BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRẦN ĐỨC HOÀN

VĂN HÓA KINH BẮC - VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

THÁI NGUYÊN - 2013

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO ĐẠI HỌC THÁI NGUYÊN

TRẦN ĐỨC HOÀN VĂN HÓA KINH BẮC - VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM

Chuyên ngành : Văn học Việt Nam Mã số: 62.22.01.21

LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN

Người hướng dẫn khoa học: 1. PGS. TS. TRẦN THỊ VIỆT TRUNG

2. PGS. TS. NGUYỄN DUY BẮC

THÁI NGUYÊN - 2013

i

LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của

riêng tôi. Các số liệu, kết quả được nêu trong luận án là trung

thực và chưa được ai công bố trong bất kỳ công trình khoa

học nào. Nếu sai, tôi hoàn toàn chịu trách nhiệm.

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2013

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Đức Hoàn

ii

Tôi xin bày tỏ lòng kính trọng và biết ơn sâu sắc tới PGS. TS Trần Thị Việt

LỜI CẢM ƠN

Trung, PGS.TS Nguyễn Duy Bắc - những thầy cô đáng kính đã tận tình hướng dẫn và

động viên tôi trong suốt quá trình thực hiện luận án này.

Tôi xin gửi lời cám ơn chân thành tới cơ sở đào tạo Đại học Thái Nguyên,

đơn vị đào tạo trường Đại học Sư phạm Thái Nguyên đã tạo điều kiện để tôi hoàn

thành luận án này.

Tôi cũng xin gửi lời cám ơn đến các đồng nghiệp của tôi đã chia sẻ nhiều tư

liệu và kinh nghiệm quý báu liên quan đến vấn đề nghiên cứu, xin bày tỏ lòng biết

ơn tới gia đình, người thân đã động viên và giúp đỡ tôi trong thời gian qua.

Tôi xin chân thành cảm ơn!

Thái Nguyên, tháng 3 năm 2013

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Trần Đức Hoàn

iii

MỤC LỤC

Trang

LỜI CAM ĐOAN ........................................................................................................ i

LỜI CẢM ƠN............................................................................................................. ii

MỤC LỤC ............................................................................................................... iii

MỞ ĐẦU

.................................................................................................................1

1. Lý do chọn đề tài.....................................................................................................1

2. Mục đích nghiên cứu...............................................................................................2

3. Nhiệm vụ nghiên cứu ..............................................................................................2

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ..............................................................................3

5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (lịch sử vấn đề) ..................................................3

6. Phương pháp nghiên cứu.........................................................................................9

7. Đóng góp của luận án............................................................................................10

8. Cấu trúc luận án ....................................................................................................11

Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VÙNG THẨM MỸ, VÙNG

VĂN HOÁ VÀ VÙNG VĂN HOÁ KINH BẮC ......................................12

1.1. Quan niệm về vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học ........................................12

1.2. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học..........15

1.2.1. Quan niệm về vùng văn hóa .....................................................................15

1.2.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa vùng, miền ..............................................17

1.2.3. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ trong sáng tác

của nhà văn ..............................................................................................18

1.3. Văn hóa Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc và trong thơ Hoàng Cầm.................23

1.3.1. Đặc điểm vùng văn hóa Kinh Bắc ............................................................23

1.3.2. Văn hoá Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc ................................................30

1.3.3. Văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của vùng thẩm mỹ trong thơ

Hoàng Cầm ..............................................................................................39

Chương 2: THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM.........44

2.1. Quan niệm về biểu tượng và biểu tượng thẩm mỹ.............................................44

2.1.1. Quan niệm về biểu tượng..........................................................................44

2.1.2. Quan niệm về biểu tượng thẩm mỹ ..........................................................46

iv

2.2. Biểu tượng thiên nhiên Kinh Bắc.......................................................................48

2.2.1. Biểu tượng dòng sông...............................................................................48

2.2.2. Biểu tượng núi, đồi ...................................................................................61

2.2.3. Biểu tượng lá, cỏ, quả...............................................................................66

2.3. Biểu tượng con người Kinh Bắc ........................................................................81

2.3.1. Biểu tượng con người trong truyền thuyết và lịch sử...............................82

2.3.2. Biểu tượng người mẹ ................................................................................88

2.4. Biểu tượng về văn hoá phong tục Kinh Bắc ......................................................94

2.4.1. Biểu tượng lễ hội ......................................................................................94

2.4.2. Hát Quan họ - một biểu tượng văn hoá thẩm mỹ độc đáo......................101

Chương 3: VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM NHÌN TỪ

PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ .............................................................107

3.1. Quan niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học .....................107

3.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ..........................................................................107

3.1.2. Quan niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học......................................109

3.2. Đặc trưng vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc trong ngôn ngữ nghệ thuật

thơ Hoàng Cầm.................................................................................................113

3.2.1. Sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ .....................................................113

3.2.2. Ngôn ngữ đầy ắp tính tượng trưng và giàu tính nhạc.............................129

KẾT LUẬN .............................................................................................................148

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

CỦA LUẬN ÁN .......................................................................................................151

TÀI LIỆU THAM KHẢO........................................................................................152

1

MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

Trong thơ ca Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm được đánh giá là một tác giả tài hoa

và độc đáo, ông đã dệt được một hồn thơ mang bản sắc riêng. Hồn thơ ấy đã góp phần

tăng thêm sự phong phú, đa dạng cho nền thơ ca dân tộc thời kỳ hiện đại.

Tiếp cận thơ Hoàng Cầm ta có ấn tượng khá đặc biệt bởi một không gian thơ

riêng biệt - đó là không gian văn hoá vùng Kinh Bắc cổ kính và tao nhã. Ngoài những

khả năng thiên bẩm, ngoài ảnh hưởng của môi trường văn hoá gia đình, văn hoá thời đại,

văn hoá dân tộc, chúng ta có thể thấy ảnh hưởng sâu đậm của văn hoá vùng - một yếu tố

quan trọng góp phần quyết định tạo nên hồn thơ và phong cách nghệ thuật của Hoàng

Cầm. Chính điều đó đã tạo ra dấu ấn đặc trưng riêng của Hoàng Cầm trong số các chân

dung của thơ ca hiện đại Việt Nam. Tuy nhiên, vấn đề văn hoá vùng trong thơ của

Hoàng Cầm mới chỉ dừng lại ở những phát hiện nhỏ, lẻ, chưa trở thành một hướng

nghiên cứu có tính hệ thống và cụ thể, vẫn chưa được giải mã một cách triệt để, đầy đủ,

nhằm chỉ ra những nét mới mẻ, độc đáo của vùng văn hóa và các biểu tượng nghệ thuật

trong thơ ông.

Do đó, nghiên cứu văn hoá vùng Kinh Bắc chính là góp phần giải mã thơ Hoàng

Cầm, chỉ ra những đặc trưng riêng biệt trong thơ Hoàng Cầm từ góc độ văn hóa học và

qua các biểu tượng văn hóa vùng. Đồng thời, việc nghiên cứu này cũng góp phần làm

sáng tỏ vùng văn hoá thẩm mỹ và giá trị quan trọng của nó trong việc hình thành hồn

thơ, đặc trưng thơ và tư tưởng, phong cách nghệ thuật của nhà thơ Hoàng Cầm. Qua cái

“phễu lọc văn hóa” Kinh Bắc, nhà thơ Hoàng Cầm đã làm sống lại những đặc điểm văn

hóa vùng Kinh Bắc trong thơ, đã góp phần luận giải, tôn vinh và làm tỏa sáng những giá

trị của một vùng đất có truyền thống văn hóa, văn hiến lâu đời. Đây cũng chính là đóng

góp quan trọng của Hoàng Cầm đối với thơ ca Việt Nam hiện đại, đối với vùng đất, con

người và quê hương yêu dấu của nhà thơ.

Trong sự nghiệp sáng tác của Hoàng Cầm, bên cạnh những sáng tác thơ còn phải

nói đến những tác phẩm văn xuôi và kịch thơ nổi tiếng. Đương nhiên, chỉ với mảng sáng

tác thơ của mình, Hoàng Cầm đã xứng đáng được xem là một trong những nhà thơ xuất

sắc của nền thi ca Việt Nam hiện đại. Giữa mênh mông cuộc đời, tâm hồn anh minh, sâu

lắng và luôn luôn rộng mở, tiếng thơ tràn đầy nhiệt huyết và giàu trải nghiệm về cuộc

2

sống ấy đã để lại dấu ấn văn hoá Kinh Bắc không thể phai mờ trong ông. Tuy vậy, đời

thơ nhiều tìm tòi, nhiều trăn trở của Hoàng Cầm đến nay vẫn chưa có được sự quan tâm

nghiên cứu một cách sâu sắc và hệ thống. Nhìn lại những cống hiến to lớn của Hoàng

Cầm đối với nền thi ca nước nhà, sẽ thấy rất cần thiết phải có những công trình nghiên

cứu chuyên sâu đối với di sản thi ca quý giá của ông, để cho cuộc đời sáng tạo không

mệt mỏi ấy được tri ân một cách đúng nghĩa.

Xuất phát từ những lý do trên, chúng tôi lựa chọn đề tài "Văn hoá Kinh Bắc -

vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm" để nghiên cứu với mong muốn phát hiện ra

những điểm sáng về giá trị văn hoá thẩm mỹ trong thơ ông, khẳng định một lần nữa tài

năng và những đóng góp nhiều mặt của thi nhân trong dòng chảy lớn của nền thơ ca Việt

Nam hiện đại. Điều đó có ý nghĩa không nhỏ đối với việc nghiên cứu, giảng dạy và học

tập môn Văn học ở trung học phổ thông, đại học và cao đẳng... Qua đó góp phần xây

dựng hệ quy chiếu mới để nghiên cứu thơ Hoàng Cầm.

Đây là một đề tài vừa có tính khoa học, vừa có tính thực tiễn và có những đóng

góp thiết thực vào việc tìm hiểu, giải mã thơ Hoàng Cầm.

2. Mục đích nghiên cứu

Mục đích của Luận án là nghiên cứu thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ giữa

vùng văn hóa, vùng thẩm mỹ Kinh Bắc dưới các góc độ biểu tượng văn hóa và các hệ

thống ngôn ngữ. Qua đó hy vọng sẽ gợi mở và cung cấp một số cơ sở có tính chất thao

tác để hiểu thơ ca Hoàng Cầm khi tiếp cận văn bản ngôn từ, khám phá sâu hơn về truyền

thống văn hóa Kinh Bắc, góp phần nghiên cứu, giảng dạy và thưởng thức thơ ca của ông

được thấu đáo hơn. Đồng thời khẳng định những sáng tạo độc đáo, những đóng góp tiêu

biểu, đáng trân trọng của nhà thơ Hoàng Cầm trong đời sống thơ ca Việt Nam.

3. Nhiệm vụ nghiên cứu

Luận án cố gắng làm rõ khái niệm vùng thẩm mỹ, vùng văn hóa Kinh Bắc trong

mối quan hệ với sáng tác thơ Hoàng Cầm. Điều đó cho phép phân tích và chứng minh

tính chất tiêu biểu của nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Như vậy nhiệm vụ nghiên cứu của

Luận án là lý giải các biểu tượng văn hóa và chỉ ra những đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật

nổi bật của thơ Hoàng Cầm trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.

3

4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu

Đối tượng nghiên cứu của Luận án là: Văn hóa Kinh Bắc - Vùng thẩm mỹ trong

thơ Hoàng Cầm.

Góc nhìn của Luận án là văn hóa Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm trên các

phương diện cơ bản: vùng thẩm mỹ trong thơ nhìn từ hệ thống biểu tượng và hệ thống

ngôn ngữ.

Các văn bản khảo sát chính: Hoàng Cầm- Tác phẩm thơ do Lại Nguyên Ân biên

soạn (Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội 2003). Các tập thơ của Hoàng Cầm: “Mưa Thuận

Thành” (Nxb Văn học 1991); “Bên kia sông Đuống” (Nxb Văn học 1993); “Lá Diêu

Bông” (Nxb Văn học 1993); “Về Kinh Bắc” (Nxb Văn học 1994; “99 tình khúc” (Nxb

Văn học 1996) và tập Men đá vàng” (Nxb Văn học 1995); Và các bài thơ lẻ in trên các

báo, tạp chí khác nhau và các tác phẩm thuộc các thể loại khác như: văn xuôi, kịch thơ…

Khảo sát, tham khảo thêm một số tác phẩm thơ ca viết về Kinh Bắc (tiêu biểu)

trong đời sống văn học nước nhà; một số nhà thơ cùng thời với Hoàng Cầm (để đối

chiếu, so sánh những nét độc đáo, đặc sắc trong thơ Hoàng Cầm); các tài liệu sách,

báo, những tài liệu viết về đặc điểm văn hóa vùng Kinh Bắc nói riêng, về đặc điểm

văn hóa vùng nói chung… sẽ là cơ sở lý luận và thực tiễn để chúng tôi làm nguồn tài

liệu tham khảo.

5. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu (lịch sử vấn đề)

Trong lịch sử thơ ca hiện đại Việt Nam, thơ Hoàng Cầm là một hiện tượng độc

đáo, đặc sắc với những đặc trưng thơ riêng biệt không thể trộn lẫn. Đó là một thứ thơ

sang trọng, đẹp một cách mong manh, lung linh những sắc màu thiên nhiên và huyền ảo

với các gam màu cổ tích, huyền sử mang tính sáng tạo, tính nghệ thuật cao và tính trực

cảm thẩm mỹ, gắn các giá trị văn hóa, phong tục của một vùng quê huê tình, cổ kính và

thanh tao với tình người Kinh Bắc. Thơ Hoàng Cầm làm say mê trái tim nhiều người đọc

nhưng cũng làm cho rất nhiều người khó tiếp cận. Do đó, có khá nhiều người đã viết, đã

bình, đã tiếp cận thơ Hoàng Cầm trong suốt nửa thế kỷ qua, đặc biệt là những năm 90

của thế kỷ XX. Song, phải chăng vì kén chọn người đọc nên đến nay những công trình

nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm còn ở mức độ khá khiêm tốn (?).

Tuy nhiên, người nghiên cứu dù đứng ở góc độ nào, luận bàn về phương diện gì

cũng đều thống nhất về tài thơ với tấm lòng yêu thơ, yêu cuộc sống hiếm thấy nơi ông,

ngưỡng mộ thật sự vẻ đẹp tâm hồn, cốt cách của thi nhân. Ở những mức độ khác nhau,

4

các bài viết thể hiện niềm ưu ái, sự đồng cảm và trân trọng nghệ thuật đối với những vần

thơ chan chứa tình đời, tình người, ngút đầy nỗi nhớ, niềm thương của ông. Các nhà phê

bình nghiên cứu đã xuất phát từ nhiều góc độ khác nhau để khám phá thế giới thơ Hoàng

Cầm, song hầu hết đều có sự thống nhất trong việc tìm hiểu và phân tích về cảm hứng,

giọng điệu, nghệ thuật... của nhà thơ, qua đó khẳng định giá trị nghệ thuật, bản sắc cá

nhân, thành tựu, đóng góp và vị trí riêng của thơ Hoàng Cầm trong tiến trình văn học

Việt Nam hiện đại.

Nghiên cứu đề tài về ảnh hưởng của văn hoá đối với văn học Việt Nam hiện đại,

chúng tôi nhận thấy đã có nhiều nhà nghiên cứu phát hiện ra nhiều vấn đề có giá trị thẩm

mỹ trong thơ ông. Nhưng về yếu tố văn hoá Kinh Bắc trong sáng tác của Hoàng Cầm thì

vẫn còn ít công trình nghiên cứu chuyên sâu.

Nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có một số

khuynh hướng chính như sau:

5.1. Hướng nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hoàng Cầm

Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, Hoàng Cầm là thi nhân được đánh

giá cao với những giá trị nghệ thuật của thơ trữ tình đương đại, theo Nguyễn Việt

Chiến: “Có thể nói, trong thơ Việt Nam hiện đại, Hoàng Cầm đã tạo ra một trường -

thẩm mỹ mới, nó vừa mang trong mình cốt cách của văn hoá vùng Kinh Bắc, vừa mở

ra một không gian lớn của thơ trữ tình với những tìm tòi nhằm đưa cái đẹp dân gian

vào hơi thở của mỗi bài thơ. Và chính điều này đã làm nên một trường - giang - thơ

lộng lẫy của riêng Hoàng Cầm - ông Hoàng của thơ trữ tình đương đại” [19, tr.59].

Chu Văn Sơn có nhận xét thơ Hoàng Cầm mang giọng điệu “tức nghẹn, nhấn chìm,

đè ngang” [146, tr.285].

Đặng Tiến trong bài Cây tam cúc cũng nhận xét: “Thơ Hoàng Cầm giàu âm

điệu... Có những câu thơ dìu dặt, luyến láy do sắp xếp; nhưng giọng điệu bài thơ có thể

xuất thần, vượt khỏi sự dụng công” [71, tr.61].

