồn tại, phát triển trong suốt quá trình lịch sử
lâu dài của đất nước và biểu hiện ở các sắc thái văn hóa như: chủ nghĩa yêu nước, tinh
thần cộng đồng, tinh thần lạc quan, cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn
hóa…, tính duy trì trong các cư xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong ứng xử với tự
nhiên… Bản sắc văn hóa Kinh Bắc được thể hiện ở những đặc trưng tiêu biểu, những đặc
trưng ấy nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với lịch sử trường kỳ của quê hương Kinh
Bắc và lịch sử dân tộc cũng giống như ở bất cứ nơi đâu, ở bất kỳ vùng quê nào trên đất
nước Việt Nam. Song vốn là một trong những cái nôi sinh thành dân tộc và văn hóa Việt
Nam thì các yếu tố đó dường như biểu hiện một cách đậm đặc hơn, rõ nét hơn.
Đặc điểm văn hóa vùng Kinh Bắc
“Vùng văn hoá”, “loại hình văn hoá”, “trung tâm văn hoá” là những khái niệm
cơ bản thuộc về chuyên ngành lý luận, đặc biệt được đề cập chủ yếu trong cuốn
“Trung tâm văn hoá” của CL. Wisler. Xuất phát từ thực tế quá trình nghiên cứu của
CL. Wisler, tác giả cuốn sách đã từ bỏ cách tiếp cận vùng văn hoá từ một đặc trưng hạn
hẹp là những nhân tố chính, đi đến chỗ xem xét nó trên cơ sở một tập hợp chính, rồi
xem xét bản chất nội tại của vấn đề trên cơ sở những giá trị đồng ứng về yếu tố văn
hoá. Từ những giá trị đồng ứng về văn hoá đó mà ta chọn lựa những toa văn hoá mang
yếu tố đặc trưng để khẳng định đó chính là “típ đặc trưng cho văn hoá vùng” hay “loại
28
hình văn hoá” của vùng. Rõ ràng đây là một bước tiến có giá trị khẳng định về mặt
khoa học luận của CL. Wisler.
Cũng theo CL. Wisler trong quan niệm về Sự lựa chọn chuyên môn hoá, của các
vùng văn hoá khác nhau giống như là một trong những nhân tố góp phần tạo nên sắc thái
riêng của các vùng văn hoá. Nhìn chung, có nhiều quan niệm và nhiều cách phân vùng
văn hoá Việt Nam. Huỳnh Khái Vinh và Nguyễn Thanh Tuấn (1995) phân thành 8 vùng,
Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận (1995) phân thành 9 vùng, trong khi Trần Quốc Vượng
và Chu Xuân Diên đều chia thành 6 vùng với đôi chút khác biệt. Trong Văn hoá vùng và
phân vùng văn hoá ở Việt Nam (1993), Ngô Đức Thịnh đã phân chia Việt Nam có 7
vùng văn hoá với những đặc trưng văn hoá tiêu biểu theo vùng miền, gồm: Vùng văn hoá
Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ, vùng văn hoá Việt Bắc, vùng văn hoá Tây Bắc và miền
núi Bắc trung bộ, vùng văn hoá đồng bằng duyên hải Bắc trung bộ, vùng văn hoá duyên
hải Trung và Nam trung bộ, vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên, vùng văn hóa Nam
bộ. Trong vùng văn hóa Đồng bằng Bắc bộ, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới văn hóa
Kinh Bắc. Bởi lẽ, vùng đất xứ Bắc- Kinh Bắc vốn là một cái nôi văn hoá của người Việt.
Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho thấy đây
là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là một bộ phận cốt lõi của Quốc gia Văn
Lang - Âu Lạc... Từ mấy nghìn năm trước, người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven các
bờ sông Cầu, sông Đuống, sông Thương, sông Ngũ Huyệt Khê, sông Tiêu Tương và đặc
biệt là sông Dâu... Đời sống chủ yếu dựa trên quá trình canh tác nông nghiệp kết hợp làm
nghề thủ công. Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh
qua các huyền thoại Man Nương bên dòng sông Dâu, ông Đùng, bà Đoàng, ông khổng
lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ... Những câu chuyện về Kinh Dương
Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu, Cao Lỗ và
Cổ Loa thành... Cùng với hệ thống truyện thần thoại, truyền thuyết là hàng loạt các di
tích đậm đặc, nơi đây đã hội tụ được đầy đủ các nhân tố lịch sử, về quan hệ nguồn gốc,
những đặc trưng, biểu tượng văn hoá của cộng đồng người Việt, hơn nữa lại được coi là
Chốn Tổ của Phật giáo Việt Nam. Vẫn còn đó là cả một hệ thống lăng, đền thờ Kinh
Dương Vương, Lạc Long Quân - ông cha của Hùng Vương thứ nhất; mộ của các quan
lại nhà Hán; lăng, đền thờ Sĩ Nhiếp... là một minh chứng rõ nét cho bề dày văn hóa nơi
đây. Tất cả đều được lưu giữ trong lòng đất, lòng người vùng quê xứ Bắc - Kinh Bắc.
Đây là một minh chứng hùng hồn cho sự phong phú, đa dạng về mặt văn hoá, lịch sử
29
hơn bất cứ địa phương nào trên dải đất Việt ngàn năm văn hiến. Theo chúng tôi, Kinh
Bắc phải được coi là một vùng văn hoá biệt lập, tất nhiên vẫn phát triển và cộng hưởng
trong nền văn hoá, văn minh Đại Việt, Việt Nam. Qua các tài liệu đã được nghiên cứu,
thẩm định, qua thực tế khảo sát văn hoá vùng miền, có thể khẳng định rằng văn hoá Xứ
Kinh Bắc thuộc loại hình văn hoá vùng miền, là một vùng văn hóa với những đặc trưng
tiêu biểu đã được khẳng định. Nơi đây là cái nôi của lịch sử dân tộc, đất nước, là mảnh
đất màu mỡ sản sinh và nuôi dưỡng văn hoá của người Việt không chỉ ở vùng Đồng
Bằng Bắc Bộ mà còn của cả nước.
Theo cách nói của Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Huyên thì “Xứ Kinh Bắc là cái
nôi sinh thành tộc người Việt - dân tộc chủ thể, là không gian sinh thành nền tảng bản sắc
văn hoá Việt Nam”. Trần Quốc Vượng cũng cho rằng: “Xứ Bắc là không gian điển hình
đan xen, hỗn dung tiếp xúc, hội tụ và kết tinh văn hoá Việt cổ với văn hoá Việt Ấn, Nam
Á và Trung Á, văn hoá Nho, Lão Trung Hoa để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh-
Việt. Từ thời Lý - Trần... khi áp lực dân số và nhu cầu phòng vệ giặc Bắc, Bắc Giang dần
đã trở thành không gian văn hoá Việt đan xen với không gian văn hoá Tày, Nùng, Dao...
tạo nên một vùng giao thoa văn hoá, một vùng văn hoá có bản sắc riêng, hay ta nên gọi là
vùng văn hoá miền Kinh Bắc” [150, tr.156]. Cũng theo Trần Quốc Vượng, không thể
hiểu được một Kinh Bắc văn hiến nếu không cắt nghĩa “nó là một hiệu quả giao thoa,
giao hoà văn hoá Việt, Ấn, Chàm... trong suốt một kỳ gian lịch sử từ thời cổ đại đến Lý -
Trần... Không có Sĩ Nhiếp, Khâu Đà La, Vô Ngôn Thông và nhiều tù binh - nghệ sĩ
Chàm đến tụ cư ở Luy Lâu, Long Biên, Phù Đổng... thì cũng khó mà có một truyền
thống văn hiến Kinh Bắc… và đến lượt mình nhà Lý đã "văn minh hoá" thêm một bước
làng quê, vùng miền cội rễ của mình để có vùng văn hoá Kinh Bắc rực rỡ nhất, hài hoà
nhất của buổi đầu kỷ nguyên văn minh Đại Việt” [150, tr.157- 158].
Qua đó ta thấy Kinh Bắc là biểu tượng về một mảnh đất có nền văn hiến lâu đời
với nhiều giá trị văn hoá tốt đẹp. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước với cơ tầng
giá trị văn hoá xóm làng, lấy nghề nông làm gốc “dĩ nông vi bản”. Trong cái nghề canh
tác nông nghiệp lúa nước gắn với các công xã nông thôn (chạ- làng) tự chủ, tự quản bao
đời khép kín tự cung tự cấp đã tạo nên được một cái phông văn hoá đặc biệt gợi nhiều
cảm xúc thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo văn học và nghệ thuật. Nói đến đặc điểm văn
hóa Kinh Bắc, chúng tôi thấy có 8 đặc điểm sau: Kinh Bắc được coi là miền đất của
Vương Quốc lễ hội; là vùng đất của những huyền thoại và truyền thuyết; là quê hương
30
của những làng cười truyền thống và quê hương văn hoá quan họ; Kinh Bắc còn được
coi là Chốn tổ của Phật giáo; là quê hương của lịch sử dựng nước và giữ nước; là vùng
đất của địa linh nhân kiệt; là quê hương của đất trăm nghề và truyền thống văn hóa ẩm
thực mang đậm giá trị văn minh, giá trị nhân sinh cao cả.
Với các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng và tươi đẹp như vậy, người Kinh
Bắc luôn là hiện thân của văn hoá quê hương, có sự thích ứng, thâm nhập nhanh chóng
và sáng tạo các yếu tố văn hoá vùng miền trong nước và khu vực, làm cho tính cách và
bản lĩnh của mình ngày càng sâu sắc, bền vững đồng thời góp phần làm phong phú tính
cách và văn hoá của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Như vậy, văn hoá Kinh Bắc đã chứa đựng những nét đặc sắc riêng, được hun đúc
từ lâu đời do những yếu tố về con người, địa lý, tự nhiên, văn hoá, xã hội vùng miền quy
định, tạo nên một “cá tính xứ Bắc”, một “sắc thái Kinh Bắc” (chữ dùng của Giáo sư Trần
Quốc Vượng), đồng thời mang những nét văn hoá của cốt cách dân tộc Việt Nam. Văn
hoá Việt Nam đã thâm nhập vào văn hoá vùng miền và ngược lại văn hoá vùng làm
phong phú, làm đẹp thêm cho nền văn hoá của dân tộc...
1.3.2. Văn hoá Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc
Kinh Bắc được kiến tạo bởi vẻ đẹp của thế giới tâm hồn con người và những
phong tục tập quán gắn liền với không gian của những lễ hội. Kinh Bắc còn được tạo
dựng bởi những cảnh sắc thiên nhiên diễm lệ rất gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, tâm
tư con người. Những đặc điểm ấy đã góp phần không nhỏ để gây dựng nên thế giới tâm
hồn phong phú, nhạy cảm, thuần phác của người dân nơi đây, đặc biệt trong tâm hồn của
các nhà nghệ sĩ.
Kinh Bắc - vùng quê cổ kính, trải mấy nghìn năm cùng lịch sử dân tộc, từng
mang trong mình nhiều tầng phù sa văn hoá bồi đắp. Nơi đây là quê hương của những
làn điệu quan họ của Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong- Màu dân tộc sáng bừng trên
giấy điệp (Bên kia sông Đuống), là đất địa linh phát tích vương triều Lý - với Chiếu dời
đô - triều đại mở đầu thời kỳ độc lập - tự cường, mở ra nền văn minh Đại Việt, là nơi
được danh thần Lý Thường Kiệt đọc bản tuyên ngôn độc lập bằng thơ - Nam Quốc sơn
hà để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta.
Vùng quê Kinh Bắc có một nền văn hoá truyền thống được hun đúc cùng với lịch
sử lâu đời của dân tộc. Đặc điểm tự nhiên gắn với đời sống văn hoá nông nghiệp, với
31
những con người ruộng đồng thôn quê. Con người và văn hoá Kinh Bắc là những nhân
tố tiêu biểu cho đặc trưng văn hoá Việt Nam.
Kinh Bắc là xứ sở của huyền thoại, truyền thuyết và ca dao - dân ca, của những
làng cười truyền thống - một trong những ngọn nguồn văn hoá dân tộc. Văn học dân gian
vùng Kinh Bắc không những chiếm một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển văn
hoá Kinh Bắc, mà còn rất quan trọng đối với nền văn hoá, văn học Việt Nam nói chung.
Từ trong văn hoá dân gian xưa, Kinh Bắc được hiện lên với đầy đủ những cảnh đẹp, con
người văn hoá - lịch sử, phong tục tập quán gắn với những lễ nghi, hội hè và chứa đựng
bao nét đẹp truyền thống. Trong ca dao - dân ca, Kinh Bắc đã được miêu tả như một bức
tranh phong cảnh hữu tình thật đẹp: Một vùng phong cảnh trước sau/Bức tranh thiên cổ
đượm màu nước non. Bức tranh thiên nhiên ấy được tạo dựng bởi một gam “màu nước
non” có trước có sau, núi non sông nước hoà quyện như ôm lấy một vùng quê thanh bình
yên ả: Chín mươi chín ngọn núi Phượng Hoàng/ Chín mươi chín cái ao làng Ninh
Xuyên/ Sông Thương trong đục dịu hiền/ Chảy xuôi để núi Cô Tiên soi mình/ Sông Cầu
một dải xanh xanh/ Lơ thơ nước chảy ta mình nhớ nhung; Núi Cô Tiên gối đầu con
Phượng/ Sông Tổ Rồng uốn khúc bao quanh; Rõ ràng sơn thuỷ một bầu/ Thiên nhiên
quan cảnh bấy lâu trời giành/ Mọi chiều là mọi vẻ thanh/ Thợ trời xếp đặt bức tranh nào
bằng... Những câu ca trên như càng khẳng định sự thanh bình, yên ả đến gần gũi, thân
thuộc, khẳng định vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Kinh Bắc. Điều đó có một sức hút, sức lay
động tâm hồn của con người một cách lạ kỳ.
Kinh Bắc thường xốn xang tưng bừng trong những ngày hội diễn ra ở trong làng,
ngoài xóm, trong các chùa chiền gắn với mỗi làng quê, vùng quê, vì thế mà đình, chùa, lễ
hội nào ở Kinh Bắc cũng mang dấu ấn đặc trưng tiêu biểu của không gian sinh hoạt văn
hoá dân gian. Cảnh quan Kinh Bắc càng trở nên đẹp vì có bàn tay sáng tạo của con
người. Đặc biệt là những sinh hoạt văn hoá với một thế giới nhân sinh quan ẩn chứa biết
bao lẽ sống tốt đẹp ở trên đời: Trai thì đọc sách ngâm thơ/ Dùi mài kinh sử để chờ dịp
khoa/ Gái thì giữ việc trong nhà/ Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa...
Trong sự bao bọc của những lũy tre làng nơi đây là cả một thế giới tình người với
những mối quan hệ làng xã gắn bó với nhau một cách truyền thống, cố hữu. Đời sống
tinh thần của người dân được định hình trong sự ràng buộc của “lệ làng” để dần hình
thành nên những nét văn hoá mang đậm màu sắc của một vùng quê Kinh Bắc, trở thành
những phong tục tập quán - ngày một được hun đúc thành những tầng sâu giá trị lịch sử.
32
Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái phông văn hoá lớn với những đặc điểm riêng
biệt, mang đặc trưng một không gian văn hoá Kinh Bắc hay “ta nên gọi là văn hoá miền
Kinh Bắc” (Trần Quốc Vượng).
Đến với Kinh Bắc, mỗi người đều có ấn tượng riêng cho mình về một chiều sâu
tâm thức văn hoá nào đó. Có thể đó là hình ảnh những người con gái nhuộm răng đen
hát những lời ca Quan họ thắm nghĩa thắm tình hoặc cái lịch sự của người Kinh Bắc.
Tục ngữ, ca dao - dân ca quan họ trữ tình của miền quê Kinh Bắc luôn là sợi dây kết
nối tình cảm cao quý của con người nơi đây: đoàn kết, trọng nghĩa tình, yêu quê hương
đất nước. Quan trọng hơn, đó chính là một nét văn hoá thể hiện bản sắc riêng của người
dân Kinh Bắc.
Trong tiến trình chung của văn học viết nước nhà, có thể nói, ở thời kỳ nào xứ
Bắc - Kinh Bắc cũng hội hợp tinh hoa, ưa chuộng văn nhã, và đều có những sáng tác của
các danh nhân, danh sĩ tiêu biểu.
Khởi nguồn văn học viết là Lý Công Uẩn với Chiếu dời đô, Vạn Hạnh với Yết
bảng thị chúng, sau này là Lý Nhân Tông, Lê Văn Thịnh... Sự thể hiện không gian Kinh
Bắc trong văn học Trung đại cũng được phản ánh rất sinh động, nhiều thi sĩ, văn nhân
đất Kinh Bắc qua các thời đại đã say sưa ca ngợi vẻ đẹp của vùng non nước này, như bài
ký của sư Pháp Loa thế kỷ XIII:
Ai xuôi đến giáp Lục đầu
Đức La thôn cổ nhuộm màu biếc xanh
Sông Thương, sông Lục bao quanh
Cô Tiên nằm ngủ cây xanh bóng dày.
Nguyễn Ức - thế kỷ XIV từng ghi về cảnh đẹp Kinh Bắc:
Bóng chiều vương tháp- bóng chùa xa
Bốn nhịp cầu soi, sông giát trắng ngà.
Thế kỷ XV, Tiến sĩ - nhân sĩ - Phó đô nguyên suý Hội Tao đàn Thân Nhân Trung
(1418 - 1499), xét về văn chương thì “trên văn đàn xếp sau vua” đã được người đời sau -
Tiến sĩ Hà Nhâm Đại (1526 - ?) ca ngợi là “cây bút lớn, văn chương trùm đời”. Gần ba
trăm năm sau, Bùi Huy Bích (1744 - 1818) đậu Hoàng Giáp năm 1769, làm quan đến Hộ
bộ thị lang, khi đi qua vùng Yên Ninh, cũng có bài thơ ca ngợi cảnh đẹp Kinh Bắc - nơi
đã sinh ra người họ Thân thời Tao đàn Nhị thập bát tú. Thế kỷ XVI, Trạng Kế Giáp Hải
33
(Tiến sĩ đệ nhất danh khoa Mậu Tuất- 1538). Thơ của Định Sơn hầu Chu Văn Sầm
(1607) thế kỷ XVII như khẳng định địa danh lịch sử và phong cảnh đất Kinh Bắc:
Sách trời ghi Nam quốc,
Đất Kinh Bắc đã khoanh,
Đẹp thay huyện Phượng Nhỡn,
Có ngôi chùa Vĩnh Nghiêm,
Chồng bẩy tầng cây báu,
Tụ năm sắc mây lành.
Thi ca và hội họa dân gian là hai loại hình nghệ thuật truyền thống của người dân
Việt Nam. Nếu như trong thi ca người ta có thể nghe được, đọc được để từ đó tưởng
tượng, suy ngẫm và thưởng thức, thì trong hội họa người ta lại cảm nhận bằng thị giác
những hình ảnh đang hiện hữu và tồn tại trước mắt. Tranh Đông Hồ là một loại tranh dân
gian điển hình nhất của tranh dân gian Việt Nam, ở đó hội tụ những nét văn hóa truyền
thống đặc sắc của người Việt. Trong lịch sử, tranh dân gian Đông Hồ đã trải qua những
buớc thăng trầm khác nhau nhưng vẫn luôn là một hình ảnh quen thuộc và gần gũi của
nhân dân ta. Mặt khác, do nó chứa đựng những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam nên
nhiều loại hình nghệ thuật khác đã sử dụng chất liệu và lấy cảm hứng từ tranh dân gian
Đông Hồ nhằm làm phong phú cho những sáng tác của mình, thi ca là một trong những
loại hình ấy. Ta bắt gặp làng Hồ hiện lên với những hình ảnh rất thơ mộng, với một
truyền thống văn hóa có lịch có lề, không gian làng quê với ao tắm mát, gốc đa, quán
chợ, đặc biệt là làng nghề làm tranh. Đó là một trong những ngôi làng truyền thống của
người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng.
Trong thi ca Việt Nam đã có nhiều nhà thơ, nhiều bài thơ lấy chất liệu từ
những bức tranh dân gian Đông Hồ để tạo lên những vần thơ tràn đầy hình ảnh và
lung linh sắc màu dân tộc. Hoàng Sỹ Khải người làng Lai Xá (Bắc Ninh) trong bài
Tứ thời khúc vịnh viết:
Chung Quỳ khéo vẽ nên hình
Bùa đào cấm quỷ phòng linh ngăn tà
Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm
Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương.
Trên bức tranh Chung Quỳ và Bùa Đào là hình ảnh hai vị thần Thân Thư và Uất
Luật, dân gian quan niệm hai vị thần này có thể xua đuổi ma quỷ. Còn với bức tranh Gà
34
là hình ảnh quen thuộc của nhân dân và người ta quan niệm khi gà gáy là báo hiệu mặt
trời mọc lên, chiếu tia sáng đến vạn vật làm trỗi dậy sự sống, đồng thời xua đuổi đêm tối
u ám cùng những tà ma, quỷ quái để mang lại cuộc sống bình yên cho con người.
Nhà thơ Nguyễn Gia Thiều cũng lấy bức tranh dân gian Tố nữ là nguồn cảm
hứng miêu tả tâm trạng của các cung nữ trong cung cấm: Tranh biếng ngắm tranh đồ tố
nữ/Mắt buồn trông nên cửa nghiêm lâu (Cung oán ngâm khúc). Ở đây giữa người và
tranh có những nét tương đồng, sự so sánh tưởng như khập khiễng nhưng lại hợp lôgic
cuộc sống của những cung nữ xinh đẹp đang chết dần chết mòn trong những bức tường
vách quế, họ ngắm bức tranh tố nữ mà đồng cảm và buồn cho thân phận mình.
Nhà thơ trào phúng Tú Xương đã có những vần thơ về tết rất hay, đặc biệt ông đã
dùng hình ảnh của các bức tranh Đông Hồ một cách linh hoạt và tài tình hòa lẫn với âm
thanh của tràng pháo và tiếng gà làm hình trong thơ mình: Đì đẹt ngoài sân tràng pháo
chuột/ Om sòm trên vách bức tranh Gà. Câu thơ đối nhau từng từ và tạo lên bức tranh
buồn tẻ của ngày tết, cái tết lúc này trong con mắt của nhà thơ nó vẫn còn những âm
thanh quen thuộc nhưng đó chỉ là những tiếng đì đẹt và om sòm.
Thế kỷ XVIII, có Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du....
Và còn biết bao các nhân sĩ, danh sĩ khác - là người con đất Kinh Bắc cũng đều
có thơ văn về quê hương mình như: thời đại Lý - Trần có sư Vạn Hạnh, sư Huyền
Quang, Sái Thuận, Ngô Chi Lan, Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Sĩ Khải, Tiến sĩ Đào Sư
Tích (1347 - 1396), Tiến sĩ Đoàn Xuân Lôi (thế kỷ XIV), Tiến sĩ Thân Nhân Tín (1439
- ?), Tiến sĩ Ngô Văn Cảnh (1442 - ?)... Còn nhiều nữa nữa: Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân
(1867 - 1941), Đầu xứ Nguyễn Khắc Nhu (1882 - 1930), Cao Bá Quát,... Cũng là dễ
hiểu bởi vùng đất, giang sơn như thế ắt sinh ra nhiều thi nhân kỳ tài ở nhiều thế kỷ khác
nhau. Khí thiêng sông núi hun đúc ra một Trần Thị Tần ở làng Bựu Sim, Tiên Du. Bà
Trần Thị Tần lại cảm thụ khí thiêng sông núi Hồng Lĩnh Lam Giang do làm vợ ba tể
tướng Nguyễn Nghiễm mới sinh ra được một đại thi hào cho giang sơn gấm vóc mọi
miền. Văn chương nết đất- đại thi hào Nguyễn Du nói thế, hẳn nhờ quê mẹ Kinh Bắc,
quê cha Hà Tĩnh.
Như vậy, nhìn một cách tổng quát thì một nghìn năm văn học Trung đại xuất hiện
nhiều gương mặt thi nhân, họ lấy vùng đất Kinh Bắc nghìn năm văn hiến này làm thi liệu
và thi đề cho các sáng tác của mình. Mặc dù chịu ảnh hưởng của yếu tố thi pháp cổ điển
mang tính quy phạm chặt chẽ, song sức sống của những vần thơ về nơi đây vẫn tiếp tục
35
toả sáng, ngân vang trên thi đàn. Các thi sĩ dù đương thời hay sau đó vẫn tiếp tục sử dụng
các thể thơ dân tộc, miêu tả những cảnh sắc thiên nhiên tiêu biểu của quê hương Kinh
Bắc. Đó cũng là sự trở về với cách cảm, cách nghĩ của chính người dân nơi đây, hoặc
thảng đôi khi là sự lôi cuốn của không gian văn hóa nơi đây đối với các nghệ sĩ.
Đến thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam gánh chịu những ảnh hưởng rất to lớn từ nhiều
biến động của lịch sử dân tộc, đặc biệt là sự xâm lăng của thực dân, đế quốc và chế độ xã
hội phong kiến trong nước đang dần tan rã. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng
tháng Tám thành công, đất nước được hoàn toàn giải phóng đã có tác động to lớn đến
mọi mặt của đời sống con người và xã hội, làm cho nền kinh tế - chính trị, văn hoá - xã
hội của cả nước biến đổi rất sâu sắc, trong đó có văn học nghệ thuật.
Vào những năm 1930- 1945, văn học Việt Nam có sự gặp gỡ với văn học phương
Tây, làn gió văn hoá mới của phương Tây đã thổi vào đời sống văn học nước nhà mạnh
mẽ, tạo ra một luồng sinh khí với sức sống mới, gây lên những chấn động thành trì vững
chãi của nền thơ ca cổ điển vẫn ngự trị từ bao đời nay. Văn đàn Việt Nam lúc này xuất
hiện cùng một lúc nhiều dòng văn học: văn học lãng mạn, văn học hiện thực, văn học
cách mạng... trong đó có dòng văn học viết về làng quê.
Cảm hứng về làng quê Việt Nam (trong đó có xứ Bắc) đối với các thi nhân là
không thể phủ nhận. Ta vẫn thấy có một không gian cụ thể hơn trong sáng tác của nhiều
văn nhân đương thời, ấy là không gian văn hoá Kinh Bắc. Lấy cảm hứng từ một miền
quê Kinh Bắc giàu truyền thống văn hoá, văn hiến của dân tộc cho các sáng tác của
mình, các thi nhân coi đó như một sự trở về với cội nguồn văn hoá Mẹ. Đất và người
Kinh Bắc luôn là một nguồn thi liệu không bao giờ vơi cạn trong kho tàng văn học từ
truyền thống đến hiện đại của dân tộc. Tiêu biểu hơn cả là Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng
Bá Lân, Đoàn Văn Cừ... Họ đã có những đóng góp không nhỏ cho đề tài thơ đồng quê
xứ Bắc. So với nhiều miền quê khác trên cả nước thì đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng
cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm theo một cách riêng. Chứng tỏ khi viết
về không gian văn hoá làng quê, các thi nhân đã được gợi hứng từ vùng Kinh Bắc trù
mật về nền văn hoá, văn hiến lâu đời. Nơi đây còn lưu giữ được những hồn cốt của cảnh
quê Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Kinh Bắc là vùng thẩm mỹ khá bắt mắt đối với các thi
nhân đương thời....
Bàng Bá Lân hoài niệm quá khứ của làng quê khi vào dịp tết, ông viết câu thơ:
Tết nhớ về bánh chưng xanh/ Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh Lợn, Gà. Tết đến người
36
ta lo toan mọi thứ và hoài niệm về những gì đã qua, nhưng nhà thơ luôn nhớ về những
hình ảnh thân quen mang tính chất biểu tượng trong ngày tết của người dân Việt Nam đó
là bánh chưng xanh truyền thống, tràng pháo chuột, tranh dân gian lợn gà ở Đông Hồ.
Ông cũng kịp dựng cho mình một Cổng làng để còn mãi với thời gian. Qua đó thi sĩ đã
làm trọn yêu cầu “Thi trung hữu hoạ” khi vẽ liên tiếp những bức tranh tứ bình với nhiều
màu sắc khác nhau: Chiều hôm đón mát cổng làng/ Gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi/
Đồng quê quanh quất bao người về thôn/ Sáng hồng lơ lửng mây son/ Mặt trời thức giấc
véo von chim chào/ Cổng làng rộng mở ồn ào/ Nông phu lững thững đi vào nắng mai...
Đoàn Văn Cừ trong bài Chợ tết đã miêu tả hình ảnh lũ trẻ thôn quê đang say sưa
ngắm bức tranh rực rỡ đầy màu sắc: Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh Gà/ Quên cả chị bên
đường đang đứng gọi. Ở đây, bức tranh Gà đã đưa lũ trẻ đến với một trạng thái tâm lý
háo hức và say mê, nó đã thu hút được sự tập trung cao độ của bọn trẻ.
Trong thơ của Nữ sĩ Anh Thơ cũng miêu tả một cách khá sắc nét bức tranh quê
Kinh Bắc với những cảnh sắc êm đềm, yên ả với mưa bụi rắc nhẹ trên triền đê, với hoa
xoan tím rụng làm ngây ngất tâm hồn thi sĩ: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng
lười nằm mặc nước sông trôi…/ Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm
xoan hoa tím rụng tơi bời… (Chiều xuân).
Nhà thơ Lê Đạt cũng không quên ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ của mình trong
cảm xúc Cha tôi: Đất quê cha tôi- đất quê Đề Thám/ Rừng rậm sông sâu/ Con gái cũng
theo đòi nghề võ…
Có thể nói, ai đã một lần về quê Kinh Bắc đều cảm nhận được ngay chất thơ của
một xứ sở cổ kính bậc nhất đất nước, chất đầy phù sa văn hoá, văn minh ngay từ những
chiếc cổng làng, những hình núi, dáng sông, những đình, đền, chùa, miếu và dày đặc hệ
thống các lăng mộ cổ kính... Trong đáy sâu tâm thức, người dân nơi đây luôn mến yêu và
hãnh diện về cái nôi, cái gốc và cái hồn dân tộc của mình.
Như vậy, tiếp nối và kế thừa dòng thơ truyền thống - từ các thế kỷ trước, sang đầu
thế kỷ XX dân tộc Việt Nam cũng đã tạo nên lớp nhà văn, nhà thơ đầu tiên tiêu biểu
trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong đó có một lớp người nghệ sĩ- thi sĩ của quê
hương Kinh Bắc.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra cho lịch sử dân tộc một
thời đại mới, một kỷ nguyên mới của nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cũng là
đang mở ra bao niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng rạng ngời của thời đại đấu
37
tranh giành độc lập và giải phóng nước nhà. Thơ văn viết về Kinh Bắc thời kỳ này cũng
hiện hữu đáng kể trong tiến trình thơ Việt Nam với những vần thơ rực lửa chiến tranh
của nhà thơ Hoàng Cầm trong Bên kia Sông Đuống... Bên cạnh đó là những vần thơ viết
về làng quê với những giá trị văn hoá truyền thống tiếp tục phát triển trên một giọng
điệu, cảm hứng mới. Đó là sự đóng góp đáng kể của Nữ sĩ Anh Thơ với trong việc dựng
lại bức tranh quê Kinh Bắc trong chiều hè rực lửa khi bỗng nghe Tiếng chim tu hú:
Nắng hè hoa gạo đỏ
Nước sông Thương trôi nhanh
Trên bờ đê bước rảo
Gió Nam giỡn lá cành
Bỗng tiếng chim tu hú
Đưa từ vườn vải xa
Quả bắt đầu chín lự
Ngọt như nỗi nhớ nhà!.
Dù ở đâu trong bóng khói mù sương nơi đảo xa xôi hay thành phố ngang dọc
nhà cao tầng của các đô thị, ai cũng có một vùng quê để đi - về, để thương nhớ. Nhà
thơ Lữ Huy Nguyên cũng có một vùng quê ven dòng sông Đuống lặng lẽ chảy xuôi,
bởi nơi ấy có:
Dọc mùng ăn với canh chua
Trám đen thơm ngậy mẹ mua chợ Hồ
Cha tôi sức vóc học trò
Ba lưng cơm đã kêu no đi nằm… (Tôi trở về thăm).
Ngày xưa, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng Giật mình mình lại thương
mình…; Tú Xương giật mình cạnh bờ Sông Lấp, thì giờ đây Nguyễn Duy giật mình
trước Ánh trăng, còn Trần Ninh Hồ cũng mang trọn cảm giác ấy trong Đêm chợt thức
giấc ở trên đất Kinh Bắc: Nào ai đánh thức mình đâu/ Hay là trong dạ có câu gọi thầm/
Nhớ khi bom phá ì ầm/ Vẫn thể như ngủ khi nằm trong nôi/ Hay là ai đó gọi tôi/ Một
tiếng gọi chẳng thành lời bao đêm?
Đặc biệt nhà thơ Hoàng Cầm - một người sinh ra và lớn lên trên vùng đất làng
tranh, ông cảm nhận được giá trị nghệ thuật sâu sắc trên những bức tranh dân gian Đông
Hồ, đó chính là hồn của đất nước, là hình bóng quê hương. Trong bài Bên kia sông
Đuống ông viết: Bên kia sông Đuống/ Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/ Tranh Đông
38
Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.... Nhà thơ đã nêu bật
lên được hình ảnh trong tranh là hình ảnh của đất nước, bởi tranh dân gian Đông Hồ đã
hội tụ trên đó những sắc màu cảnh quan, sắc màu văn hóa của dân tộc và tâm tư nguyện
vọng của nhân dân.
Tiếp nối hành trình những nhà thơ trong chín năm kháng chiến chống Pháp, hơn
20 năm đánh Mỹ. Thế hệ thứ tư, từ sau năm 1975 khi đất nước hoà bình thống nhất đến
nay lại tiếp bước truyền thống cha anh, văn và người đất Kinh Bắc đã tạo được diện mạo
riêng cho phong trào thơ văn Kinh Bắc. Ta có thể kể đến những tác giả thời kỳ này như:
Anh Vũ, Duy Phi, Trần Ninh Hồ... với những tác phẩm nói về những làng quê kháng
chiến, bao bọc trong đó những con người cần lao, giàu đức hy sinh, thắm tình đồng chí,
đồng bào và luôn sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc thân yêu. Thiên nhiên, văn hoá, cuộc sống
con người được phản ánh chân thực, sinh động, phong phú trong cả thơ và văn.
Như vậy có thể khẳng định, thơ văn Kinh Bắc thế kỷ XX là một mốc son khẳng
định một nền văn học đã có truyền thống lâu đời, góp phần quan trọng cho nền văn học
nước nhà nói chung và thơ nói riêng. Chúng ta có thể kể đến một số tác giả như: Tương
Phố, Bàng Bá Lân, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Hoàng Cầm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngô Đạt,
Anh Vũ, Duy Phi... Tất cả họ đều có những đóng góp không nhỏ trong tiến trình phát
triển của nền văn học Kinh Bắc. Đó là một dòng chảy liên tục, không hề bị đứt đoạn qua
các thời kỳ, điều đó tạo nên những dấu ấn văn hoá riêng biệt cho vùng quê văn hiến này,
đồng thời cũng góp phần quan trọng cho nền văn học nước nhà nói chung, trên lĩnh vực
thơ ca nói riêng.
Kinh Bắc luôn là nơi lưu giữ những phong tục, nét văn hoá hết sức tinh tế của dân
tộc. Quê hương ấy hiện lên trong thơ văn thật quen thuộc, gần gũi, thương yêu và lay
động tâm hồn con người biết bao. Một khung cảnh yên ả trên triền đê, bờ sông, sân đình
hoặc trên cánh đồng chiều, thanh bình gợi bao yêu thương, trìu mến. Nó làm day dứt tâm
hồn mỗi người con nơi đây khi phải đi xa. Nó lưu giữ tuổi thơ trong sáng, thơ mộng với
bao kỷ niệm đẹp đẽ một thời thơ ấu của con người. Dù trong khói lửa bạo tàn của bom
đạn, cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ có ác liệt đến đâu thì không gian văn hoá
Kinh Bắc vẫn hiện lên những vẻ đẹp như nó vốn có tự bao đời. Con người nơi đây vẫn
hết mình phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, và vẫn sống đến tận cùng những thú
vui nơi đồng quê yêu dấu. Điều đó dẫn đến niềm tự hào vô biên.
39
Không chỉ người Kinh Bắc mới tự hào nói về mình, mà quê hương của những làn
điệu quan họ này còn là miền đất hứa đối với nhiều văn nhân trong cả nước. Thơ văn viết
về Kinh Bắc thể hiện tình cảm sâu đậm về vùng đất, con người và cuộc sống nơi đây.
Các tác giả có dịp sống, chiến đấu, công tác hoặc chỉ ghé thăm một đôi lần cũng có
những vần thơ hết sức tình cảm, những kỷ niệm thiêng liêng... Ta thấy sự có mặt của
nhiều nhà văn, nhà thơ có tên tuổi đã viết về Kinh Bắc như: Nguyễn Phan Hách, Lữ Huy
Nguyên, Ngô Tất Tố (Bắc Ninh), Nguyễn Bính, Nguyễn Kiên (Hà Tây), Nguyễn Tuân
(Hà Nội), Kim Lân (Bắc Ninh), Trúc Thông (Hà Nam), Thôi Hữu (Thanh Hoá), Võ Văn
Trực (Nghệ An), Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Nhật Minh, Nguyễn
Khắc Trường, Quang Dũng, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Hữu
Thỉnh, Nguyễn Trác, Hoàng Nhuận Cầm,… là những gương mặt đã góp phần xây dựng
cho văn học Kinh Bắc ở thế kỷ XX những tác phẩm tâm đắc về vùng đất này. Xuân
Quỳnh là một tiêu biểu với bài thơ Nguồn gốc từ ngữ: Tiếng yêu anh nói cùng em/ Tiếng
ngàn năm của những đêm hội mùa/ Tiếng người xưa nói với nhau/ Trong câu Quan họ
qua cầu gió bay/ Người về cởi áo lại đây/ Để thương nhớ biết ngày nào quên/ Núi Thiên
Thai mảnh trăng liềm/ Sông Cầu nước chảy những đêm đợi chờ/ Áo tứ thân, tóc đuôi gà/
Tiếng yêu ông nói cùng bà ngày xưa...
Ngày nay, cùng với sự bùng nổ thông tin đa chiều, sự phát triển kinh tế, văn hóa
với tốc độ mau lẹ ở các đô thị, làng quê Kinh Bắc cũng có nhiều sự thay đổi, tự hoàn
thiện và đi lên trong nền kinh tế xã hội của cả nước. Tín ngưỡng, văn hoá, cảnh quan
không còn là bầu trời riêng của làng xã như xưa nữa mà trở thành một hệ thống mở.
Làng quê Kinh Bắc có nhiều điểm khởi sắc, mỗi ngày một giàu có, sang trọng và đẹp đẽ
hơn, đa dạng hơn trước. Tuy nhiên những gì thuộc về nét đẹp truyền thống thì vẫn là bản
sắc văn hoá, văn hiến như tự thuở nào. Tự hào về truyền thống văn hiến của mình, Kinh
Bắc luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn cho các sáng tác văn học nghệ thuật
của văn nhân cả nước.
1.3.3. Vùng văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm
Mỗi nghệ sĩ luôn tự tìm cho mình một vùng thẩm mỹ riêng để gắn bó, khai thác
và làm giàu thêm cho thế giới nghệ thuật của mình. Nói cách khác, cánh diều thơ ca của
họ dù có bay cao đến đâu cũng đều phải bám vào đất mẹ bằng một sợi dây, dù mong
manh. Cánh diều thi ca của Hoàng Cầm được bay lên từ chính Kinh Bắc - vùng đất đã
sinh thành và nuôi dưỡng tâm hồn, cốt cách ông.
40
Một số nhà nghiên cứu cho rằng âm hưởng chủ đạo trong toàn bộ thi phẩm
Hoàng Cầm bắt nguồn từ yếu tố nữ tính. Một phần do ông thừa hưởng từ người mẹ (vốn
là liền chị quan họ) hoặc sự kết nối giữa cha và mẹ trong sự ra đời của ông, hay mối tình
thơ dại với Chị, với Em... đã tạo nên sự khắc khoải nuối tiếc trong thơ ông dai dẳng như
một tiền kiếp định mệnh. Hoặc để dịu lòng những ngày tháng cam go của ngộ nhận lầm
lẫn, mà ông đắm vào hoài niệm một không gian đằm thắm quê hương, một thời gian
đằng đẵng yêu thương? Phải chăng là thế, khi xứ Kinh Bắc hiện ra an ủi ông, nâng đỡ
ông với tất cả chiều kích của hội hè đình đám, chùa chiền, lăng tẩm với Sương Cầu Lim,
Khói Yên Thế, với Trai đời Trần, Gái hậu Lê, Nước sông Thương... và biến dạng từ vô
thức tiềm thức của ảo mê trong “Lá diêu bông”, “Cầu bà Sấm”, “Bến cô Mưa”, “Cỏ
Bồng Thi”. Cảnh sắc thực và mộng xoắn xuýt hòa trộn được nhuận sắc dưới ánh sáng kỳ
ảo như những bức tranh siêu thực mà hồn vía câu chữ đầy ắp sắc thái biểu cảm. Khả
năng mã hóa ngôn từ của Hoàng Cầm đạt tới mức vi diệu trong dòng chảy - dòng thời
gian. Ba con sông: sông Thương, sông Cầu, sông Đuống tạo nên một vùng trù phú màu
mỡ phù sa, tấp nập trên bến dưới thuyền, hun đúc tính cách kiên gan của người Việt
chống ngoại xâm, một dân tộc hết mực tài hoa phong nhã đã phóng dọi vào thơ Hoàng
Cầm đắm đuối mộng mị là vậy. Con người, thiên nhiên, văn hóa, phong tục Kinh Bắc ấy
là một nguồn năng lượng thẩm mỹ lớn cho sáng tác văn học nghệ thuật.
Tất cả các giá trị văn hoá Kinh Bắc ấy đều đã đi vào thơ văn của các nghệ sĩ
người Kinh Bắc nói chung, đặc biệt trong sáng tác thơ văn của Hoàng Cầm nói riêng một
cách tự nhiên, sống động. Ông lấy đó làm khởi nguồn, làm cội nguồn cho đối tượng
thẩm mỹ để chưng cất lên những hình tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa, mang tính biểu
tượng văn hoá cao trong các sáng tác thơ của mình. Trong ông có một sự cộng hưởng
mật thiết giữa thế giới văn hoá Kinh Bắc với hồn thơ để làm nên một gương mặt thi
nhân, một người thơ Kinh Bắc quen mà lạ, với một phong cách và sắc điệu thơ riêng, chỉ
ở ông mới có. Cũng có thể khẳng định, Hoàng Cầm là ngôi sao lạ trên thi đàn Việt Nam
hiện đại.
Vùng văn hóa Kinh Bắc tác động đến rất nhiều nhà văn, nhà thơ như đã nói ở
trên. Nhưng có thể nói rằng, cái hồn cốt của Kinh Bắc chỉ thực sự kết tinh, kết trái và
thăng hoa trong những thi phẩm của Hoàng Cầm. Nhà thơ đã làm được một công việc vô
cùng quan trọng và có ý nghĩa, đó là đặt được dấu ấn riêng biệt trên con đường thơ ca khi
viết về vùng đất này. Ông đã rất tinh tế khi biểu lộ cái “tình”, cái “hồn” của mình qua
41
thiên nhiên, văn hoá, phong tục và tâm hồn con người nơi đây. Ông luôn gắn bó chặt chẽ
với từng nét văn hóa quê hương quan họ, do vậy, mỗi bài thơ hay về Kinh Bắc của tác
giả đều chứa đựng “mã” nghệ thuật riêng. Giải mã thơ Hoàng Cầm, do đó, thực chất là
quá trình phát hiện các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp và hầu như vô tận giữa những
cái biểu đạt/ được biểu đạt... mà phát hiện quan hệ là phát hiện tính hệ thống của một bài
thơ. Bài thơ, hay bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng là một hệ thống. Tính hệ
thống được biểu hiện qua cấu trúc. Giải mã thơ Hoàng Cầm, bởi vậy, nghĩ cho cùng,
cũng là khám phá ra cấu trúc cả về nội dung và hình thức nghệ thuật mang tính thẩm mỹ
của nó. Cái cấu trúc ấy, là một cái gì khép kín, những “cái gì” ấy chính là những mã tín
hiệu thẩm mỹ mang tính nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Lý giải điều đó chính là lý giải
cội nguồn văn hoá Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm. Từ đó khẳng định văn hóa Kinh Bắc
chính là khởi nguồn, là cội nguồn của vùng thẩm mỹ độc đáo trong thơ ông. Bởi Hoàng
Cầm có những ảnh hưởng văn hoá rất lớn từ người mẹ Kinh Bắc, hơn nữa tuổi thơ
Hoàng Cầm đã sống và được thấm đẫm trong vùng thẩm mỹ đó và nó tạo nên một quy
luật: bình thường cuộc đời của con người ta sẽ tiến lên phía trước, nhưng khi vấp váp
điều gì người ta thường hay dừng lại để nhìn lại, nhìn về phía sau để hồi tưởng, để chiêm
nghiệm. Về Kinh Bắc chính là sự hồi tưởng, mơ ước về quê hương Kinh Bắc. Tiềm thức
trong ông được trỗi dậy. Hồn thơ được thăng hoa và trương nở thành những hình tượng
nghệ thuật đa tầng nghĩa. Các tập thơ Mưa Thuận Thành, Lá Diêu bông... cũng mang ý
nghĩa tương đồng. Do đó, viết về Kinh Bắc là nhà thơ viết bằng cả trái tim và tình yêu
quê hương, đất nước của mình, một tình yêu cháy bỏng, thiết tha. Phải chăng xuất phát từ
tình yêu đó cộng với tài thơ ông mà bài thơ nào về Kinh Bắc cũng hay, cũng ám ảnh dữ
dội, day dứt tâm hồn bạn đọc! Đó chính là cái phong cách đặc thù, “cái thiêng”, cái “ma
lực” riêng của hồn thơ Hoàng Cầm?
Viết về Kinh Bắc, nhà thơ đã góp phần tạo dựng, tỏa sáng được một không gian
văn hóa, cốt cách, tâm hồn con người Kinh Bắc từ trong văn hóa dân gian với những cổ
tích, thần thoại, truyền thuyết và cả thời kỳ hiện đại cũng đều hiện về trong thơ ông hết
sức chân thực, sống động; hình ảnh những mẹ già, cụ già phơ phơ tóc trắng, những cô
gái trong sáng, ngây thơ với nụ cười như mùa thu tỏa nắng, những em bé trẻ thơ sột soạt
quần nâu... như một bức tranh nhiều gam màu ghim chặt trong bến quê Hoàng Cầm -
bến quê Kinh Bắc thơ ông.
42
Thiên nhiên Kinh Bắc cũng không kém phần sống động, hữu tình với dòng sông
Đuống nghiêng nghiêng, dòng Tiêu Tương, dòng sông Thương thơ mộng bát ngát, dòng
sông Cầu lơ thơ nước chảy còn mãi ngân vang khúc khải hoàn Nam Quốc sơn hà;
những núi, đồi ngút ngàn cây xanh, đọng đầy truyền thuyết, huyền tích về một thuở hồng
hoang còn in hằn vết liêu trai... Viết về văn hóa Kinh Bắc, Hoàng Cầm hướng tầm nhìn
sâu rộng có tính lịch sử về thiên nhiên và những phong tục, tập quán, thân phận con
người, tính cách nhân vật, ông đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm, dồi dào ấn tượng,
tươi mươi, mướt mát mới trong sự tập trung bút lực cao độ. Nhìn về những con người
lam lũ, đặc biệt là hình ảnh những bà mẹ nghèo, tần tảo, chịu đựng bao gió sương che
chở cho các con trong các cuộc chiến tranh để viết, qua đó Hoàng Cầm như sẻ chia cùng
họ những đắng cay, ngọt bùi của kiếp người. Trong Bên kia sông Đuống, tác giả viết về
con người cụ thể ấy của một vùng đất: Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong/ Bước cao
thấp bên bờ tre hun hút/ Con cò trắng bay vùn vụt/ Lướt ngang dòng sông Đuồng về
đâu?/… Mẹ ta lòng đói dạ sầu/ Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ… mà lịch sử
hình thành về con người, làng mạc của vùng đất ấy không mấy xa lạ với chúng ta hôm
nay. Tại những làng quê Kinh Bắc đầy khắc nghiệt khi chiến tranh tàn phá với Lũ quỷ
mắt xanh rùng rợn/ Khua giày đinh đạp gãy quán gày teo vẫn hiện lên rạng ngời ánh
mắt và tiếng cười tươi sáng, giòn tan như mùa thu tỏa nắng của các cô gái thôn nữ,
cùng hình ảnh của những ngôi chùa với hội hè, đình đám, tiếng hát quê hương cất lên
sang sảng, véo von của văn hóa quê hương như càng khẳng định các giá trị văn hóa
một vùng thẩm mỹ đặc biệt, độc đáo để nhà thơ Hoàng Cầm tạo dựng lên những thi
liệu, thi đề cho lâu đài thi ca của mình. Nhà thơ thấu cảm với những hoàn cảnh, những
tâm trạng của những con người, những di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương mình mà
xót xa, cay đắng như rụng rời chân tay trước cảnh bị giặc tàn phá. Từ những cuộc đời,
những con người sống thác cùng đất đai và văn hóa, phong tục quê hương và lặng lẽ
cống hiến cho đời, Hoàng Cầm đã tiếp tục thổi bùng lên ngọn lửa yêu thương hết mực
tình nghĩa, trung thành của mình.
Như vậy ta có thể thấy cây bút Hoàng Cầm đã cắt nghĩa cho chúng ta hiểu vì sao
trong vùng văn hóa Kinh Bắc với những con người lam lũ vất vả, chịu đựng biết bao mất
mát, hy sinh mà vẫn cống hiến hết mình, dốc hết tâm lực và trí tuệ để bảo vệ cuộc sống,
hạnh phúc của cộng đồng, trước bao biến cố của lịch sử mà vẫn lịch lãm cất cao tiếng hát
43
quan họ để đi cùng bạn năm châu? Đấy chính là kinh nghiệm sống của một con người
văn hóa? Việc đào sâu suy nghĩ, nhận thức về con người, thiên nhiên và những lề lối
phong tục ở một vùng đất đã làm cho thế giới hình tượng nghệ thuật trong thơ Hoàng
Cầm trở nên tự do, độc lập một cách tương đối (như Bakhtin quan niệm). Thế giới hình
tượng nghệ thuật ấy không chỉ phát tiếng nói của tác giả mà quan trọng hơn, đó là một sự
tự ý thức về bản thân đã được miêu tả thực sự, nó hành động, trải nghiệm, suy nghĩ với
chính những gì tự có. Điều này giải thích rằng, những con người và hình tượng nghệ
thuật trong tác phẩm của nhà thơ không chấp nhận một lối sống khác, một hình thức đời
sống khác, một sự trùng hợp khác ngoài quỹ đạo vùng thẩm mỹ của nó.
Tất cả những điều đó đã tạo nên một suối nguồn cảm hứng mãnh liệt trong thơ
Hoàng Cầm, qua đó nhà thơ tạo nên hệ thống hình ảnh sinh động, hình tượng nghệ thuật
đa dạng, phong phú, giàu giá trị biểu cảm, biểu vật và giàu giá trị vùng văn hóa, vùng
thẩm mỹ đích thực thông qua hệ thống ngôn ngữ và giọng điệu riêng biệt của nhà thơ đất
Kinh Bắc.