Đáng chú ý hơn cả là nhận xét của Nguyễn Đăng Điệp “Khi lắng nghe giai điệu

thơ Hoàng Cầm có thể thấy ông chịu ảnh hưởng khá rõ âm nhạc từ, khúc trong văn

chương cổ điển phương Đông… hoà quyện chặt chẽ với cái mượt mà của những làn điệu

dân ca quan họ đã tạo nên những màu sắc riêng: sang trọng, đằm thắm nhưng bay bổng,

hào hoa. Đó không phải là những phép cộng các thủ pháp nghệ thuật đơn thuần mà là sự

5

hoà nhuyễn trong một hồn thơ nhạy cảm, tất cả như tan vào nhịp thở, nhịp tim Hoàng

Cầm và vang lên thành một thứ giai điệu tiêu tao, sâu lắng, man mác một nét buồn xa

xăm. Ở một trang khác, tác giả có đoạn “ta còn thấy bóng dáng xa xôi của văn hoá

Chămpa ẩn sâu, tan vào văn hoá Kinh Bắc đã tạo nên một âm điệu rất riêng trong những

sợi dây tơ tinh tế Hoàng Cầm” [32, tr.205- 206- 207].

Như vậy có thể thấy các tác giả chủ yếu đi vào hai phương diện của giọng điệu

thơ Hoàng Cầm là giọng điệu quan họ và giọng điệu tức nghẹn. Tuy nhiên mới chỉ dừng

lại ở vấn đề nêu ra chứ chưa đi sâu nghiên cứu, lý giải một cách cụ thể. Những phát hiện

đó đều rất tinh tế và khá chính xác, đây sẽ là cơ sở khoa học để chúng tôi kế thừa và phát

triển trong quá trình nghiên cứu.

Xoay quanh ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm, các nhà nghiên cứu, phê bình có

những lời khen chê khác nhau, thậm chí trái ngược nhau: “Anh không chỉ thạo

dùng chữ, nhất là sử dụng động từ. Cũng lạ ở con người mái tóc tro bụi này là việc

mày mò tìm ra cái lẩn đằng sau chữ, tầng tầng lớp lớp chồng lên nhau, tạo nên bề

dày chữ nghĩa...” [71, tr.38]. Các tác giả Chu Văn Sơn, Đặng Tiến cũng có những

phân tích về Cây tam cúc của Hoàng Cầm và chỉ ra được các giá trị nghệ thuật của bài

thơ, đặc biệt là thành tựu về phương diện ngôn ngữ, đó là sự phối hợp nhuần nhuyễn

giữa tính truyền thống và tính hiện đại, giữa đặc trưng trữ tình và phẩm chất bác học

trong ngôn ngữ thơ. Các cây bút đã khẳng định đó chính là một thứ ngôn ngữ của thơ

mới, trẻ trung và có sức hấp dẫn lạ kỳ...

Bên cạnh đó, có nhiều nhà phê bình nghiên cứu đề cao dấu ấn của lối viết tự

động hoá. Ở đó, ngôn ngữ thơ không hề có dấu vết của sự gia công, gò giũa, mà là của sự

tuôn chảy thẳng ra từ mạch nguồn trữ tình. Để khẳng định cho ý kiến của mình, Đỗ Lai

Thuý có so sánh ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm với ngôn ngữ thơ Lê Đạt, ông coi Lê Đạt là

người “phu chữ”, còn “sáng tác kiểu Hoàng Cầm xem ra có phần nhàn nhã” [71, tr.59].

Nghiên cứu về nghệ thuật thơ Hoàng Cầm, một số nhà nghiên cứu cũng đã phát

hiện và chỉ ra những nét đặc trưng trong thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm trên các

phương diện không gian, thời gian, cùng một số hình ảnh đặc sắc trong thơ ông như:

Đỗ Lai Thuý trong bài Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và... có nhận xét: “Thơ Hoàng

Cầm là thơ ẩn dụ. Hệ thống ẩn dụ của ông, một phần lấy nguyên từ cái “kho trời chung”

của văn hoá dân gian, phần khác lấy có cải biến, còn lại là cá nhân ông sáng tạo. Thơ

hoàng Cầm tràn ngập ẩn dụ đêm, mưa, trăng và gió...” [131], ông (Đỗ Lai Thuý) cũng có

6

những dòng so sánh giữa hai phong cách thơ Nguyễn Bính và Hoàng Cầm: “Thơ

Nguyễn Bính dân dã và chân quê hơn. Còn thơ Hoàng Cầm hiện đại và bác học hơn:

cùng viết về nông thôn nhưng thơ Nguyễn Bính là sự thương nhớ lo âu, khắc khoải về sự

phôi pha của quê hương, còn Hoàng Cầm không tả thực một vùng quê Kinh Bắc trong

thực tế mà còn thể hiện một Kinh Bắc bất tử trong thơ ông”. Tác giả cũng chỉ ra rằng

“Tập thơ Về Kinh Bắc là một giấc mơ với những liên tưởng đứt đoạn, những hình ảnh

rời rạc... đó là sự siêu thăng của mặc cảm Oeđipe, một thực tại siêu thực trong vô thức

Hoàng Cầm” [131].

Một số bài viết có đề cập đến thi pháp thơ Hoàng Cầm, và đều thống nhất một

nhận xét về thơ ông là lối thơ siêu thực, phạm trù siêu thực, hoặc “đi theo hướng thơ “phi

lý” [2, tr.29], hoặc “Tính hiện đại ở thơ Hoàng Cầm không phải là như ở thơ Vũ Hoàng

Chương, mà là một vùng cây cỏ, sông hồ nhẹ bay của thôn quê Kinh Bắc, được siêu thực

hoá thành Cỏ bồng thi, cầu bà sấm, bến cô mưa và Lá diêu bông, hay những người con

gái mờ ảo, những mối tình hư ảo xứ Kinh Bắc, xoá nhoà trong mưa bụi bay” [2, tr.30].

Đỗ Đức Hiểu trong bài Thơ mới- cuộc nổi loạn của ngôn từ thơ cho rằng thế

giới thơ Hoàng Cầm là một “thế giới ảo” tràn ngập những hình ảnh siêu thực. Ở một

phương diện cụ thể, tác giả khẳng định: “Mưa Thuận Thành là một thế giới siêu Thuận

Thành, siêu Kinh Bắc, siêu mưa” [146, tr.280]. Cũng đứng trên góc độ này, Phan Huy

Dũng nhận xét: “Bài thơ Lá diêu bông sáng tác theo lối siêu thực. Nhà thơ tái hiện một

cách trung thành những phút mê sảng của tâm hồn, lối viết tự động dẫn tới sự ghép nối lạ

lùng các hình ảnh, sự chuyển kênh đột ngột của cảm giác, những từ ngữ kỳ dị rất khó

giải thích” [24, tr.117].

Có thể nhận thấy rằng, các bài viết, bài nghiên cứu, các ý kiến trên đây đều thống

nhất chỉ ra: Trong nghệ thuật thơ Hoàng Cầm có một thế giới ảo, có những hình tượng

thơ siêu thực, có những yếu tố của tiềm thức, vô thức, tâm linh... Và chúng tôi cũng đồng

nhất với cách gọi của Trần Thị Huyền Phương: Thơ Hoàng Cầm là sự kết hợp giữa hai

yếu tố thực và hư.

5.2. Hướng nghiên cứu về sự ảnh hưởng của văn hóa Kinh Bắc trong thơ

Hoàng Cầm

Khi phát hiện ra văn hoá Kinh Bắc chính là những ảnh hưởng quan trọng làm nên

cội nguồn thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Đăng Mạnh cho rằng: “Hình như có một không gian

7

Kinh Bắc, một thời gian Kinh Bắc rất đỗi cổ kính trong thơ anh. Và trên cái nền thời

gian, không gian ấy, cứ thấp thoáng một cô gái quê Kinh Bắc của một thuở nào, có vẻ

duyên dáng, tình tứ…” [4, tr.56].

Hoài Việt khi nghiên cứu về thơ văn và cuộc đời Hoàng Cầm cũng nhận xét: “Ở

Hoàng Cầm “chồi tâm” nảy lên từ nền văn hiến truyền thống Kinh Bắc, vùng đất cổ còn

để lại đến đời nay bao nhiêu đình chùa, miếu mạo, bao nhiêu ông trạng, ông nghè, ông

cống, bao nhiêu trai Cầu Vồng - Yên Thế, gái Nội Duệ - Cầu Lim. Hoàng Cầm đắm

mình trong đó. Văn chương Hoàng Cầm vục uống từ suối nguồn đó, say sưa có lúc đến

chuệnh choạng”, đến với thơ văn Hoàng Cầm là đến với “non sông gấm vóc này có một

bề dày lịch sử truyền thống oanh liệt” [71, tr.34].

Nguyễn Xuân Lạc viết về cảm hứng thơ Hoàng Cầm “Người thơ mang tên vị

thuốc đắng ấy lại sinh ra và lớn lên trong một vùng đất thơ ngọt ngào. Đó là xứ Kinh Bắc

- một trong ba cái nôi lớn của dân tộc Việt Nam... Xứ Kinh Bắc thơ mộng hữu tình...

Vùng đất thơ ấy đã bồi đắp cho thơ Hoàng Cầm từ nhiều phía, nhiều nguồn”, ra đi kháng

chiến, Hoàng Cầm “đem theo cả một hành trang Kinh Bắc trong hồn thơ Thanh niên của

mình” [71, tr.14-15].

Cũng theo hướng tiếp cận này, Nguyễn Đăng Điệp chú ý đến yếu tố văn hoá bao

bọc từ thuở ấu thơ “Cái không khí đẫm chất huê tình, bảng lảng sương khói văn hoá dân

gian đã ăn quá sâu vào tuổi thơ Hoàng Cầm... Nằm sau trong câu chữ Hoàng Cầm là sự

ngân vọng của những lớp trầm tích văn hoá được thẩm thấu qua bộ lọc tinh tế của thi

nhân... Cái yếu tố sâu xa nhất tạo nên ma lực thơ Hoàng Cầm là ở chỗ ông biết đánh thức

hồn quê Kinh Bắc trong cõi vô thức, tiềm thức” [32, tr.195, tr.206].

Như vậy, có thể nói các bài viết trên chủ yếu đề cập đến vấn đề cảm hứng thơ

Hoàng Cầm - và đã khẳng định những cảm hứng đó đều được bắt nguồn từ vùng văn hoá

truyền thống Kinh Bắc. Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ đặc biệt để Hoàng Cầm dệt lên

hồn thơ đẫm chất trữ tình của mình.

Với bài viết Chị đừng đi, Ngô Thảo lại đề cập đến yếu tố tâm linh trong thơ

Hoàng Cầm. Đó chính là tâm thế sáng tạo của nhà thơ: “hầu suốt hành trình đi tới về với

thời gian, thế giới tinh thần, tâm linh ông luôn đi ngược, lặn sâu vào quá khứ. Quá khứ

không chỉ hiện ra qua lớp từ cổ, những địa danh cổ, nếp sống cổ, phong tục tập quán cổ...

ông đã tạo ra được một không gian cổ trọn vẹn, đặc biệt kỳ diệu trong tập thơ Về Kinh

8

Bắc. Bao nhiêu từ thô lậu của đời thường, nào yếm, váy, giải yếm, đặt trong thế giới này

bỗng mang một màu sắc gợi tả khác xa ý nghĩa cụ thể” [146, tr.301].

Khẳng định bản lĩnh và tài năng thơ Hoàng Cầm, Nguyễn Việt Chiến viết: “Tài

năng ông là ở chỗ tìm tòi đổi mới thơ mà bản ngã truyền thống vẫn không suy chuyển,

nâng cao tư duy thơ mà giọng điệu vẫn không xa lạ với mọi người” [19, tr.57] và chỉ rõ:

“Hoàng Cầm là ông Hoàng của thơ trữ tình... Thơ trữ tình của Hoàng Cầm có một phong

thái rất đặc biệt và đặc thù, tên tuổi của ông đã làm rạng danh cả một vùng Kinh Bắc - cái

nôi của nền văn hoá Sông Hồng” [19, tr.56].

Năm 2007, cuốn sách Thơ Hoàng Cầm với văn hoá Kinh Bắc của Nguyễn Thị

Minh Bắc có đề cập đến góc độ văn hoá, nhưng chưa chỉ ra được những biểu tượng văn

hoá trong thơ ông - điều cốt lõi làm nên những thành công về bản sắc, phong cách nghệ

thuật và tài năng của nhà thơ.

Năm 2011, Nhà xuất bản Hội Nhà văn xuất bản cuốn Hoàng Cầm- Hồn thơ độc

đáo do tác giả Lại nguyên Ân chủ biên có tập hợp các bài viết về cuộc đời và sự nghiệp

thơ ca Hoàng Cầm. Đây là một cuốn sách tập hợp khá đầy đủ những bài viết, bài đánh

giá, nghiên cứu phê bình về thơ Hoàng Cầm dưới nhiều góc độ như: Hoàng Cầm, ông

hoàng của thơ trữ tình… của Nguyễn Việt Chiến, Hoàng Cầm - gã phù du Kinh Bắc của

Chu Văn Sơn, Đi tìm ẩn ngữ trong thơ Hoàng Cầm của Đỗ Lai Thúy, Hành trình xóa bỏ

ẩn dụ như một lối tìm đến ngôn ngữ thi ca mở: Hoàng Cầm của Khánh Phương, Thơ

Hoàng Cầm - truyền thống và hiện đại của Đặng Tiến, Người dệt thơ từ những giấc mơ

của Nguyễn Đăng Điệp… nhưng cũng chưa đề cập nhiều đến các biểu tượng văn hóa

Khinh Bắc trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.

Năm 2012, Luận án Tiến sĩ của Lương Minh Chung [22] với đề tài Thơ Hoàng

Cầm từ góc nhìn văn hóa đã xác định điểm nhìn văn hóa trong việc nghiên cứu thơ

Hoàng Cầm. Tuy nhiên tác giả Luận án này chưa nhấn mạnh cái căn nguyên tạo nên giá

trị văn hóa vùng đã thẩm thấu một cách trực tiếp, sâu đậm đến hồn thơ, phong cách thơ

Hoàng Cầm. Theo chúng tôi, đây là vấn đề hết sức quan trọng. Tác giả Lương Minh

Chung đã đi sâu vào các vấn đề lý thuyết, lý luận chung về mối quan hệ giữa môi trường

văn hóa và con người, và dưới góc nhìn văn học như một công cụ để khai thác. Vậy nên

ở đây chúng tôi không đi sâu vào vấn đề lý thuyết, lý luận chung đó nữa, hơn nữa tác giả

cũng có đề cập đến việc phản ánh các biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm dưới góc nhìn

9

văn hóa trong mối quan hệ tổng thể của văn hóa Việt Nam, thế nên chưa giải mã cội

nguồn sâu xa ảnh hưởng đến văn hóa, phong tục, lối sống, tâm hồn con người, lịch sử và

thiên nhiên Kinh Bắc đã ảnh hưởng trực tiếp tới hồn thơ Hoàng Cầm như thế nào. Chính

vì thế mà chúng tôi đi sâu vào vấn đề cội nguồn văn hóa vùng để khẳng định đó chính là

vùng thẩm mỹ độc đáo, đặc biệt ảnh hưởng đến hồn thơ, phong cách thơ, tư tưởng nghệ

thuật của nhà thơ đất Kinh Bắc này.

Trong các bài đánh giá, nghiên cứu phê bình trên về cuộc đời và sự nghiệp thi ca

của Hoàng Cầm có đề cập ít nhiều đến vùng thẩm mỹ Kinh Bắc trong sáng tác thơ

Hoàng Cầm, nhưng mới chỉ nói đến ở mức độ đề cập tới vấn đề chứ chưa đi vào phân

tích hoặc làm rõ vấn đề, do đó chưa có tính hệ thống, chưa khảo sát một cách toàn diện,

cũng như chưa khái quát hóa trở thành một luận điểm mang tính khoa học, góp phần giải

mã thơ Hoàng Cầm và chỉ ra những đặc điểm, đặc trưng, những sáng tạo độc đáo của

nhà thơ Kinh Bắc hết sức tài hoa này trên góc độ biểu tượng và đặc trưng ngôn ngữ với

mối quan hệ với văn hóa vùng Kinh Bắc. Tuy nhiên những ý kiến, nhận xét, đánh giá của

các nhà nghiên cứu, phê bình trên đều có giá trị khơi gợi, mở hướng cho chúng tôi việc

xác định mục tiêu của đề tài để tiếp tục triển khai các nội dung, phương pháp nghiên cứu,

làm sáng tỏ và khẳng định một cách chắc chắn dựa trên các căn cứ khoa học vấn đề: văn

hóa Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ độc đáo trong thơ Hoàng Cầm. Vùng thẩm mỹ độc

đáo và sâu sắc ấy tự thân đã góp phần quan trọng tạo nên hồn thơ Hoàng Cầm, tạo nên

một tư tưởng nghệ thuật và phong cách thơ Hoàng Cầm.

Vì thế chúng tôi muốn lựa chọn đề tài này nhằm mục đích giải mã một cách khoa

học, tương đối thấu đáo về thơ Hoàng Cầm từ góc độ văn hóa học trong mối liên hệ với

vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Từ đó khẳng định: Văn hoá Kinh Bắc chính là vùng thẩm mỹ

độc đáo trong thơ Hoàng Cầm.

6. Phương pháp nghiên cứu

- Luận án kết hợp phương pháp nghiên cứu liên ngành Văn hoá - Văn học: Cách

tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá học giúp chúng tôi lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm

nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên trong nó. Những yếu tố văn hoá,

thẩm mỹ liên quan đến con người, thiên nhiên, địa lý, lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn

ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những phương diện nội dung và hình thức của

10

tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường

phát triển nói chung của văn học.