44
Chương 2
THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM
2.1. Quan niệm về biểu tượng và biểu tượng thẩm mỹ
2.1.1. Quan niệm về biểu tượng
Trước đây, người ta cho biểu tượng là những hình ảnh do trí tưởng tượng bịa đặt
ra, như hình ảnh con rồng, vì thế, nó ít có giá trị; nhưng ngày nay những huyền thoại,
thần thoại, biểu tượng được sử dụng để giải nghĩa cuộc sống của cả một dân tộc.
Vậy biểu tượng là gì? Khi tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng, chúng ta không thể
hạn hẹp nó trong một định nghĩa được, biểu tượng được diễn tả bằng từ ngữ, nhưng từ
ngữ chỉ diễn tả những hình ảnh, không diễn đạt được tất cả ý nghĩa của biểu tượng, như
hình ảnh hoa sen: hoa thơm, không gì đẹp bằng sen, lá xanh, bông trắng, nhị vàng v.v...
Còn biểu tượng hoa sen: biểu tượng của Phật giáo, tòa sen: bản thể đức Phật, giác ngộ
(hoa sen nghìn cánh), thanh khiết như sen trắng, sen xanh; còn sen vàng thì nghĩa lại đĩ
thõa (Sen vàng lãng đãng như gần như xa).
Như thế, tìm hiểu một biểu tượng là trình bày những kích thích hơn là những
kiến thức, đó là phương pháp của Gaston Bachelard- triết gia người Pháp (1884- 1962).
Trước một biểu tượng như lửa, nước, khí v.v…, ông ghi lại những cảm nhận cá nhân bắt
nguồn từ toàn bộ con người (lửa: nấu bếp, sưởi nóng, đốt nhà, bắn súng…), từ cái di sản
thừa kế của cả một dân tộc (như nước: ruộng nước, lúa nước v.v..) hoặc cả một thời đại
(lửa: lửa tình yêu, thánh thần). Nếu hiểu như thế thì mọi vật đều có thể mang giá trị biểu
tượng: khi con nít kể chuyện thì một cái gối trở thành biểu tượng một cô tiên, một con
cọp hoặc một yêu quái. Nghệ thuật của trò chơi lớn là dùng những cục đất, cành cây
v.v... để có giá trị biểu tượng. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt giữa biểu tượng với biểu
hiệu (như lá quốc kỳ); biểu tượng văn hóa với biểu tượng toán học; biểu tượng với huyền
thoại, thần thoại.
Tôn giáo ưa dùng các biểu tượng vì chúng đưa chúng ta sang một thế giới khác,
sống động hơn, cao siêu hơn, vượt ra ngoài thế giới khả giác, trong đó cái phần vô hình
được nhìn thấy một cách huyền bí: Phật Quan Âm ngự tòa sen, tay cầm bông sen chứ
không phải là hoa huệ. Và khi một nền văn hóa bị các nền văn hóa khác xâm nhập thì
biểu tượng trở thành đa chiều và có khả năng thâm nhập lẫn nhau như: Tấm Cám với
Cinderella, cái mõ hình con cá nơi các giáo xứ v.v…
45
Các nhà triết học quan niệm biểu tượng là hình thức cao nhất của quá trình nhận
thức cảm tính là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý
tính… Biểu tượng là hình ảnh khách thể đã được tri giác lưu lại trong bộ óc con người,
và do một tác động nào đấy được tái hiện, nhớ lại.
Trong khi đó các nhà tâm lý học lại coi biểu tượng là hiện tượng tâm sinh lí do có
một sự việc ở ngoại giới tác động vào giác quan khiến ý thức nhận biết được hình ảnh
của vật kích thích trở lại trí tuệ hay cảm giác. Trong quá trình nhận thức về thế giới, biểu
tượng là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính của con người. Cùng với
cảm giác và tri giác, biểu tượng đã tạo ra những tiền đề cơ sở cho nhận thức lý tính.
Đồng thời nó cũng góp phần giúp con người nhận thức được những thuộc tính: bản chất,
tính quy luật của sự vật, đem lại nhiều hiểu biết sâu sắc về sự vật. Bởi lẽ biểu tượng luôn
gắn liền với các khái niệm với những phán đoán, suy lí, đặc biệt là trí tưởng tượng.
Theo các nhà triết học văn hóa, biểu tượng là hình ảnh cảm tính vật chất của hiện
thực khách quan và mang ý nghĩa tượng trưng khái quát, gồm hai bình diện là cái biểu
đạt và cái được biểu đạt. Biểu tượng văn hóa chính là sự vật, hiện tượng nào đó được sử
dụng nhiều trong sinh hoạt văn hóa và dần dần được nâng cấp lên thành hình ảnh có ý
nghĩa biểu trưng nhằm nói lên ý nghĩa tinh thần ngoài ý nghĩa vật chất. Biểu tượng văn
hóa mang chiều sâu cảm xúc, tính dân tộc, tính thời đại.
Các nhà ngôn ngữ học thì dựa trên sự phân tích bản chất tín hiệu của ngôn ngữ,
coi biểu tượng cũng là một loại tín hiệu ngôn ngữ. Nhưng giữa biểu tượng và tín hiệu
ngôn ngữ nói chung có sự khác nhau cơ bản. Cả tín hiệu ngôn ngữ và biểu tượng đều có
hai bình diện là cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Mối quan hệ giữa hai bình diện này, đối
với hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nói chung là không có lí do, còn với biểu tượng, mối
quan hệ ấy là có lý do và cái được biểu đạt luôn luôn lớn hơn cái biểu đạt. Về chức năng,
tín hiệu ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp thuần túy, hướng vào đối tượng giao
tiếp, còn biểu tượng thực hiện chức năng nhận thức và biểu hiện đối tượng, chức năng đó
không chỉ hướng vào đối tượng mà còn hướng vào bản thể đối tượng. Trong văn học,
biểu tượng được nhìn nhận ở hai mặt. Thứ nhất, biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện
thực khách quan. Thứ hai, biểu tượng không chỉ mang nghĩa đen, nghĩa biểu vật, nghĩa
miêu tả… mà nói đến biểu tượng là nói đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa
biểu cảm.
46
Nói tóm lại, biểu tượng là một kích thích, là một gợi mở giúp chúng ta vượt qua
dáng vẻ bên ngoài để đi tìm ý nghĩa ẩn kín, thiêng liêng và đạt tới cõi siêu thực.
2.1.2. Quan niệm về biểu tượng thẩm mỹ
Khi nói tới biểu tượng thẩm mỹ là chủ yếu nói đến các biểu tượng trong văn học
nghệ thuật, đó chính là những hình ảnh về các hiện tượng của thế giới tự nhiên và con
người đã được nhà nghệ sỹ sáng tạo nên. Biểu tượng là “hình thức của nhận thức cao
hơn cảm giác cho ta hình ảnh của sự vật còn lưu giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của
sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [106, tr.67]. Trong văn học nghệ thuật, biểu tượng
không chỉ đóng vai trò phản ánh những dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng, một
cách khái quát, tiêu biểu nhất, mà còn mang tính cụ thể nhất định. Biểu tượng còn là sự
phản ánh khái quát hơn và trừu tượng hơn những hiện tượng, sự vật trong đời sống. Nó
là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, song ngược lại, chính hiện thực khách
quan lại là điều kiện hàng đầu để tạo nên biểu tượng, do đó “Biểu tượng cùng với cảm
giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính, hay theo thuật ngữ của Paplốp, tạo nên hệ
thống tín hiệu thứ nhất của hiện thực” [111, tr.50].
Theo Từ điển Petit Larousse, biểu tượng (symbole) là “một dấu hiệu, hình ảnh,
con vật hay đồ vật, biểu thị một điều trừu tượng; nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật
hay một điều gì đó” (dẫn theo Đỗ Lai Thúy) [132, tr.108]. Trong Từ ký hiệu học đến
thi pháp học, Hoàng Trinh định nghĩa: “Biểu tượng là một sự vật mang tính thông
điệp, được dùng để chỉ một cái bên ngoài theo một quan hệ ước lệ, tức võ đoán (không
tất yếu) giữa sự vật trong thông điệp và những sự vật bên ngoài” [143, tr.82]. Đỗ Lai
Thuý thì cho rằng “Biểu tượng, theo nghĩa rộng, là một thứ xác định toàn bộ hiện thực
trừu tượng, nằm ngoài tầm với của các giác quan trong hình thức một hình ảnh hay một
vật thể” [132, tr.108].
Biểu tượng cũng là một phương tiện tạo hình và biểu đạt có tính gợi cảm, liên
tưởng, đa nghĩa, mang giá trị nghệ thuật cao. Biểu tượng là hình ảnh cụ thể - trong văn
học - chúng là một thi liệu được thi nhân sử dụng, tái hiện nhiều lần. Đặc biệt, ý đồ thẩm
mỹ luôn vượt ra ngoài giá trị biểu đạt. Biểu tượng- hay tượng trưng là phép chuyển nghĩa
dựa vào “những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ dùng nhiều lần, dùng phổ biến, trở nên quen
thuộc với mọi người, đến mức hễ nhắc đến nó ai cũng hiểu thống nhất nội dung biểu hiện
của nó” [70, tr.75]. Theo Từ điển văn hóa thế giới: “Giá trị của biểu tượng được xác
định chính trong sự chuyển vượt từ cái đã biết sang cái chưa biết, từ cái đã diễn đạt sang
47
khó tả nên lời” [17, XXV]. Như thế, biểu tượng là cái sự vật cái hình ảnh giúp chúng ta
vượt qua dáng vẻ bên ngoài để đi tìm ý nghĩa bên trong. Có thể nói cách khác thì đó là
“dấu chỉ khả giác”, những dấu chỉ này nếu gắn liền với những biểu tượng văn hóa của
mỗi một vùng, miền hay của một dân tộc.
Trên cơ sở những hình ảnh, sự kiện được trí nhớ lưu giữ, con người tưởng tượng
“nhận biết rõ các thuộc tính, đối tượng, các mối quan hệ,... của thế giới xung quanh, lại
được dùng làm chất liệu để chắp nối, tái tạo, xây dựng theo một lôgic mới, một trật tự
mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ. Đó là những biểu tượng sẽ có hoặc
không bao giờ có trong xã hội (ví dụ tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản, biểu tượng về con
Rồng Việt Nam...)” [35, tr.13]. Trong văn học nghệ thuật nói chung, sáng tác thơ ca nói
riêng, biểu tượng là một dạng của biểu tượng bậc cao, mang sắc thái của biểu tượng
tưởng tượng. Ví dụ: hình ảnh những tùng - trúc - cúc - mai thường là thuộc về biểu
tượng cho cốt cách, ý chí, khí phách của người quân tử; với Nguyễn Duy thì tre là biểu
tượng cho cốt cách, tâm lý của con người Việt Nam, chợ là biểu tượng cho đời sống sinh
hoạt tâm lý văn hoá trong thơ nữ sĩ Anh Thơ... Trong thơ Hoàng Cầm, ta gặp rất nhiều
hình ảnh biểu tượng cho những giá trị thẩm mỹ đặc biệt, gợi liên tưởng đến các giá trị
văn hoá truyền thống của con người: đêm, mưa, lễ hội, yếm áo, thực vật, men... Đó là
những biểu tượng trùng phức, đa nghĩa có sức hấp dẫn, ám ảnh lạ kỳ đối với người đọc,
nó được bài trí hài hoà tạo nên một thế giới riêng, mang đậm sắc màu văn hoá vùng
miền, dân tộc.
Thơ là sản phẩm của xã hội được cá thể hoá cao độ, qua đó mỗi nhà thơ đều tạo
cho mình một thế giới nghệ thuật riêng. Từ ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh, cách nhìn
thế giới, cách rung động hồn thơ là riêng biệt, không trộn lẫn, không lặp lại. Các biểu
tượng được hình thành theo những sắc thái biểu cảm khác nhau và chuyển dịch ý nghĩa
đối với thời gian, không gian địa lý, tâm lý dân tộc, và cá tính sáng tạo cũng khác nhau.
Trong thơ hiện đại Việt Nam, các biểu tượng gắn với cuộc sống, tính cách riêng của từng
tác giả. Môi trường sống, kinh nghiệm sống từ thuở ấu thơ đến trưởng thành qua quá
trình lao động, đấu tranh và sự tích luỹ mọi mặt từ đời sống có ý nghĩa quyết định đến sự
hình thành biểu tượng. Qua các biểu tượng trong văn học, ta có thể nhận ra đời sống sinh
hoạt quen thuộc của nhân dân và nhận ra vùng thẩm mỹ độc đáo của họ (nếu có). Những
ấn tượng thuở ấu thơ in dấu rất rõ trong tư duy sáng tác của họ. Mặc dù có trải qua năm
tháng, qua nhiều không gian địa lý khác nhau, song những ấn tượng ấy vẫn mãi mãi tồn
48
tại và hiện ra theo ý thức, có khi ẩn sâu vào trong vô thức, tiềm thức, siêu thức và khi gặp
thời cơ sẽ hiện hình và toả sáng.
Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật chân chính đều nhằm để cắt nghĩa và nhận
thức đời sống, qua đó thể hiện tình cảm thẩm mỹ và tư tưởng nghệ thuật của tác giả.
Khác với các nhà khoa học, người nghệ sĩ thường không diễn đạt một cách trực tiếp ý
nghĩ, tình cảm bằng các khái niệm trừu tượng, mà bằng cách nào đó, họ làm trỗi dậy một
cách cụ thể và sinh động những sự vật hiện tượng đáng để ta suy nghĩ về tính cách, số
phận, tình đời và tình người của nhân vật. Đó là hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ
thuật chính là khách thể đời sống được người nghệ sĩ tái hiện và không ngừng sáng tạo
trong những tác phẩm của họ. Đây chính là một đặc điểm rất quan trọng trong việc thể
hiện hình tượng nghệ thuật. Từ đó ta có thể thưởng thức ở nhiều góc độ, nhiều giác quan.
Khi nói tới hình tượng nghệ thuật trong thơ ca, ta thường hay liên tưởng tới một
phong cảnh, một sự kiện xã hội, con người hay bất kỳ một đối tượng thẩm mỹ nào đó với
những sự biểu hiện hết sức phong phú, sinh động. Nó vừa có giá trị thể hiện những nét
cụ thể, cá biệt, không lặp lại, vừa có khả năng khái quát làm bộc lộ được bản chất của
một loại người hay một quá trình đời sống theo quan điểm của người nghệ sĩ.
Đọc thơ Hoàng Cầm, ta thấy có những hình ảnh được tác giả lặp lại nhiều lần. Đó
không chỉ là những hình ảnh ngẫu nhiên mà có sức ám ảnh lớn đối với tác giả và mang
tính biểu tượng cao như: dòng sông, núi đồi, ngôi chùa, những cơn mưa dài Kinh Bắc,
rồi hình ảnh những người mẹ, người chị, những nhân vật truyền thuyết và lịch sử trên đất
Kinh Bắc… Những hình ảnh đó đã trở thành biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa trong
thơ ông, có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời sáng tác của tác giả, và qua đó, nhà thơ gửi
gắm nhiều thông điệp đến người đọc. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh và biểu tượng trong
thơ Hoàng Cầm có một vẻ đẹp riêng mang chiều sâu của trí tuệ, văn hoá của nhà thơ.
Đọc những hình ảnh mang tình biểu tượng trên trang thơ Hoàng Cầm ta như thấy đồng
hiện tâm và trí của người nghệ sĩ đang nhập sâu vào từng sự vật để chắt lắng, dâng tặng
cho đời những dòng thơ tràn đầy ý nghĩa.
2.2. Biểu tượng thiên nhiên Kinh Bắc
2.2.1. Biểu tượng dòng sông
Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, khu vực chứa những
vùng đồng bằng màu mỡ đầy phù sa. Một đặc trưng của vùng này là sự chênh lệch về
điều kiện tự nhiên khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng. Chính nét đặc trưng này cùng
49
với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho sự hình
thành và phát triển nghề trồng lúa nước. Đặc biệt sông nước đã để lại dấu ấn quan trọng
làm nên một nét độc đáo trong văn hóa Việt Nam, làm nên nền văn minh thực vật hay
văn minh thôn dã. Văn hóa lúa nước, tính chất thực vật (cốt lõi là cây lúa) đã in dấu ấn
đậm nét trong đời sống hằng ngày của con người Việt Nam như: ăn, ở và đi lại...
Cũng theo quan niệm văn hoá của người Việt thì tính sông nước cần được xem là
một đặc trưng của văn hoá Việt Nam. Các di chỉ từ thời đại đá mới, các bản làng từ đầu
thời đại kim khí về sau đều phần lớn phân bổ ở bờ nước: bờ sông, bờ đầm hay bờ biển.
Có thể nói, môi trường sinh thái thiên nhiên của mỗi vùng là một nhân tố tạo nên nét văn
hoá tiêu biểu của mỗi vùng đất mà trong đó tính sông nước là yếu tố quan trọng chi phối
mọi sinh hoạt lao động, sản xuất, phong tục tập quán của đời sống dân cư mỗi vùng,
“Trong các nền văn hoá lớn của thế giới, biểu tượng dòng sông hay dòng nước chảy
được coi là biểu tượng của “khả năng vạn vật, của tính lưu chuyển của mọi dạng thể”
(F.Schoun) đồng thời còn là của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Đối với
người Hy Lạp, các dòng sông là những đối tượng thờ cúng: các dòng sông hầu như được
thần thánh hóa như là các con của Đại dương hay là Cha của các Nữ thần... chỉ có một
con sông cho mỗi người tắm. Theo nghĩa tượng trưng của từ ngữ bước xuống con sông
chính là để cho linh hồn nhập vào thân thể. Con sông mang ý nghĩa thân thể. Tâm hồn
khô khan bị lửa hút, tâm hồn ẩm ướt đọng lại trong thân thể. Thân thể có một cuộc sống
bấp bênh, nó chảy như nước và mỗi một linh hồn có một thân thể riêng. Cái phần phù du
của sự sống của nó, dòng dông của nó” [17, tr.829].
Người Việt từ xa xưa đã sống hoà thuận, gắn bó chặt chẽ với dòng sông, bến
nước, con đò. Do vậy, không gian sống của họ cũng gắn liền với không gian của sông
nước, coi tập tính của sông nước như tập tính con người. Cách đặt tên sông phổ biến ở cả
nước cũng thường gắn với biểu tượng về con người. Ví như: sông Cái, sông Con, sông
Cả, sông Cầu, sông Hương, và cả… sông Thương. Điều đó thể hiện mối quan hệ rất thân
tình, rất gia đình của con người với thế giới tự nhiên.
Hình ảnh những dòng sông vùng quê văn hoá, văn hiến Kinh Bắc được hiện rõ
lên trong thơ Hoàng Cầm ở chiều sâu tâm thức văn hoá với những rung cảm thẩm mỹ
hết sức tế vi, gợi nhiều liên tưởng nghệ thuật rất độc đáo. Theo khảo sát của chúng tôi,
những dòng sông Kinh Bắc liên tục được Hoàng Cầm nhắc đến trong thơ mình, với tần
số rất nhiều, mỗi lần nhắc đến là nhà thơ như đang có những suy ngẫm với những trăn
50
trở, trúc trắc trong nỗi niềm riêng chung đầy ẩn ức. Sông nước nơi đây vừa là hình ảnh
chung của đất nước, non sông, vừa rất cá biệt, vừa là tự nhiên khách quan, vừa thể hiện
tính văn hoá bản địa với những sự khác biệt mang tính đặc trưng vùng miền, tạo nên tính
thiêng về mặt tâm linh có tính lịch sử văn hoá gắn với đình, chùa hoặc những sinh hoạt
dân gian mang tính đặc thù, đồng thời vừa thể hiện sự thơ mộng, hữu tình và lãng mạn
đến khôn cùng.
Hình tượng sông Thương được nhắc đến nhiều trong văn học và các ca khúc với
một biểu tượng đẹp đẽ, kỳ thú, hữu tình. Từ trong ca dao xưa ta thấy: Sông Thương nước
chảy đôi dòng/ Đèn khêu đôi ngọn em trông ngọn nào? Đến văn học hiện đại, các tác giả
Thơ mới thường xây dựng cho mình những biểu tượng non - nước - sông - ngòi để gửi
gắm vào đó tình cảm tha thiết đối với giang sơn gấm vóc, như trong thơ của Anh Thơ,
Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Tế Hanh, Huy Thông, Trần Huyền Trân, Vũ Hoàng
Chương, Huy Cận, Phạm Huy Thông, Vũ Đình Liên, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ… Trong
thơ Bàng Bá Lân là hình ảnh sông xưa gợi bao kỷ niệm: Non nước sông Thương kỳ thú
lạ/ Một thời hiu hắt gió đưa chân. Một điều khá đặc biệt là giữa đôi bờ sông Thương ấy
chứa trong mình hai dòng trong và đục thơ mộng - điều đó tạo nên cốt cách văn hoá
mang biểu tượng nghệ thuật riêng của đất và người Kinh Bắc, gợi hứng cho các sáng tác
văn học nghệ thuật.
Sông Thương đã để lại những ấn tượng hết sức đặc biệt cả về cảnh lẫn tình trong
sáng tác nghệ thuật. Ý nghĩa của hình tượng không gian dòng sông Thương trong thi và
nhạc không chỉ ở chỗ nó gắn với những kỷ niệm tươi đẹp, quý giá nơi làng quê mà mỗi
người đều trân trọng ấp ủ, gìn giữ những nét văn hóa đặc trưng của dòng sông quê hương
này, mà còn có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn của dân tộc, quê hương. Sông Thương: biểu
tượng không chỉ mang ý nghĩa tri ân với một lớp cha anh mà còn có tính giáo dục truyền
thống cho nhiều thế hệ mai sau, bên cạnh đó còn là biểu tượng của tình yêu bị chia cắt.
Tương truyền bến Chi Li bên thành Xương Giang xưa là nơi thường diễn ra những cuộc
chia ly đôi lứa. Người chồng bao đời rời quê đi lính thú trấn ải phương Bắc, người vợ
tiễn chồng đến sông Thương là điểm dừng chân cuối cùng và họ phải chia tay nhau.
Trong thơ Hoàng Cầm, ta gặp lại hình tượng dòng sông Thương với một cảm
hứng, giọng điệu khác hẳn so với các nhà thơ khác. Đó là cảm hứng từ hồi ức với một
giọng điệu ẩn ức, nghẹn ngào đến khó tả trong một lối thơ vừa truyền thống, vừa hiện
đại, trẻ trung. Hình tượng dòng sông Thương hiện lên trong thơ Hoàng Cầm với vẻ đẹp
51
vốn có của nó và trong sự khác biệt từ cảm hứng lịch sử đến tên gọi, cảm hứng về tình
yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước tràn ngập và tình yêu nam nữ với khát vọng
“ngược dòng” trong Sông Thương… Thương, ở đây, mối tình Chị - Em… là cả một trời
ẩn ức, khối nghẹn ngào. Cái giây phút ngỡ ngàng đến mắt tròn cối xay trong lúc gặp Chị
đã để lại trong Em cả một dòng thương nhớ khôn nguôi. Điệp khúc ngày chị bảo em
quên (bốn lần trong một bài thơ) dường như nghe đến não lòng, chán tai. Nhưng nó lại
giống như một chất xúc tác nhào nặn cảm xúc yêu ở em. Ngày chị bảo là ngày nào? Yếu
tố thời gian đã trở nên phi lôgíc, trở nên siêu hình, hư vô. Chị càng bảo em quên nhưng
em nào có quên được, ngược lại em càng nhớ chị da diết hơn, cháy bỏng hơn, nồng nàn
và đắm say, cuồng si hơn… Sau mỗi lời chị bảo, em lại lên men yêu cháy bỏng với hàng
loạt những hình ảnh trong chiều sâu tâm thức để theo đuổi mối tình si ấy. Vậy mà chị
vẫn bắt em đừng nhớ. Bi kịch của khát vọng ngày càng bị dồn nén để rồi bật ra cái
khoảng trống trong mơ hồ suy nghĩ thơ thẩn vách chiêm bao. Hiện tượng vắt dòng,
xuống câu như nhịp điệu Quan họ, như chiều buông trên dòng sông Thương đôi dòng
hững hờ càng tăng thêm khát vọng yêu của người em. Cũng như trong Cây Tam Cúc,
Cỏ Bồng Thi, Quả vườn ổi, Lá Diêu bông thì với Nước sông Thương, khát vọng của
em vẫn chỉ là khát vọng để cuối cùng Nước sông Thương vẫn chảy đôi dòng như mối
tình kia chưa đến bến hoà hợp. Và rồi trong Chân dung tự thú tác giả đã phải thừa nhận
một thực tế không chỉ với chính mình: Sông Thương thường ly thương. Ai bảo sông ấy là
sông Thương? Đành lòng vậy, dầu lòng vậy: Đắp bằng kín nỗi đau vô tận/ Vằng vặc ly
thương hai kiếp người (Gặp).
Mang một vẻ đẹp riêng trong dáng thế lượn vòng, uốn khúc, khi ôm núi như hình
cánh cung, khi cong mình như một dấu hỏi lớn, khi vắt mình qua những cánh đồng chở
nặng phù sa, khi vươn mình tưới cho những cánh đồng lúa trĩu hạt vàng thơm bông…
sông Thương được ví như một dải lụa đào trong gió thoảng chiều thu bên bãi dâu xanh
ngát, lại được ví như những làn sương khói cuộn mình, len lách trong ánh sương chiều
rơi chậm… Phải tinh tế lắm, phải có niềm yêu sông, yêu quê lắm lắm mới thấy được cái
thần thái và linh hồn của sông Thương, để từ đó bản ngã nghệ thuật được sinh thành mà
hoài thai nên những ấn phẩm nghệ thuật có giá trị để đời, cho dù chỉ là số ít. Dòng sông
Thương xuất hiện trong thơ Hoàng Cầm tuy không nhiều, song cũng kịp để lại một khát
vọng yêu, yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, dân tộc, yêu con người và cả tình
yêu đôi lứa, còn nữa, là cảm hứng lịch sử, văn hóa dân tộc… Và chúng ta cũng kịp nhận
52
ra một điều: tình yêu đôi lứa trong thơ và cả trong ông nữa với những mối tình Chị - Em
(Hoàng Cầm) của hai người ở trong hai dòng đời này cũng giống như hai dòng chảy trên
đôi bờ sông Thương kia mà thôi. Thật khó hoà cho cùng. Đó phải chăng cũng chỉ là
những mối tình trong ca dao, trong dân gian nơi đây?: Sông thương nước chảy đôi dòng/
Dòng đục nặng mình chở phù sa/ Dòng trong thanh thản hát ca/ Ngàn đời trong - đục
không hoà dòng nhau… Nếu không muốn nói đó là một bi kịch. Nhớ về quê hương
không ai không nhớ về những dòng sông thơ mộng êm đềm. Sông Thương vẫn cứ mãi
êm đềm, thơ mộng như chính tự nó - là cội nguồn của cảm hứng sáng tác vô bờ bến cho
văn học nghệ thuật.
Đọc thơ Hoàng Cầm, ta cũng được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thơ mộng bậc nhất của
một dòng sông Việt Nam - đó là sông Cầu miền quan họ Kinh Bắc.
Sông Cầu còn gọi là sông Như Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức là con
sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Sông Cầu chảy vào mạn Tây Nam
tỉnh lị Bắc Giang (phân chia ranh giới Bắc Ninh - Thái Nguyên) trong hình một dạng
cánh cung địa chất cong cong uốn lượn như vầng trăng non, nên người xưa gọi nó bằng
một cái tên hoa mỹ là Như Nguyệt.
Như Nguyệt là một dòng sông từng chứng kiến bao dấu tích lịch sử của người
dân Đại Việt trong công cuộc chống lại xâm lăng cường quốc, bảo vệ đất nước vào cuối
thế kỷ XI. Nếu dòng sông Bạch Đằng đã lừng lẫy nhấn chìm Thái tử Hoằng Thao của
nhà Nam Hán xa xưa (936), giăng bắt giao châu xứ Hầu Nhân Bảo (981)…, thì Như
Nguyệt cùng danh tướng Lý Thường Kiệt đã anh dũng phá tan quân xâm lăng của Trung
Hoa ở bến đò (chiến tuyến) Như Nguyệt và Vọng Nguyệt (1077), đuổi Quách Quỳ và
Triệu Tiết ra khỏi bờ cõi nước nam qua bốn câu thơ đẫm chất anh hùng: Nam quốc Sơn
hà Nam đế cư - Tiệt nhiên định phận tại thiên thư- Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Nhữ
đẳng hành khan thủ bại hư (tương truyền là của Lý Thường Kiệt). Đây cũng là trận thuỷ
chiến nổi tiếng của quân dân Đại Việt dưới triều Lý Nhân Tông cùng với 30 vạn liên
quân Bắc Tống, Chiêm Thành và Chân Lạp trong 40 ngày chiến đấu (18/1 - 28/2/1077).
Có thể nói 28 chữ trong bài Nam quốc sơn hà được viết bằng máu đỏ Lạc Long đời đời
còn in dấu trên dòng sông Cầu nước chảy êm đềm nối tiếp 49 làng quan họ cổ của Kinh
Bắc, trong đó phòng tuyến sông Như Nguyệt- được coi là nơi biểu tượng cho sức mạnh
của lòng dân thời kỳ đánh giặc Tống.
53
Cảm hứng thi ca về dòng sông Cầu cũng không phải là ít. Trong giai đoạn kháng
chiến chống Pháp, nữ sĩ Anh Thơ cũng đã từng có thơ về dòng sông thơ mộng này trong
tâm thức cội nguồn văn hoá dân tộc:
Sông Cầu nước xuôi đi, xanh vắt
Sớm mai này, nước muốn lắng dòng sông
Để in bóng những chòm râu phơ phất
Những vạt áo dài nền nã năm thân
(Đội ngũ trùng trùng tóc bạc lại xung phong).
Dòng sông Cầu cũng được hiện lên trong thơ Hoàng Cầm như một biểu tượng
cho những giá trị lịch sử văn hoá và văn hiến của vùng miền, của dân tộc từ thuở mở
nước, dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Với Gió lông ngỗng, tác giả đưa ta về với
thời kỳ dựng nước thuở Hai Bà bên dòng sông Hát Môn những năm 40, đến thế kỷ thứ
VI thời An Dương Vương với hình tượng chiếc áo lông ngỗng của cô công chúa Mị
Châu như đang còn vương mắc dọc bờ sông Cầu lịch sử cho đến tận ngày nay:
Lông ngỗng trải bờ lau
Sông Cầu xuôi bến hát
Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn...
Phải chăng dòng sông Cầu cũng là một chứng nhân lịch sử quan trọng, nó trở trên
mình những chuyện buồn vui của tác giả, và chứng kiến bao câu chuyện nổi trôi đầy thân
phận gắn với những vương tích về Mị Châu? Sông Cầu cũng chứng kiến bao sự thăng
trầm lịch sử, bao biến cố của đời người, cùng với khát vọng cuộc sống nhân văn, nhưng
đành để trôi theo dòng sông nước, trở về với hư không…
Vẻ đẹp của con sông Cầu trong Một lời quan họ cứ thoảng nhớ thoảng quên, cứ
chập chờn ẩn hiện như làn yếm mỏng xinh của gái quê Kinh Bắc gợi niềm đam mê vô
thức trong tâm thức Hoàng Cầm. Dù trong hạnh phúc hay bi kịch thì dòng sông quê
hương vẫn hiện lên trong tâm hồn nhạy cảm của ông. Đó là sự quan sát, trải nghiệm bằng
một trực cảm tâm linh tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi
chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc hoặc có thể từ trong một chiều sâu tâm thức lịch sử.
Hoàng Cầm xem dòng sông này là duyên cớ của những lời ca quan họ Kinh Bắc và do
vậy, sông Cầu đã trở thành nỗi đam mê, trở thành duyên cớ gửi trao tâm tình thơ - quan
họ của ông với những điệu lý huê tình, lý cây đa quyến rũ trong sự bảng lảng huyền ảo
của không gian, thời gian và sự tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể
54
nhận thức đến say cả lòng người. Quan họ và sông Cầu dường như là một trong những
chiếc cầu nối đồng hiện của hai miền tâm thức và thi ca Hoàng Cầm:
Lý cây đa... Lý huê tình
nguyệt cầm ngại gảy
dỗ dành ai nghe
Người ơi! Người ở…
… Hay là….
(Thể phách tinh anh).
Như vậy, có thể nói, với tính chất của một dòng sông văn hóa, sông Cầu được coi
là biểu tượng của sự linh thiêng với những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc và
sự thơ mộng, hữu tình bậc nhất của hệ thống sông Việt nam.
Đến với không gian của những dòng sông Kinh Bắc ta còn được Hoàng Cầm đưa
về sông Đuống, về với dòng sông của khát vọng ngày xưa - thuở thanh bình êm đẹp,
hạnh phúc, của những lễ hội dân gian tiêu biểu cho một giá trị văn hoá có sức sống vĩnh
hằng, trường tồn.
Dòng sông Đuống cũng là dòng sông cuộc đời trong đó như ngưng tụ nhịp sống,
nhịp sinh hoạt chứa dựng bao giá trị văn hoá, văn hiến, lấp lánh ánh đẹp cổ tích và huyền
sử từ một dòng tâm tư chảy mãi không nguôi. Đó còn là dòng sông của nền văn hoá lúa
nước với cơ tầng văn hoá nông nghiệp lấy nghề nông làm gốc - dĩ nông vi bản của người
dân Kinh Bắc. Nơi đó có những lúa nếp thơm nồng, những gà lợn nét tươi trong, những
tấm the đen, những hội hè đình đám trong bến dưới thuyền, trên đê ngoài bãi... Dòng
sông ấy chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, những thăng trầm văn hoá, những khát vọng
đời người của những nhân vật truyền thuyết và lịch sử, đến những bà mẹ, anh bộ đội,
những người dân ở mọi tầng lớp, cả những mối tình Chị - Em nơi đồng chiều cuống rạ
của miền quê Kinh Bắc… Tất cả được di dưỡng và thăng hoa trong những thi phẩm của
Hoàng Cầm. Ông không những góp phần là người giữ gìn, bảo lưu các giá trị văn hoá
mà còn như người của dân gian đi truyền lại những câu chuyện dân gian về Kinh Bắc
cho chúng ta. Dòng sông Đuống - dòng sông Kinh Bắc vì thế càng trở nên có giá trị lịch
sử hơn bao giờ hết khi được chính Hoàng Cầm - người con của quê hương miêu tả nó
như một sinh thể có hồn trong thế trằn trọc, đớn đau, trăn trở, oằn mình mà nằm nghiêng
nghiêng vì hiện thực lịch sử, vì chiến tranh đang tàn phá một vùng quê trù mật.
55
Bờ sông Đuống không chỉ dày đặc di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu cấp Quốc gia,
lưu giữ nhiều lễ hội truyền thống quy mô vùng miền mà bên vùng đất Nam Đuống còn
tụ hội nhiều làng nghề thủ công truyền thống độc đáo như: nghề làm tranh dân gian
Đông Hồ, đúc đồng Đại Bái, nghề gốm Luy Lâu, Tranh tre Xuân Lai… Thật hiếm có
dòng sông nào chở đầy lịch sử, đậm đặc di tích như sông Đuống. Tựa mình bên triền đê
uốn lượn, dưới tán cây cổ thụ là Lăng Kinh Dương Vương, đền thờ Kinh Dương Vương.
Sông Đuống chảy được hơn nửa đường về phía Đông thì gặp dãy núi Thiên Thai đột
khởi giữa vùng đồng bằng. Sông núi gặp nhau tạo nên phong cảnh hữu tình nhưng Thiên
Thai lại trái ngang chặn dòng, buộc sông Đuống phải lượn vòng. Cũng từ đây, lịch sử
dường như có sự chuyển đoạn. Bắt đầu từ chân núi Thiên Thai đến Lục Đầu giang, chỉ
một khúc sông ngắn khoảng mươi cây số nhưng dòng Đuống đã oằn mình chở nặng bao
nỗi oan “động trời” trong sử cũ: Đầu tiên là câu chuyện của Thái sư Lê Văn Thịnh,
người làng Bảo Tháp (Đông Cứu, Gia Bình) từ hơn 900 năm về trước. Cách đền thờ Lê
Văn Thịnh chẳng bao xa, là “hiện trường” vụ thảm án xảy ra cách đây khoảng 570 năm
đã làm cả gia tộc đại quân sư Nguyễn Trãi - một khai quốc công thần triều Lê điêu đứng.
Gần 6 thế kỷ trôi qua, dấu tích vườn vải năm xưa giờ không còn nữa. Khu di tích Lệ Chi
Viên (xã Đại Lai, Gia Bình) bây giờ là cánh đồng lúa xanh mướt mát và cư dân xóm làng
quần tụ đông đúc. Gần Lệ Chi Viên là chùa Đại Bi nằm giữa một vườn cây cổ thụ xanh
mát phía ngoài đê thuộc xã Thái Bảo, nhân vật được thờ trong chùa là danh nhân Trúc
Lâm đệ tam tổ Huyền Quang (Lý Đạo Tái) - một Quốc sư, nhà văn hóa, nhà tư tưởng,
nhà thơ lớn đã rơi vào nỗi oan tình nàng Điểm Bích để “Dẫu mà tát cạn Bình Than/
Cũng không rửa được nỗi oan cho thầy”. Tiếp tục xuôi dòng sông Đuống đến khu Lăng
mộ và Đền thờ Cao Lỗ Vương (xã Cao Đức) lại gặp ông Nỏ (Cao Lỗ Vương - cha đẻ
của “nỏ thần An Dương Vương”) đã phải rửa nỗi oan bằng chính mạng sống của mình…
Dòng sông Đuống được hiện lên trong thơ Hoàng Cầm trước hết từ tâm thức lịch
sử, từ thời tiền sử, thời phong kiến gắn với những nhân vật truyền thuyết và lịch sử của
đất Kinh Bắc, của dân tộc Việt Nam. Về Kinh Bắc là về với giấc mơ thuở “hồng hoang”,
về nơi chứng kiến và ghi lại dấu tích lịch sử thời Kinh Dương Vương, thời Lạc Long
Quân và Âu Cơ, với những oai hùng của người anh hùng nơi Thánh Gióng - Phù Đổng
Thiên Vương đã sinh ra và đánh giặc từ bên bờ sông Đuống - nơi thuỷ tổ, cội nguồn dân
tộc Việt mà đánh ngược lên mạn Bắc qua Đông Anh, rồi mới đến Phong Châu - Phú Thọ
- nơi con cháu Kinh Dương Vương lập đô, lập nghiệp sau này. Phải chăng nhà Trời đã cố
56
tình để bà mẹ nghèo nơi thôn quê xóm cùng thụ thai bằng cách ướm vết chân - trên chính
mảnh đất của cội nguồn để rồi Gióng được đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt và giải phóng
giặc Ân trước hết cũng trên chính mảnh đất của tổ tiên - cha ông mình? Hoàng Cầm đã
thể hiện được ý thơ mang đậm chất sử thi hoành tráng của một sự kiện quan trọng lắng
đọng lại một lớp phù sa lịch sử, ghi lại dấu mốc quan trọng trong hành trình trở về với
dòng sông lịch sử của dân tộc mình?: Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống/ Dựng tre
làng Cháy/ Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu (Nắng phù sa). Vinh dự thay, bên
dòng sông Đuống đã sinh ra người anh hùng thiếu nhi, để đến muôn nghìn năm sau ta
vẫn tưởng nhớ và mở Hội Gióng với những trò diễn tích xưa dọc hai bờ sông Đuống.
Bên dòng sông Đuống còn lưu giữ bao huyền tích, huyền sử, gắn với những câu chuyện
dân gian và lịch sử, đã chứng kiến được tất cả từ câu chuyện của một thời mang dấu tích
hồng hoang và đã đi vào tâm thức của mọi người dân Kinh Bắc - đó là câu chuyện về Từ
Thức: Đêm giao thừa ai đưa mưa ra/ Từ Thức tìm đâu một mái nhà/ Có phải chính em
cầm gió bấc/ Quất ngang sông Đuống buốt phù sa (Bơ vơ); Giáng Tiên mới chớm hội
chùa/ Đã bay Từ Thức vào mơ mộng đào… (Tháng riêng đi chậm), đến câu chuyện của
một quốc gia, dân tộc mang đậm chất nhân văn nơi quê hương tiếng hát Quan họ: Tiếng
hát quan họ nâng gót phù sa/ Đã thành ngọc trai giữa lòng sông Đuống (Tìm đến chân
trời); Tháng riêng ơi vút vút nhanh/ như mây từ biển thổi vòng Thiên Thai/ như dòng
sông Đuống cuốn trôi/ như Tiêu Tương liễu buông dài Bách Môn/ nhanh như tiếng gọi
hú hồn/ Hỡi cô Huệ đỏ ngó vờn ngôi vua… Tất cả đã được Hoàng Cầm tạc nguyên hình
trong một mùa tháng giêng Kinh Bắc. Nhà thơ cũng thâu tóm giá trị văn hoá dân gian
truyền thống của người Kinh Bắc trong những nét vẽ mờ nhòe của tâm trạng từ những
thổn thức mất còn cái hồn vía Kinh Bắc như những hội hè đình đám, những núi Thiên
Thai, chùa Bút Tháp, những cô hàng xén răng đen với yếm thắm, lụa hồng và cả dòng
sông Đuống lấp lánh ánh bạc đẹp… Đó cũng là một trong những yếu tố phản ánh màu
sắc thẩm mỹ mang tính văn hóa sông nước của người dân Kinh Bắc. Người dân ở xứ
Palestine quan niệm: “các dòng sông là những tác nhân phì nhiêu hóa, có nguồn gốc
thiêng liêng, mưa và sương mang lại sức sinh sản và biểu hiện từ tâm của Chúa trời.
Trong đó nước là biểu tượng của sự tái sinh, là biểu tượng của đời sống tinh thần và
mang ý nghĩa vĩnh hằng. Nước chảy từ nguồn, nước của sự sống được coi là biểu tượng
về nguồn gốc vũ trụ. Nước làm cho thanh khiết, chữa khỏi bệnh, làm trẻ lại, vì vậy đưa
con người vào cõi vĩnh hằng...” [17, tr.711].
57
Ở Việt Nam, sông Đuống cũng được coi là một dòng sông có tác nhân phì nhiêu
hóa nguồn gốc thiêng liêng, là một trong những biểu tượng văn hóa, tinh thần của người
dân Kinh Bắc. Đây là con sông vốn thanh bình yên ả, đẹp đẽ hơn bất cứ vùng quê nào
trên đất nước ta. Điều đó đã được khẳng định từ thời Kinh Dương Vương chọn nơi đây
làm kinh đô của Xích Quỷ, Việt Thường (?). Hoàng Cầm luôn khát vọng về một Kinh
Bắc của “ngày xưa” với Bên kia sông Đuống có bờ cát trắng phẳng lỳ; xanh xanh bãi
mía bờ dâu/ ngô khoai biêng biếc, của Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/Màu dân
tộc sáng bừng trên giấy điệp, quê hương của những mẹ con đàn lợn âm dương; đám
cưới chuột tưng bừng rộn rã… của Những người trai lên ngọn núi hồng như giải lụa...
(Quan họ lại bắt đầu). Đó là khát vọng cuộc sống với cả chất thơ, chất trữ tình của một
dòng sông quê hương, dòng sông Tổ quốc. Đó cũng là cả một không gian văn hoá đến
sống động của Kinh Bắc, của dân tộc. Vậy mà đến nay chỉ còn là một giấc mộng bình
yên, chỉ còn lại một Thiên Thai - sông Đuống lạnh lùng/ Bóng em không lướt - thuyền
không hướng chèo (Thể phách tinh anh).
Dòng sông Đuống (Bên kia sông Đuống) còn được miêu tả như một sinh linh
thực thụ, một sinh thể có hồn ở cái thế nghiêng mình cùng cả quê hương, cả dân tộc
trong thế chuyển mình của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:
Sông Đuống trôi đi
Một dòng lấp lánh
Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ;
Sông Đuống mang tâm trạng của con người trong nỗi cô đơn của tình yêu:
Nghiêng nghiêng sông Đuống đôi câu
Tung tình chín chín khúc sầu lẻ loi.
(Ai xui chắp mảnh xe hồng).
Trong Chân dung tự thú tác giả cũng viết: Sông Đuống nghiêng nghiêng buồn.
Cái thế nằm nghiêng của sông Đuống đã bội hoạt trí tưởng tượng và kích thích tính xúc
cảm đa chiều của bạn đọc, đã trở thành biểu tượng gắn kết trong thơ văn yêu nước của
Hoàng Cầm.
Người dân Kinh Bắc đã coi sông Đuống là một dạng thức ‘thực thể”, là nguồn
gốc của sự sống, là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh
sôi nảy nở, của hình thức thanh khiết, tính hiền minh và tính khoan dung. Với Hoàng
Cầm nói riêng, ông coi sông Đuống là một vị thuốc, là gia vị, là đồ uống trường sinh bất
58
tử cho thơ. Đó cũng là một sinh thể biết yêu, hiểu được điều đó, Hoàng Cầm là người thơ
duy nhất đã xua tan đi nỗi cô quạnh ấy bằng một đám cưới có một không hai trong lịch
sử văn học Việt Nam hiện đại: đám cưới hai dòng sông (hai dòng nước) - sông Đuống và
sông Hương trong sự chứng kiến của người trai Kinh Bắc và ông già bến Ngự:
Người trai Kinh Bắc
Vằng vặc cô đơn
Đưa dòng sông Đuống
Vào cưới sông Hương.
Từ những biểu tượng văn hóa nông nghiệp từ cổ xưa, Hoàng Cầm cũng coi nước
là nguồn thụ tinh cho đất và sinh ra những cư dân trên mặt đất, từ đây chúng ta có thể
quay trở lại với những biểu tượng phân tâm học của nước, được coi là nguồn thụ tinh cho
tâm hồn: sông nhỏ, sông lớn, biển là hình tượng của đời người và của những biến động
của những ước muốn và những cảm xúc… Như vậy, ta thấy tác phẩm văn học không
tĩnh tại trên trang viết. Không phải lúc nhà văn đánh dấu chấm câu cuối cùng kết thúc tác
phẩm đồng nghĩa với việc đánh luôn dấu chấm hết cho vòng đời của tác phẩm ấy. Khi
tác phẩm rời thế giới bên trong của người nghệ sỹ để bước vào thế giới khách thể mới
thực sự bắt đầu cuộc sống của nó. Nó được vận động theo quỹ đạo riêng, có điều quỹ
đạo ấy chỉ được thực thi chừng nào nó nhận được một lực tác động từ phía bên ngoài.
Lực tác động ấy mang tên “sự đọc” - quá trình lấp đầy khoảng trống văn bản của độc giả.
Sông nước luôn chứa đựng biểu tượng văn hóa nghệ thuật tiềm tàng, tuỳ thuộc
vào phương thức miêu tả sông, thể hiện sông như thế nào trong mỗi câu thơ, bài thơ mà
sông có những khả năng biểu trưng hoá nghệ thuật khác nhau. Trong đời sống văn hóa
tinh thần của cư dân Kinh Bắc, sông ngòi mang vẻ đẹp cân xứng, hài hòa, người nghệ sĩ
đã tìm thấy trong vẻ đẹp sơn thủy hữu tình này một sự hòa nhập giữa "văn hóa sông" gắn
với "văn hóa núi" và tập tính sinh hoạt cộng đồng dân cư nơi đây. Sông ngòi Kinh Bắc
đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của thơ ca, nhạc họa, nhưng chỉ dưới ngòi bút của
Hoàng Cầm, dòng sông thi ca này mới được soi chiếu từ nhiều phía, nó chảy tràn trên
những trang thơ của thi nhân với nhiều dáng vẻ. Nơi đây, mỗi dòng sông không chỉ là
một thực thể vật chất hào phóng của thiên nhiên ban tặng, bồi đắp phù sa tạo nên vùng
đất phì nhiêu, màu mỡ mà còn là một trong những thành tố góp phần kiến tạo nên cái khí
thiêng "Kinh đô văn hóa" của người Việt. Tiêu Tương là một trong những dòng sông văn
hoá như vậy: Ngã ba sông chín hướng tình/ Về Kinh Bắc gặp rập rềnh Trương Chi (Ai
59
xui chắp mảnh xe hồng). Cơ sở hình thành biểu tượng sông trong thơ Hoàng Cầm chính
là sự liên tưởng từ một nét tương đồng nào đó giữa sông và đối tượng được biểu hiện.
Cũng thấy là nhà thơ có chú ý đến nghĩa vật thể của sông, nhưng chủ yếu là chú ý đến
nghĩa biểu trưng nghệ thuật của nó. Một ý nghĩa thẩm mỹ của sông được quy định bởi
một đặc tính tự nhiên nào có của chính nó (điều này không phải là ngoại lệ đối với các
hình tượng khác). Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa các ý nghĩa thẩm mỹ của sông và
điều đó tạo nên sự thống nhất về mặt ngữ nghĩa của hình tượng trong quá trình biểu
trưng hoá nghệ thuật.
Trong tác phẩm của mình, phải chăng vì đôi bờ sông Đuống chứa đựng quá nhiều
những di tích, chứng tích lịch sử, những huyền sử từ thuở hồng hoang, nơi chứng kiến
biết bao những thăng trầm của lịch sử quê hương, của dân tộc nên cái thế của sông
Đuống cũng bị nghiêng hơn trong dáng dấp của một sinh thể nghệ thuật, cái dáng đặc
biệt chỉ có ở trong tâm trí nhà thơ đất Kinh Bắc, để rồi thoát thai ra ngoài thành một thực
thể có hồn? Đó cũng chính là nét độc đáo riêng tạo nên một đặc điểm nghệ thuật đặc thù,
một biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa, làm nên cái hồn cốt riêng cho phong cách thơ
Hoàng Cầm thêm nhiều bản sắc.
Nhớ thi nhân và thi ca Hoàng Cầm ai chẳng muốn về những dòng sông Kinh Bắc
để được đắm mình trong chất men lấp lánh của những dòng chảy văn hoá ấy. Chất men
phù sa sông ấy kỳ thực là đắm đuối, mộng ảo, khao khát mang tên Hoàng Cầm luôn
được thăng hoa ở nhiều cung bậc trong hành trình đi tìm cái Đẹp, cái Thật, cái Thiện của
một đời thơ không mấy bằng phẳng. Nhà thơ đi tìm và tìm mãi suốt đời bằng sự trung
thực với bản ngã cá nhân để rồi dần dà tạo dựng nên một phong cách thơ riêng, thế giới
thơ riêng không giống ai. Đấy đích thực là Hoàng Cầm. Hoàng Cầm và thơ ông sẽ bất tử
với màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp, với từng khuôn mặt búp sen, những cô hàng
xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng, với mẹ già nua… Cái đẹp ấy đã từng được đặt
giữa bi thương dân tộc, đã bao phen đối chọi với súng đạn, máu lửa chiến tranh và kỳ
diệu thay nó được giữ vẹn nguyên từ thuở ấy đến giờ. Cái Đẹp ấy sinh sôi nảy nở tình
trong hồn thơ ông, cho ta một hình dung trữ tình cũng rất Đẹp về một thi bá đất Việt sinh
ra từ làng quê Song Hồ, Thuận Thành, Kinh Bắc.
Tiếp cận với thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm từ thụ động đến chủ động, từ ít
đến nhiều, từ nông đến sâu, từ giản đơn đến phức tạp, cũng không dễ thẩm thấu hết thơ
ông ở những Bên kia sông Đuống, Mưa Thuận Thành, Lá diêu bông, Về Kinh Bắc, 99
60
tình khúc… luôn mang cảm hứng dào dạt đam mê, chân thật và huyền ảo. Tổng thể
Hoàng Cầm, chính là cái thực và cái ảo, cái linh thiêng và huê tình trong lối thơ vừa
truyền thống vừa hiện đại cứ đan xen trộn lẫn vào nhau, tỏ tỏ mờ mờ, lúng liếng lung
linh, sâu xa thăm thẳm một cách khéo léo, nhuần nhụy, bất ngờ và rất đỗi tài hoa trong sự
mới mẻ ấy. Hoàng Cầm đích thực là một điển hình sinh động về người nghệ sĩ lao động
trong việc sáng tạo thi ca. Ở ông có sự hội tụ xưa - nay, cũ - mới, chính trị mà lãng mạn,
lãng mạn mà chính trị và xuyên suốt bao trùm các tác phẩm của Hoàng Cầm vẫn là tình
yêu quê hương đất nước, dân tộc, tình yêu văn hóa, thiên nhiên, con người thật đằm thắm
sâu sắc tới khôn cùng.
Từ thiên nhiên với hệ thống sông nước, Hoàng Cầm đã xây dựng thành những
bức tranh nghệ thuật khá đa dạng, phản ánh nhận thức và thái độ thẩm mỹ của người
Kinh Bắc. Đặc điểm này tạo nên tính địa phương của thơ ca viết về Kinh Bắc, qua đó
góp phần làm phong phú thêm cho tiến trình phát triển chung của thơ ca Việt Nam hiện
đại và đặc điểm riêng của nghệ thuật thơ Hoàng Cầm.
Đến nay, Hoàng Cầm đã sang đò nhưng mạch nguồn dòng sông không vơi cạn.
Con sông thơ Hoàng Cầm bắt nguồn từ vùng Kinh Bắc thiêng liêng trong chiều sâu văn
hóa và rất đỗi huê tình, rình rang… qua những mưa nắng, thăng trầm mà vẫn dìu dặt
chảy tràn cùng dân tộc. Có một Hoàng Cầm thi sĩ của dân tộc nặng lòng yêu quê hương
đất nước, lại có một Hoàng Cầm thi sĩ của tình yêu đôi lứa đầy đắm say và mộng mị
với những ẩn ức vẫn còn nén nghẹn búp xuân xanh. Ông ra đi, để lại cho ta những ám
ảnh thi ca huyền bí. Tiếc thương, đương nhiên rồi nhưng điều làm ta quan tâm hơn
không gì khác là sự đánh giá xứng đáng những đóng góp của Hoàng Cầm với nền thơ
ca Việt Nam. Trước và nay, trong tư cách của một công dân, một chiến sĩ, một con
người, một thi sĩ - Hoàng Cầm đã tưới những đường mưa thơ trên quê hương, trên các
trang thơ. Cơn mưa bước ra từ ngõ thơ ông, ngõ ngách thôn xóm quê ông, mang nét
buồn khôi nguyên đằng đẵng để rồi mưa thơ giăng rải trên các dòng sông Kinh Bắc, âu
cũng là một dáng nét của màu dân tộc, xứ sở và hình như trên con đường tới cõi thiên
thu đang vọng về nụ cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh trong hồn người yêu quý
và trân trọng thơ ông.
Có thể nói, hệ thống sông ngòi Kinh Bắc đã tạo nên một thế giới phù sa màu mỡ
nâng đỡ cho những giá trị văn hoá, lịch sử đặc biệt của vùng quê văn hiến này để nó phát
61
triển, giao thoa, và cũng đã kịp neo lại tên tuổi của mình trong dòng chảy chung của văn
hoá dân tộc, tạo nên một dấu ấn riêng biệt của văn hoá sông nước miền Kinh Bắc.
2.2.2. Biểu tượng núi, đồi
Biểu tượng nghệ thuật là một dạng mã hóa những cảm xúc, tư tưởng của người
nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Biểu tượng còn bộc lộ cá tính sáng tạo, phong cách tác giả,
khuynh hướng văn học và cả đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền văn hóa. Nghiên
cứu tác phẩm từ góc độ biểu tượng văn hóa do đó đã và đang thu hút sự quan tâm của
nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật. Hoàng Cầm được coi là nhà thơ của văn hóa
Kinh Bắc. Trong thơ ông, không gian văn hóa hiện ra những cây cỏ, hoa lá, đình chùa,
con người, sông, núi và vạn vật mang bản sắc vùng miền, những hình ảnh trên xuất hiện
với tần số cao, mang nhiều giá trị tượng trưng và trở thành chiếc khóa mã hóa thế giới
nghệ thuật của nhà thơ.
Trong thơ Hoàng Cầm, núi, đồi có khi hiện lên như một chỉnh thể: núi Thiên
Thai, đồi Lim. Có thể thấy, núi, đồi không chỉ là mô típ thơ khá độc đáo và có sức rung
động mãnh liệt, có năng lực tạo tượng miêu tả mà còn là một phương tiện trữ tình, một
công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm của Hoàng Cầm. Nghiên cứu về biểu tượng này ta
thấy, trong nỗi nhớ khắc khoải, trong niềm hoài niệm tha thiết của người con viết về quê
hương, hình ảnh núi, đồi hiện lên thật thân thương, thanh bình và thơ mộng với vẻ đẹp
như từ trong cổ tích. Ở đó chứa đựng một khoảng không gian, thời gian ngăn cách nhưng
thật gần gũi, một khoảng không gian cổ kính nhưng rất đỗi quen thuộc, thân thương, vừa
thực vừa ảo. Nghĩa là một khoảng không gian mang đầy đủ sự liên hệ của làng quê Việt
Nam tự nghìn đời. Trên cái nền không gian ấy, nhà thơ khắc họa sâu sắc những cảnh
sinh hoạt, đôi khi là những số phận, tính cách và vẻ đẹp tâm hồn của những người dân
quê bình dị. Như vậy, tiến hành đi sâu phá và nghiên cứu về biểu tượng này, có thể thấy
được tài năng nghệ thuật, sở trường cũng như phần nào cho thấy diện mạo bức tranh làng
quê Việt Nam, đặc biệt là không gian vùng quê, vùng đất thiêng Kinh Bắc với những
cuộc đời, số phận, những cuộc tình duyên, những oan trái của kiếp người…
Núi đồi Kinh Bắc không nhiều, nhưng đồi Lim và núi Thiên Thai là các biểu
tượng tiêu biểu trong thơ Hoàng Cầm về thiên nhiên, văn hoá, tình yêu, tình người
Kinh Bắc, đặc biệt là nó gắn với không gian thiêng liêng của đình, chùa, miếu, đền
thờ… nơi đây để toả ánh sáng linh thiêng. Hình như không còn thiếu một ngôi chùa,
mái đình nào của Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm mà tách rời khỏi sông, núi: chùa
62
Dâu, Bút Tháp, Pháp Môn, Phật Tích, Đền tám vua triều Lý, Đền Cổ Loa, Miếu Hai
Cô, Đình Lim, Đình Bảng…
Ở Việt Nam, sự gắn bó thiết thân máu thịt tình sông - núi với con người là vô
cùng sâu nặng. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết lấy thế núi - đồi làm lũy thành, phên dậu mà
giữ gìn lấy đất đai Tổ quốc. Những ải Chi Lăng, đèo Mã Phục, dải Hoàng Liên, Trường
Sơn... từng âm vang chiến thắng thời trận mạc cùng dân tộc. Bao ngọn núi quê hương
dâng tảng ngực trần uy nghiêm, bền gan, kiêu dũng che bom, đỡ đạn, ngăn chặn bão
dông. Dựa vào thế núi mà giữ đất. Và núi đã được ông cha ta dùng trong nghĩa núi sông
còn là do nghĩa vậy chăng?
Thơ Hoàng Cầm khởi dựng một không gian địa lý vùng Kinh Bắc. Nhưng đây
không phải không gian địa lý thuần tuý, mà đã phản chiếu những đặc trưng của một
không gian văn hoá, không gian xã hội, không gian tinh thần, không gian tâm linh…
quanh những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi thân thương ấy, đồng thời cũng phản
ánh đầy đủ sinh hoạt cộng đồng mang đậm dấu tích lịch sử, phong tục tập quán của
vùng quê này.
Cùng với hệ thống sông ngòi uốn lượn quanh co kỳ thú, hệ thống núi và đồi nơi
đây cũng tạo nên những vẻ đẹp rất phong tình, diễm lệ cho vùng quê quan họ huê tình...
Theo thống kê của chúng tôi, có hơn 40 lần Hoàng Cầm nhắc tới hình ảnh núi và đồi
Kinh Bắc. Và trong cách cảm nhận hình ảnh núi đồi ở đây, chúng tôi thấy có sự khác biệt
với sự cảm nhận về hệ thống núi, đồi trong thơ ca các dân tộc thiểu số. Thơ ca dân tộc
thiểu số nhắc tới hệ thống núi và đồi với vẻ đẹp thuần túy của thiên nhiên ban tặng với
những đại ngàn rừng cây bao phủ hoặc những câu chuyện tình lãng mạn, hoặc gắn với
những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, non sông. Ở đó, tình cảm con người gắn liền với
rừng cây, sông suối, gắn liền với những sinh hoạt cộng đồng với bản sắc văn hóa cố hữu.
Đến với thế giới thiên nhiên núi đồi Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm ta nhận thấy dường
như hệ thống núi, đồi nào ở đây cũng đẹp, thơ mộng, hữu tình, gắn với những huyền tích
dân gian, huyền sử, lịch sử văn hoá lâu đời của quê hương như: núi Neo, núi Dạm, núi
Tiêu, núi Chè, núi Phượng Hoàng, núi Cô Tiên, núi Thiên Thai, đồi Lim... đã trở thành
các thi liệu chủ yếu và đi vào thế giới thơ Hoàng Cầm như những câu chuyện cổ tích đầy
hấp dẫn và nhuốm đậm sắc màu huyền sử mà nên thơ, hoặc gắn với những cuộc hành
quân dã ngoại của các đơn vị chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của
dân tộc. Đặc biệt núi Thiên Thai được coi là biểu tượng văn hóa núi Kinh Bắc, đồng thời
63
tạo cảm hứng sáng tác nghệ thuật cho nhiều thế hệ các nghệ sĩ và thi sĩ của vùng Kinh
Bắc. Đó là một vùng thẩm mỹ lớn cho các nhà thơ Việt Nam, trong đó có nhà thơ Hoàng
Cầm thể hiện cảm xúc của mình.
Khai thác luận điểm này, chúng tôi đi vào những yếu tố mang tính thiêng về mặt
tâm linh, tính lịch sử văn hoá gắn với đình, chùa hoặc những sinh hoạt văn hoá mang tính
đặc thù đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp huyền thoại, lung linh sắc màu của huyền sử.
Qua đó tạo ra mối liên hệ giữa các biểu tượng trên với nhau, bởi “Trước hết cần phải nói
một điều rằng, ý nghĩa của biểu tượng núi có nhiều mặt, vừa là chiều cao, vừa là điểm
trung tâm. Núi tham gia vào hệ biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm, gắn với tính cách
là trung tâm của những hiện tượng hiển linh trong khí quyển và rất nhiều sự tích thần
hiện, núi là biểu tượng của cái bản thể biểu hiện. Như vậy núi là nơi “Trời đất gặp nhau”,
là nơi ở của thánh thần và là điểm cuối của con đường đi lên của con người. Là trung tâm
của thế giới. Mọi nước, mọi dân tộc đều có ngọn núi thiêng của mình” [17, tr.701].
Ở vùng Kinh Bắc, núi Thiên Thai được coi là một ngọn núi thiêng, do đó nó được
nhắc nhiều trong văn học nghệ thuật, trong các làn điệu dân ca quan họ, ca dao ... như
trong dân ca quan họ: Trèo lên trên núi Thiên Thai, thấy chim Loan Phượng ăn xoài bể
Đông. Từ xa nhìn tới, dãy núi Thiên Thai mờ xanh có hai ngọn cao vồng lên như một
con thuyền giương cánh buồm ung dung trôi trên biển lúa. Trong tâm thức người Kinh
Bắc và người dân Việt, núi Thiên Thai là biểu tượng của chốn thần tiên, là nơi ở của linh
hồn, là lâu đài của nội tâm. Nơi thiên đường đầy hoa thơm cỏ lạ trong không khí liêu trai.
Nơi con người khát khao được đến! Từ thực tế của thiên nhiên ban tặng cùng những
huyền tích lịch sử dân gian, núi Thiên Thai đã mang tới cho văn học dân gian vùng Kinh
Bắc nhiều câu chuyện kể hấp dẫn, thú vị về Từ Thức gặp tiên, nơi đây sau này còn có
ngôi chùa cổ thờ Thái sư Lê Văn Thịnh. Cũng chính từ câu chuyện này mà núi ấy càng
trở nên thu hút sự quan tâm tìm hiểu của thi ca, nhạc họa, văn hóa, lịch sử. Cảnh sắc
thiên nhiên nơi đây cũng nhuộm màu lãng mạn không kém phần thơ mộng, nhất là vào
dịp cuối thu, màu nắng vàng như một chiếc khăn voan màu vàng nhạt trùm lên núi non,
làng xóm, ruộng đồng tạo nên một nét đẹp kỳ vĩ, hùng vĩ và kỳ diệu gợi không khí liêu
trai một thời. Thiên Thai đã trở thành điểm tựa vật chất, tinh thần cho bao thế hệ con
người, trở thành đề tài cho những cây bút làm nên những áng thơ, văn, lời ca, thêu dệt, tô
điểm cho hình bóng Thiên Thai in đậm vào tâm hồn mỗi người dân cho dù họ chưa một
lần tới được nơi đây. Với mỗi người dân Kinh Bắc, Thiên Thai là ngọn núi thiêng, là nơi
64
để các thánh thần lưu trú. Còn với Hoàng Cầm, cùng với Nham Biền, Cô Tiên thì ông
coi đây như là phương tiện để thế giới thơ ông bước vào xác lập quan hệ với thần tiên,
trở về với khởi nguyên (núi Thiên Thai là nơi người đi lên trời thành tiên và là nơi tiên
trở về, núi Nham Biền là nơi tiên về tắm, núi Cô Tiên là nơi tiên về ngủ), do đó biểu
tượng núi trong thơ Hoàng Cầm vừa mang tính thiêng, mỗi ngọn núi (như đã kể ở trên) ở
Kinh Bắc đều tượng trưng cho một sự hiển linh. Và bên cạnh sự linh thiêng ấy, nhà thơ
không quên thơ mộng hóa trong cái huê tình của gái quê Kinh Bắc thấp thoáng ẩn hiện đi
lại đó đây. Trong bài thơ Bên kia sông Đuống, nhà thơ Hoàng Cầm viết: Ai về bên kia
sông Ðuống/ Có nhớ từng khuôn mặt búp sen/ Những cô hàng xén răng đen/ Cười như
mùa thu toả nắng…/ … Ai về bên kia sông Đuống/ Cho ta gửi tấm the đen/ Mấy trăm
năm thấp thoáng mộng bình yên/ Những hội hè đình đám/ Trên núi Thiên Thai/ Trong
chùa Bút Tháp/ Giữa huyện Lang Tài ... là một ví dụ cụ thể. Từ những cánh đồng chiều
Kinh Bắc, từ những sông ngòi, núi đồi Kinh Bắc, từ thời gian đến không gian trong thơ
Hoàng Cầm đều gợi lên những nét đẹp văn hoá với những dấu ấn khó quên. Và ở đó,
những nơi ấy, đâu đâu ta cũng thấy bảng lảng bóng hình người con gái đi ra từ cội nguồn
văn hoá Luy Lâu tình tứ, duyên dáng cùng với những sắc điệu dân ca bay bổng khiến
lòng người phải say đắm khôn nguôi.
Theo ông Trần Quốc Thịnh - nhà nghiên cứu văn hoá dân gian xứ Bắc, năm nay
(2013) 79 tuổi, là nhân chứng sống suốt từ hơn nửa thế kỷ trước cho tới nay, hầu như tất
cả những cuốn sách lịch sử, dã sử, những bài thơ, lời ca về Thiên Thai ông đều nhớ
được. Ông kể về dải núi này với niềm tự hào, say mê: Cả dãy núi kia mang hình dáng
một con rồng có đủ chín khúc gắn với chín ngọn núi nối tiếp nhau nằm trải dài bên bờ
sông Đuống. Trái núi Thiên Thai được gọi là đầu rồng. Đây là nơi đã sinh ra vị danh
nhân đất nước đó là Thái sư Lê Văn Thịnh. Ngày xưa rừng thông phủ kín núi, trên đỉnh
ngọn Thiên Thai có một ngôi chùa cổ trăm gian và một vườn hồng đào, đây là một giống
đào đặc biệt, hoa nở thành từng chùm buông xuống như những chiếc đuôi cáo nên mới
có cái tên là Hồng Đào. Điều đó cho thấy Thiên Thai là một không gian văn hóa tiêu
biểu của Kinh Bắc trong sáng tác thơ và nhạc.
Cùng với hệ thống núi đồi Kinh Bắc, núi Neo ở Yên Dũng cũng được coi là một
dãy núi có nhiều truyền thuyết với 99 ngọn gắn với 99 con chim Phượng Hoàng về đây
tìm đất đế đô. Đến thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, núi Neo cũng được Hoàng
Cầm nhắc đến với bao kỷ niệm khó quên cùng những cuộc hành quân dã ngoại để biểu
65
diễn văn nghệ phục vụ các đơn vị kháng chiến ở vùng quê Yên Dũng. Nhà thơ Hoàng
Cầm từng ở vùng quê này đến gần một tháng, do vậy những cảnh quan thơ mộng nơi đây
đã nhập vào hồn thơ thi sĩ tự lúc nào không rõ: Chèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo….
Và phải chăng cảm hứng về cây Cỏ Bồng Thi trong một cuộc tình lỡ dở của nhà thơ phải
chăng cũng xuất phát từ chính nơi đây? Núi Neo - Nham Biền cũng được coi là biểu
tượng của truyền thuyết linh thiêng đất Kinh Bắc, gắn với sự tích Vua Bà (Cái tên núi
Vua Bà có từ bao giờ, chẳng ai rõ được, chỉ biết rằng người Việt xưa và cả ngày nay có
tục thờ mẫu - mẫu lớn nhất là mẫu mẹ Âu Cơ, bà mẹ sinh ra trăm người con. Người con
cả được tôn xưng là Hùng Vương dựng lên nước Văn Lang. Ấy là tổ nước ta vậy, việc
vua Hùng tìm đất dựng kinh đô đều gắn với truyền tích 100 con phượng hoàng, hoặc 100
cây thông, 100 con voi. Nơi nào được coi là vùng đất linh thiêng, linh khí của đất trời tụ
lại thì 100 con chim phượng đậu ở đó…. Núi Nham Biền chỉ có 99 ngọn, thế là 1 con
không có chỗ đậu, nên cả đàn đành bay đi. Tuy không phải là vùng đất đóng đô được
nhưng đó cũng là nơi đất quí. Có thể cái tên Vua Bà bắt nguồn từ tục thờ mẫu ấy). Như
thế, cùng với núi Thiên Thai, núi Neo - Nham Biền cũng là một trong những biểu tượng
của văn hóa dân gian vùng Kinh Bắc quê ông.
Nhà thơ Hoàng Cầm còn để lại bao dư vang nghệ thuật đối với hình ảnh của
những người nông dân gắn với những công việc lao động ruộng vườn, những sinh hoạt
văn hoá dân gian dưới chân núi Neo, núi Cô Tiên (Yên Dũng), núi Dạm (Quế Võ) và
những ngôi làng quanh ngọn đồi có ngôi chùa Bổ Đà (Việt Yên)…
Bên cạnh những ngọn núi linh thiêng kỳ ảo và thơ mộng, Kinh Bắc còn có những
ngọn đồi mang dấu ấn lịch sử lâu đời, gắn với những sinh hoạt văn hóa của người dân
nơi đây. Đó là đồi Lim - biểu tượng của sân khấu dân ca quan họ Kinh Bắc. Nằm giữa
một cánh đồng bằng phẳng, phì nhiêu, từ cõi hỗn mang, đồi Lim bỗng nhú lên như một
sự sáng tạo của thế giới ban tặng cho nhân dân nơi đây. Tuy nó không có được cái
hùng vĩ, uy nghi của núi, nhưng nó đã đánh dấu bước đầu của sự nảy sinh và phân hóa
tư duy trong cái thiêng của nền văn hóa Quan họ Kinh Bắc. Đồi Lim đã trở thành nơi
hẹn hò của bao cặp hát, của bao bọn hát trong những canh hát ngắn, dài. Nam thanh nữ
tú thì say mê bỏ nhà, bỏ cửa, ngày đêm đi tìm cho bằng được người bạn hát để “thử
giọng” trong cả một rừng người trên đồi Lim ấy. Thơ Hoàng Cầm không thể thiếu đồi
Lim, càng không thể thiếu quan họ. Ông đã nhập hai thành một để dựng lên chính cái
biểu tượng của văn hóa Kinh Bắc, đồng thời cũng nói lên được cái đặc trưng của văn
66
hóa tìm bạn trong ngày hội này: Đồi Lim bốc lên với cả rừng người/ Lượn tròn trong
gió tiếng hát tiếng cười/ Vang vang điện đài thế giới…/ Người đóng băng đi tìm mặt
trời le lói/ Chợt nghe lửa mắt người trai sông Cầu…. Nhắc đến đồi Lim là nói đến loại
hình sinh hoạt văn hóa quan họ và ngược lại, hễ nhắc đến hát Quan họ là nhắc đến đồi
Lim với Hội Lim.
Lâu đài thơ kỳ ảo của Hoàng Cầm đẹp trong sóng mắt sông Cầu, sông Đuống,
trong mây ráng Luy lâu, Thiên Thai, Phật Tích, chùa Dâu, Vân Hà, Yên Dũng… rồi
những tên làng, tên hội, tên người, tên núi, tên đồi có thật của vùng văn hoá Kinh Bắc và
cả những cái tên ông tạo ra (như miếu Hai cô) đều rất sâu lắng trong hồn quê Việt, như
một lời khẳng định vĩnh cửu, trường tồn với thời gian. Lịch sử đất và người, văn hoá và
văn hiến Kinh Bắc vốn đã lâu đời truyền thống, trải dài hơn 4000 năm, nay được thi sĩ
Hoàng Cầm chưng cất trong hồn thơ Kinh Bắc qua việc phản ánh tinh thần, tình cảm của
mình lại càng đưa ta về với tiềm thức dân tộc của chính uyên nguyên bản ngã mình. Thơ
ông sừng sững như một trái núi khổng lồ với rừng cây rậm rạp phủ quanh còn xanh tươi,
với nền văn hóa lâu đời sống mãi và ngày càng có sức lan toả trong lòng độc giả âu cũng
không có gì là khó hiểu.
2.2.3. Biểu tượng lá, cỏ, quả
Trong nguồn thi liệu và thi đề của thơ ca Việt Nam, thế giới thực vật luôn có
những đóng góp đáng kể cho sáng tác thơ ca: các loại cây tre, xoan, trầu, cau... Vốn dĩ là
những loài cây quen thuộc của làng quê từ bao đời, được các thi nhân thụ cảm như một
đối tượng thẩm mỹ riêng biệt về tình yêu quê hương, văn hóa và con người Việt Nam.
Theo quan niệm của dân gian, trong quá trình hình thành và phát triển nền văn
hóa, việc sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người.
Với người Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên
lại càng dài lâu và bền chặt, hệ thực vật trong tư duy dân gian người Việt luôn gắn liền
với các biểu tượng về tín ngưỡng thờ cúng, sùng bái. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều
yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng
hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần, tính chất âm tính của văn hóa
nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm,
trọng phụ nữ.
Theo đó, biểu tượng là những hình ảnh cụ thể của vật thể và hiện tượng thế giới
bên ngoài và các tính chất của chúng xuất hiện trong ý thức con người mà không có sự
67
trực tiếp tác động của kích thích bên ngoài lên các cơ quan cảm thụ con người đó… Vậy
biểu tượng là yếu tố quan trọng hợp thành các rung động, cảm xúc, phương tiện có hiệu
lực để điều khiển các trạng thái cảm xúc con người. Biểu tượng có nhiều loại: biểu tượng
thị giác, biểu tượng thính giác, biểu tượng xúc giác, biểu tượng khứu giác, biểu tượng
vận động. Trong sáng tác thơ ca thì biểu tượng nên thơ được coi là một biểu tượng có
hình tượng bởi vì biểu tượng nên thơ không phải phơi bày trước mắt ta bản chất trừu
tượng của cái hiện thực cụ thể.
Như vậy, có thể thấy, bản chất của biểu tượng nghệ thuật là mang tính thẩm mỹ,
gắn liền với tư tưởng, tình cảm, tài năng cá tính sáng tạo ở nhà thơ. Vì lẽ đó, chỉ có
những hình ảnh nào chứa đựng trong nó những đặc tính một hình tượng thi ca, nghĩa là
nó cho phép ta nhận ra khái niệm của sự vật một cách cụ thể sinh động, khơi gợi trí
tưởng tượng, đánh thức cả một thế giới tinh thần ở người đọc mới được xem là một biểu
tượng nghệ thuật. Biểu tượng mang sắc thái riêng từng nhà thơ mà ngay từ đầu đã có
chiều hướng quyết định đến cách chọn hình ảnh, tứ thơ. Nhà thơ ở nhà máy hay ở làng
quê, nhà thơ ở miền núi hay ở miền biển - đều mang dấu ấn biểu tượng nhất định. Đối
với từng nhà thơ, biểu tượng thời thơ ấu khá quan trọng và nó cũng giữ lâu trong tâm hồn
nhà thơ. Như Bàng Bá Lân với chiếc cổng làng, Tế Hanh với biểu tượng sông nước; biểu
tượng trăng hiện lên trong thơ Bác; biểu tượng con đường trong thơ Tố Hữu; biểu tượng
về người lái tàu trong thơ Sóng Hồng; biểu tượng ngọn đèn trong thơ Chính Hữu; biểu
tượng con nai vàng trong thơ Lưu Trọng Lư; biểu tượng chợ trong thơ Anh Thơ… Với
mỗi vùng văn học, các nhà thơ, nhà văn đều có biểu tượng riêng. Các biểu tượng ấy cơ
bản đã được định hình trong quá trình phát triển lâu dài của truyền thống văn học, văn
hóa, mà ít sáng tạo ra những biểu tượng mới. Tuy nhiên, việc tạo dựng lên những biểu
tượng mới như trong thơ Hoàng Cầm (ở đây, chúng tôi nói tới biểu tượng lá, cỏ, quả) thì
quả thực không phải là nhà thơ nào cũng có được. Và, với Hoàng Cầm, ông dựng lên
biểu tượng lá, cỏ, quả không phải là để theo tín ngưỡng thờ cúng trong văn hóa nông
nghiệp của người Việt, mà để nhằm nói về biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Các biểu
tượng về tình yêu đôi lứa trong thơ ông phát triển phong phú theo cuộc đời con người,
theo các chuyến đi, quá trình quan sát, theo tuổi đời, theo thời gian mà định hình nên cá
tính yêu của ông. Các biểu tượng đó sẽ được in dấu ấn vào hành trình thơ Hoàng Cầm và
trở thành tài sản chung cho loại hình nghệ thuật thơ ca về sau.
68
Trong quan niệm của người Việt Nam thì cây, lá, quả, cỏ... nằm trong hệ thực vật,
là những thứ luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt thuần nông, gắn với cách cảm, cách
nghĩ về một nền nông nghiệp cổ truyền lấy nghề nông làm nghề gốc: Lúa non phấp phới
đầu bờ/ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên (ca dao). Nhìn vào sắc màu, sự phát triển của
cây cối mà biết được, đo được về thời gian, thời tiết. Vậy cây, lá, quả, cỏ trước hết nó
thuộc hệ biểu tượng về đất đai nông nghiệp. Đó là sự kết nối, giao hòa giữa thiên - địa và
được xem như là cội nguồn của sự sống. Nhưng đi vào trong thế giới thi ca, qua quá trình
xử lý "dữ liệu" của nhà thơ thì nó lại trở thành những biểu tượng mang giá trị nghệ thuật
ở một tầng bậc ý nghĩa khác nhau, nói cách khác nó biểu tượng cho một ý đồ nghệ thuật
riêng của tác giả. Bởi người nghệ sỹ sáng tạo ra tác phẩm trước hết là cắt nghĩa hình
tượng sự việc để nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, sau đó mới gửi gắm
những tâm sự của mình. Trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, thi sĩ Hoàng Cầm cũng gửi
gắm tình cảm, tình yêu của mình một phần qua hệ thống biểu tượng như thế.
Có thể nói Hoàng Cầm là nhà thơ đã tạo ra nhiều tín hiệu nghệ thuật mà trước hết
đó là những tín hiệu thẩm mỹ mang chủ tính riêng biệt, biểu tượng cho một tình yêu
trong ông: tình yêu quê hương đất nước luôn xót xa cay đắng và một tình yêu đôi lứa với
những khối u tình nhiều khi như còn đang khắc khoải, uất nghẹn trong trái tim. Cách thể
hiện tình yêu trong ông không giống với các nhà thơ hiện đại Việt Nam khác, Hoàng
Cầm đã tạo lên một thế giới tình yêu lạ lùng, huyền diệu và đầy bí ẩn từ những: lá Diêu
Bông, lá lan đao, cỏ bồng thi, lá trường sinh, cỏ Thiên Đồng, lá đài bi, lá bẽ bàng. Đó là
những tín hiệu thẩm mĩ, những biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa đã nhập vào trong
điệu hồn thơ ông, mà trước hết đó là biểu tượng của cái đẹp để nhà thơ bước vào một cõi
thơ đầy bí ẩn, siêu thực, vô lý, với những hình ảnh thơ không dễ gì nắm bắt được bằng tư
duy lôgíc thông thường, mà phải đặt nó trong mối quan hệ với một trường văn hóa thẩm
mỹ riêng của vùng miền, của nhà thơ mới mong một sự giải mã nghệ thuật.
Trong thơ văn cổ, nếu như Tùng - Trúc - Cúc - Mai được coi là bộ tranh tứ bình
biểu tượng cho bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, thì đến thơ hiện đại Việt Nam ta cũng
thấy có một bộ tranh đặc sắc trong các thi phẩm của Hoàng Cầm với những: Lá - Cỏ -
Quả (Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng Thi, Quả Vườn Ổi,...), những tín hiệu nghệ thuật thơ
được bật ra từ cõi mơ, từ vô thức, từ hư không mang biểu tượng cho khát vọng tình yêu
da diết, ám ảnh. Những tín hiệu ấy cứ ẩn hiện chập chờn, mơ màng, thức- tỉnh trong suốt
quá trình sáng tác, tưởng chừng như vô nghĩa, thông thường nhưng lại tạo nên một sự
69
liên tưởng diệu kỳ trong trường liên tưởng mối tình yêu - Hoàng Cầm. Nếu xét kỹ ta
thấy, đó là những hình ảnh thơ nghĩa đen không có mà nghĩa bóng cũng không rõ, cứ
phiêu diêu, mơ hồ ảo ảnh, bởi dường như lời thơ là lời của người trong mộng báo về:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng
Chị thẩn thơ đi tìm
Đồng chiều
Cuống rạ (Lá Diêu Bông).
Sáng tác được một hình ảnh thơ như thế, hẳn nhà thơ phải bước vào một thế giới
không thuộc về hiện thực, là thế giới của tiềm thức, vô thức và bật được ra những ý thơ,
lời thơ mà Hoàng Cầm gọi đó là "Thần tự" và "nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi" [14,
tr.211]. Phải chăng vì thế mà chúng đều là biểu tượng của cái đẹp, cái đẹp trong mối
quan hệ giữa thực và hư. Hành trình đi tìm Lá diêu bông, Cỏ bồng thi, Quả vườn ổi là đi
tìm cái đẹp trong cõi phiêu diêu, mơ hồ, mông lung và mãi mãi vẫn chỉ là một khối cô
đơn lẽo đẽo bụi hồng của thi nhân?
Trên phương diện này, chúng tôi tìm hiểu bình diện con người tâm linh từ hai
nhân vật Chị - Em gắn với biểu tượng thực vật xuyên qua những tháng năm mộng ảo của
vùng Kinh Bắc diễm lệ, đa tình với những cảm xúc như vượt qua khỏi sự kiểm soát của
lý trí (theo khảo sát của chúng tôi trong thơ Hoàng Cầm, cặp xưng hô Chị - Em chiếm vị
trí chủ đạo: Mưa Thuận Thành có 21/33 bài thơ, 99 tình khúc có 82/99 bài thơ, Về
Kinh Bắc chiếm phần lớn).
Mối tình Chị - Em trong Lá Diêu Bông được nhà thơ “ép sống” trong thời gian
của tâm thức cô liêu, của khát vọng ảo ảnh mơ hồ, của tư duy sáng tạo vô thức để đến
khi ra đời nó là một biểu tượng bất tử của mối tình hư ảo:
Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...
... Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.
Nhà thơ đã kết hợp khả năng của giấc mơ và khả năng tư duy vô thức để tạo ra
các liên kết giữa các ký ức đã ghi nhớ, được chọn lọc và kích thích chúng hoạt động để
thực hiện sự nhận thức về thế giới xung quanh, định hướng cho hành vi phù hợp với môi
trường sống. Ở đây là tâm tình của chàng trai đa tình Hoàng Cầm năm 12 tuổi với người
gái láng giềng hơn những 8 tuổi ấy giống như một câu chuyện cổ tích - Cổ tích Hoàng
Cầm, cổ tích Lá Diêu Bông. Cổ Tích về một mối tình tuổi thơ thật đẹp, thật ngọt ngào ấy
đã làm cho cậu bé cả cuộc đời đi đầu non cuối bể để tìm lá nhưng kết quả đem lại chỉ là
70
sự Cơ hàn của một quá trình, một chu trình hoàn tất, tính toàn thể của sự sống con người
(nhân sinh thất thập cổ lai hy) mà ông đã gửi lại trong Tinh anh thể phách:
người ngang té nhào
uống vào như chơi
Bẩy mươi rồi vẫn cơ hàn, thẫn thờ phố dọc Tám mươi khát cả lưỡi dao sắc như nước loáng Chín mươi... dẫu đến mười mươi khát thương em quá Khóc thôi một mình.
Lá - ở đây là biểu tượng của hạnh phúc và sự phồn vinh, nhưng lá đã không tìm
thấy, tình yêu từ chiếc lá ấy cũng không có được, tình yêu ấy chỉ tồn tại trong một giấc
mơ thơ, giấc mơ của một thời qúa vãng cứ chập chùng ẩn hiện đẹp đẽ, sang trọng, linh
thiêng mà xa vời như chiếc Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng kia. Ký ức ấy đã in
quá sâu trong tâm thức nhà thơ, để mỗi khi hiện về nó lại đọng thành hình, thành khối.
Người con gái cứ lúng la lúng liếng, nửa nhìn nửa liếc, kín kín, hở hở vậy thôi và để đó,
làm cho cây còn bật rễ lật nhào huống chi chàng trai Hoàng Cầm đa tình đến vậy ? Có
thể nói đây là một trong 5 mối tình lạ lùng nhất trong thơ ông, là mối tình đầu đời ám ảnh
nhất của ông, là giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng là vị thuốc Hoàng Cầm đắng chát trong
đời khi ông choàng tỉnh giấc mà dư âm để lại của nó là những vần thơ hết sức lạ kỳ từ
trong vô thức, lạ kỳ như giấc mơ của cậu bé mơ mộng tuổi 12. Mơ mộng quá nên cậu bé
cứ đi tìm lá:
Lần 1: Hai ngày sau em tìm thấy lá
Lần 2: Mùa đông sau em tìm thấy lá
Lần 3: Ngày cưới chị em tìm thấy lá
Lần 4: Vẫn mải miết đi tìm cho đến khi: Chị ba con em tìm thấy lá.
Bốn lần tìm thấy lá nhưng bốn lần chị đều phủ nhận sạch trơn bởi một tín hiệu giao
tiếp bằng mắt (eye contact):
Lần 1: Chị chau mày/ đâu phải lá Diêu Bông
Lần 2: Chị lắc đầu / trông nắng vãn bên sông
Lần 3: Chị cười/ xe chỉ ấm trôn kim
Lần 4: Xòe tay phủ mặt/ Chị không nhìn
71
Sự thay đổi dần sắc thái trong câu trả lời của Chị mỗi lần nhìn lá đã thay lời giải
mật mã Diêu Bông. Nghệ thuật chối từ của người chị được nhà thơ diễn tả hết sức tinh tế,
mặc dù nỗi đau xé lòng của chị cứ tăng dần dần. Nhưng chị khó nói với em một lời.
Ngôn ngữ thể hiện trong thơ ông vì thế cứ mơ hồ, chỉ có thể thấy hay, mà khó có thể cắt
nghĩa, lý giải. Ngôn ngữ ấy bắt nguồn từ sự am hiểu văn hóa, từ chiều sâu của cảm thức
tư duy lưỡng phân trong chốn tâm hồn và từ sự từng trải lịch lãm của con người tác giả.
Để hiểu được câu trả lời của Chị, Em phải nắm bắt bằng một tín hiệu “mắt” và càng bắt
bằng tín hiệu “mắt” ấy thì Em càng thấy yêu Chị, say mê, sy mê Chị. Si mê đến nỗi đau
đớn để rồi chìm vào cõi lạc lõng bơ vơ:
Từ thủa ấy
Em cầm chiếc lá
Đi đầu non cuối bể.
Và lắng nghe tiếng Gió quê vi vút gọi nơi đồng chiều ấy cứ ngân vang mãi
khúc ca:
Diêu Bông hời...
... ới Diêu Bông...!.
Hoàng Cầm đã làm cho không gian hóa thời gian, khoảng cách thời gian là
khoảng cách của các dòng thơ, câu thơ cứ trôi tuột một cách vu vơ mơ hồ, mải miết, phi
lôgíc, siêu thực với các khoảng trống của tư duy để tạo nên một siêu hình ảnh thơ. Tiếng
của chị hay là lời của gió thoảng mây bay nơi đồng chiều Kinh Bắc? Với nhà thơ cánh
đồng nơi đây là miền đất của tuổi thơ, tuổi trẻ, đó là nơi tựa hồ cõi thần tiên, nơi đây các
cánh đồng mọc những loại cỏ nở đầy những loài hoa vĩnh cửu - cánh đồng thiên đường.
Nhà thơ cố níu giữ hạnh phúc trong một không gian ảo, trong giấc mơ tình ái, không
gian ấy hòa lẫn vào một cuộc đời thực để tạo nên những khát khao đầy ẩn ức, ngậm ngùi
với nỗi niềm 80 (80 tuổi):
Dẫu anh biết Diêu Bông không thực
Sao Diêu Bông cứ thức hồn em
Cứ sao băng mãi đường đêm
Cứ trăng lên đậu cành mềm xuân quê.
(Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông).
Phải chăng Hoàng Cầm quá ảo, quá si mê nên gần 60 năm trời mới nhận ra chiếc
Lá Diêu Bông kia là không có thực? Hay cố tình sống trong ảo giác để được hạnh phúc?
72
Bởi qúa khứ ấy, hình ảnh Chị - mối tình Diêu Bông ấy nó quá đẹp? để giờ đây mới thú
nhận một điều:
Diêu Bông gọi mãi không về
Cứ ngồi canh một giấc mơ mặn nồng
... Diêu Bông biệt chẳng cần em tiễn
Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm
... Diêu Bông anh áng chừng mệt mỏi.
Cái đẹp gần gũi mà sao như xa vời quá, linh thiêng, huyền bí quá không thể chạm
tới được. Trong sự cố công trên đường đi tìm nhân duyên, tìm chiếc lá bùa yêu ấy, giờ
đây chỉ còn là chuyện kể mà thôi, và thi nhân nhận ra rằng Diêu Bông là không có thực:
Rằng... xưa... ai biết vì sao
Lá gì lại gọi thế nào...
Diêu Bông...
(Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông).
Giờ đây chỉ còn là hoài niệm về một quá khứ xót xa, đắng cay, tiếc nuối, hoài
niệm cho những giấc mơ. Vì thế mà nhân buồn, thi cũng buồn theo. Với Hoàng Cầm,
Diêu Bông chỉ là ảo, là hư, là hư ảo nên ông mới nợ đời, nợ tình vì cái hư ảo ấy:
Một đời nợ suốt Diêu Bông
Gọi đôi kết lứa xe hồng được đâu.
(Ai xui chắp mảnh xe hồng).
Điều đó cho thấy lá Diêu Bông chỉ còn tồn tại với ý nghĩa là biểu tượng cho một
tình yêu của Hoàng Cầm, Hoàng Cầm - Diêu Bông - Mối tình thơ. Lá Diêu Bông là lá
gì? Nó có ở đâu... đến người sáng tạo ra nó, cho nó hiện hữu trong trái tim cháy bỏng yêu
đương của đôi lứa cũng không biết nó mọc ở đèo cao, suối sâu nào. Có thể nói, làm được
điều đó, Hoàng Cầm đã tạo dựng cho mình một sự độc đáo lớn trong lịch sử thơ tình
Việt Nam: ông đã vẽ chiếc lá từ cõi mộng để chuyển hóa vào cõi thực. Phải chăng lá
Diêu Bông chính là biểu tượng của tình yêu chân thành hằng khao khát? Mối tình của
người Quan họ trong Lá Diêu Bông âm thầm bén duyên với người đọc tự ngày nào. Bài
thơ không chỉ khắc họa cái không gian làng quê Kinh Bắc, mà hơn thế còn tô đậm vẻ
đẹp tâm hồn phong phú của con người nơi đây. Bởi lẽ trong thơ, Hoàng Cầm còn gợi về
trong tâm trí ta chút duyên thầm của lời ca Quan họ mượt mà đằm thắm.
73
Mối tình của người Em với Chị trong thơ Hoàng Cầm cho chúng ta liên tưởng thú
vị đến những tình cảm thiêng liêng của liền anh liền chị trong đêm hội giã bạn người
Kinh Bắc. Mỗi năm một lần “đến hẹn lại lên” trong đêm hội làng, hội vùng, anh hai chị
hai bằng lời ca tiếng hát xoắn quyện khúc “giao duyên” tâm tình cho thỏa nỗi nhớ mong.
Cái motif tình yêu của trò chơi tìm lá Diêu Bông chính là nét đặc trưng tiêu biểu cho thế
giới tình yêu của người quan họ. Trong tâm hồn nhà thơ luôn thường trực con người quê
hương này, như lời tự thuật của ông: Tôi người làng quan họ/ Quê mẹ bên này sông/
Cách quê cha/ một dòng nước trắng. Do đó nếu không hiểu văn hóa Quan họ thì sẽ khó
cắt nghĩa cách thể hiện tình yêu nam nữ trong thơ Hoàng Cầm.
Thơ Việt Nam hiện đại dường như đã có sự đổi ngôi về đặc trưng loại thể, song
cũng chính nhờ sự đổi ngôi này đã mang lại giá trị đặc sắc về mặt nội dung và nghệ
thuật cho chúng. Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm là một trong số ít bài thơ thành công
nằm trong trường sáng tác đó. Đây là tác phẩm nổi tiếng xuất hiện trên thi đàn Việt
Nam mà rất nhiều người khi đọc bài thơ này đều thấy có “chút gì” của mình ở trong đó.
Người ta cảm thấy Lá diêu bông về tính không thực cho một tình cảm có thật mà
Hoàng Cầm đã khéo léo đưa câu chuyện tình đầu đời của mình vào. Sinh ra và lớn lên
ở miền quê quan họ, Hoàng Cầm đã đi cùng dân tộc suốt chiều dài Bên kia sông
Đuống, và biết đâu khi đã bước sang một thế giới khác rồi ông sẽ tìm được Lá Diêu
Bông mà ông hằng mường tượng? Bởi lẽ, với Hoàng Cầm, sự sống luôn là Nguyên
hình ảo vọng chấp chới giữa hiện thực và huyễn mộng: Khi lửa khói tàn đêm, dòng
sông êm ái/ Tôi lại gặp em, tưởng tháng năm dài chững lại/ Em vẫn thế… thon cây
mềm trái/ Tóc hong chiều còn óng tuổi mơ xanh. Chính Hoàng Cầm cũng từng nói “Lá
Diêu Bông là chiếc lá huyền thoại, chiếc lá ngây thơ về một tình yêu đầy mộng mơ thời
thơ ấu”. Chiếc lá ấy đã vượt thời gian và không gian. Trong Hoàng Cầm - Tác phẩm
thơ, (Nxb Hội Nhà văn ấn hành năm 2003, Lại Nguyên Ân biên soạn) chúng tôi khảo
sát có tới 20 lần Hoàng Cầm nhắc tới lá và đều mang đậm giá trị thẩm mỹ) như chiếc lá
Diêu Bông trong thi ca ông.
Quả vườn ổi cũng là một trong số những ví dụ như vậy.
Nếu xét theo nghĩa đen thông thường thì quả ổi là một thứ quả có thực, ăn được,
trồng chủ yếu trong vườn nhà. Nhưng ở đây, nhà thơ lại gọi theo một cách khác mang
nét nghĩa biểu tượng riêng: Quả vườn ổi - một thứ quả chưa được định nghĩa hay gọi
74
thành tên. Cùng với Cây tam cúc, Cỏ bồng thi, Lá diêu bông thì Quả vườn ổi đã tạo nên
một thế giới thực vật lạ lùng, huyền diệu và đầy bí ẩn, đồng thời nó cũng trở thành những
biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa cho khát vọng tình yêu đôi lứa.
Bằng lối bịa nghệ thuật, kết hợp với việc lựa chọn từ ngữ sáng tạo, linh hoạt,
Hoàng Cầm đã tạo ra sự mới lạ, độc đáo riêng cho phong cách thơ mình:
Em mười hai tuổi tìm theo Chị
Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa
Đi....
Vẫn là theo Chị, nhưng không phải ra đồng chiều cuống rạ, để rút trộm rơm nhà
đi trải ổ nữa, mà là đi tìm hạnh phúc nơi cầu bà Sấm, bến cô Mưa - cầu ấy, bến ấy ở đâu,
nơi nào? Xa hay gần? Tất cả đều không rõ, vô định, không lý giải nổi. Đó chỉ có thể là
những địa danh ở trong thơ, và như thế thì tìm đến bao giờ? Ý thơ mang tính tượng
trưng, siêu thực bởi chính tác giả cũng tâm sự “Miếu Hai cô là ở đâu? Hai cô nào... hoặc
cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô Mưa là ở khúc sông nào của con sông nào tôi
cũng chịu không có lời giải đáp” [17, tr.211]. Ý tại ngôn ngoại, ta chỉ biết rằng đằng sau
những địa danh ấy là những bước chân phong trần vất vả của Em còn đang hằn lên trên
con đường tìm tình yêu, hạnh phúc cho cuộc đời mình. Nhưng đi đâu, tìm ở nơi đâu?
“Đi...” - một dòng thơ chỉ chứa có một từ biệt lập và dấu ba chấm mà sao nặng nề như
những bước chân không còn đủ sức trên con đường dài vô tận, hun hút vào hư không.
Đằng sau dấu ba chấm (...) ấy là những gì? Bằng cấu trúc tỉnh lược ngôn từ, tác giả đã
tạo ra được những khoảng trắng thẩm mỹ thu hút tư duy người đọc và đòi hỏi bạn đọc
giải mã tín hiệu thẩm mỹ ấy. Đi ngày đi tháng, đi mãi, đi hoài và... tìm, nhưng kết quả
vẫn là tìm không thấy. Không thấy là điều tất nhiên bởi tất cả đều là bờ hoang. Mà thực
ra cái cận kề cũng có lấy được đâu:
Cách nhau ba bước vào vườn ổi
Chị xoạc cành ngang... em gốc cây
- Xin Chị một quả chín
Quả chín quá tầm tay
- Xin Chị một quả ương
Quả ương chim khoét thủng.
Khoảng cách giữa Chị và Em đã đủ gần “ba bước” để với lấy. Hạnh phúc được
ăn quả tưởng như trong tầm tay. Ấy vậy mà sự thật cứ trớ trêu Em quá. Quả vườn ổi ở
75
đây rõ ràng là một trái cấm. Xét về mặt biểu tượng văn hóa thì quả là "Biểu tượng của
sự sung túc, dồi dào chảy tràn ra ngoài cái sừng Nữ thần phong nhiêu hoặc những cốc,
bình trong tiệc cổ của các thần linh, vì trái cây chứa nhiều hạt, nên Giueenon so sánh
nó với Quả trứng thế giới, biểu tượng của mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên. Trong
văn học, quả mang ý nghĩa tượng trưng... từ đó tạo biểu tượng quả như là những ham
muốn nhục thể, khao khát bất tử hay phồn vinh" [17, tr.749]. Như thế người Chị nhất
định không cho dù quả ương hay quả chín, nghệ thuật chối từ, không đồng ý vẫn kiểu
như trong Lá diêu bông, nghĩa là bịa ra cái cớ ca dao (kiểu như Bỏ quên chiếc áo trên
cành hoa sen) cho đỡ mất lòng. Nhưng Hoàng Cầm hiểu điều đó hơn ai hết nên quyết
lấy bằng được, chinh phục bằng được trái cấm (trái tim - tình yêu) ấy và muốn làm chủ
được sự bất tử ấy, sự phục sinh ấy (làm chủ văn hóa - tất nhiên nó mang ý nghĩa biểu
trưng). Trên thực tế nếu có quả chín thì chim sao phải khoét quả ương? Bốn câu thơ có
dấu gạch ngang đầu dòng như bốn câu đối thoại thơ làm oằn lòng một tâm hồn dại yêu,
sy mê yêu Hoàng Cầm!
Mặc cảm với số phận nhưng Em vẫn không bỏ qua cơ hội, mà tiếp tục theo chị dù
Chị có đi đến đâu Em cũng theo đến cùng để thỏa khát khao: Lẽo đẽo. Em đi vườn mai
sau/Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng. “Lẽo đẽo” là một hình ảnh thơ dễ liên tưởng.
Nhưng “vườn mai sau” thì là vô định. Phải chăng là vườn hạnh phúc ở phía tương lai?
Thật là Đường mê hun hút phương trời (Vào đường mê). Không gian đã hóa thời gian
trong cái vô định của sự vật hiện tượng, mọi thứ đã trở nên siêu hình, lạc lõng, bơ vơ,
ngơ ngác, xa vời:
Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh
đi mãi tìm sim chẳng chín
Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô
Gặm cỏ mưa phùn.
(Về với ta).