- Phương pháp lịch sử: Không những giúp người viết tìm hiểu những vấn đề

liên quan hoàn cảnh xã hội và cá nhân đã ảnh hưởng như thế nào tới quá trình sáng

tác của tác giả mà còn góp phần xác định được vị trí của tác giả đó trong quá trình thơ

ca dân tộc.

- Phương pháp hệ thống, phân tích: Đây là một trong những phương pháp cần

thiết giúp chúng tôi khảo sát, tìm hiểu những chi tiết, hình ảnh được lặp lại có ý nghĩa

quan trọng trong việc xác định những biểu tượng nghệ thuật độc đáo trong thơ Hoàng

Cầm, từ đó phân tích, nhận xét, đánh giá mang tính khái quát, hệ thống cho mỗi vấn đề

được trình bày.

- Phương pháp so sánh: So sánh đồng đại và lịch đại trên quan điểm lịch sử để

thấy được tính tiếp thu và kế thừa trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.

- Vận dụng một số phương pháp của Thi pháp học để tiếp cận hệ thống các

phương thức biểu hiện bằng biểu tượng nghệ thuật của văn học, bắt nguồn từ quan điểm

thẩm mỹ nhận định về thế giới nghệ thuật để soi tỏ vấn đề nghiên cứu Văn hóa Kinh Bắc

- Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm.

7. Đóng góp của luận án

- Luận án góp phần làm rõ hơn quan niệm về vùng thẩm mỹ và mối quan hệ giữa

vùng văn hoá với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học. Qua đó thấy được mối quan hệ

giữa môi trường văn hoá với sáng tác văn học.

- Khảo sát, hệ thống hóa, phân tích, đánh giá những biểu tượng văn hóa Kinh Bắc

trong sáng tác thơ của Hoàng Cầm, chỉ rõ một số đặc trưng ngôn ngữ nghệ thuật thơ

Hoàng Cầm trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.

- Khẳng định những nét đặc sắc về nội dung và những sáng tạo độc đáo trong

nghệ thuật thơ của Hoàng Cầm, nhằm góp thêm một cách tiếp cận về thơ của ông.

- Khẳng định những đóng góp quan trọng của nhà thơ tài hoa này trong dòng

chảy của nền thơ ca Việt Nam hiện đại và góp một cách phân tích để hiểu thơ, nhận thức,

giảng dạy và cảm thụ thơ Hoàng Cầm sâu sắc hơn.

11

8. Cấu trúc luận án

Ngoài Mở đầu và Kết luận, nội dung của Luận án được triển khai trong 3 chương:

Chương 1: Vấn đề lý luận về vùng thẩm mỹ, vùng văn hoá và vùng văn hoá

Kinh Bắc.

Chương 2: Thế giới biểu tượng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm.

Chương 3: Vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm nhìn từ phương diện ngôn ngữ.

Danh mục các công trình công bố kết quả nghiên cứu của Luận án

Sau cùng là danh mục Tài liệu tham khảo.

12

Chương 1

MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ VÙNG THẨM MỸ, VÙNG VĂN HOÁ

VÀ VÙNG VĂN HOÁ KINH BẮC

1.1. Quan niệm về vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học

Trong sáng tác nghệ thuật, trong đó có văn học, các nhà văn thường có một “vùng

sáng tác” nhất định để lấy thi liệu, thi đề cho cảm hứng của mình.

Có thể nói mỗi nhà văn có một “chất dính” (chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh)

riêng để thể hiện ngòi bút của mình. Khi nhà văn có sự quan sát thực tế đời sống ở nhiều

lĩnh vực khác nhau, “chất dính” ấy vẫn chỉ có thể bắt lấy được những gì mình thích hợp

với nó mà thôi. Ở Thạch Lam là những phố huyện nghèo nàn, xơ xác, buồn vắng hoặc

những vùng ngoại ô tối tăm của Hà Nội, với những linh hồn bé nhỏ tội nghiệp, lặng lẽ

sống với những ý nghĩ, những mơ ước, những cảm giác hiền lành, nếu không phải là ngơ

ngác, lo lắng nhìn về một tương lai mù mịt; ở Nguyên Hồng là những con đường phố tấp

nập nơi thành phố cảng Hải Phòng chói chang màu phượng vĩ, nơi đây, bên cạnh cuộc

sống ồn ào, náo nhiệt là cuộc sống khó khăn của những người thợ nghèo khổ đang đồng

thời diễn ra trong than bụi; với Nguyên Ngọc lại là vùng đất Tây Nguyên; Nguyễn Bính

với mảnh đất Sơn Nam; nhà văn Sơn Nam với vùng đất Nam Bộ; Kim Lân với những

thú phong lưu đồng ruộng nơi vùng Kinh Bắc; Anh Thơ cũng có vùng sáng tác riêng với

những cảnh chợ phiên nghèo và những dòng sông, những phong tục tập quán vùng Kinh

Bắc... Không gian trong thơ Hoàng Cầm cũng là không gian của vùng Kinh Bắc trù mật

về một nền văn hoá, văn hiến lâu đời, tuy nhiên thơ ông lại mang một chiều sâu của giá

trị văn hóa thẩm mỹ khác. Nhà thơ đã khai thác, xây dựng mối quan hệ giữa văn hoá và

văn học để soi chiếu, từ đó đưa những hình ảnh đặc trưng, những biểu tượng văn hóa vào

trong thơ nhằm tái hiện hiện thực đời sống đến vùng thẩm mỹ của văn chương. Bằng bút

pháp nghệ thuật, nhịp điệu thơ văn, tính sáng tạo trong tư duy ngôn ngữ, giọng điệu và

cấu trúc văn bản, nhà thơ đã sáng tạo những ý tưởng thẩm mỹ mang tính đặc trưng riêng.

Như thế, mỗi nhà văn đều có một hệ đề tài quen thuộc và ưa thích của chính

mình, có thể gọi đó là vùng đối tượng thẩm mỹ (chữ dùng của Nguyễn Đăng Mạnh). Ở

đây, các vùng đối tượng thẩm mỹ tự nó đã ghi đậm dấu ấn chủ thể sáng tác để tạo nên

phong cách thơ đặc biệt và tư tưởng nghệ thuật riêng cho nhà thơ.

Trong sáng tác văn học nói chung, sáng tác thơ ca nói riêng, mỗi nhà thơ thường

tạo cho mình một không gian nghệ thuật, một thế giới nghệ thuật riêng và trước hết nó

13

phải hấp dẫn, lôi cuốn tác giả. Từ đó nhà thơ bắt lấy cảm hứng từ vùng thẩm mỹ với

những thi liệu, thi đề trong sự cảm nhận riêng ấy mà sáng tạo thế giới nghệ thuật riêng

theo chủ quan của mình, hấp dẫn cho mình và cho bạn đọc.

Nói đến vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học trước hết phải nói đến quê hương -

nơi có thiên nhiên, văn hoá và con người với những dấu ấn riêng biệt: phải là vùng quê

“sơn thuỷ hữu tình”, độc đáo, đẹp một vẻ đẹp rất riêng, không thể trộn lẫn với vùng khác.

Thiên nhiên của quê hương không những tạo nên vẻ đẹp mà còn như dấy lên khí thiêng

của đất và người. Trải qua hàng ngàn năm, đất và người quện bên nhau, vật vã với thiên

nhiên làm nên sự sống biến đổi không ngừng. Thiên nhiên của quê hương có tài nguyên

về văn hoá, nhân văn vô giá mà biết bao thế hệ, cuộc đời đã đổ mồ hôi, xương máu để

gìn giữ, phát triển và bảo vệ, làm nên sự sống của con người nối tiếp nhau, hòa quyện

nhau, bổ sung cho nhau. Trong sáng tác văn học, các nghệ sĩ thường lấy đó làm cảm

hứng và coi đó như một vùng thẩm mỹ riêng trong sáng tác của mình.

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong

tục… là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể

hiện quan niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động

lưu giữ những thành quả đó một cách sinh động nhất. Để có được những thành quả

đó, văn hoá của một dân tộc, một vùng miền cũng như của toàn thể nhân loại từng

trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành

những giá trị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó, vừa là nơi

định hình những giá trị đã hình thành. Cũng có thể nói văn học là văn hoá lên tiếng

bằng ngôn từ nghệ thuật.

Văn hoá nói chung là một khái niệm rất rộng, để tạo nên vùng văn hoá thì cần

phải có ba tiêu chí là: tộc người, môi trường tự nhiên và những biến thiên trong văn hóa -

lịch sử. Ba tiêu chí trên tạo nên một diện mạo để nhận diện về vùng văn hoá. Ví dụ vùng

văn hoá Kinh Bắc với chủ thể là tộc người Kinh - Việt; với người Tây Bắc là tộc người

Tày - Nùng... nhưng nói đến văn hoá thẩm mỹ thì khái niệm đã được thu hẹp lại, mang

tính chất giới hạn nội dung của văn hoá. Văn hoá thẩm mỹ chủ yếu thuộc về các lĩnh vực

nghệ thuật như: văn hoá nghệ thuật, trò chơi dân gian, phong tục tập quán, lễ hội, văn

chương nghệ thuật, sân khấu, diễn xướng, sinh hoạt ca hát... Và có thể coi đó chính là

vùng thẩm mỹ để văn học nghệ thuật có điều kiện nảy sinh và thể hiện.

14

Trong thực tế, cuộc sống hình thành văn hoá, cuộc sống nào thì văn hoá đó.

Vì vậy mới có văn hoá thị thành, văn hóa đồng bằng, văn hoá vùng miền, văn hoá

Quốc gia...

Văn học là một bộ phận của văn hoá, nó luôn phụ thuộc vào bề dày của cuộc

sống tâm thức con người trong một vùng đất thơ, văn. Vùng đất nào mang bản sắc vùng

đất đó. Nghĩa là, trong thực tế đời sống văn học, ta thường thấy mỗi nhà văn đều có một

vùng đề tài riêng để sáng tác. Tất nhiên đó là vùng mà họ ưa thích, ở đó luôn sẵn có

những thi liệu, thi đề gợi nguồn cảm hứng cho họ, và họ bắt nhịp rất nhanh để có được

những tác phẩm văn học có giá trị nghệ thuật cao, tạo được dấu ấn trong phong cách

sáng tạo cá nhân. Khi thoát ra khỏi đề tài ấy, thì nhà văn rất ít cơ hội để thể hiện ngòi bút

của mình, theo đó, tác phẩm trở nên nhạt nhẽo, không còn sắc nét nữa, dẫn đến hình

tượng nghệ thuật thiếu sức sống, thiếu linh hồn, bản chất thẩm mỹ trong sáng tác sẽ bị

mất thiêng, thậm chí cấu trúc văn bản trở nên rời rạc, thừa thãi, vô duyên.

Biểu trưng, biểu tượng văn học biểu hiện văn hoá, cho nên văn học là tấm gương

phản chiếu của văn hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh, sự biểu hiện và

các biểu trưng, biểu tượng của văn hoá qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn. Đó là

bức tranh văn hoá dân gian trong thơ Hồ Xuân Hương (tục ngữ, câu đố tục giảng thanh,

trò chơi…); là những vẻ đẹp của văn hoá truyền thống trong truyện ngắn và tuỳ bút

Nguyễn Tuân (Hoa thuỷ tiên, Nghệ thuật pha trà, Thư pháp…); là không gian văn hóa

làng quê và những phiên chợ quê trong thơ Nữ sĩ Anh Thơ; là những tín ngưỡng, phong

tục trong tiểu thuyết Mẫu Thượng ngàn của Nguyễn Xuân Khánh (đạo Mẫu và tín

ngưỡng phồn thực, tục thờ Thần Chó đá, Thần Cây đa, Thần Thành hoàng, cách lên

đồng, hát Chầu văn, tục kết chạ, ma chay, cưới hỏi…); Tác phẩm văn học còn dẫn ta đi

đến những nguồn mạch sâu xa của văn hoá qua việc lý giải tấn bi kịch lịch sử như trong

kịch Vũ Như Tô của Nguyễn Huy Tưởng hay cốt cách người nông dân được đào luyện

qua những biến thiên cách mạng trong các truyện ngắn Khách ở quê ra và Phiên chợ

Giát của nhà văn Nguyễn Minh Châu…

Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật trong vùng sáng tác riêng của mình là

một sản phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được

rèn luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không

gian văn hoá thẩm mỹ này chi phối cách xử lý đề tài, thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật,

sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng tác; đồng thời cũng chi phối cách

15

phổ biến, đánh giá, thưởng thức trong quá trình tiếp nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao

dung mới luôn tạo cơ hội và điều kiện thuận lợi cho văn học phát triển, có điều văn học

có thể hiện được hay không lại là vấn đề khác. Vì vậy, có thể nói văn học là thước đo, là

nhiệt kế vừa lượng định, vừa kiểm nghiệm chất lượng và trình độ văn hoá của một xã hội

trong một thời điểm lịch sử nhất định. Điều đó cho thấy người nghệ sĩ khi sống và gắn bó

máu thịt với một vùng đất, văn hóa ứng xử cũng như ngôn ngữ của vùng đất đó sẽ ăn sâu

vào tiềm thức để rồi tạo nên những tác phẩm nghệ thuật. Các tác giả văn học (tiêu biểu),

tất yếu sẽ hình thành một tư duy nghệ thuật cùng những quan điểm sáng tác mới, từ đó

nảy sinh phong cách nghệ thuật đặc trưng của nhà văn. Vì thế, khi sáng tác, những giá trị

văn hóa vùng đất ấy đã đi vào trang viết của họ một cách tự nhiên như một điều tất yếu

không thể nào khác được.

Tuy nhiên không phải nhà văn nào cũng có vùng thẩm mỹ riêng cho sáng tác

mình. Giá trị vùng thẩm mỹ chỉ thực sự được nảy sinh khi nhà văn đó gắn bó máu thịt

hoặc có một xúc cảm thẩm mỹ đặc biệt để viết nên những tác phẩm mang dấu ấn đặc

trưng riêng biệt cho mình. Khi tác phẩm ra đời thể hiện được những thi đề vừa quen

thuộc, vừa mới lạ dựa trên những thi liệu từ cội nguồn truyền thông vốn có của vùng quê

ấy (như những hình ảnh, cảnh vật, những sự kiện, hiện tượng, những con người và các

mối quan hệ với các yếu tố văn hóa cơ bản, cốt lõi đã và đang tồn tại ở chính nơi đó).

Điều đó sẽ gây cảm hứng, cảm xúc mãnh liệt trong suối nguồn sáng tác của người nghệ

sĩ. Cũng từ đó góp phần tạo nên thế giới hình tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng, sinh

động trong tác phẩm. Và cũng chính từ đây hình tượng nghệ thuật được hình thành và

bám trụ một cách sâu sắc trong đời sống văn học của nhà văn, để rồi tư tưởng nghệ thuật

của nhà văn được hình thành và phát triển. Và ta gọi đó chính là không gian sáng tác

riêng, hay là vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học.

1.2. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa với vùng thẩm mỹ trong sáng tác văn học

1.2.1. Quan niệm về vùng văn hóa

Vùng văn hóa là hiện tượng, là thực tế xã hội - lịch sử đã được các nhà văn hóa

nghiên cứu và phân định. Trong quá trình hình thành, tồn tại và phát triển, mỗi nền văn

hóa đều được hình thành bởi các vùng, miền văn hóa với những đặc trưng, sắc thái riêng

làm thành tính thống nhất và đa dạng của các nền văn hóa.

Học thuyết của các nhà dân tộc học Xô Viết trước đây về khu vực lịch sử - dân

tộc học, hay lịch sử - văn hóa, thực chất là học thuyết về vùng văn hóa.

16

Về khái niệm văn hóa vùng, miền, cuốn Từ điển bách khoa Việt Nam viết: “Là

một thực thể văn hóa bao gồm những nét đặc trưng, những sắc thái riêng mà các vùng

khác không có hoặc có mà không điển hình, không tiêu biểu. Những nét đặc trưng văn

hóa vùng thể hiện trên các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể trên các lĩnh vực kinh

tế (làm ruộng nước hay nương rẫy, trồng trọt hay tiến hành kinh tế chiếm đoạt, thừa

hưởng của cải sẵn có của tự nhiên), văn hóa vật chất (nhà cửa, y phục, trang sức, ăn

uống, phương tiện di chuyển), văn hóa xã hội (các chu kỳ trong đời người: cưới xin, sinh

đẻ, ma chay, nếp sống), văn hóa tinh thần (tín ngưỡng, lễ hội, văn hóa dân gian, sinh hoạt

cộng đồng),…” [101, tr.818].

Hiện có khá nhiều quan niệm về vùng văn hoá, trong đó quan niệm của Trần

Quốc Vượng đảm bảo được tính ngắn gọn của một định nghĩa, thể hiện rõ quan điểm

tiếp cận, đồng thời nêu bật được đặc trưng cơ bản của một vùng văn hoá: “Một vùng văn

hóa là một tổng thể - hệ thống một không gian văn hóa (cutural space) với một cấu trúc -

hệ thống (structure- system) bao gồm các hệ dưới - hay tiểu hệ (sub- system) theo lối tiếp

cận hệ thống (system-analysis)” [150, tr.401].