Nhưng đến câu thơ cuối thì lại trở về hiện thực của buổi chiều mưa buồn hiu hắt
với sự cô đơn như thơ cổ điển. Trong buổi chiều mưa ấy, Em chỉ nhặt được dăm quả
rụng (mặc dù là được dăm quả - số nhiều) - nhưng đó lại là cái dư thừa tồi tệ, cái bỏ đi,
vô giá trị. Kết thúc bài thơ Em đã có được hạnh phúc nhưng vẫn ngậm ngùi bằng lòng
vui với nỗi niềm hạnh phúc cỏn con ấy? Đó phải chăng là cái vui của kẻ bạch đinh lung
linh những mơ ước muốn lọt dinh công chúa ? Ý thơ tuy gợi buồn - một nỗi buồn sang
76
trọng, nhưng nhờ tính chất hư ảo của bài thơ mà tín hiệu nghệ thuật đã thoát ra khỏi cái
vỏ bọc khô cứng của ngữ liệu trở nên thanh thoát nhẹ nhàng và tinh tế hơn, tạo nhiều giá
trị nhân sinh hơn.
Cùng với Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi, thì Cỏ Bồng Thi cũng mang ý nghĩa
biểu tượng hết sức sâu xa. Đó là những thứ không thuộc về hiện thực, chúng xuất hiện
trong thơ không phải để miêu tả, gọi tên một loài thực vật thông thường.
Ở Cỏ Bồng Thi, mối tình Chị - Em vẫn bảng lảng bay lên trong những câu thơ như
chứa đựng một tâm sự thầm kín mà ông hằng níu giữ. Với một giọng thơ đầy sức quyến
rũ bởi cái nội tâm sâu thẳm từ chiều sâu văn hóa Kinh Bắc cứ rờ rỡ hiện lên vừa linh
thiêng, vừa rất đỗi huê tình, Hoàng Cầm đã làm say đắm lòng người bởi những khát
vọng yêu đương không dễ gì gặp được trong văn học hiện đại Việt Nam. Không những
vậy, thơ Hoàng Cầm còn mượt mà như một điệu dân ca, lại có sự tha thiết, bồng bềnh,
hồn nhiên mà dân dã của hát xoan, hát ghẹo, bên cạnh đó là sự khó cắt nghĩa cho đặng rõ
ràng của một tâm thức thơ ngây luôn hướng về những gì là mộng ảo, ký ức. Ký ức
Hoàng Cầm cứ cồn cào hòa trộn giữa hiện thực và mộng ảo. Bởi thế đọc thơ ông,
thường thì người ta thấy cảm nhiều hơn là để phân tích. Nếu như ở Lá Diêu Bông là
chuyện đố lá thì ở đây là chuyện đố tìm một loại cỏ.
Cuộc chơi ở đây bắt đầu từ tuổi 17: Ngày mười bảy tuổi/ Chót chơi đố cỏ Bồng Thi/
Cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá.... Ý thơ vừa thực vừa ảo, càng suy nghĩ ta càng thấy
ảo. Cỏ Bồng Thi là loại cỏ gì chính Hoàng Cầm cũng không giải thích nổi. Ông gọi
những tín hiệu đó là thần tự, tức chữ của thần linh đọc lúc nửa đêm chứ “không phải là
của tôi nghĩ” (Hoàng Cầm), dù sao chúng ta cũng thấy đó là sự sáng tạo, lạ hóa ngôn
ngữ tuyệt vời của người nghệ sĩ đất Kinh Bắc. Giống như Diêu Bông, Bồng Thi - đọc lên
gợi âm hưởng vang nhẹ và nhòe mờ về ý nghĩa, cảm giác như chơi vơi, cheo leo nơi
mỏm đá. Bồng thi có âm đọc như Bồng lai kết hợp từ cỏ - rất rõ về nghĩa gợi ra những
liên tưởng mới trong sự cảm nhận về một thứ thi pháp thơ lạ hoá mới, chứ khó có thể cắt
nghĩa một cách rõ ràng. Qua đó nhà thơ đã chuyển hóa được một lượng thông tin thẩm
mỹ lớn đến người đọc từ trái tim nhạy cảm của mình.
Sự chênh lệch giữa cái nói ra và cái không được nói ra chính là giá trị nghệ thuật
được biểu đạt của các tín hiệu thẩm mỹ. Cỏ Bồng Thi là một sản phẩm của trí tưởng
tượng, chứa đựng ý nghĩa tín hiệu thẩm mỹ về tình yêu Chị, Em - Hoàng Cầm:
77
Chị đưa Em đến bến này
Cheo leo mỏm đá
Trước vực
Sau khe
Thọng lọng tơ gì quấn gót
Tua khăn còn buộc búp hoa lan
Ù ù gió thổi
Em vọng ai đâu mà hóa đá.
Cái sự đố ấy thật trớ trêu làm sao, Cỏ Bồng Thi đã là ảo, nơi cheo leo mỏm đá,
trước vực sau khe cũng không rõ là ở đâu, ở mỏm núi Neo cheo leo chập chùng của dãy
núi Nham Biền đọng đầy truyền thuyết: Chèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo (Đếm giờ),
hay trên dãy Lạn Kha? Ở trên núi Thiên Thai hay đâu đó trong hòn Cô Tiên nơi vùng
quê Kinh Bắc? Không rõ thì làm sao tìm cho thấy? Cái "cheo leo” nơi cỏ Bồng mọc
cũng như cái "cheo leo” nơi bến tình Chị - Em vậy. Liệu tình yêu ấy có đậu quả, có an
toàn, có bền vững? Vậy nên ngắt được cỏ ấy là điều không tưởng. Tình chị dành cho Em
cũng là điều không tưởng. Nhưng tại sao Em cứ tin một niềm tin vô cớ ở một nơi nguy
hiểm như thế? Giấc mơ Bồng thi luôn ẩn chứa những ham muốn vô thức với sự khát
khao bản năng, căn cốt phát sinh từ thời thơ ấu. Đó chính là cái vị riêng Hoàng Cầm. Có
thể nói, Ông được sinh ra từ Kinh Bắc, bám rễ tư duy sống, tư duy thơ ăn sâu dưới đất
chìm trong vật chất, văn hóa nguyên thủy Kinh Bắc, nên mới tốt tươi, mới đượm lại cái
vị riêng ấy độc đáo đến như vậy. Ông - Hoàng Cầm - cây cỏ đắng Hoàng Cầm, trữ lượng
dược phẩm vô tận cho những ai hợp với cái vị riêng ấy.
Với một lớp ngôn từ vừa truyền thống vừa hiện đại, có giá trị tạo hình cao: vực,
khe, thòng lọng, quấn gót, trói, dây muống dại kín Em rồi, ù ù... thể hiện sự nhận thức có
tính mỹ học trong tâm thức sáng tạo nghệ thuật, tạo nên được một siêu hình ảnh thơ từ
thủ pháp thi ca mới trong phong cách nghệ thuật thơ riêng biệt của Hoàng Cầm. Ngôn từ
trong thi ca không phải là sự bí ẩn, nó chính là ngôn ngữ của dân tộc, nhưng được thi
nhân tái tạo và không ngừng sáng tạo, chọn lọc, gọt rũa, mài sắc để hoàn thiện và tạo sức
quyến rũ, bồng bềnh... Và ở đây là những bấp bênh, gập ghềnh, trúc trắc với những ẩn
ức, nén nghẹn chưa được giải tỏa của mối tình đơn phương với bao điều còn muốn nói
trong Em. Thật vô định quá. Em cứ đi mải miết (như đi tìm lá Diêu Bông, Cây tam cúc,
Quả vườn ổi) vừa Đợi mùa vừa tìm cỏ lạ:
78
Em lên núi xa hái cỏ thiên đồng
Cài tóc Chị sênh tiền gõ nhịp
đánh đồng trên mái đình cong.
Theo khảo sát của chúng tôi trong Thơ Hoàng Cầm [15], chỉ 4 lần nhà thơ nhắc
đến cỏ (cỏ bồng thi, cỏ thiên đồng) để tìm, nhưng cỏ cứ mọc hoang ở nơi đâu chẳng biết,
bao giờ Em mới tìm được cái thứ cỏ lạ ấy? mà chỉ thấy toàn những cây cỏ đắng chát cho
cuộc đời:
Bao giờ anh xế về em
Ôm cây cỏ đắng làm men cuối đời.
(Mai sau dù có bao giờ).
Cái khát khao đành bỏ lửng, đến khi “xế chiều” Hoàng Cầm mới nhận ra cái thứ cỏ
ấy là hư không, là ảo tưởng, một loại ảo tưởng tình yêu. Cỏ không chỉ là sắc đẹp của
thiên nhiên mà còn là linh hồn của biết bao kỷ niệm đời người. Năm tháng dần trôi,
nhưng nhà thơ không bao giờ quên những cây cỏ đặc biệt đã gặp trên mỗi nẻo đường
đời. Cái tài mang tính nghệ thuật của Hoàng Cầm chính là ông không chỉ ép lên trang thơ
những xác cỏ vô hồn mà mỗi loại cỏ từng được ông điểm mặt đều là một nỗi niềm, một
ẩn dụ về cuộc đời, số phận con người. Do đó cỏ trong thơ Hoàng Cầm là biểu tượng cho
cái khát vọng yêu và mang tính biểu tượng cho “cái lẽ có - và - không” tự thuở xa xưa
vĩnh hằng theo năm tháng, in dấu ở hiện tại và tương lai. Trong không gian nghệ thuật
thơ mình, ông đã nhận ra đó là một điểm sáng của hư không. Tất cả đều... không thực.
Chỉ có cái cây Cỏ Đắng - Hoàng Cầm kia mới thật có trên đời, lúc đó ông mới nhận thấy
trái tim mình là một “lồng đau”:
Vẫn lồng đau ấy vào thương phận
Nối chim vào ngọn lá mây
Nối men không tỉnh, nối ngày không đêm (Thờ ơ).
Sáu, bảy tuổi đã thấy mình bị cô đơn, lên tám, ông yêu chị Vinh để Lá diêu bông
ám ảnh suốt đời. Quá nhạy cảm, đa cảm, thì cô đơn càng sâu, càng ngấu. Hoàng Cầm
không chìm vào cô đơn, mà vượt lên, chế ngự và làm sáng rực nó qua những giấc mơ
của mình bằng lãng mạn khôn cùng. Hoàng Cầm để tất cả những giấc mơ chuyển động
trên phối cảnh rất thực mà đẹp hơn hiện thực. Kinh Bắc quê hương là vùng thẩm mỹ, là
bối cảnh chính, là thiên đường của tình yêu, với hội hè, ca hát, hẹn hò, đám cưới, chùa
chiền. Ký ức - hiện tại - tương lai được phổ quang tỏa sắc cầu vồng lộng lẫy, của thiên
79
nhiên và những sản phẩm văn hóa phi vật thể, của trang phục mớ bảy mớ ba, tạo nên
một Kinh Bắc huyền thoại giàu bản sắc văn hóa. Hoàng Cầm đã chinh phục được vùng
thẩm mỹ ấy, nhưng lại bất lực trong việc chinh phục các cô gái quê Kinh Bắc.
Nhà văn Pháp gốc Trung Quốc là Cao Hành Kiện (sinh năm 1940) sau 20 năm xa
quê hương, ông vẫn không nguôi nhớ quê mình, ông coi Vũ Di - ngọn núi của quê
hương là cao nhất, là đáng chinh phục, để trở về (nhưng ngọn núi cao và khó vượt nhất,
là ngọn núi trong lòng). Còn Mạc Ngôn, thì lúc nào cũng ngợi ca vùng Cao Mật, tỉnh
Sơn Đông. Cái gì đẹp, lạ, hấp dẫn nhất, ông cũng đưa về Cao Mật quê hương. Với
Hoàng Cầm, ông luôn coi Kinh Bắc là đẹp nhất, đẹp từ trong cõi mộng, đẹp từ thuở mở
nước và dựng nước của dân tộc, đó là nơi tượng hình và rạng rỡ văn minh sông Hồng,
ngàn năm châu thổ kết tinh và toả sáng hào quang qua những phong tục truyền thống,
những cuộc thi tài, thi hát quan họ, vẽ tranh dân gian, trò chơi, bao cuộc yêu đương, tình
tứ dở dang và vô bờ bến... Ngay từ lúc là chú bé, ông đã yêu và theo thời gian, muốn bao
bọc để âu yếm cho người mình yêu được hạnh phúc. Người đàn ông đích thực che chở
cho người yêu của mình, cũng là để được che chở. “Tình yêu cao cả có mặt ở đâu, thì
phép màu xuất hiện ở đó” (Willa Cather), Hoàng Cầm nương tựa vào tình yêu và coi nó
là phép màu cho mình, những giấc mơ ước muốn thành hiện thực luôn được chờ đợi và
hứa hẹn trong thơ. Bởi thế, Hoàng Cầm đã tạo ra một hiện thực trong thơ khác với hiện
thực được nhìn thấy, đó là hiện thực nghệ thuật, hay là hiện thực của giấc mơ.
Cũng bởi thế, Hoàng Cầm đã phá cách cảm thức bằng cảm giác mạnh và thường
trực ám ảnh nhục cảm. Không thực hiện được khát vọng, Hoàng Cầm đã tạo dựng không
gian ân ái triền miên, mãnh liệt, phóng túng giữa đất trời với thiên nhiên. Thơ ông tràn
ngập ái ân, gợi cảm, mang màu sắc tính dục, khi ẩn dụ, khi phơi mở, đầy nam tính táo
bạo, đầy nhục cảm nữ tính. Hoàng Cầm luôn tin thơ đến từ một xứ sở mầu nhiệm nên
ông thả sức tung thơ. Ông không ngần ngại thổ lộ rằng, những bài thơ thành công nhất
của ông đều nhờ ghi chép lại từng câu, từng chữ như vọng về từ một giọng đọc bí ẩn
trong cảm giác siêu thức, nhòe mờ của tâm trạng, nhất là vào những khi đêm khuya.
Phương pháp làm thơ kỳ diệu đó của Hoàng Cầm khiến không ít người cắt nghĩa thơ ông
được rõ ràng, nhất là việc giải mã những ẩn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên, đọc thơ ông phải
đọc được cả văn hóa Kinh Bắc và đọc cả chính bản thân ông chúng ta mới dễ dàng tri
nhận được những mối tình đeo đẳng suốt cuộc đời nhà thơ. Phía sau mỗi bài thơ của
Hoàng Cầm đều mờ tỏ bóng hình một người phụ nữ nết na, cam chịu. Mối tình Chị - Em
80
không chỉ xuất hiện trong Lá Diêu Bông mà vẫn “dan díu” trong nhiều bài thơ khác của
ông. Thật lạ, mối tình Chị - Em luôn bật ra những câu thơ đẹp ngơ ngác và buồn day dứt,
thường trực từ tấm lòng si mê của nhà thơ, khi níu kéo khoảnh khắc Chị em xanh nức
nở: Vậy thì Em ngắt quãng tân hôn/ Theo Chị lùa mưa đuổi nắng buồn/ Hai đứa lung
linh lơi yếm áo/ Thuyền trăng dềnh sã cánh cô đơn, khi ngoảnh lại trò chơi Cây tam cúc
để thảng thốt: Ghé cây bài tìm hơi tóc ấm/ Em đừng lớn nữa Chị đừng đi/ Tướng sĩ đỏ
đen chui sấp ngửa/ Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì…, khi hững hờ nhìn nước sông
Thương đôi dòng trôi xa…
Yêu là lẽ sống, là nhu cầu thiết yếu của tinh thần. Bao nhiêu là yếm, váy, rừng trái
vú bay… buông đầy thơ Hoàng Cầm với cách thể hiện độc đáo, mới mẻ của niềm yêu.
Trần Dần, một nhà thơ cách tân bậc nhất thơ hiện đại Việt Nam đã gọi thơ Hoàng Cầm là
tân cổ điển. Hoàng Cầm đã dắt sông Đuống chảy vào văn học chống Pháp, rồi mang lại
lá Diêu Bông, cỏ Bồng Thi, quả vườn ổi, cây Tam cúc nhảy từng bước trong dòng chảy
văn học đương đại. Ông cứ đi như đi trong chốn không - thời gian của dòng chảy văn
hoá, lịch sử, con người Kinh Bắc để đặt vào quê hương từng nhịp bước chân của mình.
Có thể nói, với biểu tượng thực vật (lá - cỏ - quả), Hoàng Cầm đã rất thành công
trong việc liên tiếp thể hiện các tín hiệu văn hoá thẩm mỹ yêu mới, đặc trưng về mối tình
Chị - Em. Và qua những bài thơ được đề cập chủ yếu ở trên, ta có thể thấy được sơ đồ
cảm hứng sáng tác của nhà thơ: từ những tâm tư thơ dại - thơ dại yêu- miên man yêu một
người lớn tuổi hơn- khát khao tình yêu cháy bỏng - muốn cưới để thỏa mãn khát vọng
yêu... nhưng không được, mà tình yêu ấy đã được kết thành Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng
Thi, Quả Vườn ổi, Cây tam cúc, Nước sông Thương. Qua đó ta thấy được những ẩn ức
đang còn nén nghẹn về một giấc mơ đầy khắc khoải trong mối tình Chị - Em còn đang
xanh nên cứ thổn thức, muốn bật tung, thoát ra khỏi cái ghềnh chữ “V” ấy. Qua thời gian
của đêm ngày, năm tháng, qua không gian của đồng chiều Kinh Bắc với những gió, mưa,
núi, đồi, lúc lên ngọn sông Thương, khi đến bến Kỳ Cùng, lúc đếm sao, đếm nắng, đếm
giờ, đếm triệu triệu năm... nhưng hiện thực vẫn là hiện thực của đắng cay, u uất và rồi
đành phải chôn chặt sau một “khối tình nghẹn”(chữ dùng của Chu Văn Sơn). Vì thế hình
tượng thơ mang vẻ đẹp kỳ ảo với những hình ảnh siêu thực được nở ra từ bông hoa của
một loại cây kỳ lạ được phối ghép từ Cỏ Bồng Thi, Lá Diêu Bông, Quả Vườn ổi... Đó
là cây Cỏ Đắng- Hoàng Cầm mà cội rễ của nó được bám chặt ở vùng Kinh Bắc trù mật
81
về nền văn hóa, văn hiến lâu đời. Chính cội rễ ấy đã di dưỡng và thăng hoa cho những
tình khúc của Hoàng Cầm!
2.3. Biểu tượng con người Kinh Bắc
Trong sáng tác văn học, người nghệ sĩ thường nhận thức và phản ánh hiện thực
xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật, những tư tưởng,
tình cảm, cảm xúc của nhà văn được nảy sinh ở nhiều góc độ khác nhau nhưng có chung
một bản chất là mang tính thẩm mỹ. Hình tượng nghệ thuật là bức tranh vừa cụ thể vừa
khái quát của cuộc sống con người, được xây dựng nhờ hư cấu và có ý nghĩa thẩm mỹ.
Như vậy, hình tượng nghệ thuật không đơn thuần chỉ là bức tranh của hiện thực
xã hội, mà thông qua sự sáng tạo của tác giả văn học, nó đã được nghệ thuật hoá bằng
một sắc màu lãng mạn. Đó cũng chính là một trong những luận điểm thường thấy của
truyền thống văn học Việt Nam: từ những sự vật - hiện tượng có thực trong trong đời
sống, trong lịch sử, rồi bằng tư duy nghệ thuật, người nghệ sĩ đã tái tạo và không ngừng
sáng tạo để chúng mang bóng dáng của huyền thoại, huyền sử.
Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu và hình tượng văn học là hình tượng ngôn từ
hết sức độc đáo. Theo đó, nghệ thuật, với tư cách là đối tượng thẩm mỹ nên nó thường là
mang tính tạo hình cao. Hình tượng nghệ thuật là hình thức đặc thù để nhận thức hiện
thực, là vũ khí của nhà văn trong quá trình thể hiện lý tưởng nghệ thuật của mình. Mỗi
một loại hình tượng trong tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện cách cảm nhận riêng của tác
giả. Ở đó vừa có tính cá nhân, vừa phục vụ một chủ đích tư tưởng thống nhất. Vì vậy mà
hình tượng văn học luôn có sự thống nhất cao độ giữa các mặt đối lập: lý trí và tình cảm,
chủ quan và khách quan, hiện thực và lý tưởng…
Kinh Bắc vốn nổi tiếng là một vùng quê mang đậm bản sắc văn hoá dân gian, với
những Luy Lâu, Thuận Thành, Nham Biền, Cô Tiên, Thiên Thai, Phật Tích, Tiêu Tương,
Thiên Đức, Tiên Du, Tiên Sơn… Nơi đây từng là quê hương của rất nhiều truyền thuyết
và huyền thoại. Đó là những đóng góp đáng kể cho các hoạt động sáng tạo nghệ thuật, là
môi trường thẩm mỹ quan trọng để các nghệ sĩ xưa và nay khơi nguồn sáng tạo.
Là người con của quê hương, lại được trời cho hạnh ngộ tương phùng giữa thi
hứng với thiên địa nhân văn, Hoàng Cầm đã mang theo trong lòng mình cả một dòng
văn hoá Kinh Bắc. Dòng văn hoá ấy chảy suốt trong hồn thơ ông từ cảnh sắc thiên nhiên
đến đời sống văn hóa, phong tục và tâm hồn con người hiện hình từ trong quá khứ. Ngòi
bút và hồn thơ của ông luôn đồng điệu cùng hồn người Kinh Bắc.
82
2.3.1. Biểu tượng con người trong truyền thuyết và lịch sử
Trong sáng tác của mình, dưới góc nhìn của huyền thoại, huyền sử, hư ảo, bí ẩn,
Hoàng Cầm đã dựng lại những hình tượng nhân vật truyền thuyết, lịch sử Kinh Bắc
trong thơ thật sống động, hấp dẫn và có sức quyến rũ đặc biệt, họ trở thành những biểu
tượng về văn hóa con người mang vẻ đẹp vĩnh cửu, có sức mạnh, sức sống trường tồn,
bất tuyệt. Đó là những nhân vật như: An Dương Vương, Thánh Gióng, Mỵ Châu, Mỵ
Nương, Trương Chi, Từ Thức, Giáng Tiên, Hai Bà Trưng, Ỷ Lan, Chiêu Hoàng, Hoàng
Hoa Thám… Họ đều có xuất thân hoặc từng lo dựng nghiệp bền lâu cùng dân tộc trên
vùng đất Kinh Bắc.
Trong thơ Hoàng Cầm, hình tượng Thánh Gióng- Phù Đổng Thiên Vương
được trở đi trở lại nhiều lần với những hình ảnh thơ đầy chất hiện thực đan xen vẻ
đẹp lãng mạn, cố nhiên vẫn mang đậm sắc màu của huyền thoại trong không gian văn
hoá đậm đặc:
Thiên Vương chẳng nói
Lúc gật đầu
vó ngựa đào ao hồ…
Thiên Vương chẳng nói
Lúc nghiêng tai
cò chở nắng tề phi điệp điệp Đằng Ngà…
Hình ảnh Thiên Vương “chẳng nói” thể hiện sự giận dữ làm ta liên tưởng tới biểu
tượng văn hóa của người Thượng cổ ngày xưa: (Sao) Thiên Vương được coi là thần Hỗn
mang nổi cơn giận dữ thần lửa thức tỉnh, đứng lên chống chọi lại các Đại dương. Nhà thơ
Hoàng Cầm đã khéo vận dụng các hình ảnh để tạo lên sức nóng của hành động, của bản
chất anh hùng con người Kinh Bắc. Điệp từ “chẳng nói” được nhà thơ diễn tả như một
cấu trúc của nghệ thuật huyền thoại nhằm khẳng định bản lĩnh, cá tính cương quyết và
sức mạnh đặc biệt của Thánh Gióng. Ý thơ đồng thời gợi chiều sâu tâm cảm văn hoá tâm
linh của con người thơ và con người Việt Nam, nó như chất chứa, tiềm ẩn nguồn sức
mạnh vô biên để khi cần thiết bỗng vụt hoá anh hùng. Đó là biểu tượng con người anh
hùng thiếu nhi trong thần thoại, con người của siêu nhiên.
Hình tượng người anh hùng thường được coi là con của cuộc giao phối giữa một
vị thần với một người trần, người anh hùng tượng trưng sự kết hợp giữa các lực lượng
trên trời và dưới đất. Họ đáng được hưởng sự bất tử sau khi đã bảo vệ xong cuộc chiến
83
của dân tộc. Ở Hy Lạp, nguyên mẫu đã trở thành anh hùng bất tử là Hêraclès. Đặc điểm
của người anh hùng là sẵn có một thể lực hiếm có, một sự khéo léo đặc biệt và một tinh
thần dũng cảm trong mọi thử thách. Những lúc trong chiến đấu, người anh hùng thường
ở trạng thái thịnh nộ hiếu chiến, một biểu hiện có ý nghĩa tôn giáo và phương thuật về sự
quá đỗi anh hùng của các hiệp sĩ chỉ đối với những kẻ thù của họ. Bằng cuộc chiến đấu,
người anh hùng tượng trưng cho ý chí vươn lên, cho trạng thái xung đột của tâm hồn con
người. Do đó, người anh hùng được tô điểm bằng các biểu hiện của mặt trời, mà ánh
sáng và hơi nóng của nó luôn chiến thắng sự tối tăm và lạnh lẽo của cái chết. Trong thơ
Hoàng Cầm, hình tượng con người Thánh Gióng- Phù Đổng Thiên Vương được coi là
một điển hình như vậy. Bằng sự am hiểu nguồn gốc văn hóa cả phương Đông và phương
Tây, cả cổ xưa lẫn hiện đại, nhà thơ đã xây dựng thành công biểu tượng nhân kiệt - anh
hùng đất Kinh Bắc từ chính nhân cách văn hóa, lịch sử của quê hương, dân tộc mình.
Văn hóa bản địa dường như đã ăn vào máu thịt nhà thơ, như một tín ngưỡng đã
ăn sâu vào ký ức từ thời nguyên thủy để rồi nó chảy tràn, chuyển hóa trong ông. Từ con
ngựa sắt thần kỳ trong huyền thoại của Thánh Gióng đến con ngựa Ô thần kỳ thời hiện
đại của người anh hùng Hoàng Hoa Thám trong thơ Hoàng Cầm cũng là một thể hiện về
mối liên hệ sâu sắc giữa truyền thống và hiện đại, trong cách cảm, cách nghĩ của người
dân Việt. Được coi là con đẻ của bóng đêm và sự huyền bí, con Ngựa nguyên mẫu ấy
cùng một lúc mang đến cái chết (đối với kẻ thù) và đem lại sự sống (cho dân tộc Việt),
nó liên quan tới các hình ảnh nước và lửa, là sức mạnh của sự phá hủy và cái chiến thắng
tuyệt đối. Sự hấp thụ các biểu tượng khác nhau ấy được bắt nguồn từ hàm nghĩa phức
hợp của những đối tượng âm tính vĩ đại, ở đấy trí tưởng tượng của con người theo phép
loại suy đã có mối liên hệ chặt chẽ giữa đất và vai trò người Mẹ của đất với ngọn đèn của
trái đất và mặt trăng, với nước và giới tính, với chiêm bao và bói toán, với sự sinh
trưởng, phát triển và đổi mới thường kỳ.
Thế giới tâm linh đang mở cửa cho hiện thực bùng phát để rồi tiếp cận đến những
cõi mơ, cõi bí ẩn và huyền ảo:
Ngựa Ô - truy lao Cầu Vồng Yên Thế Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay Ngựa Ô - truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề... Bờm nhả khói Đuôi dựng mây Vó chồm nghiêng soái phủ...
84
Ngựa trong thơ Hoàng Cầm là con Tuấn mã của mặt trời. Đó là con ngựa trong
văn hóa dân gian, được tượng trưng cho sức mạnh của ân đức lan tỏa bốn phương. Con
ngựa trở thành biểu tượng của chinh chiến (gắn với người anh hùng), thậm chí trở thành
con vật trong chiến đấu là chủ yếu. Các nhà phân tâm học cũng biến con ngựa thành biểu
tượng của cái tâm vô thức hoặc là cái linh hồn phi nhân tính. Từ trong cội nguồn văn
hóa, con ngựa thần kỳ trở về, nâng bổng mình cùng dân tộc lên tận trời cao chan hòa ánh
sáng với dân tộc. Nó trở thành sinh linh của thiên giới hay là mặt trời, trong xứ sở của
các thần linh chí thiện và các bán thần; điều này càng mở rộng hơn nữa biên độ của biểu
trưng văn hóa, nghệ thuật về con vật này. Chính với cách so sánh như vậy, Hoàng Cầm
đã làm cho hình tượng hai con ngựa nhưng thực chất chỉ là một, chính nó đã giúp người
cưỡi nó vượt qua một cách an toàn những cửa ải với một phép màu bí nhiệm mà lý trí
khó có thể giải thích nổi. Nó như một con vật có khả năng dẫn dắt linh hồn, có con mắt
chọc thủng màn đêm, trở thành con vật Thần nhập để đưa đường cho những người anh
hùng trong chiều dài lịch sử dân tộc. Qua đó, nhà thơ để hai nhân vật anh hùng Thánh
Gióng và Hoàng Hoa Thám hiện lên như một biểu tượng văn hóa, gần gũi như những
con người trong cuộc sống thực tại, sống một cuộc đời mới. Hơn nữa, với bút pháp hư
ảo, nhà thơ đã làm cho hình tượng thơ thật sống động, nên thơ, có hồn và lãng mạn biết
bao. Đó là những con người mang tinh thần thượng võ, một biểu tượng về nhân kiệt
thiêng liêng trên vùng đất Kinh Bắc. Nhà thơ miêu tả họ với tất cả niềm kính trọng,
ngưỡng vọng và tôn vinh. Họ là biểu tượng của văn hoá, văn hiến Kinh Bắc và của dân
tộc. Mặc dù Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi, nhưng cái oai phong lẫm liệt, cái dáng “anh
ùng”, cái hồn cốt văn hoá thì vẫn như còn đâu đây trong cuộc sống của người Kinh Bắc
nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung.
Không chỉ miêu tả những người anh hùng với các cuộc chiến, nhà thơ Hoàng
Cầm còn dành những câu thơ, những trang thơ để nói về những câu chuyện tình đẹp nhất
trong lịch sử tình yêu trên đất Kinh Bắc cũng chính là những câu chuyện khiến Hoàng
Cầm ngậm ngùi nhất như chuyện Từ Thức - Giáng Tiên, Trương Chi - Mỵ Nương... đặc
biệt là tiếng sáo - biểu tượng người nghệ sĩ đất Kinh Bắc- Trương Chi đã trở thành biểu
tượng tình yêu muôn thuở của người dân đất Việt: Ngã ba sông chín hướng tình/ Về
Kinh Bắc gặp rập rềnh Trương Chi” hay “Cõi Trương Chi đã lạnh dần/ anh còn quấn
tóc trói trần Mỵ Nương (Tập Kiều)...
85
Ở một khía cạnh khác ta còn nhận ra nét vẽ thực của chất thơ Hoàng Cầm trong
hình tượng An Dương Vương và người con - cô công chúa Mỵ Châu được hiện về với
những bi kịch còn chứa chan nỗi đau kia của dân tộc, gia đình, thân phận nhân vật như
đang đối thoại với chúng ta, với nhà thơ. Mượn hình ảnh tiếng con cú kêu trên chòi canh
ai oán và tiếng con ễnh ương trong giếng ngọc ngậm miệng gắt gỏng đến ghê rợn (Gió
lông ngỗng), muốn thổi bay nỗi oan hờn là những minh chứng như muốn gột rửa nỗi
oan cừu cho Trái tim lầm lỡ để trên đầu (ý thơ của Tố Hữu) của cô công chúa Mỵ Châu.
Trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, con Ếch hay con Ễnh Ương được dùng trong
nhiều quan niệm biểu tượng khác nhau, trong đó quan niệm chính liên quan đến môi
trường tự nhiên của nó là nước. Ở Trung Hoa cổ đại, ếch được dùng hay được mô phỏng
để cầu mưa, có hình ếch trên trống đồng bởi vì trống và ếch gọi được mưa. Ở Châu Âu,
ếch cũng được coi là một biểu tượng của sự phục sinh do những biến thái của nó. Với
Việt Nam, ếch là một dạng của linh hồn đang phiêu diêu trong khi thể xác đang ngủ.
Như thể hiểu được nguồn gốc văn hóa, Hoàng Cầm đã đồng cảm với số phận Mỵ Châu,
chia sẻ với An Dương Vương về tấn bi kịch nước mất nhà tan. Mỵ Châu vì thế càng trở
nên được ảo hoá trong khát vọng cho biểu tượng của một tình yêu đẹp đẽ và hạnh phúc
đích thực:
Tượng cẩm thạch uốn mình
chợt trắng hồng tinh khôi
khao khát
Đêm trăng tự tạo
ảo mê hay thực ấm nồng khuya…
để chập chờn vòng tay
mắt giếng Mỵ Châu
hố ngọc tan lìa
(Về cõi thật em).
Trong truyền thống văn hóa, những giếng nước đều mang một tính chất linh
thiêng, chúng hiện ra như là một sự tổng hợp của cả ba cấp vũ trụ: trời - đất - địa phủ; cả
ba yếu tố: đất - nước - không khí; chúng là một con đường liên thông của sự sống. Bản
thân cái giếng là một vũ trụ hoặc là tổng hợp của vũ trụ. Nó thông với nơi ở của người
chết; tiếng vang từ đáy giếng dội lên, những ánh phản xạ thoáng qua của mặt nước bị lay
động làm tăng thêm sự bí mật hơn là soi tỏ nó... đồng thời nó cũng mang ý nghĩa của sự
86
giải thoát. Cái giếng - còn trở thành một tiểu vũ trụ, là chính bản thân con người. Nói như
vậy để thấy Hoàng Cầm sử dụng các chất liệu, hình ảnh đều mang tính biểu tượng và
tính truyền thống, tính thiêng gắn với cái đẹp đích thực trong cuộc sống. Vấn đề này
chúng tôi sẽ trở lại ở phần ngôn ngữ thơ ông trong chương 3 của Luận án.
Trong Hội đền tám vua triều Lý, nhà thơ có cảm xúc đặc biệt khi đứng trước pho
tượng vua bà - Lý Chiêu Hoàng (Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278), là vị vua thứ chín (tại
ngôi từ năm 1224 đến 1225) - vị vua cuối cùng của triều Lý, đồng thời cũng là vị Nữ
hoàng duy nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Lịch sử ghi nhận bà như
"chiếc cầu nối" chuyển giao êm thấm từ vương triều Lý lúc đó đã mục ruỗng, yếu kém,
sang vương triều Trần, bởi cuộc hôn nhân từ tình cảm trong sáng của thuở thơ ấu với
Trần Thái Tông - Trần Cảnh). Triều Lý là một vương triều đã từng đưa đất nước Đại
Việt lên cảnh huy hoàng trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Cuộc chuyển giao quyền
lực từ vua Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh do Thái sư Trần Thủ Độ dàn xếp là một cuộc
sang tên thành công đến hoàn hảo. Hoàng Cầm đã đồng tình và tán thành với hành động
của Trần Thủ Độ trong việc “chọn chồng” cho Chiêu Thánh: Ví như không có Trần Thủ
Độ/ Mắt dại vua bà biết chọn ai.
Vị Thái sư này luôn biết đặt công việc quốc gia đại sự lên trước. Ý thơ nhằm ca
ngợi Trần Thủ Độ đã hiểu được “ý trời” trong cuộc chuyển giao lịch sử này. Bởi ông
muốn có một Lý Chiêu Hoàng nhìn về phía trước như những gì mà nhà thơ cảm nhận và
đọc được trong sử sách. Quan trọng hơn, đó chính là điều mà lịch sử cảm nhận và mong
đợi. Một Lý Chiêu Hoàng sẵn lòng thắp lên một ngọn lửa cho tương lai.
Trong số những nhân vật lịch sử trên đất Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm không
thể không nhắc đến Ỷ Lan. Đây là nhân vật được nhà thơ trở đi trở lại rất nhiều lần, hoặc
trực tiếp, hoặc gián tiếp thì cũng đều là những sự ca ngợi đặc biệt về biểu tượng người
gái quê Kinh Bắc đã làm nên những sự việc lạ lùng mà lừng lẫy một thời. Việc thần kỳ
nhất mà bà làm được ấy là hai lần thay chồng và con nhiếp chính làm rực rỡ ngai vàng,
uy nghi điện các; là “phận gái thay chồng” tổ chức binh lính và nhân dân chống ngoại
xâm trong thế oai hùng và thắng lớn. Vì vậy bà là nhân vật lịch sử, nhà văn hoá đích
thực. Hơn thế, là nhân vật lịch sử có nhân cách văn hóa lớn: từ một người gái quê Kinh
Bắc bình thường đã trở thành cung phi, thần phi, nguyên phi, rồi Hoàng Thái hậu, bà
được nhân dân phong là Quan Âm nữ, được vua phong là Thần nhân, được Triều đình
coi là Nữ hoàng, được dân Ngọc Linh thờ làm Thành hoàng Bản Thổ... Là người con đất
87
Kinh Bắc, Hoàng Cầm cũng dành tình cảm đặc biệt khi viết về nhân vật này. Trong bài
Theo dòng mẫu hệ tác giả có đôi nét so sánh giữa Ỷ Lan và Đặng Tuyên phi, qua đó
khẳng định cá tính và bản lĩnh, biểu tượng về nhân cách văn hoá của Ỷ Lan. Trong cuộc
đời tuy có lúc phải Chịu nỗi đời dang dở nhưng bà vẫn giữ nguyên nhuỵ hồng, giữ
nguyên cái cốt cách, bản chất văn hoá của người con gái đất Kinh Bắc.
Có thể nói, mọi hình thái ý thức đều là sự phản ánh của thế giới khách quan thông
qua chủ thể con người. Trong ý nghĩa ấy thì sáng tác văn học vừa mang tính chủ quan,
vừa mang tính khách quan. Nó không đơn thuần chỉ là một hoạt động phản ánh mà còn
là hoạt động sáng tạo - sự sáng tạo vừa mang tính trực tiếp vừa mang tính gián tiếp độc
đáo để cuối cùng tác phẩm ra đời như là nảy sinh trong cuộc sống một hiện tượng thẩm
mỹ hoàn toàn mới mẻ. Tác phẩm ra đời là kết quả của một quá trình tích lũy, thai nghén
“mang nặng đẻ đau”. Nhà văn đưa tác phẩm tới tay bạn đọc cũng như đặt đứa con vào
cuộc đời với bao lo toan hy vọng. Liệu những điều mình nghiền ngẫm, trăn trở và thể
hiện bằng hình tượng nghệ thuật này có tìm được sự trân trọng, đồng cảm của người đọc
như là sự gặp gỡ tri kỷ, tri âm? Rõ ràng là dù muốn hay không, tác phẩm văn học vẫn giữ
vai trò là điểm tiếp xúc giữa thế giới bên trong của người nghệ sỹ với thế giới quan bên
ngoài hay nói cách khác: một tác phẩm văn học không đứng im trong suốt quá trình tồn
tại của nó, nhờ sự tiếp nhận của người đọc mà nó có sức sống trường cửu, bất chấp thời
gian và không gian (cố nhiên là với những tác phẩm văn học chân chính và nổi tiếng).
Trở về với Kinh Bắc, nhà thơ Hoàng Cầm rất đỗi tự hào với những con người của
quê hương, những anh hùng Kinh Bắc trong lịch sử dân tộc. Các biểu tượng nghệ thuật
trong thơ Hoàng Cầm hoàn toàn được trân trọng bởi họ đều là những “nhân kiệt” điểm tô
cho gương mặt quê hương, làm sáng danh Kinh Bắc trong trang vàng sử biếc từ thuở
hồng hoang đến hiện đại. Đây thực sự là những câu chuyện bằng thơ hết sức trữ tình mà
Hoàng Cầm đã đan dệt lại trong các trang thơ của mình. Đọc thơ ông, nhất là những bài
trong tập Về Kinh Bắc mới thấy được chính Hoàng Cầm, chính cái dòng thơ đặc thù sâu
xa thầm kín của ông, trong đó có những tình yêu quê hương tha thiết, có những huyền
thoại của thời lập quốc, có những linh hiển của tổ tiên, có những bí ẩn không nên lời và
đôi khi còn phảng phất hình ảnh kỳ bí... tất cả trộn lẫn với nhau thành một tuyệt phẩm về
vùng Kinh Bắc.
Với bút pháp vừa lãng mạn vừa hiện thực, hư ảo, Hoàng Cầm đã làm sống dậy
không gian văn hoá tâm linh của những nhân vật truyền thuyết và lịch sử trên đất Kinh
88
Bắc từ những vị Vua, vị tướng, công chúa đến những người nông dân bình thường (An
Dương Vương, Thánh Gióng, Hoàng Hoa Thám, Ỷ Lan, Mỵ Châu, Trương Chi...) làm
cho họ như đang đối thoại với con người hiện tại vậy. Có thể nói họ là những người góp
phần làm nên những biểu tượng văn hóa dưới hai góc độ là: người anh hùng và người
nghệ sĩ. Miêu tả về những nhân vật này, nhà thơ hẳn phải có một tình cảm đặc biệt với
con người và vùng đất quê hương. Tình yêu quê hương xứ sở chính là tình yêu nước
trong ông, nó ngấm vào máu thịt ông từ thuở ấu thơ để rồi trở thành cái bản ngã nghệ
thuật mang sắc thái và cá tình riêng biệt của ông. Kinh Bắc như một dòng sông văn hoá
chảy đều trong ông để rồi lắng đọng lại những lớp phù sa văn hoá ấy là các trang thơ,
trang văn ẩn chứa bao giá trị nghệ thuật luôn đón đợi sự khám phá, giải mã của bạn đọc.
2.3.2. Biểu tượng người mẹ
Mẹ là mẫu - là Mẹ của muôn loài. Muôn loài phải vươn lên bản chất mẫu để
trường tồn, để vô hạn. Mẫu là hiện thực tinh thần của bản nguyên nữ tính, là sức sống
biểu hiện ở khắp mọi nơi và sức sống này chính là bản nguyên tinh thần thể hiện qua
hình hài phụ nữ. Trạng thái bản nguyên của Thánh mẫu là người mẹ và là trinh nữ, thể
hiện đồng thời khả năng của thế giới và niềm cực lạc thần thánh. Trong phân tâm học
hiện đại, biểu tượng người mẹ có giá trị một mẫu gốc. Người mẹ là dạng thức đầu tiên
của anima mà mỗi cá thể con người sở nghiệm, tức là cái vô thức Người mẹ còn tượng
trưng cho bản năng đã thăng hoa ở mức hoàn hảo nhất và một sự hoàn hảo nhất của tình
yêu thương, dinh dưỡng, sự nồng ấm, sự an toàn của chỗ trú thân...
Loài người sống cũng luôn phải hướng về mẹ. Tình mẹ là trường cửu, là bất
tuyệt. Đó là một ý nghĩa bao trùm và biểu hiện những giá trị nhân sinh quan, thế giới
quan về sự toàn vẹn của triết lý ấy: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước
trong nguồn chảy ra (ca dao).
Có thể nói, hình tượng người mẹ là biểu tượng tinh thần, một trong những hình
tượng nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam. Hình tượng ấy vừa phản ánh khí thế hào
hùng của dân tộc, vừa là biểu trưng của văn hóa truyền thống và hiện đại của nhân dân
Việt Nam. Như một nỗi niềm ân nghĩa thiêng liêng, xưa cũng như nay, trong quan niệm
về Bà mẹ - Tổ quốc của người Việt Nam là hướng về cội nguồn, hướng về người mẹ đã
sinh ra dân tộc này, con người của đất nước này. Đó là một trong nhưng biểu trưng đẹp
nhất, sáng chói nhất, tượng trưng sâu sắc nhất về hình tượng Tổ quốc. Người mẹ, một
hình tượng có khả năng khái quát được tầm vóc, phẩm chất của Tổ quốc Việt Nam. Nó,
89
thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà anh dũng, kiên trung, giản dị, đau
thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và tươi thắm vô ngần. Những bà mẹ, người chị ấy
đã làm nên chân dung Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam.
Hình tượng người mẹ không chỉ xuất hiện trong thơ Hoàng Cầm, mà nó nảy sinh
từ trong sâu thẳm của văn học dân gian, văn học cổ điển Việt Nam. Tuy nhiên, qua thơ
Hoàng Cầm, qua thơ ca cách mạng giai đoạn này, mới được thể hiện một cách rõ nét và
tập trung nhất. Hình tượng người mẹ đã xuyên suốt trong thơ Hoàng Cầm và tỏa sáng
như chất lân tinh. Đó là những hình ảnh tiêu biểu kết tinh thành chân dung Mẹ.
Hình tượng người Mẹ xuất hiện khá nhiều trong thơ ca Việt Nam hiện đại, như
trong thơ của Tố Hữu, Xuân Quỳnh... Có thể nói, phần nhiều đời thơ Hoàng Cầm được
khơi nguồn từ hình ảnh của người mẹ. Mẹ luôn là nơi để nhà thơ ký gửi tâm hồn mình,
dù đi đâu, ở đâu ông cũng luôn nhớ về mẹ như nhớ về một kỷ niệm đằm thắm mà dịu
ngọt, với niềm nhớ thương vô hạn. Ý niệm đó thường không thể tách rời sự yêu thương.
Mà tình thương là chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là an lành. Cũng dễ hiểu vì
ông vốn là thi sĩ “Theo dòng mẫu hệ”. Hoàng Cầm làm những bài thơ về mẹ, bài nào
cũng thấy hay, cũng chất chứa nỗi niềm yêu thương, và nó như những lời hát ca ngợi
công lao mẹ.
Theo khảo sát của chúng tôi, trong tập thơ chính, tập thơ cột sống của ông - Về
Kinh Bắc có tới 34 lần trên 48 bài thơ tác giả trực tiếp nhắc đến hình ảnh người mẹ. Tại
sao Hoàng Cầm nói nhiều tới Mẹ như vậy? Đúng như tên tập thơ - Về Kinh Bắc - là về
với quê hương, mà “nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng người Mẹ. Mẹ là hiện thân
trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương”, huống chi mẹ nhà thơ “vốn là một cô gái
Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “lúng liếng” thật tinh tế, đôi mắt rất
quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển thanh tao” [17, tr.195]. Hơn nữa, mẹ ông lại là
người con gái hát quan họ hay nổi tiếng, “năm nào cũng được các bà lão làng Bựu Sim -
quê gốc mẹ tôi - khen thưởng”... Và như thế, Hoàng Cầm đã được thừa hưởng dòng máu
nghệ thuật dân ca quan họ từ người mẹ vào thơ mình. Mẹ là biểu tượng của cả một kho
tàng yêu thương dịu ngọt, bầu trời của hạnh phúc và giản dị, của thiêng liêng và cao quý
mà nhà thơ đã bơi lội, đằm mình trong thế giới ấy. Điều đó đã tạo nên những ảnh hưởng
của văn hoá quan họ cho sáng tác thơ ông ở tập này. Về Kinh Bắc (1959 - 1960) cũng
chính là tập thơ để thi sĩ “Dâng hương hồn mẹ” trong tâm trạng của đứa con muốn trở
về với Mẹ quê hương:
90
Ta con chim cu về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
Về tụ nóc cây rơm...
Ngay nhịp một - Khấn nguyện - tác giả cũng coi đó như một nén tâm nhang để
chia sẻ với mẹ những gánh nặng nhọc nhằn trong cuộc đời. Trong đó Đêm thổ là bài mở
đầu cho tập thơ, cũng là lời mở đầu cho nỗi nhớ của người con xa quê nay trở về với đất
Mẹ yêu thương. Quê hương và Mẹ luôn là bầu sinh quyển chứa chan những tình cảm
trong tâm hồn nhà thơ. Trong phần Vĩ thanh của tập Về Kinh Bắc ông tâm sự “những
buổi sớm mai, chích choè trên cây mít, con chèo bẻo, con bói cá ở cọc cầu ao, tiếng chim
cu ngày mùa, ríu rít vợ chồng chim én đầu hồi mái nhà tranh tre thuở bé... bây giờ đâu?
Nhớ mà buồn. Thời gian đã đuổi chúng ta đi về đâu, hay chúng bây giờ không thích chơi
với tôi nữa? Hơn 70 năm rồi, cứ nhớ đến bầu sinh quyển ấy là trong lòng tôi bỗng nao
nao một cuộc hồi sinh... vậy là chúng đi vào thơ tôi từ bao giờ tôi chẳng biết”. Và khi nhà
thơ đã dâng đầy nỗi nhớ ấy trong tâm hồn thì cũng là lúc tuôn tràn nó thành những vần
thơ đầy xúc động về Mẹ: Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc.
Trở về với mẹ là trở về quê hương trong nỗi nhớ bồi hồi. Tình cảm nhân văn cao
đẹp trong thơ ca là mối quan hệ sâu sắc giữa nhà thơ và cuộc đời. Tình cảm này được thể
hiện khá sâu đậm trong phong trào thơ ca lãng mạn 1932 - 1945 nói chung. Đó là nỗi
buồn khi phải chia xa quê hương, xót xa trước cảnh quê hương bị thiên tai địch hoạ, bị
chiến tranh tàn phá liên miên, nên họ phải cảm thông chia sẻ với số phận của những con
người bất hạnh và luôn hướng về tình cảm gia đình - mẹ con và hướng về chiều sâu của
cội nguồn văn hoá - lịch sử dân tộc với những ẩn ức tình cảm khác nhau. Chính vì thế mà
khi Hoàng Cầm Về Kinh Bắc là trở về với những kỷ niệm của tuổi thơ, của ký ức nhưng
luôn được hâm nóng trong huyết quản và trái tim của nhà thơ:
Chiều xưa giẻ quạt voi lồng
Thân cau vụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông (Đêm thổ).
Viết về mẹ, Hoàng Cầm chìm sâu trong những dòng cảm xúc không dễ gì dứt ra
được. Ông miêu tả bằng thứ ngôn ngữ hết sức tình cảm, chân thành: cúi lạy mẹ, bế em về
nằm khoanh lòng mẹ, nhớ sữa mẹ, cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ; được nằm mẹ gối
đầu tay; Hơi mẹ ơ hờ, Mẹ ơi... Mẹ là nơi che chở lòng con thơ dại, từ khi trong thai, đến
91
lúc Mẹ đau trở dạ/ Sinh con ra cho đến lúc mẹ không còn nhìn được con nữa. Mẹ là
chiếc nôi diệu kỳ ẵm con, đón con trở về bất cứ lúc nào, là nơi để nhà thơ làm điểm tựa
tâm hồn, do vậy Mẹ luôn gần gũi, động viên con. Tuổi thơ con muốn gì được nấy, từ
những tấm áo. Áo là biểu tượng ái hữu, phúc bẩm, là dấu hiệu chia sẻ tâm hồn cùng một
nền văn hóa tinh thần, thể hiện cùng một phong tục. Áo chính là thân thể của con người,
mẹ cho con áo chính là cho cái phúc bẩm, thân thể, tinh thần với con: Con tìm những thứ
được rồi đây/ Áo bông đón rét có/ Áo lụa sang hè có/ Mẹ mới may, Mẹ gọi về chia bánh
đa... (Đứa trẻ). Con nào thiếu thứ gì? Mẹ luôn là hiện thân của những ngọt ngào, sự ngọt
ngào của những lời ru, của dòng sữa... Hoàng Cầm và thơ ca của ông được sinh ra từ
chính những sự ngọt ngào ấy:
... À... ơi...
Câu ru mẹ mới
Có bàn tay vỗ tóc...
... ngủ đi con...