Về mặt không gian, Việt Nam có địa bàn hẹp nhưng lại trải dài từ Bắc vào Nam

với bờ biển dài trên 3.000 km, đa dạng về địa hình, điều kiện khí hậu, về tộc người và

phân bố tộc người. Về mặt thời gian, Việt Nam có quá trình phát triển sự sống và văn

hóa lâu đời, trong đó từ rất sớm đã có xu hướng phát triển dần vào phương Nam tạo nên

sự đa dạng văn hoá giữa các vùng đất cũ và vùng đất mới, nhất là trong quá trình phát

triển vào Nam, cư dân người Việt luôn sáng tạo nên những giá trị văn hoá mới trên cơ sở

ứng xử với môi trường tự nhiên và môi trường xã hội mới của mình.

Do vậy, từ trước khi có những nghiên cứu khoa học về văn hoá và vùng văn hoá,

người Việt đã cảm nhận được những khác biệt giữa các xứ, các vùng văn hoá. Trong

Việt Nam văn hoá sử cương (1938) - được coi là công trình nghiên cứu có tính hệ thống

đầu tiên về văn hoá Việt Nam, tuy không sử dụng khái niệm vùng văn hoá nhưng Đào

Duy Anh đã rất chú ý đến tính đa dạng của văn hoá Việt Nam khi xem xét sự khác biệt

về hoàn cảnh sinh hoạt của cư dân ở những địa vực khác nhau trong nội bộ nền văn hoá

Việt Nam [5, tr.16-23]. Từ những thập niên cuối thế kỷ XX, việc phân vùng văn hoá Việt

Nam được đặc biệt chú trọng và có nhiều thành tựu đáng kể, góp phần quan trọng trong

việc nghiên cứu tính đa dạng của văn hoá Việt Nam cùng những biểu hiện đặc trưng của

mỗi vùng văn hoá.

17

Vùng văn hóa còn là một không gian văn hóa nhất định, được tạo thành bởi các

đơn vị dân cư trên một phạm vi địa lý của một hay nhiều tộc người. Theo đó là sự sáng

tạo ra một hệ thống các dạng thức văn hóa mang đậm sắc thái tâm lý cộng đồng, thể hiện

trong môi trường xã hội nhân văn và thông qua các hình thức ứng xử của con người với

tự nhiên, xã hội và ứng xử với nhau trên một tiến trình lịch sử lâu dài có tính đồng nhất, ít

xảy ra xung đột.

Việt Nam là quốc gia có nhiều dân tộc và nhiều vùng miền. Kết quả nghiên cứu

của các nhà lịch sử và văn hóa học Việt Nam cho thấy nước ta có từ 6 đến 9 vùng văn

hóa, với những đặc trưng và sắc thái riêng, làm thành tính thống nhất và đa dạng,

phong phú của văn hóa Việt Nam. Theo Ngô Đức Thịnh Việt Nam có 7 vùng văn hóa

lớn: 1- Vùng văn hóa Trung du và đồng bằng Bắc bộ với trung tâm là Thăng Long - Hà

Nội; 2- Vùng văn hóa Việt Bắc; 3- Vùng văn hóa Tây bắc và miền núi Bắc trung bộ; 4-

Vùng văn hóa đồng bằng duyên hải Bắc trung bộ; 5- Vùng văn hóa duyên hải Trung và

Nam trung bộ; 6- Vùng văn hóa Trường Sơn - Tây Nguyên; 7- Vùng văn hóa Nam bộ

mà trung tâm là Sài Gòn - Gia Định [122].

Như vậy, việc phân vùng văn hóa không căn cứ và tùy thuộc vào đơn vị hành

chính hiện tại, mà căn cứ vào quá trình hình thành các vùng không gian văn hóa và

những đặc điểm địa lý, điều kiện lịch sử - xã hội cụ thể của mỗi vùng văn hóa với những

đặc trưng và sắc thái riêng được phản ánh ở các lĩnh vực văn hóa vật thể và phi vật thể

hình thành nên. Hoàng Nam trong cuốn Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người- văn hoá

Việt Nam viết “Tự nhiên và con người hòa đồng, kết thành một thể thống nhất, dù là

thống nhất tương đối, tạo thành các vùng văn hóa” [89, tr. 49].

1.2.2. Quan niệm về bản sắc văn hóa vùng, miền

Bản sắc văn hóa vùng, miền là khái niệm mang tính đặc trưng cho bản sắc riêng

từng vùng, miền dưới sự thống nhất của cùng cội nguồn tạo ra bản sắc văn hóa chung,

theo đó, nó góp phần cơ bản để tạo nên tính đa dạng cho bức tranh văn hoá dân tộc. Văn

hoá vùng, miền chỉ sự khác biệt, tính độc đáo, thậm chí là viễn dị của văn hóa du lịch,

văn hóa đại chúng cùng sự đề cao những di sản độc đáo của mỗi vùng, miền. Đồng thời

nó cũng chỉ sự khác biệt của đặc trưng về phong tục, tập quán, nghi lễ, ngôn ngữ… Văn

hoá tộc người theo không gian địa lí trên một vùng, miền nhất định. Những nhóm tộc

người khác nhau ở những chỗ khác nhau sẽ tạo nên sự phân hoá vùng văn hoá, và có sự

khác biệt độc đáo, mang bản sắc vùng, miền riêng của những sáng tạo văn hóa (trong đó

18

có các hoạt động sáng tạo văn học nghệ thuật). Bản sắc văn hóa vùng, miền biểu hiện

cho sự định hướng và lựa chọn trong hành động của con người vùng, miền ấy.

Theo cách tiếp cận lý thuyết và lý giải khái niệm bản sắc văn hóa thì bản sắc văn

hóa vùng, miền là cái định hướng cho mọi sáng tạo văn hóa của vùng, miền, là cái ổn

định nhất nhưng không phải là cái bất biến. Nó là cái góp phần làm nên các giá trị tinh

thần và vật chất của con người ở một vùng miền nhất định.

Như vậy có hai yếu tố để tạo nên bản sắc văn hóa vùng.

Thứ nhất là yếu tố về môi trường sinh thái- tự nhiên mà từ đó sinh ra/quy định

cách thức cư trú, canh tác, đấu tranh sinh tồn và phát triển.

Thứ hai là yếu tố chứa đựng các hình thức biểu hiện văn hóa của con người, tạo

ra cung cách nhận thức- hoạt động riêng, tạo ra nếp sống, phong tục tập quán, văn học

nghệ thuật, ngôn ngữ và các quan hệ giao lưu kinh tế- văn hóa... giữa nội bộ cộng đồng

hay với cư dân của các vùng đất/ địa phương khác.

1.2.3. Mối quan hệ giữa vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ trong sáng tác của nhà văn

Văn học, nghệ thuật cùng với triết học, chính trị, tôn giáo, đạo đức, phong tục…

là những bộ phận hợp thành của toàn thể cấu trúc văn hoá. Nếu văn hoá thể hiện quan

niệm và cách ứng xử của con người trước thế giới, thì văn học là hoạt động lưu giữ

những thành quả đó một cách sinh động nhất, thậm chí hiệu quả nhất. Để có được những

thành quả đó, văn hoá của một vùng miền, dân tộc cũng như của toàn thể nhân loại phải

trải qua nhiều chặng đường tìm kiếm, chọn lựa, đấu tranh và sáng tạo để hình thành

những giá trị được định vị trong xã hội. Văn học vừa thể hiện con đường tìm kiếm đó,

vừa là nơi định hình những giá trị đã hình thành của vùng đất, dân tộc đó. Cũng có thể

nói văn hoá vùng, miền có một giá trị nhất định, tạo nên các giá trị thẩm mỹ của vùng

thẩm mỹ để văn học lên tiếng bằng ngôn từ nghệ thuật và các biểu tượng nghệ thuật định

hình nên cốt cách riêng, bản sắc riêng trong quá trình sáng tạo của nhà văn.

Đến lượt mình, mỗi cá nhân đều góp phần tạo nên bản sắc của một nền văn hóa,

nền văn hóa ấy, đến lượt nó lại có vai trò nâng đỡ, tạo mới để tạo ra bản sắc cá nhân. G.

Devereux - nhà nhân học văn hóa Pháp đương đại đã nói đại ý: văn hóa là tâm lý được

phóng chiếu ra ngoài, và tâm lý là văn hóa được phóng chiếu vào trong. Cả cá nhân và

văn hóa đều là những thực thể tạo tác, luôn được sinh thành và không ngừng bồi đắp.

Việc lựa chọn cho mình một giá trị văn hóa có vai trò quan trọng với mỗi cá nhân, đặc

19

biệt với nghệ sĩ, sẽ góp phần hình thành tư duy nghệ thuật. Trong rất cách ứng xử của

một số nhà thơ hiện đại nói chung, (ở đây) Hoàng Cầm đã chọn con đường trở về với

văn hóa dân gian, định vị mình trong bản sắc không gian văn hóa riêng, hay nói cách

khác là trong vùng thẩm mỹ riêng - vùng Kinh Bắc và lấy đó làm khởi nguồn thẩm mỹ

trong sáng tác thơ ca. Nghiên cứu tư duy thơ Hoàng Cầm, sẽ là thiếu sót nếu không nói

đến dấu ấn của lối tư duy dân gian, dân tộc trong vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Do đó,

nghiên cứu về thơ Hoàng Cầm, một phần chính là đi tìm dấu ấn của tư duy văn hóa dân

gian trong thơ ông. Qua đó để thấy một phương diện cốt yếu trong tư duy nghệ thuật của

nhà thơ, đồng thời cho thấy một thi sĩ hiện đại đã trở về nguồn văn hóa dân gian, dân tộc

trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ như thế nào? Văn hóa vùng đi qua màng lọc tư duy

nghệ thuật hiện đại sẽ biến đổi ra sao sau cái “phễu lọc văn hóa” ấy? Sự dung hợp giữa

hiện đại và truyền thống sẽ tạo ra thành quả gì cho văn chương đương đại qua đóng góp

của thi sĩ Hoàng Cầm?

Toàn bộ những giá trị vật chất, tinh thần của một nền văn hóa thực chất được

tạo ra từ một/ một số kiểu tư duy nhất định trong sự trở về với văn hóa và chính bản

thân cách tư duy ấy cũng trở thành một giá trị, một bản sắc văn hóa riêng. Tư duy thơ

từ góc độ văn hóa dân gian vùng, miền, dân tộc được coi là cách nghĩ, cách cảm của

tập thể nhân dân lao động được hình thành từ lâu đời, được bảo lưu và bồi đắp qua thời

gian, trở thành những trầm tích văn hóa, từ đó hình thành nên tâm thức của cả cộng

đồng. Tâm thức cá nhân của người nghệ sĩ sẽ trực tiếp cho chúng ta tri nhận điều đó.

Do đó, tư duy văn hoá dân gian, dân tộc trong mối liên hệ vùng thẩm mỹ là một phạm

trù rất rộng. Nó có thể được thể hiện qua hoạt động thực tiễn của con người, qua các

nghi lễ, phong tục dân gian, và đặc biệt được bảo lưu trong những tác phẩm văn học

dân gian, hoặc trong những tác phẩm văn học viết được dân gian hóa… Điều đó được

thể hiện trên cả hai phương diện: nội dung - quan niệm về thế giới, cuộc sống con

người và cách thể hiện nội dung ấy qua hình thức nghệ thuật biểu đạt. Có thể khái quát

tư duy dân gian, dân tộc nói chung và soi chiếu vào thơ Hoàng Cầm để thấy rõ điều

này trong một số đặc điểm như sau:

Thứ nhất: Sự thể hiện thế giới này về cái thần kì tồn tại như một hiện thực tất yếu,

cái huyền ảo không phải là một hư cấu mà họ tin rằng nó thật sự tồn tại theo quan điểm

vạn vật nhất linh (Thánh Gióng, Từ Thức, Giáng Tiên, Mỵ Châu, Chương Chi…);

20

Thứ hai: Thể hiện sự hồn nhiên trong hành trình đi tìm hạnh phúc, thể hiện trong

những khát vọng, ước mơ (trong thơ Hoàng Cầm là sự thể hiện ở một số lễ hội);

Thứ ba: Sự thể hiện cách nghĩ, cảm bằng các biểu tượng, mô típ (trong thơ Hoàng

Cầm gắn với các biểu tượng như mưa, đêm, men, núi, đồi, hát quan họ, lễ hội, dòng

sông, con người…);

Thứ tư: Tư duy dân gian trong cộng đồng người Việt nói chung và vùng Kinh

Bắc nói riêng bên cạnh những nét chung thuộc về tâm thức nhân loại như trên còn có

những nét riêng: trọng nghĩa tình, sống hòa hợp với thiên nhiên, con người nhìn chung là

thụ động, gắn với tín ngưỡng thờ mẫu, đề cao thiên tính nữ, đề cao văn hóa cộng đồng…

Vùng văn hóa và vùng thẩm mỹ có quan hệ, tác động qua lại, trực tiếp với nhau

và có ảnh hưởng trực tiếp tới tư duy sáng tạo của người nghệ sĩ - tất nhiên với những

nghệ sĩ nhạy cảm, tài năng. Do đó, văn học biểu hiện văn hoá, ghi lại một cách sáng tạo

những giá trị thẩm mỹ của văn hóa, cho nên văn học là tấm gương phản chiếu của văn

hoá. Trong tác phẩm văn học, ta tìm thấy hình ảnh của văn hoá vùng và vùng thẩm mỹ

qua sự tiếp nhận và tái hiện của nhà văn như các bức tranh văn hóa trong sáng tác của Hồ

Xuân Hương, Nguyên Tuân, Nguyễn Xuân Khánh… đã nói ở trên, rồi những giá trị văn

hóa phong tục, thiên nhiên, con người Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm có tác động

không nhỏ đến hoạt động sáng tác văn học không chỉ ở đề tài mà còn ở toàn bộ bầu khí

quyển tinh thần bao bọc hoạt động sáng tạo của nhà văn và hoạt động tiếp nhận của bạn

đọc. Bản thân nhà văn với thế giới nghệ thuật trong sáng tác của mình đã là một sản

phẩm văn hoá. Người đọc, với chân trời chờ đợi hướng về tác phẩm, cũng được rèn

luyện về thị hiếu thẩm mỹ trong một môi trường văn hoá nhất định. Chính không gian

văn hoá, không gian của vùng thẩm mỹ này góp phần chi phối tích cực cách xử lý đề tài,

thể hiện chủ đề, xây dựng nhân vật, sử dụng thủ pháp nghệ thuật… trong quá trình sáng

tác; đồng thời cũng chi phối cách phổ biến, đánh giá, thưởng thức trong quá trình tiếp

nhận. Một nền văn hoá cởi mở, bao dung mới, mỗi một vùng thẩm mỹ mới đều là cơ hội

tạo điều kiện thuận lợi cho văn học giao lưu và phát triển. Nó chứng minh giá trị vùng

thẩm mỹ nhất định của một vùng văn hóa.

Trên tinh thần đó, nhiều nhà nghiên cứu đã căn cứ vào những dữ liệu thẩm mỹ

của tác phẩm văn học để tìm hiểu bức tranh văn hoá ở một thời đại. Nói cách khác, thực

tiễn văn học có thể cung cấp những cứ liệu đáng tin cậy cho việc nghiên cứu văn hoá và

các giá trị thẩm mỹ khác. Chẳng hạn, thông qua nội dung tái hiện của văn xuôi Việt Nam

21

đầu thế kỷ XX, người ta có thể chứng minh cho quá trình thâm nhập của văn hoá Tây Âu

trong xã hội thời kỳ này, cũng như khoảng cách văn hoá của người thị dân so với người

sĩ phu bị buộc chặt vào những tín điều Nho giáo, một bên, và với người nông dân bị giới

hạn trong văn hoá nông thôn ở làng xã, một bên khác. Hoặc thông qua hệ thống thơ ca

Hoàng Cầm, nhà nghiên cứu có thể tìm hiểu được các giá trị văn hóa của vùng thẩm mỹ

đất Kinh Bắc, qua đó xác lập được hệ giá trị trong mối tương quan với các vùng thẩm

mỹ, vùng văn hóa khác của đất nước.

Vùng văn hoá và vùng thẩm mỹ có liên quan mật thiết với nhau, do đó nếu vùng

văn hoá và vùng thẩm mỹ chi phối hoạt động và sự phát triển của văn học, thì ngược lại,

văn học cũng tác động đến văn hóa, thẩm mỹ hoặc trên toàn thể cấu trúc, hoặc thông qua

những bộ phận hợp thành khác của nó. Những nhà văn tiên phong, nhà văn lớn của dân

tộc bao giờ cũng là những nhà văn hoá lớn, tiêu biểu. Bằng nghệ thuật ngôn từ, họ tích

cực đấu tranh, phê phán những biểu hiện phản văn hoá, đồng thời khẳng định những giá

trị thẩm mỹ, văn hoá vùng miền, dân tộc, quốc gia. Dù là phản ứng trước những làn sóng

văn hoá tiêu cực đi chăng nữa hay là cổ động cho sự tiếp biến văn hoá, giới trí thức sáng

tác tinh hoa bao giờ cũng là những người tiên phong mở ra hướng nhìn về vận hội mới

của văn hoá, văn học cho dân tộc.

Giữa vùng thẩm mỹ, vùng văn hoá và văn học có mối quan hệ hữu cơ mật thiết

như vậy, nên việc tìm hiểu các giá trị thẩm mỹ của văn học dưới góc nhìn văn hoá là một

hướng đi cần thiết và có triển vọng. Cùng với những cách tiếp cận văn học từ xã hội học,

mỹ học, thi pháp học…, thì cách tiếp cận văn học từ góc nhìn văn hoá học giúp chúng ta

lý giải trọn vẹn hơn tác phẩm nghệ thuật với hệ thống mã văn hoá được bao hàm bên

trong nó. Những yếu tố văn hoá, thẩm mỹ liên quan đến con người, thiên nhiên, địa lý,

lịch sử, phong tục, tập quán, ngôn ngữ… có thể được vận dụng để cắt nghĩa những

phương diện nội dung và hình thức của tác phẩm. Nó cũng có thể góp phần lý giải tâm lý

sáng tác, thị hiếu độc giả và con đường phát triển nói chung của văn học.

Cách tiếp cận văn hoá vùng, vùng thẩm mỹ qua văn học như vậy thực chất là đặt

văn học trong không gian văn hoá mà những đặc trưng của nó đã thâm nhập một cách

tinh vi vào thế giới sáng tạo nghệ thuật, tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Ở những người

nghệ sĩ lớn, đó là sự tiêu hoá và thẩm thấu vào từng hình tượng, chi tiết của tấm thảm dệt

ngôn từ, giọng điệu, hình tượng, biểu tượng nghệ thuật. Sự thẩm thấu này truyền đi cả

theo hai chiều lịch đại và đồng đại. Một mặt, những giá trị từ văn hoá truyền thống lan

22

chảy trong mạch ngầm của nó và thấm vào thế giới hình tượng và ngôn từ của tác phẩm

mà đôi khi chủ thể sáng tạo không ý thức một cách tự giác. Mặt khác, những giá trị văn

hoá, thẩm mỹ mới hình thành vào lúc đương thời không thôi cám dỗ, kêu gọi, thách thức,

đòi hỏi nhà văn phải trả lời, trực tiếp hay gián tiếp bằng thứ ngôn ngữ nghệ thuật trong

tác phẩm của mình. Đối với những tài năng, cả hai chiều thẩm thấu ấy hoà trộn một cách

nhuần nhuyễn đến mức khó mà tách bạch rõ ràng.

Thực tế cho thấy văn hoá không bao giờ là một hiện tượng thuần nhất, sự đan xen

vùng văn hoá, vùng thẩm mỹ có khi dẫn đến sự pha tạp, trộn lẫn, nhưng cũng có thể dẫn

đến sự kết tinh, chưng cất nên những giá trị mới. Về mặt thời gian, khi cái cũ chưa bàn

giao cho cái mới, văn học có thể được coi là nơi hội tụ của những tìm tòi cho sự chuẩn bị

chuyển tiếp của thời đại. Còn về mặt không gian, khi một địa bàn trở thành ngã ba đường

của sự giao lưu văn hoá, thì văn học có thể là nơi hoà giải của những xung đột tinh thần,

nhằm tìm một tiếng nói cho sự chung sống giữa các nhóm người, hoặc một tiếng nói

chung cho một vùng, miền.

Hơn nữa, ở xa, văn học cũng được thừa hưởng và hấp thụ những yếu tố của một

không gian văn hoá rộng: văn hoá phương Đông, văn hoá dân tộc. Ở gần, văn học thừa

hưởng và hấp thụ những yếu tố của một không gian văn hoá, thẩm mỹ hẹp: văn hoá tộc

người, văn hoá vùng, thẩm mỹ vùng. Những vùng văn hoá, vùng thẩm mỹ giao nhau sẽ

tạo ra những nét chung trong văn học của từng vùng, miền, đồng thời nó vẫn giữ lại

những nét riêng làm căn cước giúp ta nhận diện bộ mặt của từng vùng văn hoá, từng

vùng thẩm mỹ, từ đó phân biệt “lãnh thổ” trên bản đồ văn học, ví dụ như: Việt Bắc,

Kinh Bắc, Huế, Tây Nguyên, Sơn Nam, Cà mau…. Thiên nhiên, địa lý, phong tục, tập

quán, lề thói sinh hoạt ở mỗi vùng đất là cái nôi văn hoá, thẩm mỹ hình thành nên tính

cách con người và tính cách văn chương ở đây, thể hiện qua tâm lý, hành động, ngôn

ngữ và giọng điệu.

Trong một phối cảnh văn hoá như vậy, chúng ta sẽ thấy sự nối tiếp và gần gũi

giữa Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Phi Vân ở nửa cuối thế kỷ XX với Hồ Biểu Chánh,

Nguyễn Bửu Mộc, Nguyễn Chánh Sắt ở Miền Nam ở nửa đầu thế kỷ đó, hoặc sự tiếp nối

giữa Anh Thơ và Hoàng Cầm ở Miền Bắc trong thế kỷ XX. Và mặc dù không thiếu

những nét chung với những nhà văn cùng cộng đồng vận mệnh trong thế kỷ đầy biến

động này, ngay trong đề tài về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác của họ cũng có một

23

khoảng cách nhất định với sáng tác của Võ Hồng, Nguyễn Văn Xuân, Võ Phiến… ở

miền Trung và Trần Tiêu, Bùi Hiển, Nguyễn Đình Lạp, Mạnh Phú Tư… ở miền Bắc.

Tóm lại, văn học luôn có mối quan hệ chặt chẽ với các lĩnh vực khác nhau của

văn hoá truyền thống và đặc từng trưng vùng thẩm mỹ. Có thể nói nhà văn đích thực là

một nhà hoạt động văn hoá đích thực, tác phẩm văn học là một sản phẩm văn hoá, sản

phẩm của các hình tượng nghệ thuật với các giá trị thẩm mỹ vùng cốt lõi, và người đọc là

một đối tượng thụ hưởng văn hoá, thẩm mỹ. Trong thời đại ngày nay, đa số các quốc gia

đều là xã hội đa văn hoá, đa thẩm mỹ, văn học vì vậy cũng đa dạng như văn hoá, như cái

đẹp của nghệ thuật truyền thống, chân chính.

1.3. Văn hóa Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc và trong thơ Hoàng Cầm

1.3.1. Đặc điểm vùng văn hóa Kinh Bắc

Kinh Bắc được coi là cái nôi sinh thành dân tộc Việt, cái nôi của lịch sử dân tộc,

đất nước, là mảnh đất màu mỡ sản sinh và nuôi dưỡng văn hoá người Việt không chỉ ở

Đồng Bằng Bắc Bộ, mà còn ở cả nước. Nơi đây phong cảnh hữu tình, có núi đồi, có sông

ngòi, có đồng bằng rộng, bằng phẳng, thổ nhưỡng cao ráo thích hợp với canh tác nông

nghiệp và tiểu thủ công nghiệp.

Kinh Bắc là miền đất mang nhiều dấu ấn của các di tích về văn hóa, lịch sử và

huyền thoại. Nếu bờ Bắc của sông Đuống là vùng đất phát tích vương triều Lý, triều đại

khởi đầu nền văn minh Đại Việt, mở ra thời kỳ độc lập tự chủ lâu dài của dân tộc thì bên

bờ Nam của sông Đuống lại đậm đặc dấu thiêng, truyền thuyết về Kinh Dương Vương,

Lạc Long Quân - Âu Cơ là Thủy tổ của người Việt Nam, mở ra thời đại các Vua Hùng

dựng nước làm rạng rỡ non sông đất Việt. Thật hiếm có nơi nào như Thuận Thành - một

huyện mà có đến ba Thủy tổ: Kinh Dương Vương - Thủy tổ dân tộc, Sĩ Nhiếp - Thủy tổ

nền Hán học và chùa Dâu - chùa Tổ của Phật giáo. Điều đó khẳng định nơi đây được coi

là cái nôi văn hóa của dân tộc Việt.

Kinh Bắc với những lớp lang văn hóa của diễn trình lịch sử văn hoá Việt Nam

được ghi nhận/phản ánh với nhiều dấu tích còn lại và đang tiếp tục phát triển trong thời

đại ngày nay, chứng tỏ nơi đây là một vùng văn hoá với nhiều yếu tố vẫn còn nguyên giá

trị để khai thác, khám phá và nghiên cứu. Văn hoá Kinh Bắc đã ảnh hưởng trong sự phát

triển chung của xã hội Việt Nam (vùng miền nói riêng, cả nước nói chung) về tất cả các

mặt như kinh tế, chính trị, văn hoá, giáo dục... Trong đó, xét một mặt nào đấy (ví dụ văn

24

học nghệ thuật) - trên lĩnh vực văn học thì văn hoá Kinh Bắc có ảnh hưởng rất sâu đậm

trong chiều sâu của lịch sử văn hoá tâm linh dân tộc.

Để giải quyết vấn đề này, chúng tôi xuất phát từ thực tế kết cấu địa lý và các đặc

điểm về văn hoá Kinh Bắc, lấy văn hoá Kinh Bắc là một vùng thẩm mỹ đặc biệt, có ảnh

hưởng rất lớn trong đời sống văn học nghệ thuật của các tác giả quê ở Kinh Bắc và cả

một số tác giả người không phải gốc ở Kinh Bắc nhưng cũng có những cảm xúc thi ca

mãnh liệt về vùng đất này, đặc biệt là trong sáng tác thơ Hoàng Cầm.

Về vị trí địa lý vùng Kinh Bắc

Kinh Bắc xưa chủ yếu thuộc hai tỉnh Bắc Ninh và Bắc Giang ngày nay. Vùng đất

xứ Bắc được hình thành từ khi lập quốc, mang hiệu là Việt Thường, rồi Xích Quỷ. Trải

qua các đời như Kinh Dương Vương, Lạc Long Quân sau đó Hùng Vương thứ nhất mới

rời lên Phong Châu (Phú Thọ), lấy Quốc hiệu là Văn Lang.

Thời Hùng Vương (thiên niên kỷ I Trước Công nguyên) dưới sự thống trị của nhà

Tần (214 - 209 Trước Công nguyên Kinh Bắc thuộc bộ Vũ Ninh, bao gồm các vùng Tây

Âu, Luy Lâu, Long Biên, Kê Từ của nhà nước Văn Lang. Dưới sự thống trị của phương

Bắc - nhà Hán (110 - 210 ), triều Ngô, Tấn, Đường, thì Kinh Bắc có nhiều thay đổi với

nhiều tên gọi và cương vực địa lý khác nhau.

Đến thời Lý- Trần gọi là Bắc Giang lộ và Như Nguyệt giang lộ. Cái tên “Kinh

Bắc” theo sử chép là thấy từ đời Trần. Lộ Bắc Giang cũng gọi là lộ Kinh Bắc. Vào năm

Thuận Thiên thứ nhất (1428), Lê Thái Tổ - người sáng lập ra triều Lê (1428 - 1788) đã

chia cả nước ra làm năm đạo thì có Bắc đạo- là vùng Kinh Bắc. Năm Quy Thuận thứ bẩy

(1466), khi Lê Thánh Tông tổ chức vương quốc thành Thừa tuyên và chia nước ra làm

13 đạo, ấn định bản đồ địa lý cả nước Nam thì có thừa tuyên Bắc Giang hay Kinh Bắc

với 4 phủ và 19 huyện.

Trong Lịch triều hiến chương loại chí, Phan Huy Chú cũng cho rằng Thừa tuyên

Bắc Giang tới khi ấn định bản đồ mới đổi là Kinh Bắc. Nhưng trong Dư Địa Chí (1345) -

Nguyễn Trãi đã viết: “Thiên Đức, Vệ Linh ở về Kinh Bắc”. Trong Đại Nam nhất thống

chí (q.19. Bắc Ninh) cho biết: “Đời Trần là lộ Bắc Giang, lại gọi là lộ Kinh Bắc”.

Năm Hồng Đức thứ 21 (1490), Thánh Tông tổ chức lại đất nước thành 13 xứ.

Kinh Bắc đạo trở thành Kinh Bắc xứ. Tổ chức này tồn tại cho đến cuối triều Lê. Đến thời

Gia Long - người sáng lập ra triều Nguyễn (1802), chia đất nước thành 24 trấn, 4 doanh

25

và 2 thành. Kinh Bắc xứ mang tên là Kinh Bắc trấn. Năm Minh Mệnh thứ 12 (1831) đổi

là Bắc Ninh phủ với 4 phủ, 2 phân phủ và 20 huyện.

Bản đồ hành chính Kinh Bắc vào những năm đầu thế kỷ XIX so với cuối những

năm cuối thế kỷ XIX đã có những thay đổi lớn. Đặc biệt ở năm Đồng Khánh thứ 2

(1887), một số tổng đã được tách ra khỏi các huyện Siêu Loại, Gia Lâm và Lang Tài về

tỉnh Hưng Yên. 05 xã của Văn Giang được gộp vào tỉnh Hải Dương. Năm Thành Thái

thứ 7 (1895), một số huyện của Kinh Bắc như Hiệp Hoà, Yên Dũng, Lục Ngạn, Yên

Thế, Việt Yên và Hữu Lũng được tách ra thành tỉnh Bắc Giang với phủ Lạng Giang.

Năm Thành Thái thứ 14 (1902) lại tách tiếp một số huyện như Đa Phúc và Kim Anh về

tỉnh Phúc Yên. Còn lại là tỉnh Bắc Ninh.

Từ kinh thành Thăng Long nhìn ra tứ trấn thì Kinh Bắc là vùng đất phía Bắc. Trải

qua các thời kỳ lịch sử của dân tộc, dù mang nhiều tên gọi, có diện tích khác nhau nhưng

từ xưa đến nay, Kinh Bắc vẫn là vùng đất trung tâm của châu thổ Bắc Bộ nằm giữa lưu

vực sông Hồng và sông Thái Bình, là vùng đất màu mỡ, phì nhiêu, cao thoáng, giàu

nguồn nước, tiện cho việc làm ăn, cư trú, nhất là về canh tác nông nghiệp. Kinh Bắc

cũng là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời cũng là bộ phận cốt lõi của quốc gia

Văn Lang - Âu Lạc. Thời kỳ Văn Lang - Âu Lạc, đấy “chính là thời phát sáng rực rỡ văn

minh Đông Sơn Việt cổ, rồi là thời giao thoa văn hoá Việt - Hán để sinh thành ra văn

minh Đại Việt thời trung đại” [149, tr.154].

Kinh Bắc là vùng đất của nhiều núi và sông, đây cũng là những giới hạn địa lý tự

nhiên ngăn cách với các vùng lân cận. Phía Bắc, ngăn cách với địa phận tỉnh Lạng Sơn

có dãy núi Bảo Đài. Phía Nam ngăn cách với Quảng Ninh và Hải Dương là dãy Huyền

Đinh và Yên Tử. Phía Tây ngăn Hà Nội bởi con sông Hồng...

Cảnh quan Kinh Bắc rất sinh động và phong phú, có đồng bằng phì nhiêu, là nơi

gặp gỡ của các mạch giao thông đường thuỷ và đường bộ Nam - Bắc, Đông - Tây, tạo

thuận lợi cho giao thương, tiếp xúc kinh tế, văn hoá giữa nước ta với các nước trong khu

vực Đông Nam Á và các vùng lân cận. Thế sông ngòi dày đặc chen lẫn gò đồi, núi rừng

rải rác vừa tạo thế hiểm trở cho vùng đất là phên dậu của kinh thành Thăng Long, lại rất

thuận tiện cho việc làm ăn, phát triển kinh tế. Sông núi đã quy vùng ôm lấy một quê

hương có nhiều cánh đồng rộng mỏi cánh cò. Giữa những cánh đồng bát ngát ấy, có khi

nổi lên những ngọn đồi thoai thoải, trong đó là một cảnh chùa tĩnh mịch cổ kính, hoặc

26

những xóm làng xanh tươi... len lách trong quê hương quan họ lồng bóng trong nhiều

dòng sông thơ mộng.

Chảy qua vùng Kinh Bắc có ba con sông chính là sông Cầu, sông Thương và

sông Lục Nam hợp thành hệ thống sông Thái Bình, lại có nhánh sông là sông Đuống

chảy từ sông Hồng sang nên đất đai càng mang nhiều màu mỡ, tạo điều kiện cho dân cư

tập trung làm ăn, buôn bán, giao thương. Trên triền các bờ sông là các làng nghề nổi

tiếng, trong Dư Địa Chí, phần Kinh Bắc, Nguyễn Trãi có viết về sự đa dạng trong các

làng nghề truyền thống: “...Ở vùng đất ấy, đất thì trắng, mềm, ruộng thì vào hạng thượng

thượng. Làng Bát Tràng làm đồ bát chén, làng Huê Cầu nhuộm thâm, huyện Hữu Lũng

có mía, huyện Yên Thế có tên nỏ và vôi...” [139, tr.33], hoặc các làng nghề khác như

Gốm Thổ Hà, Gốm Phù Lãng, Gốm Làng Ngòi, tranh Đông Hồ... Trong khi đó, ở Phủ

Lạng Giang núi rừng chen lẫn khe động sâu thẳm, tạo thế hiểm trở trong việc xây dựng

phòng tuyến chống giặc phương Bắc, đây là nơi diễn ra chủ yếu các cuộc chặn đánh và

truy quét kẻ thù bành trướng xâm lược từ phương Bắc tràn xuống qua các thời Tống,

Nguyên, Minh, Thanh...; từng ghi nhiều chiến công nổi tiếng như: chiến công trên chiến

tuyến sông Như Nguyệt (thời Lý), ba lần chiến thắng quân Mông Nguyên (thời Trần),

trận Xương Giang (thời Lê), trận ải Nội Bàng- Xa Lý, bến Bình Than (thời Trần),...