Nhớ mẹ, Hoàng Cầm thường gọi Mẹ ơi/ Mẹ ơi.... Đó là tiếng gọi của Đứa trẻ
đang thổn thức một tấm lòng thương nhớ khôn nguôi. Với mẹ, con bao giờ cũng bé
bỏng, dù trong cô đơn hay hạnh phúc thì nhà thơ vẫn như có mẹ ở bên. Mẹ là người luôn
dõi theo bước đi của con từ khi con còn chập chững, cả đến khi con đã trưởng thành... Có
lẽ biểu tượng gắn bó và xuyên suốt hơn cả đối với người Việt đó là biểu tượng MẸ. Thời
mẫu hệ, mẹ là biểu tượng của sức mạnh, là biểu tượng của sự bảo vệ. Mẹ (Thần Mẫu)
được khắc trên chuôi dao, tiếp sức cho các chiến binh Đông Sơn. Mẹ là biểu tượng của
sự sinh thành con người. Theo truyền thuyết, mẹ luôn gắn liền với các biểu tượng khác
nhau; đất mẹ, quả bầu mẹ là những biểu tượng mẹ - người sinh thành; Mẹ Lúa là biểu
tượng cho người mẹ nuôi dưỡng. Mẫu Thoải (Mẹ Nước), Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ
Rừng)… là biểu tượng của bà mẹ chở che, phù hộ. Tư duy về mẹ mạnh đến nỗi người
Việt đã “mẫu hóa” một số vị Phật. Tứ pháp quyền năng như thế vẫn mang dáng dấp của
người phụ nữ. Quan Âm ở Ấn Độ vốn là nam, nhưng vào đến Việt Nam bỗng hóa thành
Phật Bà. Rồi Quan Âm nghìn tay nghìn mắt nhìn thấu khắp nỗi khổ của chúng sinh và tế
độ muôn loài, hay Quan Âm Tống Tử ôm con trong lòng đau đáu và bất diệt, đó là
những biểu tượng sâu sắc nhất trong lòng người Việt. Ở mảnh đất này, chỉ có mẹ mới là
người xoa dịu và chở che.
92
Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ dành hẳn phần đầu của tập Về Kinh Bắc để
nói về hình ảnh người mẹ, về quê hương. Hoàng Cầm nhớ về quê, về Mẹ với tâm trạng
thức tỉnh, mê man từ cảnh cũ người xưa, và tất cả nay đều lẩn khuất trong bóng nhân
gian cô tịch của một cõi viễn miền xa thẳm khó nắm bắt. Con trở về với Mẹ nên con
Khấn nguyện để được mẹ phù hộ. Trong niềm khát khao của nỗi nhớ, hình ảnh người
mẹ vừa hiện lên quen thuộc, vừa gần gũi thân thương, xong lại cũng rất xa xôi mờ ảo.
Cái “nhân ảnh” ấy liệu có còn là thực hay đã về với bến quê của đời người? Hình ảnh mẹ
nghèo Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa với nụ cười đẹp mê ánh sáng từ Miệng hé hạt na
nhoà bến vắng, và sự hy sinh của người mẹ biết đến khi nào con mới đền đáp cho được
Gió mát này Mẹ quạt/ từ chênh chếch nẻo tàn trăng (Đợi mùa). Hình tượng thơ đã bị
nhoè mờ nét nghĩa thực để tạo nên một dòng cảm xúc trong hư vô trong sự đối lập thực -
ảo, xưa - nay. Bao giờ cũng vậy, xưa là cái đẹp, là sự sống, là cái để hướng tới, trong khi
đó, nay lại là miền không gian cô quạnh, không gian của chiều sâu lịch sử văn hoá trong
nỗi nhớ, của những hồi ức, những kỷ niệm. Nỗi nhớ tràn vào tâm hồn ông như lớp rêu
xanh phủ trên nền thềm cũ...
Nhớ và thương yêu mẹ, Hoàng Cầm đều có thơ về mẹ. Trong kháng chiến chống
ngoại xâm, mẹ hiện lên tần tảo, chịu thương, chịu khó, gần gũi với bao đức hy sinh vì
dân vì nước. Đó là biểu tượng người mẹ với bao phẩm chất lớn lao, thiêng liêng. Đó là
điển hình của người phụ nữ, người Mẹ - Việt Nam, Mẹ của mỗi chúng ta. Với mẹ, hy
sinh cho các con là hạnh phúc và chẳng cần đền đáp. Hình tượng mẹ Kinh Bắc trong bài
Bên kia sông Đuống: Mẹ ta lòng đói dạ sầu/ Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.../
... Mẹ già lại quảy gánh hàng rong/ Bước cao thấp bên bờ tre hun hút... như đang trong
bước đường từ miền cổ tích dân gian ra để giúp con vậy. Ý thơ như một ám ảnh nghệ
thuật đọng mãi trong tâm hồn bạn đọc. Mẹ được hiện lên trong rất nhiều cung bậc khác
nhau, ngôn từ thể hiện giản dị, không đao to búa lớn. Mà giả như giàu có ngôn từ bao
nhiêu đi nữa, nhà thơ cũng không nói được về mẹ hay hơn, nhiều hơn thế. Một đời mẹ
thân cò lặn lội, chưa một lần con thấy mẹ thở than, chưa một lần con thấy mẹ thảnh
thơi... Nhìn về mẹ, Hoàng Cầm có một cái nhìn lịch sử, thời gian, một thứ thời gian đằng
đẵng, chắt chiu, tạo dựng, đắp bồi, để có những định hình trong cốt cách Việt Nam từ
thuở Âu Cơ.
Có thể nói trong thơ Hoàng Cầm, biểu tượng người mẹ là một dòng sông - dòng
sông mẹ. Dòng sông ấy chảy suốt chiều dài thời gian lịch sử Kinh Bắc, lịch sử Việt
93
Nam 4000 năm, lịch sử kể từ khi Việt Nam có văn hoá đến nay. Sông Mẹ chảy suốt
hồn thơ, đời thơ Hoàng Cầm từ khi người con đất Kinh Bắc này biết làm thơ đến nay.
Dòng sông ấy chảy qua các giai đoạn, thời kỳ sáng tác thơ khác nhau nhưng thời kỳ
nào cũng độc đáo và giàu bản sắc. Trong các thời kỳ ấy dòng sông tiếp nhận nguồn
nước của các sông khác... nhưng mạch chính của nó vẫn từ nguồn Mẹ rồi lại “luân hồi”
đổ về Mẹ - quê hương.
Những biểu hiện về sự hóa thân của người mẹ, người phụ nữ anh hùng vào
non sông, đất nước là sự tiếp nối quan niệm truyền thống về con người thiên nhiên,
con người vũ trụ của nhân dân ta. Niềm thiêng liêng cao cả của họ đã trở thành biểu
tượng văn hóa của dân tộc, những di tích lịch sử muôn đời của non sông, đất nước.
Họ trở thành một lẽ sống bất diệt của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.
Hình tượng người mẹ Kinh Bắc là nét đẹp của lòng vị tha nhân hậu, thủy
chung, là sự biểu hiện sức sống mãnh liệt, ý chí quật khởi của con người nơi đây. Sự
miêu tả, cảm nhận về hình ảnh người mẹ qua thơ hoàng Cầm xuất phát từ cội nguồn
sâu thẳm của truyền thống văn hóa dân tộc, từ nòi giống Lạc Hồng của mẹ Âu Cơ và
Lạc Long Quân. Đấy là phẩm chất đẹp đẽ được tinh lọc từ dòng sữa mẹ của hôm qua
và hôm nay. Trở về hòa nhập trong tình biển mẹ, mạch ngầm kia được nuôi dưỡng
trong vị mặn ân tình đầy chất trí tuệ và ngời ánh lân tinh. Qua biểu tượng người Mẹ,
Hoàng Cầm đã khắc họa thêm một nét đẹp truyền thống của tâm hồn Kinh Bắc, bản
sắc văn hóa Việt Nam.
Với tính chất là một biểu tượng văn học, biểu tượng người mẹ trong thơ
Hoàng Cầm được xuất hiện ở nhiều cung bậc và được thể hiện bằng nhiều trạng thái
tình cảm, cảm xúc và niềm trân trọng, tự hào khác nhau. Tựu chung lại có thể nói thơ
ông viết về mẹ chính là viết về biểu tượng của một nét văn hoá- văn hoá Mẫu của
Việt Nam nói chung và của Kinh Bắc nói riêng, nó được ảnh hưởng, giao thoa, tiếp
biến từ một tín ngưỡng văn hoá Mẹ bản địa, và là sự ứng tác từ nền văn hoá vùng
miền vào cá nhân con người để hình thành nên một hồn thơ đa cảm với giọng điệu
ngọt ngào chất văn hoá quê hương. Văn hoá quê hương, văn hoá mẹ như những giọt
mưa rơi xuống cánh đồng thơ Hoàng Cầm để đằm lên một hương vị ngọt ngào như
những làn quan họ quê ông. Và đấy cũng chính là chất men để tạo nên một chất giọng
riêng ở nhà thơ của văn hoá Kinh Bắc.
94
2.4. Biểu tượng về văn hoá phong tục Kinh Bắc
2.4.1. Biểu tượng lễ hội
Không gian nghệ thuật là một loại quan niệm nghệ thuật, nói như Trần Đình Sử
nó "là một hiện tượng tâm linh nội cảm, chứ không phải là hiện tượng địa lý và vật lý"
[114, tr.143]. Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật vốn đã được tổ chức lại
theo một điểm nhìn, một trường nhìn nhất định, trở thành hình thức phản ánh bên trong
của hình tượng nghệ thuật và được xây dựng trong sự thụ cảm, trong ý thức, trong quan
hệ của người nghệ sĩ về thời gian và con người.
Như vậy hiện thực cuộc sống được chuyển hóa vào văn học nghệ thuật theo hai
quy luật: quy luật phản ánh và quy luật ý đồ chủ quan của tác giả. Trong sự tái hiện thế
giới nghệ thuật của mình, không gian nghệ thuật trong tác phẩm nghệ thuật luôn chứa
đựng trong nó cái “mã văn hoá”, “mã mỹ học” (Lốt man).
Lễ hội cổ truyền là một hình thái tín ngưỡng gắn bó chặt chẽ với làng quê, vùng
quê, là hiện thân của cái thiêng liêng. Có thể nói rằng “tính thiêng” là một tính chất đặc
thù của lễ hội, hay nói cách khác nó là linh hồn của lễ hội, nó bao trùm lên toàn bộ không
gian và thời gian, lên mọi hành động của con người trong nghi lễ, trò tục, lên mọi chi tiết
trong lễ vật dâng cúng... Nền tảng của văn hóa Việt Nam được hình thành trên đất Kinh
Bắc từ thời mở nước, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nơi đây được coi là vùng
đất của những lễ hội dân gian tiêu biểu của cư dân Đồng bằng Bắc bộ như lễ hội thờ thần
nông, thần thổ công, thờ thành hoàng làng, thờ thần thổ địa, thờ thần mây, thần mưa,
thần sấm, thần chớp... Hàng năm xuân thu nhị kỳ, vào mỗi dịp nông nhàn, người dân
Kinh Bắc đua nhau đi mở hội và trảy hội. Rất nhiều cặp trai gái đã nên duyên khi mùa
hội đã tan. Nổi tiếng hơn cả là hội Lim hát quan họ, hội pháo Đồng Kỵ, hội rước phật
chùa Dâu, hội thánh Phù Đổng, hội thượng võ Yên Thế, hội Chen Nga Hoàng, hội Vân
Hà, hội Đền Đô... Có thể nói cả mùa xuân Kinh Bắc là mùa của lễ hội, người đi trảy hội
khắp nơi, khắp các làng, các huyện: Mồng bốn là hội kéo co/ Mồng năm hội Ó chẳng
cho nhau về/ Mồng sáu đi hội Bồ Đề/ Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao/ Ai ơi mồng chín
tháng tư/ Không đi hội Gióng cũng hư mất đời (Ca dao). Chính không gian lễ hội Kinh
Bắc ấy đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm theo một cách
riêng. Với Hoàng Cầm, Kinh Bắc thực sự đã trở thành một vùng thẩm mỹ lớn để nhà thơ
đắm say tâm hồn cho những sáng tác nghệ thuật thơ ca của mình.
95
Vùng Kinh Bắc có tới hơn 60 lễ hội cổ truyền (có cả hội đền, hội đình, hội chùa,
hội mùa...). Trong thơ Hoàng Cầm hiện lên hầu như đầy đủ các lễ hội độc đáo vùng Kinh
Bắc. Trong tập Về Kinh Bắc nhà thơ dành riêng cả một nhịp (nhịp 6 - Điểm trang) để
nói về hội hè Kinh Bắc và hội nào cũng trở thành những biểu tượng của con người và
văn hoá nơi đây. Chính điều đó đã tạo nên một thế giới nghệ thuật, một không gian nghệ
thuật đầy hấp dẫn và tiêu biểu trong thơ ông.
Lễ hội là một hiện tượng mang ý nghĩa văn hoá về cội nguồn và lịch sử của dân
tộc Việt. Thời gian lễ hội không chỉ là thời gian nghỉ ngơi mà còn là không gian vui chơi,
là ngày hội thăng hoa của tâm hồn, là nơi tìm về của thế giới tâm linh, được biểu hiện
trong những phong tục tập quán, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Mỗi một lễ hội đều
chứa đựng những nét độc đáo và sắc màu văn hoá riêng.
Đây là một Hội vật diễn tả cuộc thi vật đã được Hoàng Cầm thi vị hoá, cổ tích
hoá, hay nói cách khác mang đậm sắc màu, không gian của huyền thoại:
Cứ lệ 3 năm mở một lần, người tham dự là những đô lực sĩ, hội mở trên đất
Kinh Bắc. Mục đích là để nhà vua tuyển chọn dòng võ tướng, giỏi tiên phong có sức
mạnh vật núi núi lăn, ngáng sông sông chảy. Hội là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của
nhiều trai tài Kinh Bắc. Đến với hội thi, họ là những người hùng muốn trổ hết tài năng
học được từ khi còn tấm bé, mong sao dành được phẩm tước từ tay vua. Họ quyết tâm
thi đấu, đấu từ sáng sớm hôm trước đến rạng đông hôm sau, làm cho ức vạn người xem
khiếp sợ, cát lòng sông phải tản mác khắp nơi. Như thế đủ thấy hội thi hoành tráng đến
cỡ nào. Hình tượng người chiến thắng hiện lên thật kỳ vĩ và hết sức lãng mạn, mang
vóc dáng của sử thi và huyền thoại: Vươn tay chạm giời/ Tóc hất sao mai/ Quỳ xuống/
Vọng về cửa khuyết/ Lạy hai lạy/ Lưng vàm rạp cỏ... Qua “hội vật” những cô gái Kinh
Bắc cũng chọn cho mình được tấm chồng như ý, xứng đáng và họ cũng trở thành
những mĩ nữ, tân thê của người thắng cuộc: Nàng chấm thi khép mắt/ Kén được một
người/ Nụ cười chếch đôi mắt lạ.
Có thể nói "hội vật" là lễ hội truyền thống thể hiện sức mạnh của người dân vùng
Kinh Bắc nói riêng và của làng quê Việt Nam nói chung. Ở Kinh Bắc, hội vật diễn ra sôi
nổi ở các vùng Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Sơn, Yên Dũng, Yên Thế, Việt Yên... Hội đã
phản ánh được đặc trưng mang tính biểu tượng của những sinh hoạt văn hoá dân gian
tiêu biểu, sự gắn kết văn hoá cộng đồng lành mạnh mang bản sắc dân tộc: đó là ý thức tự
cường và truyền thống đấu tranh chống giặc giữ nước. Truyền thống ấy của người Kinh
96
Bắc luôn đóng góp cho dân tộc những vị tướng lừng danh, những đô vật nổi tiếng ở mọi
thời đại.
Thi sợi bún cũng là một dạng sinh hoạt văn hoá dân gian tiêu biểu của người dân
làng Hồ đất Kinh Bắc. Làm bún là một công việc rất công phu và cẩn trọng đối với
người thợ. Nhà thơ Hoàng Cầm lại miêu tả cuộc thi ở một biểu tượng nghệ thuật khác:
mượn hình ảnh sợi bún để nói lên số phận của những cô gái Kinh Bắc. Họ quyết tâm làm
nên sợi bún để được giật giải và một giấc mơ đi vào không gian của Đêm vàng Kinh Bắc.
Nhưng đó là giấc mơ không an lành: Con trăn đen thoi thóp/ Ơi đêm Đông Hồ/ Nát nhàu
thân tố nữ.... Quá tập trung vào việc làm bún để đi thi, người gái Kinh Bắc đã để tuổi hoa
niên qua mau, khi nhận ra cái thực tế ấy thì đã quá muộn. Và họ phải hứng chịu cái bi
kịch của cuộc đời mình khi mà đã đứt quãng hoa niên, để rồi giờ đây sợi bún ngà đâu có
vá lại dung nhan... cho nàng được.
Lễ hội dân gian của người Việt Nam nói chung và người dân Kinh Bắc nói riêng
luôn giải phóng một số cách ứng xử mà thường bị nhiều quy ước đạo đức xã hội nghiêm
ngặt ràng buộc. Bởi thế, mượn cớ đi lễ hội để giải phóng cá tính, giải phóng cá nhân là
điều có thể chấp nhận được trong cộng đồng xã hội. Frued cho rằng lễ hội dân gian cho
phép người ta có những hành vi quá trớn có thể chấp nhận được. Theo đó, lấy cớ là ngày
lễ hội, người ta vi phạm điều mà bình thường xã hội cấm đoán. Trong các lễ hội, say
rượu hoặc sàm sỡ và hành vi kiểu hội hè được châm trước khi người ta thoát khỏi cái
nhàm chán ngày thường.
Văn hóa Nho giáo đã làm hạn chế rất nhiều tính chất của các lễ hội phồn thực của
người Việt. Tuy vậy, một số phong tục từ xưa vẫn còn xuất hiện trong các lễ hội người
Việt như: trò bắt chạch trong chum ở xã Văn Trung - Lập Thạch - Vĩnh Phúc. Tiêu biểu
hơn cả là Hội Chen Nga Hoàng ở làng Ngà - Quế Võ - Kinh Bắc xưa mà Hoàng Cầm
miêu tả rất rõ nét, mang tính biểu tượng cho lễ hội phồn thực Kinh Bắc, hay nói cách
khác đó là một lễ hội truy hoan. Trong nền văn hóa thế giới, “các lễ hội truy hoan là biểu
hiện của sự thoái triển, sự trở về trạng thái hỗn mang, sự buông thả trụy lạc trong rượu
chè, hát hò, dâm dật, trong các hành vi kỳ quặc, hư trá, làm mất hết khả năng kiềm chế
của lý trí; nhưng mặt khác, đây là một hình thức tìm lại cái nguyên sơ, thả mình vào các
sức mạnh sơ đẳng của sự sống, khi thấy cuộc sống thường nhật, phép giao tiếp lễ độ, lịch
sự, sinh hoạt đô thị trở thành nhạt nhẽo vô vị. Người ta đã nhiều lần nhận thấy chính vì
vậy mà các cuộc truy hoan thường là các tiết mục chính trong các ngày hội… chúng
97
tượng trưng cho ước muốn mãnh liệt thay đổi cuộc sống…” [17. tr.510]. Hội chen ở đây
kéo dài từ mồng 6 đến 15 tháng giêng (vừa sau Tết Nguyên đán) và mang đậm yếu tố
của văn hoá phồn thực. Đây là một dịp để trai gái, già trẻ vui chơi thoả thích mà không
cần ý tứ. Hội chính thức được bắt đầu sau lễ cúng ở đền Mỵ Nương trong núi. Đầu tiên,
nam giới, cả trẻ và già chen đám con gái bà già, sau đó phụ nữ chen lại nam giới (dân
gian có câu: trẻ dong với trẻ, già dong với già). Trong khi chen nhau nam giới có thể áp
ngực họ vào ngực phụ nữ hoặc sờ soạng cơ thể người phụ nữ. Đây là loại hình hội phồn
thực có Trò chơi tinh thần và trò chơi cơ thể độc đáo nhất vùng Kinh Bắc và có lẽ cũng
là độc đáo nhất cả nước (?). Hội đã hội tụ đầy đủ các thành phần trong làng, trong vùng
tham gia (kể cả nông dân, địa chủ, cường hào). Tất cả đều đến đây xem và... chen, chen
từ ban ngày đến ban đêm và chen đến một chỗ nhất định (kín đáo) thì dừng lại đúng lúc
thời gian tối nhất để (…):
Í ới... sao chìm
Đòi đôi ú tim... tìm
Oà ập... cánh chim... e ấp...
Có thể nói, các cuộc truy hoan ở đây là không giới hạn, không luật lệ. Và người
làng không phạt vạ cô gái nếu mang thai vào đêm đó.
Nói đến Hội Gióng, Hoàng Cầm đã làm sống dậy cái không khí truyền thống anh
hùng, thượng võ của cha ông với một giọng thơ đầy hào sảng. Gióng là một nhân vật anh
hùng. Theo truyền thuyết, Gióng đã dẹp tan quân xâm lăng phương Bắc (giặc Ân). Ông
là con của mẹ Đất (mẹ trồng lúa, trồng cà) và cha Trời (mưa dông, gió dật). Là con của
mẹ thực và cha ảo. Hội Gióng nói đến người anh hùng làng Phù Đổng, mà Phù Đổng là
biểu tượng của Kinh Bắc, rộng hơn, là biểu tượng của tuổi trẻ anh hùng Việt Nam, là
biểu tượng của chính Việt Nam. Để kỷ niệm và tưởng nhớ người anh hùng nhỏ tuổi này,
người dân làng Phù Đổng tổ chức hội Gióng từ ngày 6 -12/4 hàng năm theo lịch trăng.
Hội diễn ra với nhiều hình thức lễ nghi, lễ rước, biểu diễn nhiều trò diễn dân gian để
tưởng nhớ tới bữa ăn, sức mạnh và các cuộc chiến tranh thời văn hoá nông nghiệp cổ
xưa. Một vết tích khác của thời xưa là vào đêm ngày 7/4, nam nữ thanh niên tổ chức các
trò chơi đuổi bắt nhau dọc bờ đê sông Hồng nhằm tái hiện lại cuộc sống, cuộc chiến thời
quá khứ của dân tộc được diễn lại một cách tượng trưng. Qua đó thể hiện tâm lý xã hội
rất to lớn. Chính chúng là kết tinh ý thức công dân và tinh thần dân tộc; ngoài giải trí,
chúng là mối dây liên kết nhắc nhở họ về những lợi ích chung, nguồn gốc chung, cùng
98
một giống nòi, ý thức giáo dục, rèn luyện để bảo vệ giang san mỗi khi lâm nguy. Đây
cũng là sự thể hiện giá trị phù chú và hình thái của sự dâng cúng, chuyển giao năng
lượng tâm thần để phát triển các khả năng thích ứng của xã hội:
Trăm đôi gái trai anh tú
Ngựa lồng bãi rộng
Gươm thần phun lửa đốt môi.
Hình ảnh thơ chứa sức mạnh vô biên của tuổi trẻ với "ngựa lồng", "gươm thần",
"phun lửa" đã thể hiện được sự oai hùng với bản lĩnh tột cùng của một dân tộc vốn có
truyền thống chống giặc giữ nước. Chính nhờ truyền thống oai hùng đó mà sau này nhân
dân ta "hào kiệt đời nào cũng có”. Hào kiệt được gợi dậy từ lốt chân của Thánh Gióng.
Cậu bé làng Phù Đổng bay về trời nhưng vẫn để lại những vết chân ngựa và những dấu
tích của các bụi tre Đằng Ngà - cũng là những vết tích của truyền thống, của lịch sử còn
đọng lại tạo nên cái hồn cốt riêng cho văn hoá dân tộc Việt. Phải nhìn cho đặng thấy
những cái ao nhỏ ngày nay vẫn còn nằm rải rác, trải dài trên các cánh đồng huyện Quế
Võ - Bắc Ninh kia mới thấy được hết những giá trị lịch sử được in dấu từ vết chân của
ngựa Gióng. Bản chất của lễ hội là một hoạt đông văn hoá tâm linh, biểu hiện một
khuynh hướng tín ngưỡng. Trong khi hành lễ, chúng ta cảm thấy thực sự đang liên giao
với một thế giới thiêng liêng, nhưng gần gũi, ở đó có những vị thần xuất chúng được tôn
thờ trong tâm trí chúng ta từ tuổi còn thơ. Nhà dân tộc học người Pháp G.Dumoutier, sau
khi dự lễ hội Phù Đổng ở Việt Nam, đã viết vào sổ lưu niệm tại đền Gióng như sau: “Cái
cảnh mà chúng tôi đã chứng kiến sẽ mãi mãi in trong tâm trí như một trong những cảnh
đáng ngạc nhiên nhất là chúng tôi đã thấy được... Tại Châu Âu cổ kính của chúng ta, có
dân tộc nào có thể tự hào là hàng năm còn kỷ niệm một sự kiện anh hùng trong lịch sử
của mình cách ngày nay hàng hai nghìn ba trăm năm như thế”.
Miêu tả chiếc gậy tre - gậy thần đánh giặc thời Văn Lang đến chiếc gậy tình yêu
"đi xe duyên cô tấm, ông Hoàng" thời đại Lý - Trần và chiếc gậy nghĩa tình đi vớt
Trương Chi với nơi "gấm đỏ lầu tây" trong Hội Gióng là một biểu tượng thơ mang nhiều
ý nghĩa biểu tượng văn hoá, đồng thời chứa dựng nhiều tính sáng tạo với những giá trị
nhân văn cao cả. Xây dựng lên biểu tượng thơ như thế, nhà thơ đã hoá thân vào không
gian của lễ hội - thơ mình để trở thành một Thánh Gióng hữu hình trong cuộc đời, cũng
luôn biết khát khao tình yêu và hạnh phúc, mượn không gian lễ hội để thể hiện niềm khát
khao tình yêu âu cũng là một phong cách thơ Hoàng Cầm. Nếu để ý ta sẽ thấy rằng trong
99
tất cả các lễ hội mà ông miêu tả thì hầu như đều nói về truyền thống văn hóa và nói về
tình yêu, mượn cớ nói về lễ hội để nói về truyền thống văn hóa và nói về tình yêu. Nói
cách khác, đằng sau không gian văn hoá của những lễ hội dân gian ấy chứa đựng cả một
biểu tượng tình yêu lớn: tình yêu nam nữ - trai gái, tình yêu quê hương, tình yêu dân tộc
luôn đằm sâu trong tâm hồn ông với ý thức về cội nguồn, về lý tưởng cái đẹp, lý tưởng
thẩm mỹ nhân văn nơi cuộc đời trần thế...
Hội Long Khám, Hội Vân Hà cũng là một sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của
Hoàng Cầm, ông dám mạnh dạn nói về chuyện mà người dân thường tránh nói: chuyện
nam - nữ nơi chốn tu hành, ở đây là chuyện ni cô chùa Long Khám khát khao tình yêu
trần tục:
Hội Long Khám đêm sao chi chít
Bồ đề mở lá thả ni cô
Thiện nam vin khói đi quanh chùa...
Mơ Từ Thức...
... mẫu đơn một nhành rơi....
Nhà thơ đã khéo gợi về câu chuyện tình giữa Từ Thức và Giáng Tiên - người nhà
trời đẹp như hoa ngọc lan mười búp chắp, như hoa mẫu đơn- biểu tượng của sự phú quý,
đẹp đẽ, giản dị nhưng vô cùng hấp dẫn đặc biệt là bởi cái màu đỏ của hoa mẫu đơn (cả
hai loài hoa này đều thường hay trồng trong nhà chùa) để nói về ni cô chùa Long Khám.
Lấy cớ đi trảy hội để hò hẹn, gặp gỡ với ni cô là một hành động "vượt đèn đỏ" của giới
tu hành. Nhưng Hoàng Cầm muốn thể hiện khát vọng tự do cá nhân, tự do trong tình yêu
và hạnh phúc của những con người tuy vào chùa - nơi linh thiêng ở chốn thiền môn
nhưng chưa tắt được "lửa lòng". Song hành giữa cái đẹp, cái khát vọng tình yêu, nhục
dục bên cạnh cái linh thiêng âu cũng là một khía cạnh thơ- một phong cách thể hiện cái
giá trị phồn thực trong thơ Hoàng Cầm. Cùng với ngôn ngữ thơ vừa hiện thực, vừa siêu
thực của cỏ ba tầng, giò lụa nổi, giò mỡ chìm, lá sung bay, cùng âm thanh của những
tiếng chống giục, lợn kêu eng éc, tiếng dao phay liếc thành vại, tiếng chim lợn và cả điệu
nồi niêu... là sự tranh thủ của những người vừa đủ “men rượu nồng” đang dậy lên “men
tình" trong hội:
Hội tàn men
quẩn quanh nghiêng ngửa
Giật yếm đào túm vội đôi bầu...
100
Đó là thứ ngôn ngữ của tình cảm đang bị dồn nén, của sự hòa nhập giữa ký ức và
thực tại, thực thực hư hư tạo nên giọng điệu đầy chất trữ tình thiết tha với cuộc sống, với
tình yêu trên nhiều cung bậc khác nhau. Chính lối nghệ thuật thể hiện cái thực tại ấy đã
tạo thành một trường liên tưởng siêu cảm giác trong thơ ông. Tuy nhiên để có được điều
đó, Hoàng Cầm đã phải đắm mình vào trang thơ, trang quê để rồi tất cả cùng hòa đồng
vang lên thành một thứ giai âm tiêu giao, sâu lắng man mác nét buồn khôi nguyên. Vì
thế nên ngôn ngữ thơ ông thường lồng tự nhiên những câu dìu dặt, luyến lắy giọng dân
ca để tạo cho giai điệu bài thơ nhiều lúc xuất thần, vượt khỏi sự dụng công phu chữ song
vẫn mang dáng vẻ mới lạ, độc đáo, thú vị, góp phần quan trọng vào việc tìm tòi, đổi mới,
cách tân ngôn ngữ thơ hiện đại Việt Nam. Đọc thơ Hoàng Cầm không có cảm giác nhàm
chán một phần là do vậy.
Quả không sai khi nói Kinh Bắc là vùng đất của huyền thoại, cái nôi của văn hoá
dân tộc. Nhưng cái tài hoa của nhà thơ Hoàng Cầm đã làm sáng lên hồn dân tộc trong nét
vẽ của tranh Đông Hồ thì lại càng cộng hưởng sự hấp dẫn của không gian văn hóa lễ hội
Kinh Bắc. Và chất tài hoa kia đã khơi gợi được rất nhiều liên tưởng, khơi dậy được cảm
thức muốn sống lại trong hoài niệm, tâm hồn như muốn được thăng hoa lên từ những
dấu tích của lịch sử, huyền thoại, truyền thuyết đang hiển hiện sống động đến lạ lùng
này. Nhà thơ đã cảm nhận cái "hồn dân tộc" vừa xa xôi, vừa trừu tượng, vừa thật sống
động gần gũi thân thương, vừa sâu lắng và rồi đặng lưu giữ, làm ấm sáng mãi nguồn
mạch vô tận của sức mạnh văn hoá vùng miền, văn hóa dân tộc - cội nguồn đã làm nên
một bản sắc Việt Nam hôm nay.
Hồn dân tộc ẩn chứa trong những hình hài văn hoá ấy.
Trong dòng chảy của văn hoá Kinh Bắc còn có các lễ hội nổi tiếng cả vùng, cả
nước. Đó là hội Lim hát quan họ. Hội được tổ chức vào ngày 13 tháng giêng âm lịch,
đây là hội hát quan họ nổi tiếng vùng Kinh Bắc.
Nếu như hát Thường Thang là đặc sản văn hóa của người Mường ở Hòa Bình:
con gái Mường vừa lớn lên đã học cách đánh cồng dệt vải nên hai tay dẻo, bước chân
linh hoạt, nhún nhẩy duyên dáng, trong hội người Mường còn tổ chức thi hát Thường
Thang, cuộc thi này kéo dài có khi thâu đêm với những lời ca, điệu múa, tiếng trống... tất
cả cùng say sưa trong hương sắc, đất trời thì hội hát quan họ ở Kinh Bắc, đặc biệt là các
cuộc hát canh có khi còn kéo dài những mấy ngày với sự hội tụ các vẻ đẹp văn hóa của
một vùng quê văn hiến, do đó hát Quan họ được coi là loại hình văn hóa dân gian tiêu
101
biểu và được coi là biểu tượng của viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Trải
qua bao thăng trầm của xã hội và biến động của quê hương đất nước, lễ hội Kinh Bắc
không những không mất đi mà ngày càng phát triển phong phú hơn, tươi đẹp hơn, tỏa
sáng cùng truyền thống quê hương, thể hiện sức sống dồi dào, mạnh mẽ và vô tận của
văn hóa Kinh Bắc.
Một ý nghĩa văn hoá lớn khác của lễ hội trong thơ Hoàng Cầm là tác dụng giáo
dục con người, dù không có một lời rao giảng hay một bài học được viết thành văn. Điều
thấm thía nhất là các lễ hội ấy nhắc lại với mỗi người rằng chúng ta có một cội nguồn, để
từ đấy, lớp lớp con người sinh ra trên vùng đất này, đã lao động cật lực, chiến đấu kiên
cường đẩy lịch sử đi lên. Những bó lúa, bông ngô, hoa thơm, quả ngọt dâng lên thần linh
như kết tinh tình yêu quê hương, đất nước trong đó. Lễ hội dẫn ta về quá khứ xa xưa của
dân tộc, khơi dậy những tình cảm vừa trong lành, vừa sâu nặng để càng se kết bản thân ta
với quê cha đất tổ bằng những sợi dây vô hình bền chặt.
Nhìn chung thơ Hoàng Cầm đã dựng lại và phản ánh rõ nét những biểu tượng đặc
trưng tiêu biểu của không gian lễ hội đất Kinh Bắc. Từ đó mở ra một chiều kích mới, cái
nhìn mới trong việc thể hiện thế giới nghệ thuật thơ ca của mình từ ngôn ngữ, giọng điệu,
thể thơ và đề tài. Nhà thơ luôn lấy tình yêu làm tâm điểm để soi sáng và phản ánh bản
sắc văn hoá- xã hội cộng đồng làng xã người Việt cổ nói chung, bản sắc của vùng quê
Kinh Bắc nói riêng và cũng từ đó cũng nhân lên tình cảm yêu quê hương đất nước với
những ước mơ trong trẻo, nhằm dựng lại những giá trị văn hoá cổ truyền của vùng miền,
của dân tộc. Không gian lễ hội làm nổi bật được cái hồn cốt văn hoá Kinh Bắc trong
phong cách thơ ông. Không gian ấy hiện lên trong thơ ông thật nên thơ, sống động, cổ
tích, bản sắc và nhân văn biết bao. Điều đó chứng tỏ nhà thơ phải có một cảm xúc mãnh
liệt, một tình yêu lớn gắn bó tới mức máu thịt, "chân tay" với Kinh Bắc thì mới tạo nên
một khoảng trời thơ Kinh Bắc ấy. Qua đó còn khẳng định một điều rằng Kinh Bắc luôn
là vùng văn hoá, vùng thẩm mỹ lớn, độc đáo trong sáng tác thơ ca của Hoàng Cầm.
2.4.2. Hát Quan họ - một biểu tượng văn hoá thẩm mỹ độc đáo
Mỗi khi Tết đến xuân về, hoà trong không khí ấm áp, tràn trề sức sống của đất
trời, hoa lá, cỏ cây và con người muôn nơi là dịp hội ở các làng quê vùng Kinh Bắc được
bung ra thể hiện hết mình. Nhưng đặc sắc, ấn tượng và cuốn hút hơn cả vẫn là hội của
các làng Quan họ. Người Quan họ thường mách bảo nhau rằng: cái xuân của bạn hãy
còn dài lắm, dù nguyệt hoa hoa nguyệt có trùng phùng đến mấy thì hãy cũng để đó, trúc
102
mai có dập dìu bao nhiêu thì bạn cũng đã vội gì mà không dám để ra một bên để đi chơi
hội, vì mỗi bước đi của bạn trong ngày xuân Quan họ đều vương vấn những tình cảm
cao đẹp của con người, với những khát vọng thưởng thức văn chương nghệ thuật tuyệt
diệu, trong đó là những giọng ca vang, rền, nền, nảy, ấm áp, mượt mà, luyến láy, xoắn
quện đến mê hoặc lòng người.
Đôi cánh thơ Hoàng Cầm được sinh ra từ tiếng hát của người mẹ Kinh Bắc:
Tiếng mẹ hát mọc cho đôi cánh trắng/ Nghìn lần đập vẫy vùng... chim trời từng đôi cất
cánh/ bay dài trên quê hương... (Tôi người làng quan họ), do vậy khi viết những vần
thơ về quan họ, Hoàng Cầm luôn có ý thức truyền tải cái hay, cái đẹp, cái truyền thống
văn hoá của ngôn ngữ, giọng điệu Quan họ và khẳng định Quan họ là bản sắc văn hoá,
văn hiến mang tính trường tồn, cần bảo lưu, gìn giữ và phát triển. Và ông coi văn hoá
Quan họ chính là chất Men - thơ để làm dậy lên những giọng điệu ngọt ngào và sắc màu
ngôn ngữ mang đậm chất Kinh Bắc trong sáng tác thơ mình.
Quan họ là loại hình ca hát dân gian đặc trưng của người Kinh Bắc, người hát hát
đối nhau bằng các làn điệu truyền thống và rất ứng biến. Hội Quan họ diễn ra ở trong
nhà, trên sân đình, trước cửa chùa, hay bồng bềnh trên những chiếc thuyền giữa ao hồ -
dấu tích xưa của các vết chân ngựa Gióng hoặc của dòng sông Dâu, dòng Tiêu Tương đã
một thời vang vọng tiếng hát chàng Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp.
Đến hẹn lại lên. Vào hội, các liền anh áo the khăn xếp, các liền chị nón thúng quai thao,
áo mớ ba mớ bẩy được gặp gỡ với những tình cảm nồng ấm, thân tình, tinh tế và lịch lãm
theo lối riêng của người Quan họ. Họ hát lên những làn điệu trong kho tàng ngôn ngữ
dân ca địa phương đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Ngôn ngữ Quan họ là sự hội tụ tuyệt
vời của ngôn ngữ thơ ca và nhạc hoạ trong những cung bậc tình cảm giao hoà giữa nam
và nữ, giữa con người với con người, con người với thiên nhiên tạo vật và thần linh... thể
hiện khát vọng vươn tới cuộc sống hạnh phúc, phồn thịnh, thuỷ chung như nhất. Trong
số các nhà thơ hiện đại Việt Nam có thơ hay về Quan họ phải kể đến Nữ sĩ Anh Thơ,
Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thanh Kim... Nữ sĩ Anh Thơ đã có những lúc bơi lội trong
những làn điệu dặt dìu, tình tứ của giọng ca Quan họ như Cô chi đoàn phó: Câu Quan
họ hát về Kinh Bắc/ Có con sông Thương nước chảy đôi dòng/ Có con sông Cầu nước
chảy lơ thơ... Nhưng có thể nói, Hoàng Cầm là nhà thơ đã tiếp thu sáng tạo nhịp điệu
Quan họ bằng một trường liên tưởng thẩm mỹ kỳ lạ để làm nảy ra những hình ảnh, ngôn
ngữ- đó là thứ ngôn ngữ thơ ca dân gian Kinh Bắc kết hợp với ngôn ngữ hiện đại, và chỉ
103
có ngôn ngữ trong thể thơ tự do mới làm được việc đó một cách hiệu quả nhất, và với
giọng điệu mới lạ hơn cả. Đặc biệt ở hệ lời:
Trầu têm cánh phượng... lỡ thề tử sinh
Lý cây đa... Lý huê tình
Nguyệt cầm ngại gảy... dỗ dành ai ca
Người ơi người ở... Hay là...
(Thể phách tinh anh).
Viết về Quan họ, Hoàng Cầm tập trung nhiều vào không gian văn hoá Quan họ
trong Hội Lim. Có thể nói, chưa hội nào ở Kinh Bắc hội tụ nhiều làng quan họ, nhiều
canh hát quan họ như hội Lim - lễ hội hát Quan họ nổi tiếng nhất vùng. Về với hội Lim
là về với không gian của một trời thơ và nhạc, với sắc thái của một không gian văn hoá
truyền thống riêng biệt ở xứ Bắc - Kinh Bắc. Không trực tiếp hoặc đi sâu miêu tả tiếng
hát, nhưng nhà thơ đã nói được cái tinh túy linh hồn văn hoá Quan họ. Đó là những giai
điệu “ứ hự”, “hừ la” đầy nghẹn ngào, ẩn ức, thứ ngôn ngữ riêng biệt chỉ có trong lời ca,
lời thơ Quan họ: Ứ hự tình ơi/ Đố ai lấp được Ngân hà/ Để em về lấp lời ca đêm
trường/ Bụi nào vẩn được mặt gương/ Vẫn soi nắn lại khăn vuông đợi mình (Chân trời
tua tủa mảnh trai), hoặc Ứ... hự... hề... hi... ha.../ U...ơi... ời... ới... a... (Chân dung tự
thú). Đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng gặp thứ ngôn ngữ, nhất là cái giọng điệu
mượt mà, say đắm ấy như: chuốt rơm bện ổ, nhai trầu, chùm cau, têm trầu cánh
phượng, ngực yếm, đêm trăng, con thuyền, se chỉ trắng, con thoi dệt sợi, nhà chứa, sợi
xích thằng, sân đình, sân chùa, ba mươi sáu khúc bổng trầm, hát ru lanh lảnh, rồi
những giọng, trốn, trộm, tìm... Qua sông tìm nhau/ Tìm giải yếm nâu/ Bắc cầu đôi ta/
Tìm thắt lưng xanh/ vắt cành hoa lý/ Hỡi con chim khuyên/ Hót chuyền cành tre/ Có
đến bên hè (Khi mùa xuân về)...
Âm vang của tiếng hát như muốn vượt khỏi không gian cả một vùng quê rộng
lớn, vượt không gian sông Cầu, sông Đuống, sông Thương..., vượt Kinh Bắc để đến với
thế giới Năm châu bốn bể, với bạn Châu Phi đêm đi trong rừng cũng thoáng nghe lanh
lảnh lời ca. Và với Hoàng Cầm tiếng hát quan họ không chỉ là biểu tượng cho một
không gian văn hóa riêng Kinh Bắc mà còn là bản sắc của một Việt Nam văn hoá và văn
hiến: Từ Việt Nam thôn xóm bé phương nào cũng mang tiếng hát bay trong trời. Tiếng
hát quan họ được coi là một cuộc hôn phối mê say giữa dân ca đồng bằng và trung du
104
nằm trong vùng văn hoá Luy Lâu, văn hoá sông Hồng của nền văn minh đất Việt với dân
ca nước Chàm của các vua họ Chế từ thế kỷ thứ XI, thế kỷ rực rỡ nhất của vương triều
Lý. Hoàng Cầm đã biết "học cách tôn trọng... văn hóa của các thực thể văn hóa khác trên
mọi bình diện” [157, tr.96] nhưng vẫn "biết nâng niu gìn giữ giá trị bản sắc văn hóa của
nhóm mình trong khi vẫn không tách biệt ra khỏi nền văn hóa lớn hơn” [158, tr.96]. Nhà
thơ Hoàng Cầm ngay từ nhỏ đã đắm chìm, say mê trong những lời ru Quan họ ngọt
ngào, từ những giọng hát đầu được cất lên làm say cả gỗ đá, bài ca xưa vắt vẻo cầu vồng
ở bếp từng nhà, ở trên môi cụ già, ở quê mẹ, quê cha... Vì thế có người nói chất quan họ
trong thơ ông đã đạt đến độ hàn lâm. Hoàng Cầm từng khẳng định "Tôi người làng quan
họ" và tiếng hát Quan họ còn mang đậm nhiều giá trị nhân văn, nhân sinh cao cả trong
lối sinh hoạt đặc trưng thể hiện tình người Quan họ:
Tiếng hát quan họ nâng gót chân lầm lỗi,
qua cầu về với mẹ cha
Nước mắt thương làm từng giọng gõ phù sa
đã thành ngọc trai giữa dòng sông Đuống.
(Tìm đến chân trời).
Hiểu được tình cảm con người biết yêu lao động, hay hình ảnh những người phụ
nữ biết chăm lo trong “năm liệu bảy lo...”, và họ hiểu rằng học “công- dung- ngôn-
hạnh” từ Quan họ là nững bài học nhân văn sâu sắc nhất. Hội Lim và tiếng hát Quan họ
thực sự là "bài ca vỗ sóng ngàn xưa”. Dưới ngòi bút tài hoa và trí tưởng tượng bay bổng,
phóng khoáng của Hoàng Cầm, Tiếng hát quan họ lại trở thành biểu tượng cho cái đẹp
và nghệ thuật văn hoá dân gian của Kinh Bắc, của Việt Nam và của cả thế giới:
Tôi mơ
Tiếng hát quan họ
Cất cao thành trái núi khổng lồ
Ném xuống biển cồn sóng gió... (Tìm đến chân trời).
Đó không chỉ là những câu thơ đơn thuần, mà còn là tâm trạng, tâm tư, nguyện
vọng, là tình cảm quê hương trong ông và hơn thế nó còn được lồng vào trong tình yêu
quê hương đất nước. Lễ hội Quan họ Kinh Bắc luôn hội tụ các vẻ đẹp văn hóa của một
vùng quê văn hiến, là loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu và được coi là viên ngọc quý
trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của xã hội và biến động của
105
quê hương đất nước, văn hoá Quan họ không những không mất đi mà ngày càng phát
triển phong phú hơn, tươi đẹp hơn, tỏa sáng cùng truyền thống quê hương, thể hiện sức
sống dồi dào, mạnh mẽ và vô tận của văn hóa Kinh Bắc.
Có thể nói "Sự sáng tạo bắt nguồn từ truyền thống văn hóa, nhưng nảy nở trong
tương tác văn hóa với các nền văn hóa khác. Vì vậy, di sản dưới mọi hình thức đều
đáng được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho thế hệ tương lai để lưu giữ kinh nghiệm
và cảm hứng của loài người, để đẩy mạnh sáng tạo trong sự đa dạng và thúc đẩy đối
thoại giữa các nền văn hóa” [159, tr.97]. Văn hoá quan họ là một phần không gian văn
hoá rất đặc trưng ảnh hưởng đến đời sống thi ca Hoàng Cầm và cũng từ đó ông có
những mạch ngầm thi liệu phù hợp với cảm xúc thi ca. Chính giá trị nghệ thuật đó
được bảo tồn và phát huy trong ông, là nguồn thi hứng, thi liệu dồi dào để nhà thơ viết
lên những vần thơ đậm chất giọng Quan họ. Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên trong chính
vùng đất này nên ông là người hiểu và say mê Quan họ. Tình yêu đó đã đồng điệu với
tâm hồn ông mà sinh thành nên bản ngã nghệ thuật Quan họ trong thi tứ ông. Dân gian
và bác học, truyền thống và hiện đại được lồng trong điệu thơ Hoàng Cầm tạo nên vẻ
đẹp Kinh Bắc diễm lệ, tài hoa, một nét thẩm mỹ “rất riêng” cho phong cách thơ ông.
Do vậy không gian văn hoá Quan họ trong thơ Hoàng Cầm luôn có một giá trị độc lập
trong toàn bộ di sản thơ ông.
Trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật, con người sáng tạo các biểu tượng
văn hoá để tác động và để thấy được diện mạo tinh thần của chính mình. Các biểu tượng
cùng với truyền thống văn hoá đã góp phần gìn giữ, lưu truyền và bảo tồn những giá trị
vốn có. Biểu tượng hàm chứa trong nó những ước định, hiển nhiên là trực tiếp cùng
những bừng sáng trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Đó là vật môi giới giúp ta tri
giác cái bất khả tri giác, là chiếc chìa khoá kỳ diệu của văn hoá con người, biểu hiện cụ
thể thế giới tinh thần với những giới hạn trong cảm nhận thế giới, không gian, thời gian
và con người trong các hình tượng nghệ thuật, đồng thời biểu tượng cũng được xem như
là một trong những thủ pháp nghệ thuật tích cực để tạo dựng hình tượng văn học phong
phú, giàu giá trị biểu cảm. Theo đó, các biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm là một sáng tạo
nghệ thuật đặc biệt được trưng cất lên từ vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc. Trong đó tác
giả đã tạo ra được một thế giới những hàm nghĩa sâu xa về thế giới thiên nhiên, con
người và phong tục tập quán, lịch sử của dân tộc, của nhân dân vùng Kinh Bắc một cách
sâu sắc và giàu ý vị nhân sinh.
106
Qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng một số hình ảnh và biểu tượng như trên,
chúng ta phần nào thấy rõ tài năng, sự sáng tạo tuyệt vời và vẻ đẹp tâm hồn của Hoàng
Cầm. Những hình ảnh, biểu tượng đó sẽ còn vương mắc mãi trong tâm trí người đọc, hay
đó cũng chính là sức sống của những trang thơ mang đậm giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hoá
sâu sắc về lề lối giao tiếp, phong tục, ẩm thực, về tình yêu nam- nữ, tình yêu quê hương
đất nước, giá trị nhân văn cao cả! Hoàng Cầm đã khẳng định tên tuổi của mình trong
dòng thơ trữ tình Việt Nam hiện đại bằng khối óc, trái tim và tâm hồn của một người
nghệ sĩ chân chính. Đặc biệt, không dừng lại với những gì đã có, nhà thơ vẫn luôn gắng
gượng với mọi nỗi đau bi kịch để dâng cho đời những trang hoa đẹp tươi. Viết thơ là viết
tiếp trang văn của sự sống, là trái tim còn đập và cuộc đời còn niềm vui, hạnh phúc. Viết
bằng tất cả huyết lệ của một đời con tằm nhả tơ, con yến nhỏ máu xây tổ. Viết bằng ngòi
bút dũng cảm, bằng vốn sống và miền tâm cảm, tâm linh ấp ủ trái tim thắm đỏ tình
người, tình yêu quê hương Tổ quốc! Đó chính là máu thịt, là phong cách, là thi pháp, là
tư tưởng nghệ thuật của Hoàng Cầm.
107
Chương 3
VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM
NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ
3.1. Quan niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học
3.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ
Trong cuộc sống, con người có khả năng truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho
người khác và sử dụng kinh nghiệm của nguời khác vào hoạt động của mình, làm cho
mình có những khả năng to lớn, nhận thức và nắm vững được bản chất của tự nhiên, xã
hội và bản thân… chính là nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội - lịch sử,
do sống và làm việc cùng nhau nên con người có nhu cầu giao tiếp với nhau và nhận
thức hiện thực. Trong quá trình lao động cùng nhau thì quá trình giao tiếp và nhận thức
không tách rời nhau: trong lao động, con người phải thông báo cho nhau về sự vật, hiện
tượng nào đó, nhưng để thông báo lại phải khái quát sự vật, hiện tượng đó vào trong một
lớp, một nhóm các sự vật, hiện tượng nhất định, cùng loại. Ngôn ngữ đã ra đời và thoã
mãn được nhu cầu thống nhất các hoạt động đó. Do vậy ngôn ngữ có một vai trò đặc biệt
quan trọng trong đời sống con người. Vậy ngôn ngữ là gì? Theo quan niệm của ngôn ngữ
học thì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu trong đời sống con người, "Ngôn
ngữ là ý thức thực tại thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy
cùng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra
là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác nữa" [154, tr.8].
Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ chức năng là một phương tiện để giao
tiếp và là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ được hình thành trong quá trình hoạt động và
giao lưu của mỗi cá nhân với người khác trong xã hội. Ngôn ngữ mang bản chất xã hội,
lịch sử và tính giai cấp. Nó “là phương tiện bảo lưu và truyền thông tin; là một trong
những phương tiện điều chỉnh hành vi của con người. Ngôn ngữ tồn tại dưới dạng nói
(lời, tiếng; lời nói, tiếng nói) và dạng viết (chữ, văn tự)... Ngôn ngữ dân tộc là phương
tiện giao tiếp bằng lời nói và chữ viết của một cộng đồng dân tộc; nó được hình thành ở
thời kỳ dân tộc phát triển thành quốc gia; tức là thành một cộng đồng người dùng chung
một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, cùng một đời sống kinh tế, có chung một
đặc điểm về tính cách và về văn hoá. Ngôn ngữ dân tộc là ngôn ngữ toàn dân, nó bao
gồm toàn bộ các biến thức về phương ngữ, ngôn ngữ thông tục, ngôn ngữ văn học (ngôn
ngữ viết); các biến thức này được thống nhất bởi có chung một vốn từ cơ bản, một hệ
108
thống ngữ pháp và (ở mức độ nhất định) một hệ thống ngữ âm. Cấu trúc thực tại của
ngôn ngữ dân tộc thống nhất bởi những yếu tố hằng xuyên ra khả năng hiểu biết lẫn nhau
giữa những con người nói cùng một ngôn ngữ dân tộc" [1, tr.229- 230].
Đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ là gắn chặt với tâm lý, tình cảm của quần
chúng nhân dân, do đó nó chứa đựng những tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt, mà "Ngôn ngữ
là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác không phải là tín
hiệu, chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một vật thể nước, đá, kết cấu của một cơ thể
sống...", tuy nhiên "là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và
không đồng loại, với số lượng không xác định... Trong ngôn ngữ, có khi một cái biểu
hiện tương ứng với nhiều cái được biểu hiện khác nhau, chẳng hạn, các từ đa nghĩa và
đồng âm, có khi nhiều cái biểu hiện khác nhau chỉ tương ứng với một cái được biểu
hiện, chẳng hạn các từ đồng nghĩa. Mặt khác, vì ngôn ngữ không những chỉ là phương
tiện giao tiếp và phương tiện tư duy mà còn là phương tiện biểu hiện tình cảm, cho nên
mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài nội dung khái niệm còn có thể biểu hiện cả các sắc thái
tình cảm của con người nữa" [44, tr.55-57-59]. Khi đi vào đời sống con người như là
một công cụ giao tiếp quan trọng, ngôn ngữ trong các ngành nghệ thuật có những khác
biệt cơ bản, theo Từ điển mỹ học phổ thông: "Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt
bao gồm những dấu hiệu, ký hiệu được sử dụng với mục đích trao đổi hoặc truyền đạt
thông tin. Trong nghệ thuật, mỗi chuyên ngành đều có ngôn ngữ riêng để diễn đạt loại
hình nghệ thuật của mình" [89, tr.116]
Ngôn ngữ gồm 3 bộ phận: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, tức là hệ thống các
quy tắc qui định sự ghép thành câu. Chức năng của ngôn ngữ thường được dùng để chỉ
nghĩa, thông báo và khái quát hóa. Với các chức năng ấy vừa làm phương tiện tồn tại,
truyền đạt và nắm vững kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người, con người có thể biểu
đạt hoặc tiếp nhận những trạng thái cảm xúc tình cảm cá nhân. Tuy nhiên khả năng
biểu cảm của ngôn ngữ rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Cùng một nội dung, nhưng
với nhịp điệu và âm điệu diễn tả khác nhau người ta có thể biểu đạt những tình cảm
cảm xúc khác nhau.
Qua đây ta thấy ngôn ngữ liên quan chặt chẽ với tư duy và trí tưởng tượng của
con người. Mối quan hệ chặt chẽ ấy mà ngôn ngữ có một vai trò to lớn trong tư duy,
tưởng tượng. Nó là phương tiện để hình thành biểu đạt và duy trì các hình ảnh mới của
tưởng tượng. Không có ngôn ngữ không thể tiến hành tưởng tượng. Chính nhờ ngôn ngữ
109
đã giúp con người chấp nối, gắn kết, kết hợp…những kinh nghiệm đã qua với những cái
đang xảy ra thành những biểu tượng mới chưa hề có. Ngôn ngữ giúp chúng ta làm chính
xác hóa các hình ảnh của tưởng tượng đang nảy sinh, tách ra chúng những thành những
mặt cơ bản nhất, sau đó lại tạo mối quan hệ riêng để xích chúng gần với nhau để tạo nên
một biểu tượng mới trong tư duy, tưởng tượng.
Tóm lại, ngôn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội được nảy sinh trong quá trình
hoạt động thực tiễn của con người. Trong thực tế cuộc sống, nhờ có ngôn ngữ mà con
người có khả năng thực hiện quá trình giao tiếp để trao đổi ý nghĩ, tình cảm kinh nghiệm
của mình với người khác, ngôn ngữ có vai trò hết sức to lớn trong quá trình hình thành
và phát triển tâm lí của con người nhất là đối với nhận thức… nhất là trong hoạt động
sáng tạo văn học nghệ thuật.
3.1.2. Quan niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học
Nói đến ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn học) trước
hết là nói đến ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm được dùng trong văn bản nghệ thuật. Ngôn
ngữ nghệ thuật còn được sử dụng trong lời nói hằng ngày và cả trong văn bản thuộc các
phong cách ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, trong văn bản chính luận để cho lí lẽ và lập luận
có sức thuyết phục, lay động lòng người, người viết vẫn có lúc dùng những từ ngữ và
biết những câu văn có tính hình tượng cụ thể và giàu sức biểu cảm.
Tuy nhiên, cần phân biệt ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ sinh hoạt. Ngôn ngữ
sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hàng ngày, dùng để thông tin, trao đổi ý nghĩ, tình cảm,... đáp
ứng những nhu cầu trong cuộc sống. Ngôn ngữ sinh hoạt chủ yếu thể hiện ở dạng nói,
những cũng có thể ở dạng viết. Trong văn bản văn học, lời thoại của nhân vật là dạng tái
hiện, mô phỏng ngôn ngữ sinh hoạt trong đời sống hàng ngày.
Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật được phân chia làm 3 loại: Ngôn ngữ tự
sự trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, kí sự, phóng sự…; Ngôn ngữ trong ca dao, vè, thơ
(nhiều thể loại khác nhau),…; Ngôn ngữ sân khấu trong kịch, chèo, tuồng,… Mỗi loại
trên có thể chia thành nhiều thể. Trong các thể loại này, các phương tiện diễn đạt có tính
nghệ thuật đan xen lẫn nhau để người đọc thẩm bình, thưởng thức, giao cảm: hoặc là cái
hay của âm điệu, hoặc vẻ đẹp chân thức sinh động của hình ảnh, hoặc những cảm xúc
chân thành gợi ra những nỗi niềm vui, buồn, yêu, thương trong cuộc sống. Theo đó, ngôn
ngữ nghệ thuật không chỉ thực hiện chức năng thông tin, mà điều quan trọng là nó thực
hiện chức năng thâm mĩ: biểu hiện cái đẹp và khơi gợi, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ ở
110
người đọc, người nghe. Ngôn ngữ nghệ thuật tuy lấy ngôn ngữ tự nhiên, hằng ngày làm
chết liệu nhưng khác với ngôn ngữ hằng ngày ở chức năng thẩm mĩ. Chính cái phẩm
chất thẩm mĩ mà nó có được ấy là do sự lựa chọn, xếp đặt, trau chuốt, tinh luyện của
người sử dụng theo các mục đích thẩm mĩ khác nhau, hay nói cách khác là theo ý đồ của
người nghệ sĩ khi sử dụng.
Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn
học, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của con
người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông
thường và đạt được giá trị nghệ thuật của bản chất xã hội thẩm mỹ.
Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn dân tộc đã được
nghệ thuật hoá. Ngôn ngữ đã được hình thành, chọn lọc, gọt giũa, trau chuốt… và đặc
biệt ngôn ngữ ấy phải đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ, xúc cảm được
nhận biết thông qua những rung động tình cảm. Điều đó khác hẳn với những xúc cảm
của khoa học - những rung động thuần túy thông qua suy lý và chứng minh.
Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Bất kỳ một tác
phẩm văn học chân chính nào cũng đều được viết hoặc kể bằng lời. Ở phương diện thể
loại văn học có lời thơ, lời văn. Ở phương diện chức năng và các thành phần cấu tạo của
lời văn nghệ thuật có lời tác giả, lời nhân vật, lời trực tiếp, lời gián tiếp… nói chung là lời
văn. Lời văn là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Lời văn thực chất là
một dạng ngôn từ tự nhiên đã được nhà văn tổ chức theo quy luật nghệ thuật về mặt nội
dung, phương pháp, thể loại, được đưa vào hệ thống giao tiếp khác mang chức năng khác
(không phải giao tiếp thông thường như lời nói thông thường). Nó mang những giá trị
đặc biệt, vừa truyền tải dung lượng thông tin nhất định, vừa mang tính thẩm mỹ cao.
Ngôn ngữ ở vị trí trung tâm của văn học nghệ thuật luôn thể hiện được cái phông văn
hóa và tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của con người không phải là ngôn từ nghệ
thuật, bởi ngôn từ nghệ thuật là ngôn từ được lựa chọn, được tổ chức thành văn bản cố
định, sao cho nói một lần mà có thể giao tiếp mãi mãi. Ngôn từ nghệ thuật có chức năng
đặc biệt trong việc giúp nhà văn hình thành nên tác phẩm nghệ thuật của mình. Đối với
mỗi nhà văn chân chính thì việc lựa chọn ngôn từ sao cho hợp lý với phong cách nghệ
thuật của mình là một điều rất quan trọng, bởi thông qua ngôn từ nghệ thuật mà nhà văn
đó biểu hiện trong tác phẩm, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra những chân dung văn học.
111
Tuy nhiên việc lựa chọn ngôn từ nghệ thuật cho những tác phẩm văn học của mình lại
không phải là một việc mà nhà văn đó có quyền tự quyết định. Ngôn từ nghệ thuật của
mỗi nhà văn do yếu tố văn hoá cá nhân, tài năng nghệ thuật, môi trường sống và mục
đích sáng tác chi phối. Ngôn từ nghệ thuật ghi dấu ấn của cá nhân nhà văn vào trong
từng câu chữ. Văn hoá chi phối đến phong cách nghệ thuật của nhà văn và vì vậy chi
phối đến ngôn từ nghệ thuật của nhà văn đó.
Việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật là một phương diện quan trọng giúp nhà văn
sáng tác, qua đó làm phong phú thêm cho ngôn từ nghệ thuật và ngôn ngữ đời sống. Việc
tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật của nhà văn giúp người đọc có trong tay một chìa khoá quan
trọng để khám phá thế giới nghệ thuật sáng tác cũng như phong cách nghệ thuật của nhà
văn đó. Ngôn ngữ là chất liệu của tác phẩm văn chương. M.Gorky đã nói: Ngôn ngữ là
yếu tố thứ nhất của văn học. F.de Saussure trong Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương
đã đưa ra luận điểm: “ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hệ thống ký hiệu biểu đạt
tư tưởng. Ngôn ngữ là sự hiện thực hoá của tư tưởng” [153]. Trong Hệ tư tưởng Đức,
Mác và Ăng ghen cho rằng: “Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn
tại cho người khác nữa, và như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và
cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ nảy sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với
người khác” [154, tr.8]. Về ngôn ngữ thơ ca, trong Mỹ học, Hêgel đã nêu lên ba đặc
điểm sau: thứ nhất là việc sáng tạo; thứ hai là trật tự các từ hay là hình tượng ngôn ngữ;
thứ ba là cấu trúc các trường cú. Có thể nói đây là ba đặc trưng quan trọng nhất của ngôn
ngữ thơ ca.
Trong tác phẩm văn học nghệ thuật thì ngôn ngữ được coi là yếu tố quan trọng. Ở
mỗi thể loại đều có những đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt, độc đáo. Mỗi nhà văn khi sáng
tạo nên tác phẩm, bên cạnh việc sáng tạo ra hệ thống nhân vật, hệ thống hình tượng, thế
giới nghệ thuật... thì cũng đồng thời sáng tạo hệ thống lời văn, lời thơ. Tuy nhiên, đó là
lời văn, lời thơ của cá nhân tác giả ấy, theo phong cách của từng cá nhân mỗi người để
tạo nên phong cách nghệ thuật riêng biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và các
biểu tượng trong sáng tác. Như vậy, sáng tạo văn chương cũng đồng thời là quá trình
sáng tạo ra một hệ thống ngôn ngữ. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật của một nhà văn nhà
thơ chính là nghiên cứu xem nhà thơ đó tư duy như thế nào trên chất liệu ngôn ngữ và
các hình tượng nghệ thuật. Là một thành tố văn học, ngôn ngữ trong văn chương nói
112
chung đã tồn tại như một phương tiện để bảo tồn gìn giữ, phát huy và sáng tạo văn hoá
hữu hiệu. Một ngôn ngữ dân tộc vốn là kết quả của sự phát triển văn hoá, lịch sử, con
người của cả dân tộc ấy. Do vậy trong ngôn ngữ dân tộc có sự mã hoá toàn bộ những trải
nghiệm văn hoá - lịch sử của dân tộc.
Bắt nguồn từ ngôn ngữ trong dân gian, ngôn ngữ trong văn hoá Quan họ, qua
lăng kính chủ quan của mình, Hoàng Cầm đã chọn lọc, gọt giũa, tái tạo và không ngừng
sáng tạo ngôn ngữ Việt để cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn, trong sáng, giàu giá
trị biểu vật, biểu cảm và tầng sâu giá trị thẩm mỹ. Và quan trọng hơn, ngôn ngữ thơ
Hoàng Cầm đã trở thành phương tiện, hình thức để biểu đạt những giá trị, những biểu
tượng văn hoá vùng quê Kinh Bắc, ngôn ngữ thơ ông không dàn trải mà vẫn chồng xếp
được nhiều tầng ý nghĩa. Nhà thơ sáng tác theo kiểu vô thức, xúc cảm theo dòng tâm
tưởng để hiện lên đầy những biến động của tâm lý, nên ngôn ngữ nhiều khi rời rạc
tưởng chừng như cách xa, không ăn nhập gì với nhau, nhưng thực ra lại có cấu trúc
chặt chẽ, không hề ngẫu nhiên hay lỏng lẻo... Thái độ và tinh thần làm việc đặc biệt của
thi nhân đã lựa chọn cho mình cách biểu đạt bằng hệ thống hình tượng liên kết nhiều
kênh ngôn ngữ có dấu ấn riêng hết sức độc đáo. Đó là hình tượng ngôn ngữ của văn
hoá Quan họ có chiều sâu ngữ nghĩa, được mỹ lệ hoá, làm đẹp hơn những gì vốn quen
thuộc, bình thường...
Ngôn ngữ văn hoá quan họ như một thứ phù sa màu mỡ lắng đọng trong hồn thơ
Hoàng Cầm, là thứ làm nên bờ bãi của Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/ Tranh Đông
Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp (Bên kia sông Đuống).
Cái thế giới ngôn ngữ văn hoá quan họ tình tứ, réo rắt ấy như mời gọi, thắt buộc lòng
người, duyên dáng trữ tình đẹp như tranh làng Hồ, nền nã như những liền chị quan họ…
Tất cả được dồn nén trong cảm xúc thơ ông, mà tình cảm, cảm xúc trong thơ là cái cần
thiết nhất, nó tạo cho tác giả những xúc cảm tuôn trào, để suối nguồn ngôn ngữ sẽ lấp
lánh theo sau. Tiếng thơ, hồn thơ Hoàng Cầm cất lên như để chuyên chở một nền văn
hoá, văn hiến quan họ đất Kinh Bắc đi hội nhập với nền văn hoá trong cả cộng đồng văn
hoá Việt.
Hoàng Cầm là một trong những điển hình về sự nghiêm túc trong việc nỗ lực lao
động nghệ thuật, nhất là trong việc sáng tạo ngôn ngữ. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ Hoàng
Cầm, chúng tôi nhận thấy có những đặc điểm nghệ thuật đáng lưu ý sau:
113
3.2. Đặc trưng vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ
Hoàng Cầm
3.2.1. Sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ
Trước hết, đó là sự kết hợp của ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học vùng
Kinh Bắc:
Thơ Hoàng Cầm là đặc sản tinh thần tự nhiên trong sáng của vùng quê Quan họ
Kinh Bắc nổi tiếng. Thơ ông có sự kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ
bác học, trong đó yếu tố dân gian được thừa kế từ ngôn ngữ Quan họ là chủ yếu. Do hồn
quê đọng lại những làn điệu dân ca phóng khoáng trong tâm hồn ông nên bút pháp
Hoàng Cầm đã thể hiện được sự độc đáo, súc tích, ngôn ngữ thơ tinh luyện đầy biến ảo,
cấu tứ phóng túng, câu cú tung ra hay tạo sự bất ngờ… tạo nên một phong cách rất riêng
Hoàng Cầm, tạo nên nét riêng so với các tài tử khác ở trấn Kinh Bắc.
So với các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian khác như hát xoan, hát ghẹo, hát
chèo, hát ca trù, hát ví dặm, hát Thường Thang, hát tuồng, cải lương, ... thì hát Quan họ
có thời gian tồn tại lâu đời nhất (tuổi thọ hàng ngàn năm). Điều đó đã chứng minh hát
Quan họ là một nét văn hóa bản địa không những không bị phong kiến phương Bắc đồng
hóa, tiêu diệt, mà ngược lại vẫn phát triển nhờ bản sắc riêng và sức sống của nó trong tư
duy dân tộc và tâm hồn người dân vùng Kinh Bắc. Khẳng định được về mặt thời gian,
Quan họ len lỏi vào không gian của vùng miền, luồn lách qua các sông ngòi, bao quanh
các núi đồi, đình chùa, thôn làng Kinh Bắc để hoà cùng đời sống sinh hoạt văn hóa,
phong tục của nhân dân.
Lời ca Quan họ gắn với nếp sống, sinh hoạt, những tập tục, lề thói đã kết tinh tâm
hồn, tình cảm và những ước mơ khát vọng cao đẹp về nhiều mặt của người Kinh Bắc.
Nhờ thế, Quan họ đã hun đúc lên một bản lĩnh Văn hóa vùng hết sức độc đáo và là linh
hồn của văn hóa Kinh Bắc. Nơi đây có 49 làng Quan họ cổ với khoảng 200 làn điệu,
được hát suốt bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Quan họ giống như bầu khí quyển đặc
thù của lối sinh hoạt văn nghệ dân gian vùng đất này, nó còn có một lối giao tiếp hết sức
văn hoá từ phong độ lịch sự, trang nhã bên ngoài cho đến ngôn ngữ, cử chỉ cả khi đứng,
ngồi, mời chào… đều biểu thị sự tôn trọng quý mến: Mấy khi khách đến chơi nhà/ Đốt
than quạt nước chuyên trà khách xơi/ Trà này ngon lắm người ơi/ Mỗi người mỗi chén,
bõ công tôi chuyên trà (Lời ca Quan họ).
114
Hoàng Cầm là nhà thơ đất Kinh Bắc, ông coi nơi đây chính là một vùng thẩm mỹ
đặc biệt để bản ngã thơ được sinh thành và toả sáng, do vậy thơ ông luôn đậm đà chất
liệu Kinh Bắc. Ngôn ngữ Quan họ trong thơ Hoàng Cầm trước hết là ngôn ngữ dân gian
giàu chất thi vị, được chắt lọc, sáng tạo và không ngừng tái tạo từ ca dao tục ngữ, từ
truyện nôm giàu tính biểu tượng, hình tượng và giàu giá trị biểu cảm. Ngôn ngữ ấy cũng
hấp thụ cả tinh hoa của những vần thơ ca bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng, góp
phần hun đúc những giá trị riêng cho phong cách thơ ông. Đó là thứ ngôn ngữ thơ mộc
mạc của thể thơ tự do, cùng với nghệ thuật sử dụng vần, nhạc điệu linh hoạt, những hình
ảnh nên thơ, nên nhạc đã làm lời ca Quan họ trong thơ ông đạt đến độ hoàn mĩ. Nhưng
chính sự mộc mạc của ngôn từ, qua cách đối đáp (phải không ngừng thay đổi nhịp) lại
tạo thành một sức mạnh riêng làm xao xuyến lòng người và đọng mãi dư âm của bài thơ.
Đó còn là sự mộc mạc từ tiếng nói đích thực của trái tim ông, giọng điệu thơ trong bài
Quan họ mở đầu, cũng là một điển hình như vậy: Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm/
Tháng tám ao hồ mát lạnh/ Làng quê còn níu lại hương sen/ Mười tám gái trai/ Thả một
con thuyền/ Song song chín đôi/ Mắt nhìn trong mắt/ Nón nghiêng tăm tắp/ Ngày mai ai
chắc được gần ai.
Cùng với khao khát yêu đương, Quan họ còn biểu đạt một tình yêu chân thật sâu
đằm với một vùng quê trù phú có “Sơn thuỷ hữu tình”, có “đường về Quan họ”, có đầu
làng cây đa, cây gạo chon von, một “quán Dốc chợ Cầu”, một “quán trắng phố Nhồi”,
những cửa chùa mở rộng cho trai thanh gái lịch sum vầy ca hát, những đêm trăng suông,
những “dòng sông phẳng lặng nước đầy”, một sông Cầu “nước chảy lơ thơ”, sông Dâu
“ba bốn chiếc thuyền kề”, những bến đò ngang vẳng vang tiếng gọi, những hội bơi trải,
hội chùa Tiêu... quanh miếu, quanh đền, những “mùa xuân chơi hội thong dong” với
“mùa hè tắm mát ở sông Lục đầu” và trăm thứ hoa đua nở… đã ăn sâu vào lời thơ Hoàng
Cầm như một nốt nhạc tính không thể thiếu mỗi khi nhà thơ động chạm đến cung đàn
Quan họ: Quen nhau vì tiếng hát/ Qua sông tìm nhau/ Tìm giải yếm nâu/ Bắc cầu đôi ta/
Tìm thắt lưng xanh/ Vắt cành hoa lý/ Hỡi con chim khuyên/ Hót chuyền cành tre/ Có đến
bên hè… (Khi mùa xuân trở về). Gắn với thế giới thiên nhiên phong phú ấy là những
con người có vẻ đẹp tâm hồn toả ra từ đôi mắt “lúng liếng”, cái duyên trong nụ cười
“lúm đồng tiền”, trong vành “nón ba tầm thao tua”, biết làm “một nong tằm thành năm
nong kén”, biết gắn đời mình với những thửa ruộng “năm sào” với những canh hát thâu
đêm “bổng trầm, non nỉ...”, cảnh và người ấy đã tạo nên một quê hương Quan họ và một
115
tình yêu quê hương nồng thắm thiết tha. Hoàng Cầm hiểu rõ điều đó và ông đã tiếp tục
khai thác để đưa vào ngôn ngữ thơ nhằm gìn giữ, không để mai một, phôi pha các giá trị
văn hóa, tinh thần mà nhiều thế hệ cha ông đã dày công tạo dựng.
Chính những tình cảm ấy đã góp phần hun đúc nên tâm hồn, tài năng của người
Quan họ. Những làn điệu dân ca kỳ diệu tồn tại bền lâu từ bao đời nay, tắm đẫm thiên
nhiên đất trời Kinh Bắc, di sản văn hóa tinh thần ấy đã phả hơi thở nồng nàn vào trái tim
con người bằng bầu khí quyển thơ mộng và quyến rũ, chúng như chất phù sa màu mỡ
lắng đọng vào hồn thơ Hoàng Cầm để làm nên một hồn thơ Kinh Bắc - mềm mại, huê
tình, tinh tế, trong trẻo mà đậm đà tình người, lấp lánh tài hoa, song cũng nén nghẹn vô
cùng. Chất Quan họ trong thơ ông còn thể hiện ở hệ thống ngôn từ đặc trưng của ngôn
ngữ quan họ đầy ắp các mỹ từ với những: chẻ tre đan nón ba tầm/ cho cô mình đội xem
hội đêm rằm; hay với những Ứ… hự… hề… hi… ha…/ U… ơ… ời… ới… a…; rồi những
điệu lý, cùng nhổ sào, vượt cạn, phận đen tóc trắng, núm hồng thơm thảo, canh cải lưng
canh, gối lằn nếp nếp… Nói chung đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng thấy ngôn ngữ
Quan họ với những đặc trưng riêng biệt của vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc.
Thơ Hoàng Cầm là đặc sản văn minh tinh thần quê hương Kinh Bắc - miền quê
Quan họ - xứ của một cộng đồng làng xã, rất Đại Việt, rất dân chủ và bình đẳng. Con
người ở đây lấy tình làng nghĩa xóm làm trọng. Phép Vua thua lệ làng. Hội đồng kỳ lão
có quyền cao hơn chức dịch. Ra đường phải cúi đầu chào các già làng, còn với chức dịch
như Chánh Tổng, Lý Trưởng xưa thì tùy, không chào cũng không sao. Đi hát quan họ,
vào đám hội thì mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, chức vị, không
dè bỉu "tiền án, tiền sự"... Tất cả chỉ là "liền anh, liền chị", các quan viên họ cùng say
đắm với yêu nhau cởi áo cho nhau và bao giờ thấy lá diêu bông/ để cho váy lụa buông
chùng... mà hay!. Thơ Hoàng Cầm cũng do xuất phát từ hồn quê là thế, với bút pháp độc
đáo, một phong cách rất riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng, thường bất
chấp văn phạm. Tuy nhiên cũng cần nói một điều là đối với người Quan họ, họ không
thích và không chấp nhận sự thô kệch, vụng về trong việc sử dụng ngôn ngữ, do đó, ảnh
hưởng đặc điểm tâm lý này của người Quan họ, ta thấy Hoàng Cầm đã sử dụng ngôn
ngữ một cách sang trọng, theo sự tinh tế của người Quan họ. Mặt khác, ông là người kế
tục ngôn ngữ Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại - một lối thơ siêu thực hôm nay nên
đạt được những thành tựu nghệ thuật cơ bản. Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng
tràn trề giải thoát. Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Kinh Bắc đã đạt tới độ hàn lâm là thế.
116
Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư viễn của tâm linh với rất nhiều đam sy, trầm ẩn nên
không hiếm khoảnh khắc hồn thơ thi sỹ nhập vào vô thức như lời ca quan họ, như ngọn
lửa sưởi ấm tình người, là tia nắng mới tỏa sáng nơi chân trời cũ, như ai đó dù đi đâu,
đến đâu vẫn xe duyên, gửi hồn về Kinh Bắc thân thương, như chiếc ghim cho cánh diều
bay xa, bay cao.
Như đã nói, ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là sự kết hợp của thứ ngôn ngữ dân gian
và bác học vùng Kinh Bắc. Thơ ông hấp dẫn nhiều thế hệ người đọc khác nhau, vì ngoài
những tìm tòi về cách tân nghệ thuật, Hoàng Cầm vẫn gìn giữ cho riêng mình một vốn
ngôn ngữ và hình ảnh đặc trưng Kinh Bắc, độc đáo, tài hoa, thị thành mà quê kiểng.
Nhiều câu thơ của ông, dù không phải thơ tình, vẫn làm say đắm, thu hút bao nhiêu trái
tim người Việt. Nghệ thuật bao giờ cũng phải đạt đến mức vừa và đủ, già một chút là
thừa, non một chút là thiếu. Thơ Hoàng Cầm cứ chông chênh trước mắt mọi người như
chiếc kiềng hai chân. Đứng được như vậy bởi cái bản lĩnh nghệ thuật của ông đã được
khẳng định, vì ông có những cái chân mờ khác của trực cảm tâm linh chống đỡ, đó là
ngôn ngữ thơ được tinh luyện qua đời sống văn hoá dân tộc vào đời sống văn hoá cá
nhân ông, nhà thơ đã bỏ đi tất cả những từ thừa, những câu thừa để tạo nên một cấu trúc
văn bản nghệ thuật gọn gàng. Ngoài ra, ông còn đưa vào những từ mới lạ, hình ảnh độc
đáo, riêng biệt, sáng tạo dựa trên ngôn ngữ bác học vùng Kinh Bắc, biết cách xếp đặt
chúng làm cho câu thơ mới lạ hơn mà khi đọc vẫn thấy rất sang, mang giá trị thẩm mỹ
cao và ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng. Do đó đọc thơ Hoàng Cầm
không nên chỉ đi tìm những tư tưởng cao siêu, hay những tình cảm đặc biệt, mà người
đọc dễ bị thu hút bởi cái “sang” của thơ ông và cái “say’ của người nghệ sĩ đất Kinh Bắc:
- Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng (Lá diêu bông);
- Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương Mắt tròn cối xay (Nước sông Thương); - Đêm phương Bắc khi sao hôm nhẹ khóc Hương tím em về đậu giữa trang thơ Thả cô đơn gió xanh lùa mái tóc Dìu em đi từng bước ấm sương mờ (Ngẩn ngơ); - Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ Quay bánh linh xa miết triệu vòng (Chị Em xanh);
- Sơn ca chắt nắng Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng (Đếm nắng);
117
Hoặc hai bài Lá Diêu Bông rồi lại Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, hoặc
Tinh anh thể phách rồi lại Thể Phách tinh anh có hai câu đầu láy nhau khá điệu: Em
trao vẹn cả tâm hồn/ Là giam tôi chật vòng tròn cung trăng, và: Em trao vẹn cả thân
mình/ Là giấm ớt tía đỏ bình men quê. Bên cạnh đó là những câu thơ đa tình của ông cứ
như đùa như trêu mọi người, nhưng vẫn giữ được độ thanh của nó: Tàn canh đứng…/
Rạng Đông vừa lọt/ Cửa khép hờ toang toác gió thu (Bênh); Ấp vú mình trần con dế
trũi/ Cành tre trải áo nép thân hình (Tắm đêm); Em trao mình thỏa khát khao/ Dấn thân
lạc lối mưa rào hoàng hôn (Thể phách tinh anh)… Chất ngôn ngữ dân ca Quan họ kết
hợp với xúc cảm nhục dục, hay nói cách khác là kết hợp các biểu tượng dục tính trong
cái huê tình, diễm lệ mà vẫn thấy có sự linh thiêng của người Kinh Bắc cũng tạo nên thế
đứng ổn định trong câu thơ Hoàng Cầm: Nhớ mưa Thuận Thành/ Long lanh mắt ướt/ Là
mưa ái phi/ Tơ tằm óng chuốt/ Ngón tay trắng mướt/ Nâng bồng Thiên Thai (Mưa
Thuận Thành). Thơ Hoàng Cầm đã tạo được ấn tượng trong lòng độc giả một phần
cũng bởi bằng chất ngọt ngào mê đắm ấy.
Điều đó cho thấy, việc sáng tạo thơ của Hoàng Cầm, nếu nói không cực đoan thì
đó chính là sự sáng tạo để lạ hóa ngôn ngữ và quá trình làm mới ngôn ngữ dựa trên cơ sở
ngôn ngữ dân gian và bác học vùng Kinh Bắc. Đây là một trong những yếu tố góp phần
tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là con chữ vô
hồn mà là hiện thân của tư tưởng, tình cảm, là mối tương giao giữa nhà thơ với người
đọc, là sự khẳng định phẩm chất thi nhân của nhà thơ giữa cuộc đời.
Thứ hai, là sự kết hợp ngôn ngữ của các biểu tượng văn hoá:
Thơ Hoàng Cầm được trang hoàng khá lộng lẫy bởi các ánh xạ mỹ kim của thế
giới nghệ thuật ngôn từ được tinh luyện từ các yếu tố văn hoá truyền thống và hiện đại,
từ dân gian đến bác học qua sự sàng lọc, sáng tạo, chưng cất của bản thân nhà thơ, nó tạo
nên một hợp chất đặc biệt, có cấu trúc đặc biệt của hồn vía văn hóa Kinh Bắc. Với
Hoàng Cầm, cấu trúc đặc biệt ấy được tri nhận từ việc dùng những ký hiệu ngoài ngôn
ngữ trong thơ để tạo không gian thị giác cho văn bản thơ. Đây là việc làm không mới cả
về lý luận và sáng tác, tuy nhiên cái mới của thơ Hoàng Cầm, cái tư cách hậu hiện đại
của nó lại nằm ở chỗ nó có sự chuyển hoá, giao lưu giữa ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ,
giữa ngữ pháp của ngôn ngữ văn chương bình dân với siêu liên kết của biểu tượng văn
hoá bác học trong chất liệu thơ ca truyền thống và rồi giải phóng những tập tính văn hoá
cũ để thăng hoa trong biểu tượng văn hoá mới mang nội dung trí tuệ và thời đại.
118
Cái mới trong sự sáng tạo ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm còn là ở chỗ nhà thơ tự biến
sự đọc, sự nghiên cứu của mình thành thơ và ngược lại. Dường như tác giả cố tình tạo ra
một cơ chế rubic thơ để độc giả tuỳ ý xoay về vô tận các cấu hình, biểu tượng, mỗi cách
xoay lại làm hiện thêm những tương quan mới, những vấn đề nghệ thuật và những thế
năng văn hoá và biểu tượng mới. Ví dụ ngôn ngữ trong những bài thơ Cây Tam cúc, Lá
Diêu Bông, Quản vườn ổi, Nước sông Thương… đều là những điển hình thực tế, nó
vừa mang dáng dấp ngôn ngữ thơ của các biểu tượng văn hoá phương Đông với tính chất
hàm súc, lửng lơ, nương theo khơi gợi mà vẫn không bị gò bó, áp đặt. Hơn thế nữa, tính
chất lững lờ nước đôi, giao thoa để tạo nên sự cộng sinh, vì ông ý thức được việc mượn
hình tượng cũ để ký thác hồn vía mới là đặc trưng của văn hoá Việt như: Gió lông
ngỗng, Trai thời Trần, Thi sợi bún, Nước sông Thương, Hội Vật.... Theo đó, nhiều từ
ngữ cũng đảm nhận việc chuyển tải tâm thức Việt thông qua hình tượng thơ: sự quan tâm
đến ngôi thứ, vai trò của tình cảm và tính hung bạo bộc phát; tính chất quá độ giữa tự do
và xiềng xích (với việc vừa tô đậm những ngôi thứ ngữ pháp như muốn xiềng nhiều bài
thơ vào những luật tắc nghiêm nhặt, vừa thả nổi ngôn từ thoát khỏi luật ngữ pháp để
tham dự vào biểu tượng mới với những luật chơi mới phá huỷ ngữ pháp kia) rất tiêu biểu
cho cốt cách lưỡng thê của người Việt và rất điển hình cho thực trạng xã hội Việt Nam
ngày nay. Do đó có thể nói không cường điệu rằng thơ Hoàng Cầm mang một phong
cách thơ đậm đà tính dân tộc cũng là vì vậy.
Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, có lẽ Hoàng Cầm được coi là nhà thơ sử
dụng nhiều các biểu tượng văn hoá trong thơ hơn cả. Vẫn là chất liệu của ngôn ngữ
truyền thống, nhưng nhà thơ đã xây dựng lên cả một hệ biểu tượng mang giá trị văn hoá
cao như: thực vật, sông ngòi, núi đồi, người mẹ, người anh hùng, văn hoá Quan họ, lễ
hội hoặc các biểu tượng khác như: mưa, đêm, yếm, men, tình yêu... Chính điều đó đã làm
nên việc xây dựng các biểu tượng văn hóa mới trong thơ ông dựa trên những căn cốt sẵn
có của truyền thống văn hóa quê hương.
Thứ ba, là sự kết hợp ngôn ngữ của vô thức và ý thức, giữa bản ngã và ngoại cảnh:
Quá trình nhà thơ Hoàng Cầm đi tìm chữ và nghĩa để làm hành trang thơ cho
mình chính là hành trình thăm thẳm của sự phân ly, hội tụ giữa bản ngã và ngoại cảnh,
giữa vô thức và ý thức, giữa vô ngôn và chuẩn mực ngôn ngữ xã hội… Phải là người
được thẩm thấu các giá trị văn hóa đích thực, cốt lõi, qua màng lọc tư duy siêu cảm mới
119
tạo nên những câu thơ, bài thơ theo kiểu vô thức hay đến như vậy. Do vậy sáng tác theo
kiểu vô thức của Hoàng Cầm là cái vô thức được in dấu từ tiềm thức văn hóa mang tính
cội nguồn, chứ không giống sáng tác vô thức kiểu của Hoàng Hưng và một số nhà thơ
khác. Câu thơ, ý thơ Hoàng Cầm luôn dự trữ nguồn tư duy thụ cảm văn hóa đối với bạn
đọc, nhà thơ dựng lên thế giới của ngôn từ và ngôn từ hồi sinh trong thế giới tâm linh của
bạn đọc. Nhà thơ sinh ra chữ, nghĩa và ngược lại chữ, nghĩa cũng sinh ra nhà thơ. Ông
luôn thả hồn theo sự dẫn dắt của ngôn ngữ thi ca vô thức, thoát khỏi vũng lầy của lý trí
hướng về sự nguyên sơ của siêu cảm và sự mê đắm của thứ ngôn ngữ sơ khai mà loài
người đã và đang lãng quên. Hoàng Cầm là người dự cảm chữ và có ý thức sâu sắc về ý
nghĩa của ngôn từ. Vì vậy, ngôn ngữ thi ca quyến rũ tâm hồn nhà thơ, giúp ông từ bỏ thế
giới đang sống (trong những khoảnh khắc sáng tạo) để đắm chìm trong vô thức của thế
giới siêu văn bản với sự mông lung của những khoảnh khắc ngôn từ và độ âm vang của
nhịp điệu trái tim hoà nhập với nhịp điệu của đời sống (cả quá khứ và hiện tại) (điều này
lý giải sự đồng điệu giữa trái tim người nghệ sỹ với vùng thẩm mỹ quê ông). Nhà thơ tạo
sự lệch chuẩn tối đa về ngôn ngữ so với chuẩn mực ngôn ngữ xã hội và làm co giãn ý
nghĩa, cấu trúc của ngôn từ, giúp chúng sinh sôi bất tận và bùng phát mãnh liệt. Sự chế
tác ngôn ngữ thi ca bao giờ cũng gắn liền và tỷ lệ thuận với tầm vóc tư tưởng, nghệ thuật
của nhà thơ. Những nhà thơ tài năng đều là những người có tài năng trong việc sáng tạo
và làm mới hệ thống ngôn ngữ, tuy nhiên đó phải là việc làm mới ngôn ngữ dựa trên cơ
sở ngôn ngữ truyền thống của vùng miền, dân tộc.
Bakhtin từng viết đại ý: Khi những dạng thức thi ca đạt đến hạn độ tột bậc của
chúng về phong cách, thì ngôn ngữ thi ca thường trở thành thứ ngôn ngữ quyền uy, giáo
điều và bảo thủ, tự ngăn cách mình khỏi ảnh hưởng của những phương ngữ xã hội ngoài
văn học. Chính vì thế trên mảnh đất thi ca có thể xuất hiện ý tưởng về một “ngôn ngữ thi
ca” đặc biệt, một “ngôn ngữ của thần linh, một “ngôn ngữ thi ca của các giáo sĩ”... Nhìn
chung, có thể thấy giữa nhà thơ (nói chung) và ngôn ngữ thi ca có sự thống nhất toàn
vẹn, không có khoảng cách, mọi ranh giới đều bị xoá nhoà. Nhà thơ Hoàng Cầm xác lập
mối tương giao với con người và vũ trụ thông qua thế giới ngôn từ của riêng ông. Sự mã
hóa ngôn ngữ thi ca diễn ra trong quá trình sáng tạo và trên văn bản luôn là sự bí ẩn đối
với cả nhà thơ và bạn đọc. Chính vì thế, ngôn ngữ thi ca của ông có sức lay động, khơi
gợi những vùng sâu thẳm của vô thức mà không ngôn ngữ nào sánh nổi, cái kênh ngôn
120
ngữ thi ca ấy gần gũi với sự bí ẩn sâu thẳm của văn hóa Kinh Bắc. Sự mã hóa của ngôn
ngữ văn hóa Kinh Bắc không nằm ở lớp vỏ ngữ nghĩa mà là ở chiều sâu và khoảng lặng
của ngôn từ. Sự giải mã ngôn từ sẽ trở nên bất lực và vô nghĩa nếu không hướng đến sự
giao cảm thần diệu đôi khi tưởng như siêu hình giữa con người, sự vật và các giá trị văn
hóa bản địa ấy. Nhà thơ đã làm tốt công việc nhập vào thơ của mình sự lung linh, ảo diệu
của hồn sự vật, cho chúng giao hòa với nhau trong thế giới của cảm xúc và ngôn từ.
Thứ tư, là sự tương tác giữa chữ nghĩa và âm thanh, hình ảnh và ý nghĩa:
Chất thơ của ngôn ngữ thi ca Hoàng Cầm (một phần cũng giống như ngôn ngữ
thi ca của Xuân Diệu, Hàn Mặc tử trước cách mạng) không chỉ là nhạc tính như một số
nhà thơ đã quan niệm. Ngôn ngữ thi ca ra đời từ sự tương tác giữa chữ và âm thanh, giữa
hình ảnh và ý nghĩa. Paul Valéry đã viết đại ý: Thơ là sự dao động miên man giữa âm
thanh và ý nghĩa… Nếu câu thơ chỉ thuần là âm thanh hoặc ý nghĩa thì làm sao có thể
sánh cùng âm nhạc và triết học. Câu thơ hay bao giờ cũng là cuộc hôn phối kỳ diệu giữa
âm thanh và ý nghĩa, hình ảnh, tất nhiên còn tùy thuộc vào tư duy của từng nhà thơ. Chữ
và nghĩa trong ngôn ngữ thi ca Hoàng Cầm là sự hòa nhập ấy và hoà quyện với nhau như
hình với bóng, như xác với hồn nên việc tách rời chúng ra khỏi nhau sẽ làm tổn hại đến
bình diện ngôn ngữ và tính thẩm mỹ của câu thơ, của biểu tượng văn hóa mà ông đã đặt
trong đó. Hoàng Cầm đã xây dựng nên một thi pháp cho ông khi tạo ra sự lệch chuẩn về
ngôn ngữ và sự bứt phá về phong cách sáng tạo của mình. Do đó, thiên chức của nhà thơ
luôn cao đẹp khi ông dấn thân đến cùng trên con đường sáng tạo để đem đến cho con
người cái nhìn tươi tắn, mới mẻ về thế giới cùng với ước mơ về cái đẹp của con người và
thiên nhiên. Thơ Hoàng Cầm đích thực là một điển hình như vậy.
Sự nghiệp văn chương của Hoàng Cầm cũng như con người ông luôn ẩn giấu
những tầng dày, bề dày văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Việt Nam, sâu sắc và chân thành,
giản dị và long lanh. Ngôn từ của ông óng ánh, sáng láng, dạt dào và thấm đẫm tâm linh.
Cuối năm 2008, lần trò chuyện thứ ba và cũng là lần cuối cùng với nhà thơ trên căn
phòng nhỏ tầng 5 tại nhà riêng số 43 - phố Lý Quốc Sư, Hà Nội, tôi có hỏi: nguồn cảm
hứng chính của thơ bác là gì? Ông trả lời thẳng thắn và ngắn gọn: cảm hứng dân tộc và
tình yêu, cậu cứ tìm hiểu hai vấn đề đó trong thơ tôi, đâu đâu cũng thấy. Quả đúng vậy,
dân tộc và tình yêu luôn là nguồn cảm hứng thơ ca bất tận của ông, nó vừa thủ thỉ chân
tình, vừa hào hùng sảng khoái, nó vừa nghiêm cẩn thiêng liêng của đình chùa, lễ hội, vừa
121
yêu kiều quyến rũ phong nhiêu, huê tình của gái quê Kinh Bắc. Trong phần "Vĩ thanh"
của tập Về Kinh Bắc ông đã nói: "Tất cả... tất cả... tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê
hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc. Và lời mở đầu cho tập thơ là một
lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại: Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc".
Cuộc tuần du đã dừng, cuộc đời ông cũng rẽ một lối khác để về Kinh Bắc tạo
dựng nên một hệ biểu tượng văn hóa, để rồi từ lúc nào không rõ ông đã dựng lên biểu
tượng thơ ca - văn hóa Kinh Bắc cho chính ông- Hoàng Cầm- biểu tượng của thơ ca, văn
hóa trong vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Thơ ca của ông đã để lại nhiều ấn tượng vô cùng sâu
sắc trong lòng bạn đọc, đồng thời có những ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà thơ Việt kế tiếp
sau ông với sự cách tân mang sắc thái văn hóa dân tộc. Đọc thơ Hoàng Cầm, tôi giống
như phải lòng một người cô gái Quan họ mà không dễ gì bỏ đi được cảnh tương tư vậy.
Hoàng Cầm đã sáng tạo ra một di sản ngôn ngữ tinh thần trên cơ sở tích hợp nhiều giá trị
văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng Kinh Bắc. Ông đã đưa được những
cung bậc tình cảm, những nét văn hóa ứng xử lao động của người Việt vào trong ngôn
ngữ thơ mình, góp phần vào việc hiện đại hoá nền văn học dân tộc. Do vậy, nó tồn tại
một sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Và chính mối liên hệ qua lại giữa văn học và văn hoá
vùng đã giúp chúng tôi nhận diện tỏ tường được các giá trị tư tưởng thẩm mĩ, nghệ thuật
của người nghệ sĩ - thi sĩ đất Kinh Bắc này.
Cũng cần phải nói rằng thơ Hoàng Cầm là sản phẩm của nỗi buồn thấm gạn chắt
ra từ nỗi bất hạnh triền miên của cuộc đời ông. Do đó những bài thơ, câu thơ luôn ám
ảnh, gây thổn thức, cấu véo tâm can người đọc, nhưng cũng chứa đầy thi vị của cuộc
sống, giàu sắc màu và bộn bề ý tưởng. Khi làm thơ, các câu, các ý cứ thế bật ra một cách
tự nhiên, một cách vô thức như trong bài Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông hoặc các
bài trong chùm thơ viết về đêm…
Trong sáng tác, ông thường sử dụng những hình ảnh hoặc những so sánh nghệ
thuật gây ấn tượng đặc biệt, rất Kinh Bắc Mắt nứa cứa tay em (Đợi chờ), Những cô
hàng xén răng đen - Cười như mùa thu tỏa nắng, Lá đa lác đác trước lều - Vài ba vết
máu loang chiều mùa đông (Bên kia sông Đuống); những động từ mạnh kích thích tư
duy bạn đọc như từ: “nghển” trong “Đá nghển trông con gục đầu sườn núi Dạm”; từ
“xé” trong “Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền”; từ “khua” trong |"Hỡi em khua guốc ưu
phiền”; từ “nhay” trong “Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa - Ngực lép con nhay đã rã
rời” (Tâm sự đêm giao thừa); từ “rụng” trong “Đứng bên bờ sông này sao nhớ tiếc -
122
Sao xót xa như rụng bàn tay” (Bên kia sông Đuống); từ “tắt” trong “Thôi em xin tắt
cơn cười nghẹn - Nỗi nhục ngồi cao hơn nỗi đau” (Bênh)… được đặt rất đúng chỗ làm
rung rinh, sáng láng cả đoạn thơ. Ông dựng được những nhân hóa sống động, gợi
không khí chiến cuộc: Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh - Nằm nghiêng nghiêng
trong kháng chiến trường kỳ (Bên kia sông Đuống), hoặc không khí chiến cuộc xưa
với hình tượng người anh hùng Thánh Gióng, hoặc gợi dậy những nét đồng dao tươi
sáng: Hạt mưa chèo bẻo /Nhạt nắng xiên khoai/ Hạt mưa hoa nhài/ Tàn đêm kỹ nữ/
Vỡ gạch Bát Tràng/ Mưa gái thương chồng/ Ướt đầm nắng quái/ Sang đò cạn sông
(Mưa). Những chất liệu đậm đà chất dân gian trong vùng ký ức nhoi nhói thức kỷ niệm
sống dậy: Áo hai bà giăng mắc…; Tượng Quan âm má ửng bồ quân; Hội Gióng giong
chiêng - Em bé về nằm khoanh lòng mẹ - nghe nghìn năm sau xoa nắn bầu vú lửa -
sông dài cát bỏng nắng hồng hoang mang đầy chất huyền thoại. Ông viết những câu
thơ rất lạ khiến bạn đọc ngỡ ngàng Mắt trăng hôm ấy mấy chiều đỏ hoe (Mai sau dù
có bao giờ), Nghẹn hương mùa mắt ướt òa xanh (Em cứ về bên ấy), Hàng tre nhả
yếm; Gậy mù ngửi hơi đường lạ; Loã thõa thân trăng; Chắp tay nhìn nghẹn mười
phương; Miệng bé hạt na nhòa bến vắng (Đợi mùa); Hai ngực hòa chung một tiếng
chuông (Chùa Hương). Ông đã phá vỡ cả cú pháp tiếng Việt và táo bạo tạo ra trường
liên tưởng thẩm mỹ mới với: Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay; Vậy thì em ngắt quãng tân
hôn (Chị em xanh)... Một thế giới nội tâm xao động dâng đầy, mang rặt hơi thở Hoàng
Cầm, gợi được không khí một vùng văn hóa Kinh Bắc độc đáo, và quan trọng hơn, ông
đã tư duy thơ từ bài đồng dao Bồ các là bác chim ra ở một biến thể khác để nói về sự
đa tình của gái quê Kinh Bắc. Xâu chuỗi các bài Sương cầu Lim, Gái hậu Lê, Hội
Long Khám sẽ thấy rõ điều đó. Đây là một ví dụ: Trống Chờ thúc chín tiếng/ Chuông
Trõ nện ba hồi/ Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo/ Thấy Phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo/
Biết lòng chim sáo ri (Sương cầu Lim).
Có được một ngôn ngữ nghệ thuật thơ như thế, Hoàng Cầm đã khéo vận dụng tối
đa sự kết hợp của ngôn ngữ tư duy dân gian truyền thống - tư duy cộng đồng kết hợp với
kiểu tư duy hiện đại- tư duy của cá nhân ông để làm nên một bản sắc Hoàng Cầm. Cái
khởi nguyên tư duy dân gian trong thơ Hoàng Cầm được xuất phát từ hồn cốt văn hoá
Kinh Bắc tư thuở hồng hoang của của dân tộc trên vùng đất này. Hàng Cầm đã sống và
ngụp lặn cả cuộc đời trong nền văn hoá dân gian ấy để định hình nên tư duy cá nhân
trong một hồn thơ hết sức độc đáo.
123
Thứ năm, là sự kết hợp giữa cái siêu thực với cái huyền ảo dân gian:
Đây cũng là một đặc trưng nghệ thuật độc đáo để tạo nên nét riêng của Hoàng
Cầm trong toàn bộ sáng tác thơ ông nói chung, trong tập Về Kinh Bắc - tập thơ chính
của ông nói riêng. Sự đứt đoạn trong mạch nối các câu thơ, những khoảng lặng, khoảng
trống trên văn bản là những sáng tạo mới của Hoàng Cầm để tạo nên thế giới huyền ảo
siêu thực trên cơ sở tư duy huyền thoại của dân gian. Thủ pháp này khó có thể tìm thấy
trong cách biểu đạt của dân gian. Con người thời nguyên thủy cũng có sự tư duy như
vậy, nhưng họ thể hiện nó qua các hoạt động nghi lễ, vì trình độ ngôn ngữ sơ khai của
buổi bình mình trong lịch sử nhân loại chưa cho phép con người biểu lộ tư duy ấy bằng
ngôn ngữ. Bởi thế, sự sáng tạo của Hoàng Cầm khi vận dụng tư duy huyền thoại của
nguyên thủy ở đây là sự làm mới trong cách viết. Với chất liệu được lấy từ vùng quê
Kinh Bắc: hoa, lá, cỏ, cây, sông, núi, chùa, đình, tượng phật, lễ hội, sử sách, mẹ, chị, em,
váy, yếm, tranh,... của quê hương, ông đã tạo nên một thế giới thơ siêu thực thấm đẫm
chất huyền ảo dân gian, nhưng cũng hết sức hiện đại.