“Kinh Bắc xưa là bộ Vũ Ninh... Đấy là trấn thứ tư trong 4 kinh trấn và đứng đầu phên

dậu phía Bắc” [139, tr.32]. Vị trí và vai trò ấy trong suốt thời kỳ lịch sử của dân tộc cho

đến nay vẫn không thay đổi.

Đến thời Pháp thuộc, địa vực hành chính Kinh Bắc được chia làm hai tỉnh Bắc

Ninh và Bắc Giang. Nhưng dù sao vẫn nằm trong vùng Kinh Bắc, hình thành và phát

triển văn hoá với những đặc trưng và bản sắc riêng.

Bên cạnh những huyền thoại về khởi nguồn của dân tộc ta, Kinh Bắc còn có cả

một kho tàng truyền thuyết, thần tích, thần phả và hệ thống thờ tự các bộ tướng của vua

Hùng. Bên cạnh đó, vùng đất này còn nổi tiếng về truyền thống hiếu học, khoa bảng, về

di tích lịch sử văn hoá với những danh lam thắng cảnh, những lễ hội truyền thống, những

phong tục về nếp sống cổ truyền của dân tộc, là trung tâm kinh tế - chính trị - văn hoá

của đất nước, là “phên dậu” của kinh thành Thăng Long - Đông Đô - Hà Nội. Về vùng

văn hoá Kinh Bắc là về với quê hương “ngàn năm văn hiến” của dân tộc, một vùng văn

hoá có những bản sắc riêng và giữ vai trò quan trọng trong tiến trình hình thành và phát

triển của nền văn hoá Việt Nam.

27

Điều kiện hình thành bản sắc văn hóa Kinh Bắc

Kinh Bắc là một vùng quê có nhiều đặc trưng văn hóa. Trên vùng châu thổ sông

Hồng nặng phù sa, xanh rờn ngô lúa, xóm làng quần tụ bao đời, là một vùng lịch sử và

văn hóa cổ, nơi đây có truyền thống khoa bảng và lưu giữ được những truyền thuyết,

huyền thoại đẹp với bao di tích đình, đền, chùa, lăng, mộ cổ kính vào bậc nhất so với

nước và các lễ hội dân gian truyền thống. Vùng đất này chẳng những là nơi trù phú về

kinh tế, mà còn từng là trung tâm Phật giáo của cả nước, là trung tâm giao lưu văn hóa, là

quê hương của đất trăm nghề, là nơi có phong cảnh nên thơ với những cánh đồng bát

ngát, những dãy đồi thoai thoải, những dòng sông uốn mình chảy êm đềm. Ai đã một lần

về Kinh Bắc, đều cảm nhận được chất thơ nơi xứ sở cổ kính bậc nhất đất nước, nơi lắng

đọng phù sa văn minh suốt thời kỳ mở nước, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta.

Từ những tìm hiểu về khái niệm bản sắc văn hóa và văn hóa Kinh Bắc, chúng tôi

nhận thấy: Bản sắc văn hóa Kinh Bắc là kết tinh những giá trị văn hóa đặc sắc, đậm đặc

của vùng Kinh Bắc. Nó được hình thành, tồn tại, phát triển trong suốt quá trình lịch sử

lâu dài của đất nước và biểu hiện ở các sắc thái văn hóa như: chủ nghĩa yêu nước, tinh

thần cộng đồng, tinh thần lạc quan, cởi mở, dễ hòa hợp, thích ứng trong giao lưu văn

hóa…, tính duy trì trong các cư xử xã hội, tính thích ứng và hài hòa trong ứng xử với tự

nhiên… Bản sắc văn hóa Kinh Bắc được thể hiện ở những đặc trưng tiêu biểu, những đặc

trưng ấy nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với lịch sử trường kỳ của quê hương Kinh

Bắc và lịch sử dân tộc cũng giống như ở bất cứ nơi đâu, ở bất kỳ vùng quê nào trên đất

nước Việt Nam. Song vốn là một trong những cái nôi sinh thành dân tộc và văn hóa Việt

Nam thì các yếu tố đó dường như biểu hiện một cách đậm đặc hơn, rõ nét hơn.

Đặc điểm văn hóa vùng Kinh Bắc

“Vùng văn hoá”, “loại hình văn hoá”, “trung tâm văn hoá” là những khái niệm

cơ bản thuộc về chuyên ngành lý luận, đặc biệt được đề cập chủ yếu trong cuốn

“Trung tâm văn hoá” của CL. Wisler. Xuất phát từ thực tế quá trình nghiên cứu của

CL. Wisler, tác giả cuốn sách đã từ bỏ cách tiếp cận vùng văn hoá từ một đặc trưng hạn

hẹp là những nhân tố chính, đi đến chỗ xem xét nó trên cơ sở một tập hợp chính, rồi

xem xét bản chất nội tại của vấn đề trên cơ sở những giá trị đồng ứng về yếu tố văn

hoá. Từ những giá trị đồng ứng về văn hoá đó mà ta chọn lựa những toa văn hoá mang

yếu tố đặc trưng để khẳng định đó chính là “típ đặc trưng cho văn hoá vùng” hay “loại

28

hình văn hoá” của vùng. Rõ ràng đây là một bước tiến có giá trị khẳng định về mặt

khoa học luận của CL. Wisler.

Cũng theo CL. Wisler trong quan niệm về Sự lựa chọn chuyên môn hoá, của các

vùng văn hoá khác nhau giống như là một trong những nhân tố góp phần tạo nên sắc thái

riêng của các vùng văn hoá. Nhìn chung, có nhiều quan niệm và nhiều cách phân vùng

văn hoá Việt Nam. Huỳnh Khái Vinh và Nguyễn Thanh Tuấn (1995) phân thành 8 vùng,

Đinh Gia Khánh và Cù Huy Cận (1995) phân thành 9 vùng, trong khi Trần Quốc Vượng

và Chu Xuân Diên đều chia thành 6 vùng với đôi chút khác biệt. Trong Văn hoá vùng và

phân vùng văn hoá ở Việt Nam (1993), Ngô Đức Thịnh đã phân chia Việt Nam có 7

vùng văn hoá với những đặc trưng văn hoá tiêu biểu theo vùng miền, gồm: Vùng văn hoá

Trung du và Đồng bằng Bắc Bộ, vùng văn hoá Việt Bắc, vùng văn hoá Tây Bắc và miền

núi Bắc trung bộ, vùng văn hoá đồng bằng duyên hải Bắc trung bộ, vùng văn hoá duyên

hải Trung và Nam trung bộ, vùng văn hóa Trường Sơn- Tây Nguyên, vùng văn hóa Nam

bộ. Trong vùng văn hóa Đồng bằng Bắc bộ, chúng tôi đặc biệt quan tâm tới văn hóa

Kinh Bắc. Bởi lẽ, vùng đất xứ Bắc- Kinh Bắc vốn là một cái nôi văn hoá của người Việt.

Qua các kết quả nghiên cứu, đặc biệt là nghiên cứu khảo cổ học ở Bắc Ninh cho thấy đây

là địa bàn cư trú của người Việt cổ, đồng thời là một bộ phận cốt lõi của Quốc gia Văn

Lang - Âu Lạc... Từ mấy nghìn năm trước, người Việt cổ đã cư trú và lập làng ở ven các

bờ sông Cầu, sông Đuống, sông Thương, sông Ngũ Huyệt Khê, sông Tiêu Tương và đặc

biệt là sông Dâu... Đời sống chủ yếu dựa trên quá trình canh tác nông nghiệp kết hợp làm

nghề thủ công. Cũng trên mảnh đất này, những giá trị tinh thần, tư tưởng được phản ánh

qua các huyền thoại Man Nương bên dòng sông Dâu, ông Đùng, bà Đoàng, ông khổng

lồ cắn nát núi, hút sạch rừng, băng ngang lũ... Những câu chuyện về Kinh Dương

Vương, Lạc Long Quân, Âu Cơ, Thánh Gióng, An Dương Vương, Mỵ Châu, Cao Lỗ và

Cổ Loa thành... Cùng với hệ thống truyện thần thoại, truyền thuyết là hàng loạt các di

tích đậm đặc, nơi đây đã hội tụ được đầy đủ các nhân tố lịch sử, về quan hệ nguồn gốc,

những đặc trưng, biểu tượng văn hoá của cộng đồng người Việt, hơn nữa lại được coi là

Chốn Tổ của Phật giáo Việt Nam. Vẫn còn đó là cả một hệ thống lăng, đền thờ Kinh

Dương Vương, Lạc Long Quân - ông cha của Hùng Vương thứ nhất; mộ của các quan

lại nhà Hán; lăng, đền thờ Sĩ Nhiếp... là một minh chứng rõ nét cho bề dày văn hóa nơi

đây. Tất cả đều được lưu giữ trong lòng đất, lòng người vùng quê xứ Bắc - Kinh Bắc.

Đây là một minh chứng hùng hồn cho sự phong phú, đa dạng về mặt văn hoá, lịch sử

29

hơn bất cứ địa phương nào trên dải đất Việt ngàn năm văn hiến. Theo chúng tôi, Kinh

Bắc phải được coi là một vùng văn hoá biệt lập, tất nhiên vẫn phát triển và cộng hưởng

trong nền văn hoá, văn minh Đại Việt, Việt Nam. Qua các tài liệu đã được nghiên cứu,

thẩm định, qua thực tế khảo sát văn hoá vùng miền, có thể khẳng định rằng văn hoá Xứ

Kinh Bắc thuộc loại hình văn hoá vùng miền, là một vùng văn hóa với những đặc trưng

tiêu biểu đã được khẳng định. Nơi đây là cái nôi của lịch sử dân tộc, đất nước, là mảnh

đất màu mỡ sản sinh và nuôi dưỡng văn hoá của người Việt không chỉ ở vùng Đồng

Bằng Bắc Bộ mà còn của cả nước.

Theo cách nói của Đào Duy Anh và Nguyễn Văn Huyên thì “Xứ Kinh Bắc là cái

nôi sinh thành tộc người Việt - dân tộc chủ thể, là không gian sinh thành nền tảng bản sắc

văn hoá Việt Nam”. Trần Quốc Vượng cũng cho rằng: “Xứ Bắc là không gian điển hình

đan xen, hỗn dung tiếp xúc, hội tụ và kết tinh văn hoá Việt cổ với văn hoá Việt Ấn, Nam

Á và Trung Á, văn hoá Nho, Lão Trung Hoa để rồi sinh thành bản sắc văn hoá Kinh-

Việt. Từ thời Lý - Trần... khi áp lực dân số và nhu cầu phòng vệ giặc Bắc, Bắc Giang dần

đã trở thành không gian văn hoá Việt đan xen với không gian văn hoá Tày, Nùng, Dao...

tạo nên một vùng giao thoa văn hoá, một vùng văn hoá có bản sắc riêng, hay ta nên gọi là

vùng văn hoá miền Kinh Bắc” [150, tr.156]. Cũng theo Trần Quốc Vượng, không thể

hiểu được một Kinh Bắc văn hiến nếu không cắt nghĩa “nó là một hiệu quả giao thoa,

giao hoà văn hoá Việt, Ấn, Chàm... trong suốt một kỳ gian lịch sử từ thời cổ đại đến Lý -

Trần... Không có Sĩ Nhiếp, Khâu Đà La, Vô Ngôn Thông và nhiều tù binh - nghệ sĩ

Chàm đến tụ cư ở Luy Lâu, Long Biên, Phù Đổng... thì cũng khó mà có một truyền

thống văn hiến Kinh Bắc… và đến lượt mình nhà Lý đã "văn minh hoá" thêm một bước

làng quê, vùng miền cội rễ của mình để có vùng văn hoá Kinh Bắc rực rỡ nhất, hài hoà

nhất của buổi đầu kỷ nguyên văn minh Đại Việt” [150, tr.157- 158].

Qua đó ta thấy Kinh Bắc là biểu tượng về một mảnh đất có nền văn hiến lâu đời

với nhiều giá trị văn hoá tốt đẹp. Đó là nền văn minh nông nghiệp lúa nước với cơ tầng

giá trị văn hoá xóm làng, lấy nghề nông làm gốc “dĩ nông vi bản”. Trong cái nghề canh

tác nông nghiệp lúa nước gắn với các công xã nông thôn (chạ- làng) tự chủ, tự quản bao

đời khép kín tự cung tự cấp đã tạo nên được một cái phông văn hoá đặc biệt gợi nhiều

cảm xúc thẩm mỹ trong hoạt động sáng tạo văn học và nghệ thuật. Nói đến đặc điểm văn

hóa Kinh Bắc, chúng tôi thấy có 8 đặc điểm sau: Kinh Bắc được coi là miền đất của

Vương Quốc lễ hội; là vùng đất của những huyền thoại và truyền thuyết; là quê hương

30

của những làng cười truyền thống và quê hương văn hoá quan họ; Kinh Bắc còn được

coi là Chốn tổ của Phật giáo; là quê hương của lịch sử dựng nước và giữ nước; là vùng

đất của địa linh nhân kiệt; là quê hương của đất trăm nghề và truyền thống văn hóa ẩm

thực mang đậm giá trị văn minh, giá trị nhân sinh cao cả.

Với các hoạt động văn hoá phong phú, đa dạng và tươi đẹp như vậy, người Kinh

Bắc luôn là hiện thân của văn hoá quê hương, có sự thích ứng, thâm nhập nhanh chóng

và sáng tạo các yếu tố văn hoá vùng miền trong nước và khu vực, làm cho tính cách và

bản lĩnh của mình ngày càng sâu sắc, bền vững đồng thời góp phần làm phong phú tính

cách và văn hoá của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Như vậy, văn hoá Kinh Bắc đã chứa đựng những nét đặc sắc riêng, được hun đúc

từ lâu đời do những yếu tố về con người, địa lý, tự nhiên, văn hoá, xã hội vùng miền quy

định, tạo nên một “cá tính xứ Bắc”, một “sắc thái Kinh Bắc” (chữ dùng của Giáo sư Trần

Quốc Vượng), đồng thời mang những nét văn hoá của cốt cách dân tộc Việt Nam. Văn

hoá Việt Nam đã thâm nhập vào văn hoá vùng miền và ngược lại văn hoá vùng làm

phong phú, làm đẹp thêm cho nền văn hoá của dân tộc...

1.3.2. Văn hoá Kinh Bắc trong thơ ca Kinh Bắc

Kinh Bắc được kiến tạo bởi vẻ đẹp của thế giới tâm hồn con người và những

phong tục tập quán gắn liền với không gian của những lễ hội. Kinh Bắc còn được tạo

dựng bởi những cảnh sắc thiên nhiên diễm lệ rất gần gũi, quen thuộc với cuộc sống, tâm

tư con người. Những đặc điểm ấy đã góp phần không nhỏ để gây dựng nên thế giới tâm

hồn phong phú, nhạy cảm, thuần phác của người dân nơi đây, đặc biệt trong tâm hồn của

các nhà nghệ sĩ.

Kinh Bắc - vùng quê cổ kính, trải mấy nghìn năm cùng lịch sử dân tộc, từng

mang trong mình nhiều tầng phù sa văn hoá bồi đắp. Nơi đây là quê hương của những

làn điệu quan họ của Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong- Màu dân tộc sáng bừng trên

giấy điệp (Bên kia sông Đuống), là đất địa linh phát tích vương triều Lý - với Chiếu dời

đô - triều đại mở đầu thời kỳ độc lập - tự cường, mở ra nền văn minh Đại Việt, là nơi

được danh thần Lý Thường Kiệt đọc bản tuyên ngôn độc lập bằng thơ - Nam Quốc sơn

hà để khẳng định chủ quyền độc lập của dân tộc ta.

Vùng quê Kinh Bắc có một nền văn hoá truyền thống được hun đúc cùng với lịch

sử lâu đời của dân tộc. Đặc điểm tự nhiên gắn với đời sống văn hoá nông nghiệp, với

31

những con người ruộng đồng thôn quê. Con người và văn hoá Kinh Bắc là những nhân

tố tiêu biểu cho đặc trưng văn hoá Việt Nam.

Kinh Bắc là xứ sở của huyền thoại, truyền thuyết và ca dao - dân ca, của những

làng cười truyền thống - một trong những ngọn nguồn văn hoá dân tộc. Văn học dân gian

vùng Kinh Bắc không những chiếm một vị trí quan trọng trong tiến trình phát triển văn

hoá Kinh Bắc, mà còn rất quan trọng đối với nền văn hoá, văn học Việt Nam nói chung.

Từ trong văn hoá dân gian xưa, Kinh Bắc được hiện lên với đầy đủ những cảnh đẹp, con

người văn hoá - lịch sử, phong tục tập quán gắn với những lễ nghi, hội hè và chứa đựng

bao nét đẹp truyền thống. Trong ca dao - dân ca, Kinh Bắc đã được miêu tả như một bức

tranh phong cảnh hữu tình thật đẹp: Một vùng phong cảnh trước sau/Bức tranh thiên cổ

đượm màu nước non. Bức tranh thiên nhiên ấy được tạo dựng bởi một gam “màu nước

non” có trước có sau, núi non sông nước hoà quyện như ôm lấy một vùng quê thanh bình

yên ả: Chín mươi chín ngọn núi Phượng Hoàng/ Chín mươi chín cái ao làng Ninh

Xuyên/ Sông Thương trong đục dịu hiền/ Chảy xuôi để núi Cô Tiên soi mình/ Sông Cầu

một dải xanh xanh/ Lơ thơ nước chảy ta mình nhớ nhung; Núi Cô Tiên gối đầu con

Phượng/ Sông Tổ Rồng uốn khúc bao quanh; Rõ ràng sơn thuỷ một bầu/ Thiên nhiên

quan cảnh bấy lâu trời giành/ Mọi chiều là mọi vẻ thanh/ Thợ trời xếp đặt bức tranh nào

bằng... Những câu ca trên như càng khẳng định sự thanh bình, yên ả đến gần gũi, thân

thuộc, khẳng định vẻ đẹp của thiên nhiên xứ Kinh Bắc. Điều đó có một sức hút, sức lay

động tâm hồn của con người một cách lạ kỳ.