Tâm lý cá nhân cô đơn trong cuộc sống cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý
sáng tác của Hoàng Cầm. Tuổi thơ ông qua đi không bình lặng như những bạn cùng
trang lứa. Mẹ Hoàng Cầm vốn người làng Bựu Xim, có nhan sắc và hát quan họ hay nổi
tiếng. Nhưng sự tài sắc của người đàn bà không phải lúc nào cũng là vật bảo đảm cho
một tương lai hạnh phúc, khi lấy chồng, bà đã phải chịu số phận hẩm hiu. Bố Hoàng
Cầm là một nhà Nho, ba lần thi trường Nam Định không đậu, sau đó bất đắc chí nên bỏ
làng đi dạy học quanh vùng, rồi làm thầy lang, nhưng vẫn lang thang chữa bệnh khắp các
huyện trong vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Chính Hoàng Cầm bộc bạch: “Không hiểu sao,
tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng?
Hay chính nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải
phải sống cô đơn đến hơn mười năm?” [14, tr.197]. Do đó nhu cầu có mẹ thường trực
bên mình trở thành nỗi thảng thốt của đứa con khi không có mẹ: Mẹ ơi/ Mẹ ơi/ Con
không mong giời mưa/ (Mưa không được thả diều)/ bây giờ mẹ ở đâu. Bốn câu thơ với
lối ngôn ngữ dân gian giản dị, nhưng đọc kĩ, thấy trong đó cả sự hồn nhiên của trẻ thơ và
nỗi đau người lớn. Câu thơ trong dấu ngoặc đơn (Mưa không được thả diều) thực chất
chỉ là sự giải thích nhằm chống chế cảm xúc đau xót, cách nói chệch hướng, làm mờ hóa
nỗi đau mà đứa con không dám gọi tên. Con không mong giời mưa, đâu phải vì Mưa
không được thả diều, mà ẩn ý của nó đã được gợi đến trong sự liên tưởng với ngôn ngữ
124
bài ca dao: Trời mưa bong bóng phập phồng/ Mẹ đi lấy chồng con ở với ai. Ngôn ngữ
thơ Hoàng Cầm luôn thảng thốt ám ảnh vì sợ mất mẹ, mẹ đi lấy chồng. Ám ảnh mồ côi
vọng vào trong những cuộc đi tìm một bến bờ nào đó: Mùa chưa về/ Tu hú gọi Em đi tìm
Mẹ; Con đi tìm Mẹ/ Tre dậm lông mày/ Ao bèo chột mắt; Ta con bê vàng lạc dáng chiều
xanh/ đi mãi tìm sim sim chẳng chín/ Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô/ gặm cỏ mưa
phùn/ Dóng dả gọi về đồng sương/ đôi ba người lận đận/ Đêm nay mẹ chẳng về
chuồng... Sau này khi đứa trẻ lớn lên, ngôi người nữ được dịch chuyển, từ mẹ sang chị,
từ tình mẫu tử sang tình yêu, tình gắn mẹ chuyển sang tình luyến chị. Trong tình yêu, xúc
cảm của Hoàng Cầm vẫn còn nguyên ám ảnh côi cút trong tâm thức: Chị bỏ em đi/ Cánh
nhẹ trên sông/ Chiếc lá mơ rừng/ Hát lừng ngọn gió/ Khóc đỏ chiều quê, Chị lỡ xe hồng/
Mẹ đi lấy chồng, Bao giờ Chị về/ Tóc phủ vai em chiều hương nhu; Quan đốc đồng áo
đen nẹp đỏ/ thả tịnh vàng cưới Chị/ võng mây trôi,...
Thơ Hoàng Cầm đầy những khoảng lặng, khoảng trống, lời câm, những đối thoại
giãn cách, rời rạc nên càng khắc sâu thêm tâm thức mồ côi của đứa trẻ. Phạm Thị Hoài
khi đọc Mưa Thuận Thành đã rất tinh tế nhận ra: “Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm
trong Mưa Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa, phiền muộn, yểu
điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm và nhiều nữ tính” [146, tr.258]. Nhân vật trữ tình
trong thơ Hoàng Cầm không có được cái mạnh mẽ nồng nàn nam tính của người con trai
như trong thơ Xuân Diệu: Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ
thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi, cũng không có cái táo bạo như Đồng Đức Bốn sau này
trong thơ lãng mạn: Em bỏ chồng về ở với tôi không. Mối tình của Em với Chị, nói như
Chu Văn Sơn, là khối tình nghẹn, không được chấp nhận để bùng tỏa ra ngoài. Hoàng
Cầm không có đủ mạnh mẽ để phá bỏ quyết liệt giới hạn cấm kị. Sự phản ứng bền bỉ,
thấm gạn, nhưng âm ỉ, chứ không bùng phát mãnh liệt. Tình yêu của Em không được thể
hiện một cách công khai, mà phải gửi gắm qua các trò chơi dân gian. Bởi thế, Hoàng
Cầm không biết nói gì hơn, làm gì hơn là câm lặng? Còn biết làm gì hơn ngoài những
hành động thụ động yếu ớt kia?
Cả tập thơ Về Kinh Bắc giống như một giấc mơ đầy tính nguyên sơ trong cuộc
đời Hoàng Cầm. Những hình ảnh trong giấc mơ khó có thể cắt nghĩa rạch ròi. Khó có
thể hiểu được những hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm bằng logic của ngôn ngữ lí trí đơn
thuần: Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc/ Con không cười/ Con thoảng nhớ,
thoảng quên, mà đó là “trạng thái mơ màng”, “một sự mù đi và điếc đi với thế giới bên
125
ngoài” (Arnaudop) Trạng thái ấy xuyên suốt quá trình sáng tác thơ Hoàng Cầm, tạo
nên những hình ảnh chập chờn, hư thực - sản phẩm của trực giác. Những câu thơ: Mồ
tháng giêng mưa sũng/ Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu; Một trẻ sơ sinh
đuổi giọng mèo hoang qua miếu mưa phùn; Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử;
Nát nhàu thân tố nữ; Gàu giai ai vớt chị ơi/ Lòa lõa thân trăng, vục bên hồ tinh,… tạo
nên một thế giới thực mà ảo, gần mà xa, một thế giới không thuần nhất, không thuần
dạng mà trao đảo giữa những xu hướng tốt lành và ác độc, linh thiêng và đẹp đẽ huê
tình, vô tâm và thèm khát cháy bỏng. Mỗi một hình ảnh như một khúc đoạn trong giấc
mơ. Thật khó để có thể lý giải cơ chế liên tưởng của Hoàng Cầm bởi mạch liên tưởng
khó nắm bắt, lắt léo, tinh vi, đột ngột nhảy cóc, đột ngột mất hút, rồi lại đột ngột trở về
như không có gì cần giải thích.
Trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hoàng Cầm còn có sự kết hợp giữa ngôn ngữ dân
gian, ngôn ngữ thơ lãng mạn và ngôn ngữ của thơ tượng trưng - siêu thực. Điều này
được thể hiện lồng ghép trong một cấu trúc thơ linh hoạt, phong phú, đa dạng. Đó là cấu
trúc được định hình trong văn học dân gian- cấu trúc thách đố như trong là truyện cổ tích
và ca dao dân ca. Ở truyện cổ tích, cấu trúc thách đố là những thử thách được đặt ra với
nhân vật, nếu vượt qua thử thách sẽ được phần thưởng, hoặc được hưởng hạnh phúc. Ở
ca dao dân ca, thách đố được gửi gắm trong những lời hát đố: đố hoa, đố vật,... Thách đố
trong Về Kinh Bắc là đố lá diêu bông, đố cỏ bồng thi: Chị bảo/ đứa nào tìm được lá diêu
bông/ từ nay ta gọi là chồng; Ngày mười bảy tuổi/ chót chơi đố cỏ Bồng Thi/ cỏ Bồng
Thi phải cheo leo mỏm đá. Có điều trong văn học dân gian, cấu trúc thách đố cuối cùng
cũng được các nhân vật vượt qua, hoặc nếu gặp khó khăn thì thường cũng được trợ giúp
bởi một lực lượng siêu nhiên nào đó. Còn trong thơ Hoàng Cầm, việc giải đố là hoàn
toàn hầu như không thể, không được đối tượng thách đố công nhận, mặc dù tưởng chừng
như sắp cán đích đến nơi, chỉ còn cách nhau vài bước để hoá giải lời đố: Cách nhau ba
bước vào vườn ổi để Xin Chị một quả chín nhưng Quả chín quá tầm tay, vậy Xin Chị
một quả ương thì Quả ương chim khoét thủng...
Vậy là cả quả chín, quả ương đều vượt quá tầm tay. Em mãi mãi không thể chạm
tới. Chỉ Cách nhau ba bước mà thực ra là cả một khoảng xa vời vợi không thể vượt qua.
Ngôn ngữ thơ cứ chùng chình như trói buộc tư duy người đọc, như lôi cả độc giả vào trò
chơi vô thức của trường trận chữ đi tìm vật thiêng Hoàng Cầm. Như thế, những cuộc
kiếm tìm trong Về Kinh Bắc đều là những cuộc kiếm tìm vô vọng. Cả lá diêu bông, quả
126
vườn ổi, cỏ bồng thi đều là những cấm vật mà Em không bao giờ chạm tới. Vật thiêng ấy
(lá diêu bông, quả vườn ổi, cỏ bồng thi) chính là biểu tượng cho tình yêu, hạnh phúc lứa
đôi mà nhân vật kiếm tìm. Có thể thấy dấu ấn của mô típ đi tìm vật thiêng trong văn học
dân gian ở đây. Trong thần thoại, cổ tích, vật thiêng có thể là thuốc trường sinh, lọ nước
thần, tấm da cừu vàng,... Cũng như những vật thiêng trong thơ Hoàng Cầm, chúng đều
đem lại hạnh phúc và sự thần diệu cho cuộc sống con người. Để có được những vật màu
nhiệm ấy, nhân vật của huyền thoại phải trải qua hành trình nguy hiểm đầy thử thách.
Dấu ấn của mô típ tìm vật thiêng được tìm thấy ở Về Kinh Bắc. Nhưng sự khác biệt ở
đây là nhân vật trong huyền thoại luôn có sự trợ giúp của lực lượng thần linh. Vì thế,
hành trình đi tìm vật thiêng dầu có khó khăn hiểm trở bao nhiêu cũng đều tìm thấy. Còn
thơ Hoàng Cầm luôn khép lại trong nỗi hụt hẫng bơ vơ, chông chênh của những câu
chuyện không có hậu. Những thi phẩm của Hoàng Cầm mãi mãi là một cổ tích thời hiện
đại, với tất cả những hụt hẫng, dang dở, những mơ ước không thành, những khước từ
đau xót.
Nhưng dù sao cũng thấy được cái đẹp trong đó, cái đẹp của một tình yêu dang dở,
của một mối tình đơn phương, cái đẹp của tư duy thơ được xây dựng trong một hệ thống
ngôn ngữ mới lạ, độc đáo, dân gian mà hiện đại, truyền thống mà cũng hết sức mới mẻ.
Ngôn ngữ ấy được xuất phát từ chính tâm hồn thanh khiết, mơ mộng của ông. Khi làm
thơ, Hoàng Cầm tự bạch “Mơ mộng. Học, tìm, mơ mộng, rồi lại học, lại tìm, tìm mãi cái
Đẹp, cái Thật, cái Thiện. Trung thực với bản ngã, dần dần tạo ra phong cách thơ riêng,
thế giới thơ riêng, không vay mượn lặp lại người khác, không tự mãn, cố gắng không lặp
lại mình”. Ta thấy dường như cả cuộc Hoàng Cầm sống gắn bó suốt đời vì thơ nên ông
luôn trăn trở tìm cách để cách tân, để bứt phá tìm ra những điều mới lạ. Thi pháp mới
và bút lực tinh xảo của Hoàng Cầm đã tạo nên những cách tân vừa đủ gây mê để bạn đọc
hiểu chứ không tịt mít đánh đố như kiểu Bóng chữ của Lê Đạt hay thơ Trần Dần. Thật
chí lý khi một nhà thơ đồng hương của ông có một nhận xét tinh tường “Thơ Hoàng
Cầm, chất Quan họ Bắc Ninh đạt đến độ hàn lâm. Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư
viễn của tâm linh. Rất nhiều đam si, trầm ẩn nên không hiếm khoảnh khắc hồn thơ của
thi sĩ nhập vào vô thức” (Nguyễn Khôi - Bắc Ninh thi thoại).
Ngôn ngữ thơ là một phương diện nghệ thuật rất quan trọng. Song không chỉ có
ngôn ngữ, hình ảnh thơ cũng là một yếu tố được chú trọng. Hình ảnh thơ bao giờ cũng là
sự kết tinh của việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế hình ảnh thơ luôn có ý nghĩa trong việc tạo
127
hiệu ứng nghệ thuật. Và đến lượt mình, hình ảnh cũng là yếu tố góp phần khẳng định sự
hiện hữu của thơ. Vì “Thơ là biểu tượng, là hình ảnh. Thơ tạo dựng một vũ trụ qua trung
gian biểu tượng một vũ trụ phi thực, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa trong tính cách phi thực
của nó. Hơn đâu hết, biểu tượng hình ảnh là điều kiện của thơ, lý do tồn tại của thơ, biểu
tượng chính của thơ” [112, tr.314]. Như vậy, dù là tiếng vọng từ tâm linh, là tiếng gọi từ
trong vô thức thì thơ cũng phải tồn sinh dựa vào nhiều phương thức biểu hiện, trong đó
không thể không có ngôn ngữ và hình ảnh - những thi liệu đầu tiên mà người đọc chạm
tới trước khi bước vào khám phá thế giới nghệ thuật của thơ. “Thơ là vũ trụ những hình
ảnh có giá trị một sự mê hoặc, một thứ ma thuật. Nó biến thành hình ảnh của chính hình
ảnh” [112, tr.315]. Rõ ràng, hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà
chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, có tính hàm súc, tạo hiệu ứng nghệ
thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập ngôn và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.
Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là ngôn ngữ giàu tính hình tượng, hình ảnh, sắc màu
và tính biểu cảm cao. Nhà thơ tạo dựng một không gian vũ trụ qua trung gian biểu tượng
một vũ trụ phi thực tế, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa trong tính cách phi thực của nó. Hơn đâu
hết, hình tượng thơ Hoàng Cầm chính là điều kiện của thơ ông, là lý do tồn tại của thơ
ông. Những hình tượng ấy đều gắn với những thiên nhiên, con người, những phong tục
tập quán và lễ hội nơi vùng quê Kinh Bắc- những thi liệu đầu tiên mà người đọc chạm
tới trước khi bước vào khám phá thế giới của tiềm thức, siêu thực trong thơ ông.
Dựa trên căn cứ vào thứ ngôn ngữ có nhịp điệu vốn là đặc trưng thứ nhất của
ngôn ngữ thơ ca. Thứ nữa là ngôn từ của tác phẩm rất giàu giá trị tạo hình được biểu hiện
qua một thế giới tính từ được dùng hết sức phóng túng. Tuy nhiên hình tượng thơ Hoàng
Cầm không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn lọc những hình ảnh về
thiên nhiên, con người và văn hoá nơi vùng quê Kinh Bắc có giá trị biểu cảm, có tính
hàm súc ấy mới tạo được hiệu ứng nghệ thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập
ngôn và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ - thi sĩ Hoàng Cầm. Thơ ông giàu nhạc điệu,
tình tứ, mang nặng dòng máu Quan họ, thi hứng của ông xoáy dọc xoáy ngang vào
những Kinh Bắc, sông Đuống, Bát Tràng, Thuận Thành... Ông tự tạo cho mình một
phong cách thi ca mới lạ dưạ trên nền tảng của từ vựng và phong tục cổ truyền. Đặng
Tiến đã gọi thơ Hoàng Cầm là "cuộc hôn phối hạnh phúc giữa tính dân tộc và tính hiện
đại" với vẻ đẹp "truyền thống lung linh trong ngôn ngữ thơ mới, trẻ trung và không kém
phần hiện đại" nhiều bài thơ của ông đã trở thành “ngôn truyền” trong công chúng độc
128
giả nhờ hệ thống từ ngữ mới lạ và thi pháp độc đáo như: Lá Diêu bông, Bên kia sông
Đuống, Ngã ba sông, Hội yếm bay, Một lời quan họ, Nước sông Thương, Cây tam
cúc, Tình Cầm, Chuyện trăm năm, Đêm thổ, Quả vườn ổi, Cỏ bồng thi, Tắm đêm…
Như đã nói, ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm có sự kết hợp lối tư duy giữa truyền thống
và hiện đại. Phải chăng đấy cũng chính là cách thế ra đi của nhà thơ. Mỗi hồn thơ được
thoát thai, tưới tắm bởi một cõi tâm của mình. Kinh Bắc là cõi thơ Hoàng Cầm, với sông
Đuống thiêng liêng, sông Cầu lịch sử mà lãng mạn, với bãi mía nương dâu phồn thực và
trầm tích văn hóa rêu phong trong từng viên gạch, mái ngói của đình, đền, chùa chiền,
miếu mạo, ao hồ… đã được ánh xạ qua Đêm Thủy:
Chùa Phật Tích ruổi trong màn lụa bạch
Tượng Quan Âm má ửng bồ quân
Chuông chiều cởi yếm
Chuông sớm đội khăn
Câu kinh tê tê mười ngón tay măng
Mõ đêm hè cuốc lội
Ao mưa dằng dịt lá trường sinh….
Nhưng trên hết vẫn là bóng dáng của những người con gái miền Quan họ, điển
hình là chị Vinh - giấc mơ tình yêu thời thơ ấu của Hoàng Cầm đã đi lại, nói cười và gợi
cảm hứng trong suốt đời thơ ông, tạo nên hiệu ứng nhòe mờ về cảm giác, về ngôn từ.
Mỗi ý nghĩ, mỗi hình ảnh cụ thể hay trừu tượng đều được nhà thơ cách điệu, làm cho
mới lạ hơn, thi hứng hơn. Và nếu ta không có cách riêng để cảm nhận thì khó mà nhập
được vào cõi thơ Hoàng Cầm, rồi cho là khó hiểu. Ông là người đi đầu cách tân thơ bằng
cách lược từ, ít bấu víu vào sự kiện; và là “chủ soái” (Nguyễn Việt Chiến) của trường
phái duy mỹ trong thơ Việt Nam đương đại. Vì thế, đọc thơ Hoàng Cầm hãy cảm trước,
cắt nghĩa sau. Trong cái lối tư duy truyền thống, ông đã hiện đại hóa tư duy thơ một cách
ngẫu nhiên, khác hẳn Lê Đạt chỉ đi vào hiện đại hóa hình thức thơ. Phải chăng, cái “hậu
hiện đại” ta đang kiếm tìm đã được ông khai mở.
Như vậy, có thể thấy cuộc đi tìm bản thể của ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm có cả sự
gặp gỡ và khác biệt với cuộc đi tìm cái tôi trong Thơ mới. Thơ mới thường đi tìm cái tôi
cá nhân bị đè nén ngàn năm trong đời sống cộng đồng, nhưng càng đi sâu vào cái tôi,
Thơ mới càng bất lực. Nói như Hoài Thanh: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất
bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh”. Có nhiều lí do, nhưng có thể
129
nhìn thấy một điều căn bản: cái tôi Thơ mới không có điểm tựa quê nhà. Nó là cái tôi
vong bản. Ngay cả ở nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, thì quê nhà không còn thuần túy là
quê nhà nữa mà đã ít nhiều biến thiên trong cuộc va chạm với đô thị phương Tây. Còn
Hoàng Cầm tìm thấy bản ngã của mình bởi ông có một nơi chốn để trở về là quê hương
Kinh Bắc. Dấu ấn của văn hóa Kinh Bắc đã tạo cho ngôn ngữ thơ của Hoàng Cầm có
được đặc trưng riêng biệt. Đó là nơi mà sau những chấn thương trong cuộc đời Hoàng
Cầm có thể trở về để “cầm máu những vết thương” (Chu Văn Sơn). Ở nơi nguồn cội quê
hương, con người tìm thấy bản thể mình. Ở điểm này, Hoàng Cầm đã gặp gỡ với Henry
Vaughan trong hai câu thơ đấy ý nghĩa: “Và khi tro bụi rơi về/ Trong thinh lặng ấy cận
kề quê hương”..
3.2.2. Ngôn ngữ đầy ắp chất giàu tượng trưng và giàu tính nhạc
Ngôn ngữ trong văn học, nó là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật mà đặc trưng là tính
thẩm mỹ, tính hình tượng, tính hàm súc, đa nghĩa, tính tạo hình, biểu cảm... thuật ngữ
"ngôn ngữ văn học" (literature langgues) còn được dùng để chỉ ngôn ngữ mang tính
chuẩn mực (ngôn ngữ văn hóa). Cần phân biệt ngôn ngữ thông thường (sinh hoạt) - được
hiểu như là hình thức vật chất "cái biểu đạt' cho tác phẩm văn học (cấp độ ngữ âm - từ
vựng - ngữ pháp. Ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống các đơn vị chưa đi vào hoạt
động giao tiếp, gồm ba bộ phận này) và ngôn ngữ nghệ thuật ngôn ngữ được xử lí thẩm
mĩ và mang dụng ý nghệ thuật) đó là ngôn ngữ dùng để xây dựng hình tượng nghệ thuật
và giao tiếp nghệ thuật. Bao gồm những hệ thống về thông tin thẩm mĩ (tín hiệu thẩm
mĩ), "mô típ" (mẫu đề), "biểu tượng", "hình ảnh trùng lặp", "yếu tố thiên nhiên'', "yếu tố
thời gian mang tính ước lệ", "biểu trưng nghệ thuật', “hình ảnh sóng đôi"... Ý nghĩa của
công việc này đã cho phép những người nghiên cứu phát hiện một số đặc điểm trong
tính hệ thống của các yếu tố mang bản chất tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Hoàng Cầm.
Thứ nhất, có thể nói lời thơ Hoàng Cầm là một lời thơ đầy nhạc điệu, chở đầy
hình tượng nghệ thuật và mang tính biểu cảm cao. Đó còn là nhạc điệu của tâm hồn, của
cảm xúc, vừa bảng lảng, vừa miên man, vừa vang xa, vừa nhạt nhoà sương khói. Đó là
cuộc hôn phối say sưa giữa âm thanh và chữ nghĩa, giữa giai điệu của cuộc sống và cảm
hứng sáng tạo của nhà thơ đẻ tạo nên những câu thơ làm say đắm người đọc: Đuổi tà lụa
nhạt/ Ánh trăng đầm thấm đẫm đường sương (Theo đuổi). Sức gợi cảm của câu thơ như
trôi theo hình tượng thiên nhiên đang diễn ra quanh ông tạo nên dòng nhạc du dương,
miên man kéo dài bất tận, như con thuyền trôi trên dòng sông Tương cùng những câu hát
130
ngân trong gió sương núi đồi: Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu (Đêm thổ);
Luồn tay ôm say / giấc bay lay đỉnh núi (Thi đánh đu); Mỵ Nương ơi sao hồ lơ lắc bể/
Oan khối tình/ Hát đời đời không vui/ Hương trà chén gõ Bạch đàn thanh/ Hát đời đời
nổi trôi/ Con đò sóng lim Tiêu Tương xanh (Nhớ Văn). Âm vận trong câu thơ, ý thơ cứ
bám đuổi lấy nhau, tìm bắt lấy nhau trong khi nhạc điệu câu thơ, ý thơ cứ kéo dài ra, tạo
nên cái hồn say mê ảo, say ngất lịm của nhà thơ: Sao bỗng phù- du- thương- lệ thế/ Kinh
kỳ thiêu rụi bướm men nâu/ Thì em cứ ngồi ôm dáng ngọc/ khóc trong tim/ e lại vỡ bình
quê men lý/ Đành rụng tiếng đàn khe cẩm thạch/ buông buông tay đờ đẫn nét hoa văn.
Cho máu hồng trinh bạch/ Ngậm buồng gan mài đá tím/ đến tua rua gài lệ đỉnh đầu/ bạc
phận đó anh ơi… (Khúc ca Phong Kiều). Ngôn ngữ tạo nên chất nhạc cho câu thơ cứ
ngân vang bất tận, nhà thơ như lạc vào mê cung của trường trận chữ trong “Đường mê”,
vấn vương như tình người Quan họ. Thì rõ ràng ngôn ngữ và nhạc điệu trong thơ Hoàng
Cầm là ngôn ngữ và nhạc điệu của người Quan họ. Các biểu tượng của văn hoá thẩm mỹ
vùng Kinh Bắc cứ bám lấy ông, theo đuổi riết ráo lấy ông mà nảy sinh ra những chồi tâm
nghệ thuật. Có điều lạ là đọc thơ Hoàng Cầm thấy nhiều đau thương hiện hình, trắc trở,
nhưng lại thuyết phục và cuốn hút người đọc nhờ cái Đẹp phi thường, rạng rỡ của giá trị
nhân sinh cao cả, cái đẹp trong quan niệm về nghệ thuật và quan niệm sống đã làm nảy
sinh một thế giới hình ảnh mới, thúc đẩy khả năng thực hiện ngôn ngữ một cách bất
thường trong thơ Hoàng Cầm. Chẳng hạn nhà thơ vẫn mượn hình thức ẩn dụ như một
cách thức quan trọng để bộc lộ nội tâm, tự tình riêng tư của mình: Về với anh/ Đứng bình
men dội/ Ngồi ấm men nâu/ Nằm tỏa lư trầm Kinh Bắc (Câu hát phù du).
Thứ hai, chúng ta thấy ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm chứa đựng một hệ thống ẩn dụ
hết sức có ý nghĩa về mặt tư duy trong tính tượng trưng của nghệ thuật. Ẩn dụ trong thơ
Hoàng Cầm chủ yếu là ẩn dụ nhận thức và ẩn dụ hình tượng. Ẩn dụ nhận thức được “nảy
sinh ra do kết quả của việc làm biến chuyển khả năng kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu
khi làm thay đổi ý nghĩa của chúng từ cụ thể đến trừu tượng” [70, tr.53]. Còn ẩn dụ hình
tượng “là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa… Là phương thức bình giá riêng có của cá nhân
nhà văn. Bằng những… sắc thái nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng tìm kiếm được, ẩn dụ
hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo”
[70, tr.54]. Ở đây còn là sự phá vỡ mối tương quan phóng chiếu tương đồng để làm giàu
cho tính hình tượng nghệ thuật:
131
- Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc
Chiều xưa dẻ quạt voi lồng
Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc
Chuồn chuồn khiêng nắng qua sông…
…Đê mười tám khúc Văn Giang
Chuông Bách môn đổ xô gò má
Mây thành thổi lửa;
- Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân…;
- …Ngất núi ô kìa anh vỗ nhịp
Bay cờ triệu yếm ríu ran ca …
Nhà văn người Nga V.Kôrôlencô đã nhấn mạnh rằng một đặc tính hữu cơ của
nghệ thuật bằng ngôn ngữ là thường xuyên hướng về độc giả, thính giả, hướng về sự
cảm thụ của họ đối với những giá trị nghệ thuật, đại ý: Ngôn ngữ con người - đâu có
phải để mà cho nó tự thích thú, có ngôn ngữ cốt là để thể hiện và truyền đạt cho những
người khác những tư tưởng tình cảm, cái phần chân lý hoặc cảm ứng mà anh ta có
được. Và điều đó gắn bó hữu cơ với thực chất của ngôn ngữ đến mức là nếu bị nhốt
kín, nếu không được truyền đạt và không được chia sẻ thì ngôn ngữ sẽ mất dần và giảm
yếu đi... Tác giả phải luôn luôn cảm thấy những người khác và phải ngoái nhìn lại xem
(không phải vào chính lúc sáng tác) là tư tưởng, tình cảm, hình tượng của mình có thể
đứng vững trước độc giả và biến thành tư tưởng của họ, hình tượng của họ và tình cảm
của họ hay không. Và phải rèn dũa ngôn ngữ của mình sao cho nó có thể làm được
công việc đó (ngay lập tức hay sau đó - đấy là một vấn đề khác). Lúc ấy những khả
năng nghệ thuật mới phát triển, mới trở nên sôi động, mới được củng cố. Bị nhốt kín
trong sự tự thỏa mãn biệt lập, chúng càng ngày càng mai một đi, càng mất dần hiệu lực
và sức sống, chúng sẽ trở nên còm cõi hoặc biến thành những tình cảm phiến diện, đặc
biệt, mang tính chất kỳ quặc thuần túy. Khó có thể tưởng tượng một tác phẩm sẽ tồn tại
ra sao nếu như thiếu độc giả bởi khi ấy văn học mới thực sự hiện thực hóa nội dung của
nó. Nó sẽ mãi chỉ là một văn bản chết khô trên giấy. Người đọc không chỉ lắng nghe,
thấu hiểu tiếng nói của người nghệ sỹ gửi gắm trong tác phẩm mà còn góp phần trong
quá trình đồng sáng tạo của nhà văn...
Người đọc ngày nay vẫn nhận thấy rõ cả bài thơ Bên kia sông Đuống được viết
liền trong một mạch tâm sự, một giọng kể, một sắc thái tâm trạng, theo đó nền cảm xúc
132
xao xuyến trong toàn bài ấy là niềm hoài niệm tình tự dân tộc. Trữ lượng của cái nôi văn
hoá Kinh Bắc với núi Thiên Thai, với chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích, với các địa danh
còn vang vọng lòng người như: chợ Hồ, chợ Sủi, Đông Tỉnh, Huê Cầu, với tranh Đông
Hồ in trên giấy điệp, với hội hè đình đám, con gái, con trai... cứ rờ rỡ được hiện lên qua
ngôn ngữ tả thực của tác giả. Tuy nhiên đó lại là một hoài niệm đau buồn, vì tất cả đã
nằm trong tay giặc, tất cả đang bị giày xéo, thiêu hủy. Hoài niệm về ký ức đau buồn để
qua đó nhân lên lòng yêu nước, yêu dân tộc mang chiều sâu văn hóa tâm linh có sức cảm
hóa lòng người Việt Nam rất rộng. Hoàng Cầm đã diễn tả các sự kiện thời sự bằng chất
liệu của ngôn ngữ văn hóa, bằng tự tình ngôn ngữ dân tộc trong cảm xúc không dễ gì có
được ở nhiều nhà thơ chuyên nghiệp khác. Thơ ca của ông là tiếng nói của cảm xúc,
nhưng cảm xúc không thể diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ nghệ
thuật, ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ của chiều sâu văn hóa Kinh Bắc, văn hóa dân tộc. Trong
thơ Hoàng Cầm, ta thường bắt gặp ở đó cái long lanh, sóng sánh của sự huê tình thấp
thoáng ẩn hiện trong bóng dáng của những cô gái quê Kinh Bắc và cái thiêng liêng của
cuộc sống tâm linh, lắng nghe ở đó tiếng trở mình rất khẽ của những tình cảm mong
manh của nhà thơ nói riêng và của người Kinh Bắc nói chung. Do vậy, thơ ông còn là
bến bờ khi con người cảm thấy hụt hẫng vào một giây phút nào đó trong cuộc sống. Đến
với thơ Hoàng Cầm, do đó là đến với lời mời gọi ân tình của trái tim để chia sẻ, chung
cùng, là tiếng hát của trái tim, là nhịp thở của con tim, vẫn là cuộc đời, vẫn là mời gọi
con người đến với cái đẹp Chân - Thiện - Mĩ, vươn tới tầm cao của khát vọng sống, của
giá trị nhân sinh, là người bạn tâm tình chia sẻ bao buồn vui với con người, là những suy
nghĩ đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đến với mọi tâm hồn, là tất cả tấm lòng của người
nghệ sĩ. Đó là tình yêu quê hương, yêu con người Kinh Bắc được Hoàng Cầm viết lên
bởi những lời thơ thiết tha, tự hào và đầy lòng thương mến. Ngôn ngữ của nhà thơ luôn
luôn hướng vào nội tâm là vì vậy, đơn cử bài Bên kia sông Đuống: Mẹ con đàn lợn âm
dương / Chia lìa đôi ngả / Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã / Bây giờ tan tác về
đâu. Thi liệu ấy lấy từ nội dung tranh dân gian Đông Hồ. Và đây là từ phong tục, tập
quán hay đúng ra từ những kỷ niệm của tâm hồn người Kinh Bắc: Những hội hè đình
đám/ Trên núi Thiên Thai / Trong chùa Bút Tháp / Giữa huyện Lang Tài (...)/ Những
nàng môi cắn chỉ quết trầu / Những cụ già phơ phơ tóc trắng / Những em sột soạt quần
nâu / Bây giờ đi đâu? Về đâu?. Câu hỏi “về đâu” như một điệp khúc thổn thức đầy nhạc
tính mang âm hưởng xa xót sau mỗi lần nhắc tới những vẻ đẹp lộng lẫy, trong sáng, đầm
133
ấm của văn hóa truyền thống. Hoàng Cầm sử dụng đúng chỗ sức gợi của ngôn ngữ về
những hình ảnh xưa, mà ở thời điểm ấy vẫn còn là thực tại: khuôn mặt búp sen, hàm răng
đen, cặp môi cắn chỉ quết trầu, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng...
Trong thơ Hoàng Cầm, mạch thơ chính là mạch cảm xúc là yếu tố đã khơi nguồn
cho sức băng tới của các bài thơ, và chính trong sự vận động tự thân của thơ như một
dòng suối chảy xiết đã làm cho những hạt vàng lấp lánh của ngôn từ vốn bị vùi sâu dưới
lòng đất mẹ đã bật lên, đã có dịp phơi mình dưới ánh sáng mặt trời. Sức cuốn ấy của tình
cảm cũng tạo nên một dòng âm nhạc chảy xiết, vừa phong phú vừa linh hoạt, hầu như đủ
hết ở các thể thơ mà ông đã sử dụng đều có sự dài ngắn, mạnh nhẹ, cao thấp, nhanh
chậm, cứ nương theo nhu cầu tình cảm của con người mà ngân lên. Ta dễ dàng nhận ra
sức mạnh ấy của nhạc tính trong thơ của thi sĩ Hoàng Cầm khi đọc vào bất cứ đoạn nào
trong bài thơ Bên kia sông Đuống, chẳng hạn: Quê hương ta từ ngày khủng khiếp/ Giặc
kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn/ Ruộng ta khô/ Nhà ta cháy/ Chó ngộ một đàn/ Lưỡi dài
lê sắc máu/ Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang/ Mẹ con đàn lợn âm dương/ Chia lìa đôi ngả/
Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã/ Bây giờ tan tác về đâu… Và cứ thế cho đến
những câu thơ kết gợi vẻ đẹp như một dòng âm thanh, nhạc tính lanh lảnh vút lên giữa
trời xanh dưới vỏ bọc của thứ ngôn ngữ dân gian vùng Kinh Bắc cổ kính huê tình để tạo
sức gợi rất biểu cảm trước những thiên biến trong đời sống tinh thần của mình: Bao giờ
về bên kia sông Đuống/ Anh lại tìm em/ Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy
hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.
Chất liệu của thơ là ngôn từ. Song để trở thành ngôn ngữ của thơ thì không phải
là một điều dễ dàng. Thơ Hoàng Cầm là loại ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng cũng tròn
đầy cả âm và nghĩa, chứa đựng một năng lượng tư duy thẩm mỹ rất lớn. Bản thân lời thơ
bình dị ấy đã phát ra những giai điệu triền miên, đậm tính nhạc, song đó là thứ âm nhạc
tự nhiên khởi phát từ tâm thi và thần thi. “Thế mạnh của những bài thơ là ở âm nhạc, ở
ngôn từ. Tính nhạc triền miên không dứt… lay động lòng người rất mạnh trước khi ta kịp
hiểu ý nghĩa sâu xa, tầm tư tưởng lớn của bài thơ. Thơ hay không bắt người ta hiểu rồi
mới yêu, âm nhạc của nó đi vào tâm can của người ta trước khi kịp hiểu nó là cái gì”
(Đào Duy Hiệp). Nhạc tính trong câu thơ của Hoàng Cầm gợi niềm tư duy miên man vô
tận, thêm vào đó là làm giàu thêm khả năng mô tả, gợi lên những cảm xúc và suy nghĩ đa
chiều, nhịp điệu thơ khi trầm lắng uyển chuyển, khi dồn dập tình tứ thích hợp cho việc
134
bộc lộ cái tôi trữ tình của nhà thơ. Nếu để ý, ta thấy câu thơ bài thơ nào cũng chứa đựng
nhạc tính thẩm mỹ:
- Ví chăng em cứ bơ vơ nhớ
Nắng lượn cồn mây
Lá hiện hình
Thì thương cuốc lả
hồn Chiêu Thánh
Mõ giục chuông dồn
… lệ chép kinh… (Ước nguyện);
- Bờm nhả khói
Đuôi dựng mây
Hí lửa dài
Vó chồm nghiêng soái phủ (Khói Yên Thế);
- Gái thường dân Kinh Bắc
Tìm ai đây giỏi phận làm chồng
Hai tay căng sợi chỉ
Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ (Hội vật).
Là một nghệ thuật thời gian, thơ được tiếp nhận chủ yếu bằng tai. Là một nghệ
thuật không gian, thơ cần được thưởng thức bằng mắt. Sự kết hợp giữa tính thời gian và
tính không gian đòi hỏi người đọc sử dụng cả hai giác quan cùng một lúc; thính giác và
thị giác. Thông qua đó, đọc là nhìn và giải mã ý nghĩa của thơ cùng một lúc. Ngôn ngữ,
tự bản chất, là một thứ mã (code), làm bằng các ký hiệu. Không có ký hiệu nào tự nó và
cho nó cả. Ký hiệu nào cũng là một ký hiệu của một cái gì khác. Ferdinand de Saussure
phân biệt hai khía cạnh của ký hiệu (sign): cái biểu đạt (signìier) và cái được biểu đạt
(signified). Đọc thơ, bởi vậy, là từ cái biểu đạt đi tìm cái được biểu đạt. Tuy nhiên, cái
được biểu đạt, tự nó, sẽ biến thành cái biểu đạt cho cái được biểu đạt khác; rồi cái được
biểu đạt ấy lại trở thành cái biểu đạt cho một cái được biểu đạt nữa. Cứ thế, liên tục. Giải
mã thơ, do vậy, thực chất là quá trình phát hiện các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp và
hầu như vô tận giữa những cái biểu đạt/ được biểu đạt/ biểu đạt/ đựơc biểu đạt… Phát
hiện ra các quan hệ là phát hiện tính hệ thống của một bài thơ. Giải mã một bài thơ, bởi
vậy, nghĩ cho cùng là khám phá ra cấu trúc của nó để làm giàu sức phát hiện các giá trị
nghệ thuật.
135
Soi chiếu vào thế giới nghệ thuật thơ ca Hoàng Cầm, ta có thể nói thế giới hình
tượng trong thơ ông chứa đựng những mã văn hóa với các biểu tượng nghệ thuật đa
nghĩa và những trường liên tưởng tượng trưng tưởng chừng như vô nghĩa, thông thường,
nhưng thực chất lại là những liên kết giữa các hình ảnh có tính chiêm nghiệm, biểu cảm
mang nhiều giá trị nghệ thuật thẩm mỹ cao. Điều đó đã khẳng định được bản lĩnh thơ
ông và khẳng định được vị trí của thơ ông trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, nói như
Nguyễn Việt Chiến thì Hoàng Cầm là "Ông hoàng của trường phái thơ duy mỹ Việt
Nam, Ông hoàng của thơ trữ tình hiện đại” [4, tr 98- 99].
Tính chất tượng trưng trong thơ Hoàng Cầm thực chất được soi chiếu từ góc độ
“lạ hóa” trong cấu trúc câu và ý thơ. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “Lạ hoá” là “toàn bộ
những thủ pháp (nghịch dị, nghịch lý…) được dùng trong nghệ thuật một cách có chủ
đích, nhằm đạt tới một hiệu quả nghệ thuật, theo đó, hiện tượng được miêu tả không phải
như ta đã quen biết, hiển nhiên, bình thường, mà như một cái gì mới mẻ, chưa quen, khác
lạ” [1, tr.186]. Thực ra khái niệm Lạ hoá đã được Brech và trước đó là các nhà nghiên
cứu thuộc trường phái hình thức ở Nga vào những năm đầu thế kỷ XX từng đề xuất.
Theo Shklovski: “việc đưa vào ngôn ngữ văn chương một từ thông tục hoặc một từ địa
phương…, đặt trên cái nền của ngôn ngữ văn học, có thể là phương cách biến đổi hệ
thống tín hiệu, có thể là một sự đổi mới tín hiệu phá vỡ khuôn đúc (stéréotype) và buộc
người ta phải nỗ lực nắm bắt sự vật” [1, tr.187].
Hoàng Cầm làm thơ thường là không theo chủ định trước, không bao giờ ông
ngồi "nghĩ thơ" mà phần lớn nó tự đến từ những rung cảm, những hoài niệm hay từ nỗi
đau buồn, ám ảnh, thất vọng nào đấy. Những xúc cảm ấy thường đến trong đêm khuya,
bằng một giọng nữ văng vẳng bên tai như Bên kia sông Đuống, Về Kinh Bắc, Mưa
Thuận Thành, Men đá vàng, 99 tình khúc - những tập thơ chính của ông đều xuất phát
từ những xúc cảm đó và xuyên suốt trong thơ ông là chất trữ tình bay bổng của một vùng
văn hóa phồn thịnh Kinh Bắc, của một con chim oanh vàng với giọng hót lảnh lót, của
một cây đàn hoàng tử với những âm điệu lịch lãm và sang trọng ngân vang trong nền thơ
Việt Nam... Do vậy thơ ông luôn có sự lạ hoá trong hệ thống ngôn từ, đặc biệt trong cách
biểu thị các hình ảnh được nói tới. Ông từng tâm sự: Có nhiều câu thơ vô nghĩa nhưng
nó vẫn giàu sức gợi, sức cảm. Theo tôi không nhất thiết phải giải nghĩa thơ mà hãy tự
cảm nhận, từ cảm nhận sẽ ra hình tượng. Thơ, nhiều khi chỉ là một cái đẹp đơn thuần.
Nhiều người hỏi "Lá diêu bông" là gì, tôi không biết nhưng rõ ràng nó phù hợp với
136
không khí, âm hưởng chủ đạo của bài thơ. Nhiều người lại hỏi tôi nghĩ gì khi viết một
câu thơ rất hình ảnh và hình tượng chỉ về con sông Đuống là "Nằm nghiêng nghiêng
trong kháng chiến trường kỳ… Quả thực cũng có nhiều nhà nghiên cứu còn băn khoăn
với hình ảnh con sông mà Hoàng Cầm đã tâm sự ở trên. Nhưng nếu giải nghĩa có thể
hiểu đó là sự nhân cách hóa con sông, nó cũng suy tư, trăn trở khi nghĩ về vận mệnh Tổ
quốc, dân tộc và chính nó.
Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm trong Mưa Thuận Thành, trong Lá diêu bông, Cây
tâm cúc, Qủa vườn ổi, Ước nguyện, Về với ta, Đợi mùa... cũng được coi là lạ và mang
tính tượng trưng cao. Cái lạ, dĩ nhiên có người thích, người khó chịu bởi việc giải mã cái
lạ đó không hề đơn giản. Tuy nhiên, nhiều người cũng cảm nhận thơ Hoàng Cầm là hay,
là tuyệt tác, hình thức ngôn ngữ thơ của Hoàng Cầm là tân kỳ, sáng tạo. Song dù sao cái
lạ thơ Hoàng Cầm vẫn chiếm gam chủ đạo, cái lạ ấy là cái điều gì đó khang khác trong
giọng điệu, trong ngôn ngữ, tư duy và trong hình thức. Chẳng hạn những câu thơ: Giếng
ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử/ I… i… m… / ứ…!/ I… i… …m/ ứ…! (Gió lông ngỗng);
Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo/ Biết lòng chim sáo chim ri (Sương cầu Lim). Rõ
ràng, những tìm tòi hình thức trong thơ nói chung, sự cách tân của Hoàng Cầm nói riêng
có điều gì đó đã phụ thuộc vào môi trường văn hoá thẩm mỹ vùng, văn hoá cá nhân để
tạo ra những thay đổi, và có sự lao tâm, khổ tứ của cá nhân tác giả vào cái môi trường
của sự sáng tạo để tạo nên sự cách tân đáng kể ấy.
Thứ ba, qua tìm hiểu, chúng ta thấy thơ Hoàng Cầm còn có một hệ lời đầy tính
sáng tạo vừa có giá trị của tượng trưng nghệ thuật vừa mang tính nhạc. Điều đó đã gây
nên hết bất ngờ này đến bất ngờ khác cho người đọc. Hệ thống chữ nghĩa trong thơ ông
như có hồn vía bao quanh để cho nhịp thơ chuyển động theo, với những âm thanh vang
vọng sâu thẳm vào trong tâm thức tư duy bạn đọc. Người xưa gọi là “nhãn tự”, là linh
hồn của câu thơ, bài thơ. Ý thức được điều đó trong việc làm thơ, Hoàng Cầm đã rất tinh
và rất tài tình trong việc sử dụng động từ trong thơ. Mỗi động từ làm nên cái hồn của câu
thơ, bài thơ, từ đó hướng đến những trường nghĩa khác rộng hơn cái mà nó vốn có, nhằm
tạo ra một nét nghĩa mới với sự lạ hoá trong lối tư duy để mang một ý nghĩa tượng trưng
khác. Ví dụ: Trăng lên chém đầu ngọn gió (Đêm hoả), Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu
Long (Luân hồi), Gió mát chồi xuân đay nghiến luỹ tre làng (Đêm mộc)... Đó còn là
việc sử dụng những những động từ biểu cảm thế giới tâm trạng, cảm quan của nhà thơ về
cuộc đời, văn hoá tâm lý sống của con người nơi vùng quê Kinh Bắc đã khúc xạ vào
137
trong thơ ông để chiêm nghiệm: Nắng lượn cồn mây lá hiện hình (Ước nguyện), Con rô
rạch ngược nướng cong mùa thơ (Nhớ), Đi tìm đôi ếch cõng mưa rào… Ổ sáo đen mái
chèo khua vỡ trứng (Quà mẹ).
Tính nhạc trong thơ Hoàng Cầm còn được thể hiện ở những vần thơ viết về văn
hoá Quan họ. Viết về không gian văn hóa quan họ Kinh Bắc, mặc dù nhà thơ không trực
tiếp hoặc đi sâu miêu tả tiếng hát, nhưng đã nói được cái linh hồn của văn hoá Quan họ.
Đó là những giai điệu “ứ hự”, “hừ la” đầy ngẹn ngào, ẩn ức, thứ ngôn ngữ riêng biệt chỉ
có trong lời ca, lời thơ Quan họ. Đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng gặp cái thứ ngôn
ngữ của nhạc tính Quan họ ấy. Thơ hay bao giờ cũng là cuộc hôn phối kỳ diệu giữa âm
thanh, nhạc tính, ý nghĩa và hình tượng. Chữ và nghĩa quan họ trong ngôn ngữ thi ca
Hoàng Cầm hoà quện với nhau như hình với bóng, như xác với hồn nên việc tách rời
chúng ra khỏi nhau sẽ làm tổn hại đến bình diện ngôn ngữ và tính thẩm mỹ của câu thơ.
Thơ là một thực thể ngôn ngữ. Thơ ca Hoàng Cầm ám ảnh người đọc phải chăng cũng vì
vẻ đẹp toát ra từ thực thể ngôn ngữ duy mỹ của văn hoá Kinh Bắc ấy? Vũ trụ tâm hồn thi
nhân đã hoà điệu với tâm hồn người đọc, đã “tri âm” với người tiếp nhận thông qua chiếc
cầu nối ngôn ngữ văn hoá Quan họ.
Một đặc điểm nữa trong ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là mang tính tượng trưng cao bởi
ở cái lạ hóa ngôn từ. Các nhà phê bình thuộc trường phái hình thức Nga rất đề cao tính lạ
hoá trong thơ ca. Lạ hoá đã mang lại cho thơ ca tính tượng trưng độc đáo trong sự tri nhận
của bạn đọc. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương trong Trường phái hình thức Nga lý
giải quan niệm lạ hoá: "Lạ hoá là một cách phản ứng lại áp lực của thói quen. Bằng cách
rứt đối tượng ra khỏi bối cảnh quen thuộc của nó, bằng cách đặt cạnh nhau những khái
niệm khác hẳn nhau, nhà văn xoá bỏ những sáo ngữ và hiệu ứng nhàm cũ để giúp người
đọc nhận thức sâu sắc về sự vật và cơ chế cảm giác của nó... Lạ hoá kháng cự lại không chỉ
sự tự động hoá của nhận thức con người về đời thực mà cả sự tự động hóa của ngôn từ và
thủ pháp trong văn học” [109]. Hoàng Cầm đã làm được điều đó. Ông không hoàn toàn
xây dựng những biểu tượng mang tính chất thời gian thuần tuý mà còn đưa những biểu
tượng đó vào trò chơi trùng phức của chữ nghĩa, của biểu tượng thơ ca, nghĩa là biểu tượng
vừa có sự di động giữa không gian và thời gian, giữa vô thức và hiện thực. Sự di động vị trí
này khiến thơ ông có thêm chiều sâu tâm tưởng, đa tầng nghĩa, mang tính tượng trưng cao
và rất giàu chất triết lý: Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát/ cô gái điên/ ôm xác chồng/ lội
138
đồng chiêm (Gái hậu Lê), Mẫu đơn một nhành rơi/ Ngọc lan mười búp chắp/ Nến tắt sao
không tắt/ Giải yếm lòng trai mải phất cờ (Hội Long Khám).
Đọc thơ ông, nhiều người sẽ có cảm giác mơ hồ, khó hiểu nếu bản thân độc giả
không có một sự thụ cảm linh khí nhất định để lý giải mã văn hoá Kinh Bắc, bởi thứ
ngôn ngữ Hoàng Cầm sử dụng là ngôn ngữ mang tính tượng trưng của văn hoá, lịch sử,
thiên nhiên, tình yêu và con người truyền thống đất Kinh Bắc. Chất Kinh Bắc thâm
nhập vào từng vi mạch của đời sống tâm hồn ông, và đôi khi ông dùng thứ ngôn ngữ tự
nhiên - một sự lạ hoá của vô thức, tiềm thức thể hiện tâm trạng mình, qua đó mang lại
một tín hiệu nghệ thuật riêng biệt, một biểu tượng văn hóa nhằm phá vỡ cảm giác của
độc giả, chứ không phải là sự gia công gọt giũa cầu kỳ câu chữ: Chợt mê thét giữa sân/
Nét mác chữ thiên đâm toạc lưng trâu mộng/ Máu đổ/ Mây đùn/ Gió lộng/ Sớm mai đi
(Đêm hỏa).