Kinh Bắc thường xốn xang tưng bừng trong những ngày hội diễn ra ở trong làng,

ngoài xóm, trong các chùa chiền gắn với mỗi làng quê, vùng quê, vì thế mà đình, chùa, lễ

hội nào ở Kinh Bắc cũng mang dấu ấn đặc trưng tiêu biểu của không gian sinh hoạt văn

hoá dân gian. Cảnh quan Kinh Bắc càng trở nên đẹp vì có bàn tay sáng tạo của con

người. Đặc biệt là những sinh hoạt văn hoá với một thế giới nhân sinh quan ẩn chứa biết

bao lẽ sống tốt đẹp ở trên đời: Trai thì đọc sách ngâm thơ/ Dùi mài kinh sử để chờ dịp

khoa/ Gái thì giữ việc trong nhà/ Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa...

Trong sự bao bọc của những lũy tre làng nơi đây là cả một thế giới tình người với

những mối quan hệ làng xã gắn bó với nhau một cách truyền thống, cố hữu. Đời sống

tinh thần của người dân được định hình trong sự ràng buộc của “lệ làng” để dần hình

thành nên những nét văn hoá mang đậm màu sắc của một vùng quê Kinh Bắc, trở thành

những phong tục tập quán - ngày một được hun đúc thành những tầng sâu giá trị lịch sử.

32

Tất cả những điều đó đã tạo nên một cái phông văn hoá lớn với những đặc điểm riêng

biệt, mang đặc trưng một không gian văn hoá Kinh Bắc hay “ta nên gọi là văn hoá miền

Kinh Bắc” (Trần Quốc Vượng).

Đến với Kinh Bắc, mỗi người đều có ấn tượng riêng cho mình về một chiều sâu

tâm thức văn hoá nào đó. Có thể đó là hình ảnh những người con gái nhuộm răng đen

hát những lời ca Quan họ thắm nghĩa thắm tình hoặc cái lịch sự của người Kinh Bắc.

Tục ngữ, ca dao - dân ca quan họ trữ tình của miền quê Kinh Bắc luôn là sợi dây kết

nối tình cảm cao quý của con người nơi đây: đoàn kết, trọng nghĩa tình, yêu quê hương

đất nước. Quan trọng hơn, đó chính là một nét văn hoá thể hiện bản sắc riêng của người

dân Kinh Bắc.

Trong tiến trình chung của văn học viết nước nhà, có thể nói, ở thời kỳ nào xứ

Bắc - Kinh Bắc cũng hội hợp tinh hoa, ưa chuộng văn nhã, và đều có những sáng tác của

các danh nhân, danh sĩ tiêu biểu.

Khởi nguồn văn học viết là Lý Công Uẩn với Chiếu dời đô, Vạn Hạnh với Yết

bảng thị chúng, sau này là Lý Nhân Tông, Lê Văn Thịnh... Sự thể hiện không gian Kinh

Bắc trong văn học Trung đại cũng được phản ánh rất sinh động, nhiều thi sĩ, văn nhân

đất Kinh Bắc qua các thời đại đã say sưa ca ngợi vẻ đẹp của vùng non nước này, như bài

ký của sư Pháp Loa thế kỷ XIII:

Ai xuôi đến giáp Lục đầu

Đức La thôn cổ nhuộm màu biếc xanh

Sông Thương, sông Lục bao quanh

Cô Tiên nằm ngủ cây xanh bóng dày.

Nguyễn Ức - thế kỷ XIV từng ghi về cảnh đẹp Kinh Bắc:

Bóng chiều vương tháp- bóng chùa xa

Bốn nhịp cầu soi, sông giát trắng ngà.

Thế kỷ XV, Tiến sĩ - nhân sĩ - Phó đô nguyên suý Hội Tao đàn Thân Nhân Trung

(1418 - 1499), xét về văn chương thì “trên văn đàn xếp sau vua” đã được người đời sau -

Tiến sĩ Hà Nhâm Đại (1526 - ?) ca ngợi là “cây bút lớn, văn chương trùm đời”. Gần ba

trăm năm sau, Bùi Huy Bích (1744 - 1818) đậu Hoàng Giáp năm 1769, làm quan đến Hộ

bộ thị lang, khi đi qua vùng Yên Ninh, cũng có bài thơ ca ngợi cảnh đẹp Kinh Bắc - nơi

đã sinh ra người họ Thân thời Tao đàn Nhị thập bát tú. Thế kỷ XVI, Trạng Kế Giáp Hải

33

(Tiến sĩ đệ nhất danh khoa Mậu Tuất- 1538). Thơ của Định Sơn hầu Chu Văn Sầm

(1607) thế kỷ XVII như khẳng định địa danh lịch sử và phong cảnh đất Kinh Bắc:

Sách trời ghi Nam quốc,

Đất Kinh Bắc đã khoanh,

Đẹp thay huyện Phượng Nhỡn,

Có ngôi chùa Vĩnh Nghiêm,

Chồng bẩy tầng cây báu,

Tụ năm sắc mây lành.

Thi ca và hội họa dân gian là hai loại hình nghệ thuật truyền thống của người dân

Việt Nam. Nếu như trong thi ca người ta có thể nghe được, đọc được để từ đó tưởng

tượng, suy ngẫm và thưởng thức, thì trong hội họa người ta lại cảm nhận bằng thị giác

những hình ảnh đang hiện hữu và tồn tại trước mắt. Tranh Đông Hồ là một loại tranh dân

gian điển hình nhất của tranh dân gian Việt Nam, ở đó hội tụ những nét văn hóa truyền

thống đặc sắc của người Việt. Trong lịch sử, tranh dân gian Đông Hồ đã trải qua những

buớc thăng trầm khác nhau nhưng vẫn luôn là một hình ảnh quen thuộc và gần gũi của

nhân dân ta. Mặt khác, do nó chứa đựng những nét đặc thù của văn hóa Việt Nam nên

nhiều loại hình nghệ thuật khác đã sử dụng chất liệu và lấy cảm hứng từ tranh dân gian

Đông Hồ nhằm làm phong phú cho những sáng tác của mình, thi ca là một trong những

loại hình ấy. Ta bắt gặp làng Hồ hiện lên với những hình ảnh rất thơ mộng, với một

truyền thống văn hóa có lịch có lề, không gian làng quê với ao tắm mát, gốc đa, quán

chợ, đặc biệt là làng nghề làm tranh. Đó là một trong những ngôi làng truyền thống của

người Việt ở vùng đồng bằng sông Hồng.

Trong thi ca Việt Nam đã có nhiều nhà thơ, nhiều bài thơ lấy chất liệu từ

những bức tranh dân gian Đông Hồ để tạo lên những vần thơ tràn đầy hình ảnh và

lung linh sắc màu dân tộc. Hoàng Sỹ Khải người làng Lai Xá (Bắc Ninh) trong bài

Tứ thời khúc vịnh viết:

Chung Quỳ khéo vẽ nên hình

Bùa đào cấm quỷ phòng linh ngăn tà

Tranh vẽ gà cửa treo thiếp yểm

Dưới thềm lầu hoa điểm Thọ Dương.

Trên bức tranh Chung Quỳ và Bùa Đào là hình ảnh hai vị thần Thân Thư và Uất

Luật, dân gian quan niệm hai vị thần này có thể xua đuổi ma quỷ. Còn với bức tranh Gà

34

là hình ảnh quen thuộc của nhân dân và người ta quan niệm khi gà gáy là báo hiệu mặt

trời mọc lên, chiếu tia sáng đến vạn vật làm trỗi dậy sự sống, đồng thời xua đuổi đêm tối

u ám cùng những tà ma, quỷ quái để mang lại cuộc sống bình yên cho con người.

Nhà thơ Nguyễn Gia Thiều cũng lấy bức tranh dân gian Tố nữ là nguồn cảm

hứng miêu tả tâm trạng của các cung nữ trong cung cấm: Tranh biếng ngắm tranh đồ tố

nữ/Mắt buồn trông nên cửa nghiêm lâu (Cung oán ngâm khúc). Ở đây giữa người và

tranh có những nét tương đồng, sự so sánh tưởng như khập khiễng nhưng lại hợp lôgic

cuộc sống của những cung nữ xinh đẹp đang chết dần chết mòn trong những bức tường

vách quế, họ ngắm bức tranh tố nữ mà đồng cảm và buồn cho thân phận mình.

Nhà thơ trào phúng Tú Xương đã có những vần thơ về tết rất hay, đặc biệt ông đã

dùng hình ảnh của các bức tranh Đông Hồ một cách linh hoạt và tài tình hòa lẫn với âm

thanh của tràng pháo và tiếng gà làm hình trong thơ mình: Đì đẹt ngoài sân tràng pháo

chuột/ Om sòm trên vách bức tranh Gà. Câu thơ đối nhau từng từ và tạo lên bức tranh

buồn tẻ của ngày tết, cái tết lúc này trong con mắt của nhà thơ nó vẫn còn những âm

thanh quen thuộc nhưng đó chỉ là những tiếng đì đẹt và om sòm.

Thế kỷ XVIII, có Đoàn Thị Điểm, Nguyễn Gia Thiều, Phạm Thái, Nguyễn Du....

Và còn biết bao các nhân sĩ, danh sĩ khác - là người con đất Kinh Bắc cũng đều

có thơ văn về quê hương mình như: thời đại Lý - Trần có sư Vạn Hạnh, sư Huyền

Quang, Sái Thuận, Ngô Chi Lan, Nguyễn Giản Thanh, Hoàng Sĩ Khải, Tiến sĩ Đào Sư

Tích (1347 - 1396), Tiến sĩ Đoàn Xuân Lôi (thế kỷ XIV), Tiến sĩ Thân Nhân Tín (1439

- ?), Tiến sĩ Ngô Văn Cảnh (1442 - ?)... Còn nhiều nữa nữa: Tiến sĩ Nguyễn Đình Tuân

(1867 - 1941), Đầu xứ Nguyễn Khắc Nhu (1882 - 1930), Cao Bá Quát,... Cũng là dễ

hiểu bởi vùng đất, giang sơn như thế ắt sinh ra nhiều thi nhân kỳ tài ở nhiều thế kỷ khác

nhau. Khí thiêng sông núi hun đúc ra một Trần Thị Tần ở làng Bựu Sim, Tiên Du. Bà

Trần Thị Tần lại cảm thụ khí thiêng sông núi Hồng Lĩnh Lam Giang do làm vợ ba tể

tướng Nguyễn Nghiễm mới sinh ra được một đại thi hào cho giang sơn gấm vóc mọi

miền. Văn chương nết đất- đại thi hào Nguyễn Du nói thế, hẳn nhờ quê mẹ Kinh Bắc,

quê cha Hà Tĩnh.

Như vậy, nhìn một cách tổng quát thì một nghìn năm văn học Trung đại xuất hiện

nhiều gương mặt thi nhân, họ lấy vùng đất Kinh Bắc nghìn năm văn hiến này làm thi liệu

và thi đề cho các sáng tác của mình. Mặc dù chịu ảnh hưởng của yếu tố thi pháp cổ điển

mang tính quy phạm chặt chẽ, song sức sống của những vần thơ về nơi đây vẫn tiếp tục

35

toả sáng, ngân vang trên thi đàn. Các thi sĩ dù đương thời hay sau đó vẫn tiếp tục sử dụng

các thể thơ dân tộc, miêu tả những cảnh sắc thiên nhiên tiêu biểu của quê hương Kinh

Bắc. Đó cũng là sự trở về với cách cảm, cách nghĩ của chính người dân nơi đây, hoặc

thảng đôi khi là sự lôi cuốn của không gian văn hóa nơi đây đối với các nghệ sĩ.

Đến thế kỷ XX, dân tộc Việt Nam gánh chịu những ảnh hưởng rất to lớn từ nhiều

biến động của lịch sử dân tộc, đặc biệt là sự xâm lăng của thực dân, đế quốc và chế độ xã

hội phong kiến trong nước đang dần tan rã. Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, cách mạng

tháng Tám thành công, đất nước được hoàn toàn giải phóng đã có tác động to lớn đến

mọi mặt của đời sống con người và xã hội, làm cho nền kinh tế - chính trị, văn hoá - xã

hội của cả nước biến đổi rất sâu sắc, trong đó có văn học nghệ thuật.

Vào những năm 1930- 1945, văn học Việt Nam có sự gặp gỡ với văn học phương

Tây, làn gió văn hoá mới của phương Tây đã thổi vào đời sống văn học nước nhà mạnh

mẽ, tạo ra một luồng sinh khí với sức sống mới, gây lên những chấn động thành trì vững

chãi của nền thơ ca cổ điển vẫn ngự trị từ bao đời nay. Văn đàn Việt Nam lúc này xuất

hiện cùng một lúc nhiều dòng văn học: văn học lãng mạn, văn học hiện thực, văn học

cách mạng... trong đó có dòng văn học viết về làng quê.

Cảm hứng về làng quê Việt Nam (trong đó có xứ Bắc) đối với các thi nhân là

không thể phủ nhận. Ta vẫn thấy có một không gian cụ thể hơn trong sáng tác của nhiều

văn nhân đương thời, ấy là không gian văn hoá Kinh Bắc. Lấy cảm hứng từ một miền

quê Kinh Bắc giàu truyền thống văn hoá, văn hiến của dân tộc cho các sáng tác của

mình, các thi nhân coi đó như một sự trở về với cội nguồn văn hoá Mẹ. Đất và người

Kinh Bắc luôn là một nguồn thi liệu không bao giờ vơi cạn trong kho tàng văn học từ

truyền thống đến hiện đại của dân tộc. Tiêu biểu hơn cả là Nguyễn Bính, Anh Thơ, Bàng

Bá Lân, Đoàn Văn Cừ... Họ đã có những đóng góp không nhỏ cho đề tài thơ đồng quê

xứ Bắc. So với nhiều miền quê khác trên cả nước thì đồng quê xứ Bắc đã gây cảm hứng

cho nhiều nhà thơ. Nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm theo một cách riêng. Chứng tỏ khi viết

về không gian văn hoá làng quê, các thi nhân đã được gợi hứng từ vùng Kinh Bắc trù

mật về nền văn hoá, văn hiến lâu đời. Nơi đây còn lưu giữ được những hồn cốt của cảnh

quê Việt Nam. Điều đó chứng tỏ Kinh Bắc là vùng thẩm mỹ khá bắt mắt đối với các thi

nhân đương thời....

Bàng Bá Lân hoài niệm quá khứ của làng quê khi vào dịp tết, ông viết câu thơ:

Tết nhớ về bánh chưng xanh/ Nhớ tràng pháo chuột, nhớ tranh Lợn, Gà. Tết đến người

36

ta lo toan mọi thứ và hoài niệm về những gì đã qua, nhưng nhà thơ luôn nhớ về những

hình ảnh thân quen mang tính chất biểu tượng trong ngày tết của người dân Việt Nam đó

là bánh chưng xanh truyền thống, tràng pháo chuột, tranh dân gian lợn gà ở Đông Hồ.

Ông cũng kịp dựng cho mình một Cổng làng để còn mãi với thời gian. Qua đó thi sĩ đã

làm trọn yêu cầu “Thi trung hữu hoạ” khi vẽ liên tiếp những bức tranh tứ bình với nhiều

màu sắc khác nhau: Chiều hôm đón mát cổng làng/ Gió hiu hiu đẩy mây vàng êm trôi/

Đồng quê quanh quất bao người về thôn/ Sáng hồng lơ lửng mây son/ Mặt trời thức giấc

véo von chim chào/ Cổng làng rộng mở ồn ào/ Nông phu lững thững đi vào nắng mai...

Đoàn Văn Cừ trong bài Chợ tết đã miêu tả hình ảnh lũ trẻ thôn quê đang say sưa

ngắm bức tranh rực rỡ đầy màu sắc: Lũ trẻ con mải ngắm bức tranh Gà/ Quên cả chị bên

đường đang đứng gọi. Ở đây, bức tranh Gà đã đưa lũ trẻ đến với một trạng thái tâm lý

háo hức và say mê, nó đã thu hút được sự tập trung cao độ của bọn trẻ.

Trong thơ của Nữ sĩ Anh Thơ cũng miêu tả một cách khá sắc nét bức tranh quê

Kinh Bắc với những cảnh sắc êm đềm, yên ả với mưa bụi rắc nhẹ trên triền đê, với hoa

xoan tím rụng làm ngây ngất tâm hồn thi sĩ: Mưa đổ bụi êm êm trên bến vắng/ Đò biếng

lười nằm mặc nước sông trôi…/ Quán tranh đứng im lìm trong vắng lặng/ Bên chòm

xoan hoa tím rụng tơi bời… (Chiều xuân).