Việc sáng tạo ngôn ngữ trong văn chương nghệ thuật thể hiện một hành động
sáng tạo mang tầm truyền thuyết và lặp lại sự thể hiện niềm khao khát về một bản thể
thần thiêng. Có thể nói rằng ý niệm về cái cao cả hay cái thiêng liêng trong thơ Hoàng
Cầm đều đã bắt nguồn từ cái ý niệm về bản thể đó. Quá trình phát tán cái ý niệm đó
trong những môi trường biến đổi kế tiếp nhau của thời gian lịch sử lâu dài đã dung hợp ý
niệm về cái thiêng liêng vào các thể chế của con người từ đạo đức, tình cảm đến tư
tưởng... Và tất nhiên, trên thực tế là suốt những hành trình dằng dặc đó, tín ngưỡng / tôn
giáo và truyền thuyết vẫn tồn tại song hành, như những nguồn mạch của truyền thống
không bao giờ đứt đoạn. Đó là nguồn nhựa sống trong cái cây của ý niệm về tính thiêng
liêng hay tính thiêng thánh. Và đôi khi ta có thể thấy ý niệm về cái cao cả hiện thân trong
một lý tưởng cụ thể nào đó mà vẫn mang ở mặt kia của nó - tiềm ẩn hay hiển lộ - tính
thiêng liêng của các phạm trù thuộc về truyền thống. Đấy cũng là phép ẩn dụ tượng trưng
để nhằm tạo ra các tín hiệu nghệ thuật mà thơ ca đã không ngừng sử dụng, hay cũng có
thể nói là không ngừng quy chiếu về. Hơn nữa, đó là một nguồn cảm hứng lớn của thơ ca
ở mọi thời và là nguồn ý nghĩa lớn.
Với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, bao giờ cũng phải có hai mặt. Đó là: mặt biểu
hiện (hình thức tín hiệu) và mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu). Mặt hình thức của
tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã
thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn
ngữ. Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về
139
những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu
hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại. Tổng hợp của bộ từ vựng và bộ
ngữ pháp tạo thành cơ chế phân định và thiết lập mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái
được biểu hiện của từng tín hiệu trong ngôn ngữ. Khi mối quan hệ cơ giới 1 - 1 bị phá
vỡ thì nó có nguy cơ làm phương hại tới quá trình giao tiếp của một cộng đồng nói
năng cụ thể. Vận dụng nghiên cứu thơ Hoàng Cầm ta thấy nguyên nhân của sự lạ hoá
(mã) ngôn ngữ nhằm phá vỡ cảm giác để tạo nên thế giới tư duy đa chiều trong thơ
Hoàng Cầm có thể là:
1. Vì cơ chế của bộ từ vựng một ngôn ngữ là cơ chế mở (open) để đáp ứng nhu
cầu phản ánh thực tại của nhà thơ.
2. Các luật ngữ pháp có những biến động do có sự tiếp xúc văn hoá (culture
contact) từ những ngôn ngữ khác. Chính những biến động như vậy sẽ làm ngôn ngữ thơ
Hoàng Cầm phát triển, nhưng cũng có thể sẽ làm ngôn ngữ bị phân tầng, phân lớp mạnh
mẽ tạo nên những cấu trúc nghệ thuật độc đáo có khi đến mức không thể kiểm soát được.
Trong lí thuyết tín hiệu học hiện đại, bộ từ vựng và bộ ngữ pháp của một ngôn
ngữ còn được gọi là mã của ngôn ngữ đó. Trong thực thể sáng tác, Hoàng Cầm đã đưa
được các giá trị văn hóa thẩm mỹ vùng vào trường tư duy thơ để tạo nên con bạch tuộc
lắm vòi là cái mã văn hoá - ngôn ngữ khá đặc biệt với cái vẻ long lanh và bí ẩn trong
thơ ông.
Nhiệm vụ chính của nhà nghiên cứu văn học, do đó, tập trung chủ yếu vào việc
phân tích những sự dị biệt trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ thực dụng trong
đời sống hàng ngày, cũng như phát hiện những cái lạ đã bị biến thành tự động hoá và
những cái lạ thực sự lạ, nghĩa là phát hiện những cái chủ tố (the dominant) trong từng
tác phẩm cụ thể. Vận dụng quan điểm trên vào nghiên cứu ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm ta
có thể thấy các tín hiệu nghệ thuật mà ông sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn ngữ bao
quanh đều tạo nên một cái chủ tố, cái lạ thực sự là lạ, và được coi là biểu tượng của
một bản thể có trí tuệ. Ngôn ngữ thơ ông là linh hồn của một nền văn hóa, một vùng
văn hóa. Ngôn ngữ và các biểu tượng văn hóa trong thơ Hoàng Cầm chính là điều kiện
đảm bảo cho bản sắc thơ ông. Vì thế, người đọc, một khi chưa nhập kịp vào tác giả,
cảm thấy ngỡ ngàng, giống như thâm nhập vào không gian của một giấc mơ vừa quen
mà vừa lạ:
140
- Khấn thầm như mẹ lỡ đò ngang
Miệng hé hạt na nhòa bến vắng
Bao giờ mẹ về
Buộc yếm đào phai vỗ hát ru (Đợt mùa);
- Ta con phù du ao trời chật chội
đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao
uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ
vừa rụng chiều này
dềnh mặt trước hương sen
Ta soi
chỉ còn ta đạp lùi tinh tú
Ngủ say rồi
Đôi cá đòng đong (Về với ta).
Mỗi ý thơ đều chứa đựng ý nghĩa tượng trưng từ văn hoá truyền thống
vùng Kinh Bắc, tuy nhiên vẫn đảm bảo được cái mới của tư duy trong hiện đại.
Đó chính là hiệu quả thẩm mỹ của thi pháp mới với tính chất dán cắt, tô nhấn
phối ghép giữa yếu tố bình dân và cái cao siêu, giữa cái thực và cái hư để mang
đến một không gian văn bản phù hợp nhằm “nối mạng” biểu tượng - những đặc
trưng thẩm mỹ của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thêm một lần, những quan niệm
truyền thống về thơ ca bị xóa bỏ. Đến đây, thơ không còn chỉ là nghệ thuật của
ngôn từ thuần tuý, thơ còn là sự cắt xé ngôn từ, sự bình luận ngôn từ, sự khám
phá cấu trúc bên trong của tác phẩm thơ để tạo nên tầng ý nghĩa thứ hai, thứ
ba…, tức là làm cái việc bắt ngôn ngữ “phải suy nghĩ về chính bản thân”, bổ
sung cho nhà thơ tư cách nhà phê bình, nghiên cứu trong bản thân tư duy sáng
tác để hướng tới câu hỏi: “cái này được làm ra như thế nào?” như Roland
Barthes đã đề nghị trong Độ không của lối viết [6]. Nói cách khác, thơ không
chỉ là hồn vía của ngôn ngữ, là vỏ âm thanh hình ảnh trong ngôn ngữ, mà còn là
xương cốt kỹ thuật, hành chính và ngữ pháp của ngôn ngữ như những liên hệ ở
ranh giới của kỹ thuật và thẩm mỹ, giữa hình thức và cấu trúc của văn bản nghệ
thuật với các nguyên tắc phân đoạn dòng thơ trong một bài thơ, mà nền tảng của
cấu trúc câu thơ là sự láy đi láy lại, qua đó tạo nên một hình tượng nghệ thuật
mới mà không phá hủy đơn vị từ vựng trong sự ngắt nhịp câu thơ: Gió vào trăm
141
cửa/ Gió ra hồng da trinh nữ/ Gió vào xanh quan lục/ Gió ra vàng thớ mít/ ong
bay vai áo tiểu thon mình (Đêm thủy). Nhìn vào cấu trúc ngôn ngữ thơ Hoàng
Cầm ta thấy giống như cuộc ú tìm của lý trí và kỹ thuật trong lãnh địa của giải trí
vô tư, mà tính chất hậu hiện đại của nó thể hiện ở trạng thái phi cá tính, phi chủ
thể và phi quan điểm. Nhà thơ, ở đây, giống như nhện giăng tơ đã giăng mắc
những liên tưởng, tưởng tượng thơ và và siêu thơ của mình trên những chất liệu
đã định hình chủ thể và quan điểm. Sự can thiệp này vừa phá huỷ vừa không phá
huỷ cấu trúc hình ảnh thơ, nó chập chờn giữa phá huỷ và sáng tạo, giữa truyền
thồng và hiện đại, giữa cũ và mới, giữa đùa giỡn và nghiêm túc, giữa định hình,
sáng tỏ và khuất khúc: Dòng dây vục mãi đêm hồ tinh/ Ấp vú mình trần con dế
trũi/ Cành tre trải áo nép thân hình/ Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi (Tắm
đêm). Đặc điểm này trong thơ ông có cái hay là từ đó tạo nên các liên hệ ngữ
pháp và thi pháp truyền thống, cho đến khi có thể bất ngờ úp lên nó một lưới
siêu liên kết nối liền những ngữ “nội gián” đặc tuyển lại để tạo thành biểu tượng
mới. Có chăng mà qua đó, nhà thơ Lê Đạt đã phong tặng Hoàng Cầm là “một can
- đảm - chữ”?
Hoàng Cầm sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân gian vốn có của dân tộc để tạo ra
một chỉnh thể nghệ thuật, làm chất liệu tạo hình nên những hình tượng chập chờn giữa
biểu hình và chất liệu. Song, cái chất liệu truyền thống, khi được nhà thơ sử dụng như
một cái nền để triển khai sự đọc của mình trên đó đã không còn giữ nguyên cái sắc thái
thẩm mỹ quen thuộc xưa kia nữa - nó đã được lạ hoá giống như trên sân khấu của Bertolt
Brecht, bởi tác giả đã điểm vào đó, xếp chồng lên đó những biểu tượng văn hoá khác lên
cái biểu tượng văn hoá cũ có tính chất nền tảng và tính chất liệu này. Đó rõ ràng là một
sự sáng tạo ngôn ngữ tuyệt vời của nhà thơ.
Thật vậy, sáng tạo thi ca là quá trình phức tạp. Như một ngọn nến, thi nhân tự đốt
cháy tâm hồn mình mới mong toả sáng giữa cuộc đời. Quá trình sáng tạo của nhà thơ là
sự kết tinh của “hồn thơ”. Để sáng tác thi ca, ngoài phần kỹ thuật, thi pháp, cũng như nội
dung tư tưởng, còn đòi hỏi một nguyên lý sinh động đó là cái hồn thơ, cái khả năng cảm
hứng và diễn tả của nhà thơ… làm cho nội dung kết cấu với hình thức và bài thơ có một
sức sống linh diệu. Và “Những chất thơ có được trong tác phẩm đều xuất phát từ một
hồn thơ. Hồn thơ là nguồn suối nguyên sinh (gennse) của cái đẹp nghệ thuật tìm thấy
trong một sáng tạo đam mê” [119, tr.87].
142
Hồn thơ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sinh thành thơ ca. Nó không
những là nguyên nhân, động lực, là nỗi niềm tinh vân dậy lên đam mê và khát khao sáng
tạo mà còn là tiếng vọng từ trong cõi vô thức của người thơ. “Chất thơ thường hướng về
tác phẩm, tức là ngoại giới, hồn thơ là dư vang chưa thành hình còn đang ở trong trạng
thái tiềm thế, đồng hoá với mỹ cảm sống động trong tâm hồn thi sĩ” [119, tr.87]. Không
những thế, hồn thơ còn là “tiếng gọi” huyền nhiệm tạo mỹ cảm cho người đọc trong
quá trình tiếp nhận, theo cách nói của Hồ Hoàng Lạp, đại ý: Đọc một bài thơ, điều làm
tôi cảm thấy hay không ở bài thơ chính là cái hồn của bài thơ đó toát ra sau những dòng
chữ. Một chút sương khói thơ lãng đãng bay lên cao, chập chờn cảnh vật, lung linh
hình bóng. Rõ ràng, một bài thơ hay phải ẩn chứa một hồn thơ lung linh sau những
dòng chữ. Nên hồn thơ không chỉ là nội lực tạo xúc cảm cho nhà thơ trong quá trình
sáng tạo, là sự mời gọi nguồn mỹ cảm nơi người đọc. Nói như Trần Nhựt Tân thì nó
còn là xu hướng của cả một trường phái, “Hồn thơ vừa là mẫu số chung cho toàn thể
tác phẩm của một thi sĩ, vừa là đơn vị sáng tạo của một thi sĩ đối với các thi sĩ khác, kể
cả những thi sĩ cùng một thời đại, một khuynh hướng chịu chung một ảnh hưởng (đôi
khi) cả trong cùng một trường phái” [119, tr.101].
“Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson). Đó là thứ ngôn ngữ
được chưng cất công phu vì bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức
chặt chẽ tinh tế của ngôn ngữ. Và ngôn ngữ thi ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa
ngôn ngữ và tư tưởng và nhiệm vụ của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm màu kỳ diệu ấy.
Đây mới thực sự là yếu tố làm nên giá trị thơ ca. Tư tưởng trong ngôn ngữ thơ như một
chiếc dây diều vừa đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong bầu trời của thực và mộng vừa
neo thơ lại với bầu khí quyển đời sống của riêng nó. Ngôn ngữ thơ không phải là một thứ
ngôn ngữ xác ve sau mùa hè đã im bặt tiếng kêu, mà quan trọng hơn, đó là một thứ ngôn
ngữ không ngừng biến sinh mãnh liệt. Song ngôn ngữ trong thơ không phải là ngôn ngữ
nguyên sinh của đời sống. Đó là ngôn ngữ có giá trị tạo nghĩa, là một thứ bóng chữ. Nó
có một ma lực riêng, một cõi hồn riêng, nhiều khi vượt thoát khỏi ý thức của người cầm
bút để trở thành một thứ ám ảnh của vô thức. Trong quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ của
Hoàng Cầm cũng vậy, nó không những khác biệt ngôn ngữ nhật dụng, nó còn biệt lập
với người cầm bút, nó còn khả năng tự tồn, sinh sôi, nẩy nở chữ đẻ ra chữ và ra nghĩa.
Ngôn ngữ luôn có khả năng tạo nghĩa và luôn biến sinh theo sự biến sinh của đời sống xã
143
hội. Coi trọng vai trò của ngôn ngữ không những là một yếu tố hình thức góp phần tạo
nên giá trị của thơ, mà còn đề cao ý thức trách nhiệm của nhà thơ trong việc sáng tạo
ngôn ngữ. Nhà thơ phải là người làm mới ngôn ngữ để thơ luôn tạo nên những rung
động mới mẻ từ phía người tiếp nhận. Từ đó gây sự thu hút đối với bạn đọc. Trước năm
1945, Xuân Diệu được coi là một điển hình trong việc sáng tạo và làm mới ngôn ngữ.
Sau 1945, một số nhà thơ cũng có những cách tân, sáng tạo ngôn ngữ như: Hoàng Cầm,
Quang Dũng, Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng. Trong số đó, cách làm mới, làm
lạ hóa ngôn ngữ của Hoàng Cầm được bạn đọc quan tâm hơn cả, cũng bởi ông đã dựa
trên những chất liệu ngôn ngữ của truyền thống văn hóa dân gian để làm cơ sở, bước
đệm cho việc hiện đại hóa, lạ hóa cho ngôn ngữ của mình. Những bài thơ như Nước
sông Thương, Cây tam cúc, Lá diêu bông,… hoặc các bài trong chùm thơ viết về đêm
được nhà thơ sắp đặt lại theo lối viết tự động hoá và được “lạ hoá” thêm một bước về
ngôn ngữ, tạo ra trường nghĩa khác, đem đến cho người đọc sự thú vị đa chiều trong việc
khám phá ngôn từ. Một mặt ông đã dùng động từ tạo âm hưởng cho câu thơ đột biến,
mặt khác nó cụ thể hoá cái rất trừu tượng. Nó giúp chúng ta cảm nhận được những thế
giới vô hình và mông lung. Qua đây ta thấy, nếu hình ảnh trong đầu của nhà thơ không
sống động, thì người đọc thơ cũng không có cảm quan sống động của bài thơ. Sự tương
tác giữa họa, nhạc trong thơ có thể gần như tương tự với sự đóng góp của họa sĩ, nhạc
sĩ… tất cả đều chỉ bởi nhà thơ với ngòi bút và những từ ngữ trong một hệ thống ngôn
ngữ mà ra. Cách sử dụng dùng hình ảnh động đậy bằng việc cho thêm các động từ cũng
thường được thấy trong thơ Hoàng Cầm. Động từ trong thơ ông đã cụ thể hoá cái thế
giới nội tâm huyền bí, sâu xa của chính tác giả: Gió mát chồi xuân đay nghiến luỹ tre
làng (Đêm mộc); Bình pha lê nghiêng rượu niệm đêm tàn (Ngựa 1)… Ông sử dụng
động từ như một nhân tố tạo nên cái hồn của sự vật, hiện tượng được nói đến: Câu thơ
chểnh mảng gối đầu tay (Đèn nhang 1); Chuồn chuồn khiêng nắng liệng sang sông
(Đêm thổ)… Động từ biểu hiện thế giới tâm trạng, cảm quan của nhà thơ về cuộc đời và
con người: Ốc sên hiếng mắt ngó rình sớm mai (Tháng giêng đi chậm); chìa vôi quệt
gió hững hờ (Theo đuổi)… Thế giới hình ảnh trong thơ ông là những liên tưởng tượng
trưng tưởng chừng như vô ý, đơn giản, song lại tạo nên sợi dây liên hệ giữa những hình
ảnh cụ thể với những hình ảnh có tính đa nghĩa, siêu nghiệm: Ông phó may già mười
đêm chẳng ngủ/ Rủ xô gai biển động tìm kim (Đêm kim); Một thoáng gật đầu/ Giữa trời
144
gãy cánh/ Nửa mắt nhìn chênh/ Giếng cạn mùa mưa (Đếm sao); Gà con nhớ mẹ/ Cỏ
vàng rung chân/ Ới thương là thương (Đếm nắng)… Tuy không phải là một phu chữ,
nhưng Hoàng Cầm cũng rất thành công trong lĩnh vực chữ nghĩa. Con chữ trong tầm tay
của ông, dù là những con chữ bình thường cũng trở nên có sức sống kỳ lạ, mang tâm tư,
tập tính, hồn vía của con người Kinh Bắc.
Đúng là sự lạ hoá ngôn ngữ trong thơ Hoàng Cầm lại là cách làm cho người đọc
cảm thấy ngỡ ngàng, vừa quen mà vừa lạ. Ông tạo sự “lạ hoá” bằng cách đem những
từ ngữ trong các trường nghĩa khác nhau đặt bên nhau, tạo xé nát cấu trúc hình tượng,
rồi lắp ghép vào những chiều kích của không - thời gian khác nhau, để phá vỡ cách
nhận thức bằng tư duy logic của người đọc, khiến bài thơ trở thành một rừng chữ
nghĩa, biến hóa khôn lường để tạo ra một trường liên tưởng thẩm mỹ khó thâm nhập
mà tháo dỡ cấu trúc. Chữ nghĩa đứng trước mắt, nhưng hầu như lại “nằm ngoài tầm
kiểm soát” của tư duy, nằm ngoài cấu trúc và cách mã hoá của ngôn ngữ đời thường.
Toàn bộ cái sự vật tường chừng như phức tạp ấy thực ra nhìn tổng thể lại là một giai
điệu hoàn chỉnh trong sự ngắt nhịp của một bản nhạc thông thường, mà vai trò của ngữ
điệu được đánh dấu tới từng chi tiết. Trong quá trình phát triển dung lượng của ý thơ,
nó vẫn tiếp tục làm nảy sinh cái cơ cấu mang tính vần điệu của ngôn ngữ tinh diệu
trong thơ ông. Đó là cái mỏ quặng chữ ngàn cân của Hoàng Cầm trong quan niệm thơ-
trước hết- là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Ta hãy đọc: Em chở nứa sang bờ
duyên phận/ Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh/ Tuổi đã rách vá gì cho kịp/ Da mỡ
đông tuốt sẹo ngang thân (Tắm đêm)… Câu thơ Hoàng Cầm bởi thế chứa đựng nhiều
tầng, nhiều lớp ý nghĩa. Nó còn có khả năng mở ra vô vàn những suy tư qua các lớp
nghĩa gợi mở đó, đọc một lần không dễ gì ta hiểu được, mà người đọc phải bóc từng
lớp, từng lớp nghĩa của một “tảng băng trôi” chữ nghĩa trong thế giới nghệ thuật thi ca
của ông mới mong có được sự giải mã trọn vẹn.
Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và
tác động trong sự khúc xạ của luật âm dương (trong âm có dương, trong dương có âm;
âm sinh dương, dương sinh âm) thật là rộng lớn và sâu xa ! Đọc thơ ông, ta gặp một con
người Việt nguyên khôi qua hơi thở của lục bát, ngũ ngôn và nhịp thơ tự do tài tình lướt
qua khuôn phép, lề luật. Chính vì thế mà thơ ông không cũ đi trong cổ điển, và cũng
không quá xa lạ trong hiện đại. Nhiều câu thơ của ông thể hiện đầy sự tài hoa của nhạc
145
tính đến quyến rũ, khiến người “phải lòng” rồi thì không dễ gì dứt ra được nữa: Vắt áo
nghe thầm tiếng vải kêu; Một con mèo mướp ruỗi chân chiều; Ta con bê vàng lạc ráng
chiều xanh/ đi mãi tìm sim chẳng chín; Ta con chào mào khát nước/ về vườn xưa hạt
nhãn đã đâm mầm; Ta con chim cu về gù rặng tre/ mang nắng ấu thơ về sân đất trắng;
Chị gánh gạo về dinh phú hộ/ nứt vai thành sẹo lá lan đao…
Những câu thơ, nhờ thế, trở nên sáng sủa, trong sáng, dễ thu nhận thông tin và
chứa đựng tính tượng trưng đa nghĩa. Nhưng nghệ thuật, ngoài thông tin giao tiếp còn
mang lại nhiều giá trị thông tin thẩm mỹ thông qua ngôn ngữ của văn hóa vùng - đó
chính là bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Thơ không chỉ có một
khuôn mặt, nhất là mặt dẹt ở những áp phích quảng cáo tuyên truyền, mà thường là
"hai mặt", hay bốn mặt như nàng Bayon, thậm chí vô số mặt. Thơ siêu thực là thế. Nó
không hề mô tả hay kể lể chi tiết đến một cảnh, một người, một sự kiện, một tình
huống, một phong cảnh cụ thể nào. Thơ siêu thực cũng không nói rõ một ý tưởng,
một quan niệm nào của riêng nhà thơ. Thơ siêu thực chỉ gợi ra một thế giới huyền ảo,
tượng trưng bằng cấu trúc đặc biệt của ngôn ngữ trong khung khổ bài thơ để người
đọc tự cảm nhận, tự liên tưởng, suy ngẫm về nỗi thăng trầm của lịch sử, của văn hóa
và các sự kiện biến thiên của con người, vùng đất qua cách nhìn của nhà thơ. Chính
cách nhìn của nhà thơ đã đưa đến cho văn bản thơ ông yếu tố năng động của nghệ
thuật ngôn từ.
Trong thơ Hoàng Cầm ta thấy ngôn ngữ thơ khi thể hiện sự rắn rỏi một nỗi
niềm chiến sĩ, khi lại tha thướt những nét hoa văn những dải lụa đào nghệ sĩ, khi linh
thiêng bên các đình, chùa, đền, miếu, khi tình tứ, lẳng lơ đến không ngờ, khi lại kính
cẩn, trang nghiêm, long lanh đài các mà cũng thật hoang sơ, cổ kính. Nhà thơ như từ
quá khứ đến với ta, vừa thân thuộc vừa xa lạ, vừa đắm đuối yêu thương vừa tương
hợp lại vừa không tương hợp với thế giới này. Tất cả những mâu thuẫn ấy đã hiện rõ
trong thơ ông. Và chính nó đã làm nên sự khác biệt của chính thơ ông, của chính ông:
Ta con chim cu về gù rặng tre
đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng
đưa mây lành những phương trời lạ
về tụ nóc cây rơm (Về với ta).
146
Do đó, đọc thơ Hoàng Cầm thường là khó hiểu, khó nắm bắt được cái hồn cốt của
nó, nói cách khác là khó đọc được cái “Mã” ý nghĩa nằm trong trữ lượng, mạch ngầm
câu từ của bài thơ, ý thơ. Thơ Hoàng Cầm kết nối được những thế giới khác nhau để cho
ta cảm giác vừa mơ hồ vừa rõ rệt về một giấc mơ qua một cấu trúc ngữ pháp đứt đoạn
khá đặc biệt:
Bắn nát chiều mai ráng đỏ
Châu chấu ma vờn cổ yếm xây
Không gặp người quen
Hờ…
Ngõ cũ… (Đêm thổ).
Nhiều câu thơ miêu tả sự cô đơn đến không ngờ, gây hoài nghi cho tư duy người
đọc trong nỗi bơ vơ, nổi nênh của một kiếp người:
Ngày Chị bảo Em quên
Tranh tố nữ long hồ gián nhấm
mất chân đi
má đội tổ tò vò
Cuốn chiếu xa rồi
thơ thẩn vách chiêm bao (Nước sông Thương).
Hàng loạt những từ “ấu thơ”, “mây lành”, “cây rơm”, “tranh tố nữ”, “tò vò”,
“chiêm bao”… có khởi nguyên từ trong truyền thống ca dao và được Hoàng Cầm chọn
làm thi liệu để xây dựng nên những biểu tượng nghệ thuật thông qua một cấu trúc văn
bản mới với ngôn ngữ tự do trong tính đồng phối của văn bản, ngôn ngữ được giải phóng
khỏi ngữ pháp của văn bản cũ, để mang nghĩa mới trong một sứ mệnh văn hoá mới gắn
liền với nội dung chiều sâu của biểu tượng mới mà nó đã trở thành một nhân tố trong cấu
trúc. Trong khi xây dựng cú pháp thơ, Hoàng Cầm luôn tự ý thức việc đề cao tính liên
tục, tức coi trọng mối liên hệ giữa từ với từ, đồng thời thúc ép người đọc đọc từ chữ đầu
đến chữ cuối trong câu, từ câu đầu đến cấu cuối trong bài, tức là trừu tượng hóa sự đọc.
Đây chính là quá trình văn xuôi hóa thơ của Hoàng Cầm. Trong khi đó, thơ chú trọng
đến quan hệ trực quan giữa từ với sự vật để đi đến mục đích là khôi phục nghĩa nguyên
thủy của từ, tức "phục sinh từ", hoặc "lạ hóa" từ - như cách nói của Sklovski. Hoàng
Cầm - bằng một lối thơ vô thức, siêu thức đã tạo ra tính đồng đẳng trong thơ ông trên
147
mọi cấp độ thơ như: cấp độ chữ, cấp độ câu, và cấp độ nghĩa. Từ đó, tạo ra thi pháp chữ,
thi pháp câu, thi pháp nghĩa và, cuối cùng là tạo ra bút pháp (écriture) Hoàng Cầm. Nhà
thơ đã phá vỡ trật tự từ trong câu, thoát khỏi sự ràng buộc của cú pháp, chặt đứt tính liên
tục của cú pháp để bạn đọc tự mỗi người, theo cảm nhận riêng, có thể trật tự lại theo cách
của mình.
Sức nén của ngôn từ thơ Hoàng Cầm thật không dễ gì mở gói ra được. Đó là
sức nén của những câu thơ thuần Việt, Việt từ trong tâm huyết của từ ngữ, của âm điệu,
của dáng hình lịch sử dân tộc. Nhưng ở đây, tác giả đã làm cái việc gây rối các trật tự
biểu tượng đã thiết lập trong ngôn ngữ biểu tượng theo kiểu truyền thống để tạo nên
một nhịp cầu giữa ngữ pháp và siêu ngữ pháp, vừa dùng chữ vừa dùng ký hiệu ngoài
ngôn ngữ. Tuy nhiên ta vẫn nhận thấy các loại tín hiệu và biểu tượng đều nương tựa
vào nhau, giao thoa và cộng sinh để tạo lập biểu tượng, khơi gợi và tô nhấn cho những
thông điệp nhân văn truyền thống.
Có thể nói với những gì đã đạt được trong những cách tân ngôn ngữ nghệ thuật
của mình, Hoàng Cầm đã tiến thêm một bước xa hơn trong cách thể hiện bản lĩnh nghệ
thuật của mình với sự mới lạ độc đáo, tân kỳ mà cũng cổ điển, dân dã hơn bao giờ hết.
148
KẾT LUẬN
1. Văn hoá và văn học luôn có mối quan hệ qua lại và gắn bó chặt chẽ với nhau.
Văn hoá hình thành nên tư tưởng nghệ thuật, khiếu thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Ngược
lại qua đó, người nghệ sĩ sẽ làm giàu và đẹp thêm cho nền văn hoá dân tộc. Trong cuộc
chuyển mình của đời sống văn hoá dân tộc như thời đại ngày nay, có sự tiếp xúc,
giao thoa với nhiều trường phái văn học trên thế giới, thì việc dựng lại và gìn giữ
bản sắc văn hoá vùng miền, dân tộc trong thơ của Hoàng Cầm là một việc làm rất
đáng trân trọng và đang chờ đợi sự đồng cảm, khám phá nhiều chiều. Hơn nữa, thức
nhận được, về mặt lý luận, bản chất của mối quan hệ văn học và văn hoá giúp cho
nghiên cứu sáng tác thơ Hoàng Cầm xử lý được một số trường hợp vướng mắc, mâu
thuẫn do cách tiếp cận cũ để lại, đồng thời có cơ sở lý thuyết để xây dựng một
phương pháp tiếp cận mới: Tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa. Phương pháp này
bước đầu có sự thuận lợi để thúc đẩy việc tìm ra các biểu tượng văn hoá trong thơ
của ông trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.
2. Hoàng Cầm là nhà thơ hiện đại nổi tiếng với một phong cách thơ rất riêng
biệt, độc đáo, thi pháp thơ mới lạ. Trên con đường nghệ thuật của riêng mình, ông
luôn có sự tìm tòi, thể hiện bản ngã nghệ thuật mới. Nhưng cội nguồn văn hoá quê
hương vẫn là nơi ông tìm về, đón lấy đó làm nguồn cảm hứng chủ đạo, là nơi thể
hiện tình cảm để tạo nên bản sắc riêng cho thơ mình. Tính nhất quán này cũng tạo
cho thơ ông những đặc sắc khi xây dựng những biểu tượng nghệ thuật về vùng văn
hoá Kinh Bắc.
3. Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm là những biểu tượng đa dạng, đa tầng
nghĩa mang giá trị sâu sắc về yếu tố văn hoá miền Kinh Bắc.
Trong thi đàn Việt Nam, Hoàng Cầm là một nhà thơ lớn, cả về tài năng và
nhân cách. Người ta thường nói mỗi một con người sinh ra đã là một sản phẩm của
quê hương mình. Và Hoàng Cầm chính là “đặc sản” của đất Kinh Bắc! Trong thơ ông
hiện lên rõ nét một tính cách, một tâm hồn, một miền quê Quan họ. Cuộc đời và thi
nghiệp của Hoàng Cầm là một trường hợp điển hình cho sự thành công trong văn giới
Việt Nam hiện đại. Trong ông có sự kết hợp giữa con người thi nhân và con người
chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), có sự kết hợp giữa lối sáng tác truyền thống và hiện đại,
149
ông coi cảm hứng từ chính cuộc đời mình là động lực tự nhiên với ý thức về sự làm
mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt.
Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự
do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương Tây, nên sáng tác của ông mang dấu ấn của
lối kể chuyện và giãi lòng, giữa thực và mộng, lộ và ẩn, hình ảnh và biểu tượng,
huyền thoại và thực tế, văn chương và thế sự để tạo nên một thi pháp Hoàng Cầm.
Thơ Hoàng Cầm có cách riêng để dễ lan truyền mà không bình dân, vẫn đáp ứng tâm
lý thưởng thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá
đặc biệt, khi văn nghệ đang chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó. Đời
ông là cả một đời nhớ tiếc những cái đã mất (Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao
xót xa như rụng bàn tay) mà ông chỉ hằng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh, níu
một mối tình ảo, níu một thời trầu cay mà đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng sáng trên
giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu lòng ta cũng vì thế.
4. Thi sĩ Hoàng Cầm đã có được những đóng góp lớn rất đáng trân trọng vào
nền văn học Việt Nam hiện đại. Những thi phẩm của ông đã làm vẻ vang cho vùng đất
Kinh Bắc, vẻ vang cho nền thơ ca dân tộc, đặc biệt là ở giá trị các biểu tượng văn hóa
và hệ thống ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. Hoàng Cầm có một vị trí xứng đáng, một
địa vị vững chắc và trở thành một trong những tên tuổi thơ ca lớn trong lịch sử văn học
dân tộc. Không có vùng đất địa linh nhân kiệt, không có vùng văn hoá - vùng thẩm mỹ
Kinh Bắc hào hoa và ngồn ngộn sự sống thì không có người con của Sông Đuống trôi
đi/ Một dòng lấp lánh và ngược lại, chính Hoàng Cầm cũng là người bảo tồn, làm sống
dậy nền văn hoá trong lành đậm đà phong vị quê hương không thể trộn lẫn ấy.
5. Có thể nói, việc tái hiện đồng thời khẳng định những giá trị văn hóa của cha
ông qua các biểu tượng văn hóa vào trong tác phẩm là một việc làm có chủ ý của
Hoàng Cầm trong quá trình phản ánh hiện thực cuộc sống. Sáng tác của Hoàng Cầm
đã chuyển tải được những giá trị văn hóa độc đáo của cha ông đến với người đọc
bằng một sự cảm nhận rất “đời thường”. Đây có thể xem là khuynh hướng thẩm mỹ
trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Kinh Bắc này - khuynh hướng thổi vào tác
phẩm những phẩm chất và giá trị văn hóa của dân tộc, của quê hương (cụ thể ở đây là
những nét đẹp văn hóa nơi vùng đất Kinh Bắc - cái nôi văn hoá của dân tộc). Điều
này cũng góp phần lý giải vì sao sáng tác của Hoàng Cầm nói chung luôn được đông
150
đảo bạn đọc đón nhận. Thành công của Hoàng Cầm một lần nữa cho thấy bản lĩnh
của Hoàng Cầm khi đã dũng cảm chọn cho mình một hướng đi riêng đó là: không
“chạy theo đám đông”, không chạy theo xu hướng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” cả
trong cách nghĩ và cách sống (nhiều khi rất tầm thường và “lệch chuẩn”) mà khá
nhiều nhà văn cùng thời xem là “mốt” thời thượng khi sáng tác. Tác phẩm của Hoàng
Cầm vì thế, ẩn chứa nhiều hạt ngọc lung linh, óng ánh đẹp lạ thường phản ánh đúng
cái chất truyền thống - cái tâm hồn Việt Nam nghìn đời. Những trang viết của Hoàng
Cầm chính là một cuốn sách giới thiệu với bạn đọc hiểu thêm về con người và vùng
đất mang đậm dấu ấn của văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của văn hóa Việt Nam.
Các sáng tác của Hoàng Cầm hiện rõ chân dung một nhà thơ lớn với những tác
phẩm thấm đẫm lòng yêu đất nước, yêu lịch sử dựng và giữ nước oai hùng với những
tầng sâu văn hóa cội nguồn trong trẻo và ấm sáng. Mặc cho những lận đận trong cuộc
đời, những vần thơ ông không hề có chút oán hận, bi quan. Chất văn hóa Kinh Bắc
thấm đẫm trong thế giới giàu có của thơ ông và đến lượt các tác phẩm của ông đã làm
rạng danh tình yêu con người, tình yêu quê hương đất nước của miền Quan họ.
Nghiên cứu về sự nghiệp thơ ca Hoàng Cầm chắc chắn sẽ còn mở ra nhiều vấn đề
mới lạ trong ngôn ngữ, giọng điệu, thi pháp thơ và các biểu hiện văn hóa trong đó vẫn
đang đón đợi sự giải mã nhiều chiều của bạn đọc./.
151
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN
1. Trần Đức Hoàn, Trần Thị Việt Trung (2008), "Tín hiệu thẩm mỹ trong thơ
Hoàng Cầm", Tạp chí Nhà văn, số 8.
2. Trần Đức Hoàn (2008), "Một loại biểu trưng trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12.
3. Trần Đức Hoàn, Nguyễn Thu Hương (2009), "Không gian lễ hội Kinh Bắc trong thơ
Hoàng Cầm", Tạp chí Nhà văn, số 1.
4. Trần Đức Hoàn (2009), "Cây Tam cúc và giấc mơ xe hồng", Tạp chí Ngôn ngữ, số 6.
5. Trần Đức Hoàn (2009), "Hình tượng nhân vật truyền thuyết và lịch sử Kinh Bắc
trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 7.
6. Trần Đức Hoàn (2010), "Không gian văn hoá Quan họ trong thơ Hoàng Cầm", Tạp
chí Nhà văn, số 2.
7. Trần Đức Hoàn (2011), "Về một biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 3.
8. Trần Đức Hoàn (2011), "Biểu tượng người Mẹ trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Diễn
đàn Văn nghệ Việt Nam, số 5.
9. Trần Đức Hoàn, Nguyễn Đức Hạnh (2011), "Biểu tượng Yếm - Áo trong thơ Việt
Nam và trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Nhà Văn, số 6.
10. Trần Đức Hoàn (2012), Đặc điểm lạ hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ
Hoàng Cầm, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 10.
152
TÀI LIỆU THAM KHẢO
I. PHẦN TIẾNG VIỆT
1. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
2. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm - Tác phẩm - Tập thơ, kịch, Nxb
Hội Nhà văn, Hà Nội.
3. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2004), Hoàng Cầm - Tác phẩm văn học, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
4. Lại Nguyên Ân (chủ biên) (2011), Hoàng Cầm - Hồn thơ độc đáo, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
5. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
6. Barthes Roland (1997), Độ không của lối viết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
7. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam 1945- 1975, Nxb
Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
8. Nguyễn Thị Minh Bắc (2007), Thơ Hoàng Cầm với văn hoá Kinh Bắc, Nxb Hội Nhà
văn, Hà Nội.
9. Benac Henri (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
10. Brecht Berton, Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực, Nguồn: evan.com.vn.
11. Brutl Lévy (2008), Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy, Nxb
Thế giới, Hà Nội.
12. Phạm Quốc Ca (1999), "Thơ trữ tình công dân trong nền thơ Việt Nam đổi mới",
Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 3.
13. Hoàng Cầm (1999), Văn xuôi, Nxb Văn hoá, Hà Nội.
14. Hoàng Cầm (2002), Gọi đôi - Thơ lục bát chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
15. Hoàng Cầm (2003), Tác phẩm thơ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
16. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
17. Chevelier Jean, Gheerbrant Alain (Phạm Vinh Cư chủ biên dịch) (1997), Từ điển
biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.
18. Vũ Thị Sao Chi (2008), "Nhịp điệu và các loại hình ảnh của nhịp điệu trong văn
thơ", Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
153
19. Nguyễn Việt Chiến (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách
tân, 1975 - 2005, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
20. Nguyễn Việt Chiến (2007), Hoàng Cầm, nhà cách tân của trường phái thơ duy
mỹ, Báo Văn nghệ, số 47 (ngày 24/11).
21. Hoàng Chinh (1979), Về khoa học và nghệ thuật trong phê bình văn học, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
22. Lương Minh Chung (2012), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hoá, Luận án tiến sĩ
Ngữ văn, Hà Nội.
23. Xuân Diệu (1994), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
24. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại
học Sư phạm Hà Nội.
25. Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
26. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn học, Nxb Văn hoá - Thông tin,
Hà Nội.
27. Trần Thanh Đạm (31/10/1998), Văn học và văn hoá, Báo Văn nghệ, số 44.
28. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào Thơ mới (1932-1945), Nxb Khoa học Xã hội,
Hà Nội.
29. Phan Cự Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học, Hà Nội.
30. Phan Cự Đệ (1999), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
31. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.
32. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.
33. Phan Cự Đệ- Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945- 1975), Tập 1, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
34. Phan Cự Đệ- Hà Minh Đức (1983), Nhà văn Việt Nam (1945- 1975), Tập 2, Nxb
Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
35. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tác thi ca, Nxb Văn học, Hà Nội.
36. Hà Minh Đức (tuyển chọn) (1997), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
37. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Chặng đường mới của văn học Việt Nam, Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
38. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.
154
39. Hà Minh Đức (chủ biên) (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
40. Nguyễn Hoàng Đức (tuyển dịch) (2000), Cẩm nang mỹ học nghệ thuật thi ca phê
bình, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.
41. Trần Thị Minh Đức (1995), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
42. M.Gorky (1970), Bàn về văn học (2 tập), Nxb Văn học, Hà Nội.
43. Văn Giá (2008), "Để thi ca có được một hình thức mang tính tất yếu", Tạp chí Thơ, số
3.
44. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
45. Lê Bá Hán (chủ biên) (1998), Tinh hoa thơ mới thẩm bình và suy ngẫm, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
46. Hoàng Quốc Hải (2007), Văn hoá phong tục, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
47. Nguyễn Đức Hạnh (2002), Ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ ca Việt Nam
hiện đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn
Quốc gia, Hà Nội.
48. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
49. Nguyễn Văn Huyên (1997), Địa lý hành chính Kinh Bắc, Sở Văn hóa - Thông tin
Bắc Giang.
50. Hê ghen (1999) Mỹ học, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.
51. Hê ghen (1999) Mỹ học, Tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.
52. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật, Nxb Hội
Nhà văn, Hà Nội.
53. Đỗ Đức Hiểu (2002), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
54. Lê Như Hoa (1998), Bản lĩnh văn hoá Việt Nam một hướng tiếp cận, Nxb Văn hoá
- Thông tin, Hà Nội.
55. Nguyễn Thị Ngân Hoa, (2001), "Biểu tượng chiếc áo trong đời sống của người Việt
qua thơ ca", Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.
56. Dương Thuý Hồng (2006), "Quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ", Tạp chí
Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 6.
57. Lê Thị Bích Hồng (2006), "Tính nhạc của thơ và thơ phổ nhạc", Tạp chí Diễn đàn
Văn nghệ Việt Nam, số 6.
155
58. Hoàng Thị Huế (2007), Thơ mới nhìn từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học, Nxb
Văn học, Hà Nội.
59. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa - Thông tin,
Hà Nội.
60. Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa (2004), Phân tích phong cách ngôn ngữ
trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.
61. Nguyễn Thanh Hùng (2001), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
62. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
63. Nguyễn Thuỵ Kha (1999), Nguồn cảm hứng sáng tác văn học Việt Nam của người
nghệ sĩ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.
64. Trần Thiện Khanh (2007), "Nguyên lý, cấu trúc nhịp thơ", Tạp chí Thơ, số 3.
65. Nguyễn Trọng Khánh (2003), "Con Sông Đuống và không gian tâm tư trong niềm
cảm xúc về một miền quê", Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 5.
66. Khrapchenkô M.B. (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học,
Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.
67. Khasenco N. (1982), Bản chất cái đẹp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
68. Võ Vĩnh Khuyến (2005), "Chiều sâu văn hoá trong tâm thức người lính qua bài thơ
“Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm", Tạp chí Người Kinh Bắc, số 4.
69. Nguyễn Xuân Kính (1994), "Về việc vận dụng thi pháp cao dao trong thơ trữ tình
hiện nay", Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 11.
70. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
71. Nguyễn Xuân Lạc (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, Nxb
Trẻ Hồ Chí Minh.
72. Phạm Minh Lăng (2004), Freud và phân tâm học, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
73. Mã Giang Lân (1992), "Nhìn lại thơ 30 năm chiến tranh", Tạp chí Văn học, số 2.
74. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
75. Mã Giang Lân (2004), Văn học Việt Nam 1945 - 1954, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
76. Văn Lâm (2004), "Tiếp biến văn hoá - một ý tưởng để phát triển văn hoá", Tạp chí
Văn nghệ Quân đội, số 7.
77. Nguyễn Ngọc Lâm (2008), "Đôi điều bàn thêm về bài thơ Lá diêu bông của thi sĩ
Hoàng Cầm", Tạp chí Thơ, số 1.
156
78. Hồ Liên (2008), Một hướng tiếp cận văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.
79. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến (03 tập), Nxb Văn học, Hà
Nội.
80. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
81. Trần Đình Luyện (chủ biên) (2002), Văn hiến Kinh Bắc, Tập 1, Sở Văn hóa -
Thông tin Bắc Ninh.
82. Trần Đình Luyện (chủ biên) (2002), Văn hiến Kinh Bắc, Tập 2, Sở Văn hóa -
Thông tin Bắc Ninh.
83. Đặng Văn Lung (2004), Văn hoá Thánh Mẫu, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
84. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Khơi dòng lý thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
85. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
86. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
87. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong
cách, Nxb Văn học, Hà Nội.
88. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người - văn hoá Việt Nam, Nxb
Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.
89. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ học phổ thông, Nxb Giáo
dục, Hà Nội.
90. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội.
91. Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn) (2004), Xuân Diệu - Thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.
93. Nhiều tác giả (1976), Mấy vấn đề lý luận văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
94. Nhiều tác giả (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
95. Nhiều tác giả (1986), Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945 -1954),
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
96. Nhiều tác giả (1986), Lịch sử Hà Bắc, Tập 1, Hội đồng lịch sử Hà Bắc.
97 Nhiều tác giả (1997), Văn nghệ dân gian Bắc Giang, Tập 3, Hội Văn học nghệ thuật
Bắc Giang.
157
98. Nhiều tác giả (2000), Phác thảo chân dung văn hoá Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
99. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc
gia, Hà Nội.
100. Nhiều tác giả (2002), Thơ mới - Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
101.Nhiều tác giả (2004), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Văn học, Hà Nội.
102. Nhiều tác giả (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà
Nội.
103. Nhiều tác giả (2006), Văn nghệ dân gian Bắc Giang, Tập 2, Hội Văn học nghệ
thuật Bắc Giang.
104. Otle Arist (2007), Nghệ thuật thy ca, Nxb Lao động, Hà Nội.
105. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
106. Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
107. Duy Phi (biên soạn) (2001), Di sản Văn học Kinh Bắc, Nxb Văn hoá Dân tộc,
Hà Nội.
108. Duy Phi (2008), Bắc Giang - Danh nhân cảo luận, Nxb Văn học, Hà Nội.
109. Huỳnh Như Phương (2004), Trường phái hình thức Nga, Nxb Đại học Quốc gia
Thành phố Hồ Chí Minh.
110. Vũ Quần Phương (2007), "Thơ kháng chiến chống Pháp", Tạp chí Thơ, số 3.
111. Rôdentan M. và Iuđin P. (chỉ đạo) (1957), Từ điển Triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
112. Đặng Đức Siêu (1998), Ngữ liệu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
113. Chu Văn Sơn (1995), Ấn tượng Hoàng Cầm (In trong cuốn Tác phẩm chọn lọc),
Nxb Văn học, Hà Nội.
114. Trần Đình Sử (biên soạn) (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học sư phạm
Thành phố Hồ Chí Minh.
115. Trần Đình Sử (biên soạn) (2001), Thi Pháp Truyện Kiều, Nxb Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội.
116 . Trần Đăng Suyền (2001), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tác, Nxb
Văn học, Hà Nội.
117. Hà Công Tài (1996), Ẩn dụ và đặc trưng hình thể trong ngôn từ thơ ca, Trung tâm
Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.
158
118. Nguyễn Trọng Tạo (2001), Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.
119. Trần Nhựt Tân (2004), Đi tìm thông điệp của nàng thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.
120. Khổng Đức Thiêm - Nguyễn Đình Bưu (2004), Phương ngôn xứ Bắc, Sở Văn
hoá - Thông tin Hà Bắc.
121. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
122. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt
Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
123. Trần Quốc Thịnh (2004), Danh nhân lịch sử Kinh Bắc, Nxb Lao động, Hà Nội.
124. Trần Quốc Thịnh (2004), Văn hoá truyền thống làng xã huyện Yên Dũng, Nxb
Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
125. Hoàng Trung Thông (chủ biên) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
126. Vũ Duy Thông (2000), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975, Nxb
Giáo dục, Hà Nội.
127. Lưu Khánh Thơ (2005), "Thơ chống Mỹ trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại",
Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 5.
128. Đặng Thu Thuỷ (2008), "Sự vận động quan niệm thơ và nhà thơ thời kỳ đổi mới",
Tạp chí Văn học, số 7.
129. Đỗ Lai Thuý (1992), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hoá - Thông
tin, Hà Nội.
130. Đỗ Lai Thuý (biên soạn) (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.
131. Đỗ Lai Thuý (1998), "Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và…", Tạp chí Văn học, số 5.
132. Đỗ Lai Thuý (biên soạn) (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá
- Thông tin, Hà Nội.
133. Đỗ Lai Thuý (biên soạn) (2004), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, Nxb Văn
hoá - Thông tin, Hà Nội.
134. Đỗ Minh Thuý (1997), Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, Nxb Văn hoá dân
tộc, Hà Nội.
135. Nguyễn Chí Tình (1998), "Đôi điều tìm hiểu về tiếp biến văn hoá", Tạp chí Văn
nghệ Quân đội, số .
159
136. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn học dân tộc của ngôn ngữ và tư
duy ở người Việt, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội,
137. Nguyễn Trọng Hoàn, Lê Quang Trang (1998), Những vấn đề văn hoá Việt Nam
hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
138. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.
139. Nguyễn Trãi (1960), Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội.
140. Võ Gia Trị (1999), Nghệ thuật văn chương và chân lý, Nxb Văn học, Hà Nội.
141. Võ Gia Trị (2001), "Trăm năm thơ ca", Tạp chí Nhà văn, số 4.
142. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội.
143. Hoàng Trinh (1992), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nxb Văn học, Hà Nội.
144. Giáng Vân (2007), "Một số suy nghĩ về thơ", Tạp chí Thơ, số 5.
145. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.
146. Hoài Việt (sưu tầm và biên soạn) (1997), Hoàng Cầm, thơ văn và cuộc đời, Nxb
Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
147. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hoá ngọn nguồn của văn học, Báo Văn nghệ, số 36
(ngày 25/7).
148. Đỗ Anh Vũ (2008), "Sự phát triển dung lượng dòng thơ Việt Nam", Tạp chí
Ngôn ngữ, số 1.
149. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.
150. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb Văn hoá Dân tộc,
Hà Nội.
151. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học,
Hà Nội.
152. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà
Nội.
153. Saussure F.de. (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
154 Các Mác- Ph. Ăngghen (1962), Bàn về ngôn ngữ học, Nxb Sự thật, Hà Nội.
160
II. PHẦN TIẾNG ANH
155. Barry Tomalin and Susan Stemplesky, (1993), Cultural a warreness, Oxford
University Prees.
156. Jean Paul Satre, (1960), We write for our time (The creative vision of modern
European witers on their art), Edited by Haskell. M. Block Harman.
157. Hong Dương Anh, (2008), Smithsonian Folklife Festival 2007 and the
Presentation of Cultural Diversity in America, Unbiversity of Maryland,
College Park, pp. 96.
158. Max Lemer, (1961), America as a Civilization, Simon and Schuster, pp. 93- 96.
159. Shaun Kingsley Marmay, (2003), Culture, ritual and revolution in Viet Nam,
Routledge Curzn, London.
160. UNESCO, Universal Declaration Cultural Diversity, Article 7, pp. 97.