Nhà thơ Lê Đạt cũng không quên ghi lại khoảnh khắc đáng nhớ của mình trong

cảm xúc Cha tôi: Đất quê cha tôi- đất quê Đề Thám/ Rừng rậm sông sâu/ Con gái cũng

theo đòi nghề võ…

Có thể nói, ai đã một lần về quê Kinh Bắc đều cảm nhận được ngay chất thơ của

một xứ sở cổ kính bậc nhất đất nước, chất đầy phù sa văn hoá, văn minh ngay từ những

chiếc cổng làng, những hình núi, dáng sông, những đình, đền, chùa, miếu và dày đặc hệ

thống các lăng mộ cổ kính... Trong đáy sâu tâm thức, người dân nơi đây luôn mến yêu và

hãnh diện về cái nôi, cái gốc và cái hồn dân tộc của mình.

Như vậy, tiếp nối và kế thừa dòng thơ truyền thống - từ các thế kỷ trước, sang đầu

thế kỷ XX dân tộc Việt Nam cũng đã tạo nên lớp nhà văn, nhà thơ đầu tiên tiêu biểu

trước cách mạng tháng Tám năm 1945, trong đó có một lớp người nghệ sĩ- thi sĩ của quê

hương Kinh Bắc.

Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công đã mở ra cho lịch sử dân tộc một

thời đại mới, một kỷ nguyên mới của nền độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, cũng là

đang mở ra bao niềm hy vọng vào một tương lai tươi sáng rạng ngời của thời đại đấu

37

tranh giành độc lập và giải phóng nước nhà. Thơ văn viết về Kinh Bắc thời kỳ này cũng

hiện hữu đáng kể trong tiến trình thơ Việt Nam với những vần thơ rực lửa chiến tranh

của nhà thơ Hoàng Cầm trong Bên kia Sông Đuống... Bên cạnh đó là những vần thơ viết

về làng quê với những giá trị văn hoá truyền thống tiếp tục phát triển trên một giọng

điệu, cảm hứng mới. Đó là sự đóng góp đáng kể của Nữ sĩ Anh Thơ với trong việc dựng

lại bức tranh quê Kinh Bắc trong chiều hè rực lửa khi bỗng nghe Tiếng chim tu hú:

Nắng hè hoa gạo đỏ

Nước sông Thương trôi nhanh

Trên bờ đê bước rảo

Gió Nam giỡn lá cành

Bỗng tiếng chim tu hú

Đưa từ vườn vải xa

Quả bắt đầu chín lự

Ngọt như nỗi nhớ nhà!.

Dù ở đâu trong bóng khói mù sương nơi đảo xa xôi hay thành phố ngang dọc

nhà cao tầng của các đô thị, ai cũng có một vùng quê để đi - về, để thương nhớ. Nhà

thơ Lữ Huy Nguyên cũng có một vùng quê ven dòng sông Đuống lặng lẽ chảy xuôi,

bởi nơi ấy có:

Dọc mùng ăn với canh chua

Trám đen thơm ngậy mẹ mua chợ Hồ

Cha tôi sức vóc học trò

Ba lưng cơm đã kêu no đi nằm… (Tôi trở về thăm).

Ngày xưa, trong Truyện Kiều, Nguyễn Du đã từng Giật mình mình lại thương

mình…; Tú Xương giật mình cạnh bờ Sông Lấp, thì giờ đây Nguyễn Duy giật mình

trước Ánh trăng, còn Trần Ninh Hồ cũng mang trọn cảm giác ấy trong Đêm chợt thức

giấc ở trên đất Kinh Bắc: Nào ai đánh thức mình đâu/ Hay là trong dạ có câu gọi thầm/

Nhớ khi bom phá ì ầm/ Vẫn thể như ngủ khi nằm trong nôi/ Hay là ai đó gọi tôi/ Một

tiếng gọi chẳng thành lời bao đêm?

Đặc biệt nhà thơ Hoàng Cầm - một người sinh ra và lớn lên trên vùng đất làng

tranh, ông cảm nhận được giá trị nghệ thuật sâu sắc trên những bức tranh dân gian Đông

Hồ, đó chính là hồn của đất nước, là hình bóng quê hương. Trong bài Bên kia sông

Đuống ông viết: Bên kia sông Đuống/ Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/ Tranh Đông

38

Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp.... Nhà thơ đã nêu bật

lên được hình ảnh trong tranh là hình ảnh của đất nước, bởi tranh dân gian Đông Hồ đã

hội tụ trên đó những sắc màu cảnh quan, sắc màu văn hóa của dân tộc và tâm tư nguyện

vọng của nhân dân.

Tiếp nối hành trình những nhà thơ trong chín năm kháng chiến chống Pháp, hơn

20 năm đánh Mỹ. Thế hệ thứ tư, từ sau năm 1975 khi đất nước hoà bình thống nhất đến

nay lại tiếp bước truyền thống cha anh, văn và người đất Kinh Bắc đã tạo được diện mạo

riêng cho phong trào thơ văn Kinh Bắc. Ta có thể kể đến những tác giả thời kỳ này như:

Anh Vũ, Duy Phi, Trần Ninh Hồ... với những tác phẩm nói về những làng quê kháng

chiến, bao bọc trong đó những con người cần lao, giàu đức hy sinh, thắm tình đồng chí,

đồng bào và luôn sẵn sàng hy sinh vì tổ quốc thân yêu. Thiên nhiên, văn hoá, cuộc sống

con người được phản ánh chân thực, sinh động, phong phú trong cả thơ và văn.

Như vậy có thể khẳng định, thơ văn Kinh Bắc thế kỷ XX là một mốc son khẳng

định một nền văn học đã có truyền thống lâu đời, góp phần quan trọng cho nền văn học

nước nhà nói chung và thơ nói riêng. Chúng ta có thể kể đến một số tác giả như: Tương

Phố, Bàng Bá Lân, Nguyên Hồng, Anh Thơ, Hoàng Cầm, Bàng Sĩ Nguyên, Ngô Đạt,

Anh Vũ, Duy Phi... Tất cả họ đều có những đóng góp không nhỏ trong tiến trình phát

triển của nền văn học Kinh Bắc. Đó là một dòng chảy liên tục, không hề bị đứt đoạn qua

các thời kỳ, điều đó tạo nên những dấu ấn văn hoá riêng biệt cho vùng quê văn hiến này,

đồng thời cũng góp phần quan trọng cho nền văn học nước nhà nói chung, trên lĩnh vực

thơ ca nói riêng.

Kinh Bắc luôn là nơi lưu giữ những phong tục, nét văn hoá hết sức tinh tế của dân

tộc. Quê hương ấy hiện lên trong thơ văn thật quen thuộc, gần gũi, thương yêu và lay

động tâm hồn con người biết bao. Một khung cảnh yên ả trên triền đê, bờ sông, sân đình

hoặc trên cánh đồng chiều, thanh bình gợi bao yêu thương, trìu mến. Nó làm day dứt tâm

hồn mỗi người con nơi đây khi phải đi xa. Nó lưu giữ tuổi thơ trong sáng, thơ mộng với

bao kỷ niệm đẹp đẽ một thời thơ ấu của con người. Dù trong khói lửa bạo tàn của bom

đạn, cuộc chiến tranh chống Pháp, chống Mỹ có ác liệt đến đâu thì không gian văn hoá

Kinh Bắc vẫn hiện lên những vẻ đẹp như nó vốn có tự bao đời. Con người nơi đây vẫn

hết mình phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, và vẫn sống đến tận cùng những thú

vui nơi đồng quê yêu dấu. Điều đó dẫn đến niềm tự hào vô biên.

39

Không chỉ người Kinh Bắc mới tự hào nói về mình, mà quê hương của những làn

điệu quan họ này còn là miền đất hứa đối với nhiều văn nhân trong cả nước. Thơ văn viết

về Kinh Bắc thể hiện tình cảm sâu đậm về vùng đất, con người và cuộc sống nơi đây.

Các tác giả có dịp sống, chiến đấu, công tác hoặc chỉ ghé thăm một đôi lần cũng có

những vần thơ hết sức tình cảm, những kỷ niệm thiêng liêng... Ta thấy sự có mặt của

nhiều nhà văn, nhà thơ có tên tuổi đã viết về Kinh Bắc như: Nguyễn Phan Hách, Lữ Huy

Nguyên, Ngô Tất Tố (Bắc Ninh), Nguyễn Bính, Nguyễn Kiên (Hà Tây), Nguyễn Tuân

(Hà Nội), Kim Lân (Bắc Ninh), Trúc Thông (Hà Nam), Thôi Hữu (Thanh Hoá), Võ Văn

Trực (Nghệ An), Tố Hữu, Chế Lan Viên, Nguyễn Huy Thiệp, Trần Nhật Minh, Nguyễn

Khắc Trường, Quang Dũng, Nông Quốc Chấn, Nguyễn Đình Thi, Nguyễn Duy, Hữu

Thỉnh, Nguyễn Trác, Hoàng Nhuận Cầm,… là những gương mặt đã góp phần xây dựng

cho văn học Kinh Bắc ở thế kỷ XX những tác phẩm tâm đắc về vùng đất này. Xuân

Quỳnh là một tiêu biểu với bài thơ Nguồn gốc từ ngữ: Tiếng yêu anh nói cùng em/ Tiếng

ngàn năm của những đêm hội mùa/ Tiếng người xưa nói với nhau/ Trong câu Quan họ

qua cầu gió bay/ Người về cởi áo lại đây/ Để thương nhớ biết ngày nào quên/ Núi Thiên

Thai mảnh trăng liềm/ Sông Cầu nước chảy những đêm đợi chờ/ Áo tứ thân, tóc đuôi gà/

Tiếng yêu ông nói cùng bà ngày xưa...

Ngày nay, cùng với sự bùng nổ thông tin đa chiều, sự phát triển kinh tế, văn hóa

với tốc độ mau lẹ ở các đô thị, làng quê Kinh Bắc cũng có nhiều sự thay đổi, tự hoàn

thiện và đi lên trong nền kinh tế xã hội của cả nước. Tín ngưỡng, văn hoá, cảnh quan

không còn là bầu trời riêng của làng xã như xưa nữa mà trở thành một hệ thống mở.

Làng quê Kinh Bắc có nhiều điểm khởi sắc, mỗi ngày một giàu có, sang trọng và đẹp đẽ

hơn, đa dạng hơn trước. Tuy nhiên những gì thuộc về nét đẹp truyền thống thì vẫn là bản

sắc văn hoá, văn hiến như tự thuở nào. Tự hào về truyền thống văn hiến của mình, Kinh

Bắc luôn là nguồn cảm hứng không bao giờ vơi cạn cho các sáng tác văn học nghệ thuật

của văn nhân cả nước.

1.3.3. Vùng văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của vùng thẩm mỹ trong thơ Hoàng Cầm

Mỗi nghệ sĩ luôn tự tìm cho mình một vùng thẩm mỹ riêng để gắn bó, khai thác

và làm giàu thêm cho thế giới nghệ thuật của mình. Nói cách khác, cánh diều thơ ca của

họ dù có bay cao đến đâu cũng đều phải bám vào đất mẹ bằng một sợi dây, dù mong

manh. Cánh diều thi ca của Hoàng Cầm được bay lên từ chính Kinh Bắc - vùng đất đã

sinh thành và nuôi dưỡng tâm hồn, cốt cách ông.

40

Một số nhà nghiên cứu cho rằng âm hưởng chủ đạo trong toàn bộ thi phẩm

Hoàng Cầm bắt nguồn từ yếu tố nữ tính. Một phần do ông thừa hưởng từ người mẹ (vốn

là liền chị quan họ) hoặc sự kết nối giữa cha và mẹ trong sự ra đời của ông, hay mối tình

thơ dại với Chị, với Em... đã tạo nên sự khắc khoải nuối tiếc trong thơ ông dai dẳng như

một tiền kiếp định mệnh. Hoặc để dịu lòng những ngày tháng cam go của ngộ nhận lầm

lẫn, mà ông đắm vào hoài niệm một không gian đằm thắm quê hương, một thời gian

đằng đẵng yêu thương? Phải chăng là thế, khi xứ Kinh Bắc hiện ra an ủi ông, nâng đỡ

ông với tất cả chiều kích của hội hè đình đám, chùa chiền, lăng tẩm với Sương Cầu Lim,

Khói Yên Thế, với Trai đời Trần, Gái hậu Lê, Nước sông Thương... và biến dạng từ vô

thức tiềm thức của ảo mê trong “Lá diêu bông”, “Cầu bà Sấm”, “Bến cô Mưa”, “Cỏ

Bồng Thi”. Cảnh sắc thực và mộng xoắn xuýt hòa trộn được nhuận sắc dưới ánh sáng kỳ

ảo như những bức tranh siêu thực mà hồn vía câu chữ đầy ắp sắc thái biểu cảm. Khả

năng mã hóa ngôn từ của Hoàng Cầm đạt tới mức vi diệu trong dòng chảy - dòng thời

gian. Ba con sông: sông Thương, sông Cầu, sông Đuống tạo nên một vùng trù phú màu

mỡ phù sa, tấp nập trên bến dưới thuyền, hun đúc tính cách kiên gan của người Việt

chống ngoại xâm, một dân tộc hết mực tài hoa phong nhã đã phóng dọi vào thơ Hoàng

Cầm đắm đuối mộng mị là vậy. Con người, thiên nhiên, văn hóa, phong tục Kinh Bắc ấy

là một nguồn năng lượng thẩm mỹ lớn cho sáng tác văn học nghệ thuật.

Tất cả các giá trị văn hoá Kinh Bắc ấy đều đã đi vào thơ văn của các nghệ sĩ

người Kinh Bắc nói chung, đặc biệt trong sáng tác thơ văn của Hoàng Cầm nói riêng một

cách tự nhiên, sống động. Ông lấy đó làm khởi nguồn, làm cội nguồn cho đối tượng

thẩm mỹ để chưng cất lên những hình tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa, mang tính biểu

tượng văn hoá cao trong các sáng tác thơ của mình. Trong ông có một sự cộng hưởng

mật thiết giữa thế giới văn hoá Kinh Bắc với hồn thơ để làm nên một gương mặt thi

nhân, một người thơ Kinh Bắc quen mà lạ, với một phong cách và sắc điệu thơ riêng, chỉ

ở ông mới có. Cũng có thể khẳng định, Hoàng Cầm là ngôi sao lạ trên thi đàn Việt Nam

hiện đại.

Vùng văn hóa Kinh Bắc tác động đến rất nhiều nhà văn, nhà thơ như đã nói ở

trên. Nhưng có thể nói rằng, cái hồn cốt của Kinh Bắc chỉ thực sự kết tinh, kết trái và

thăng hoa trong những thi phẩm của Hoàng Cầm. Nhà thơ đã làm được một công việc vô

cùng quan trọng và có ý nghĩa, đó là đặt được dấu ấn riêng biệt trên con đường thơ ca khi

viết về vùng đất này. Ông đã rất tinh tế khi biểu lộ cái “tình”, cái “hồn” của mình qua

41

thiên nhiên, văn hoá, phong tục và tâm hồn con người nơi đây. Ông luôn gắn bó chặt chẽ

với từng nét văn hóa quê hương quan họ, do vậy, mỗi bài thơ hay về Kinh Bắc của tác

giả đều chứa đựng “mã” nghệ thuật riêng. Giải mã thơ Hoàng Cầm, do đó, thực chất là

quá trình phát hiện các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp và hầu như vô tận giữa những

cái biểu đạt/ được biểu đạt... mà phát hiện quan hệ là phát hiện tính hệ thống của một bài

thơ. Bài thơ, hay bất cứ một tác phẩm nghệ thuật nào cũng là một hệ thống. Tính hệ

thống được biểu hiện qua cấu trúc. Giải mã thơ Hoàng Cầm, bởi vậy, nghĩ cho cùng,

cũng là khám phá ra cấu trúc cả về nội dung và hình thức nghệ thuật mang tính thẩm mỹ

của nó. Cái cấu trúc ấy, là một cái gì khép kín, những “cái gì” ấy chính là những mã tín

hiệu thẩm mỹ mang tính nghệ thuật độc đáo của nhà thơ. Lý giải điều đó chính là lý giải

cội nguồn văn hoá Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm. Từ đó khẳng định văn hóa Kinh Bắc

chính là khởi nguồn, là cội nguồn của vùng thẩm mỹ độc đáo trong thơ ông. Bởi Hoàng

Cầm có những ảnh hưởng văn hoá rất lớn từ người mẹ Kinh Bắc, hơn nữa tuổi thơ

Hoàng Cầm đã sống và được thấm đẫm trong vùng thẩm mỹ đó và nó tạo nên một quy

luật: bình thường cuộc đời của con người ta sẽ tiến lên phía trước, nhưng khi vấp váp

điều gì người ta thường hay dừng lại để nhìn lại, nhìn về phía sau để hồi tưởng, để chiêm

nghiệm. Về Kinh Bắc chính là sự hồi tưởng, mơ ước về quê hương Kinh Bắc. Tiềm thức

trong ông được trỗi dậy. Hồn thơ được thăng hoa và trương nở thành những hình tượng

nghệ thuật đa tầng nghĩa. Các tập thơ Mưa Thuận Thành, Lá Diêu bông... cũng mang ý

nghĩa tương đồng. Do đó, viết về Kinh Bắc là nhà thơ viết bằng cả trái tim và tình yêu

quê hương, đất nước của mình, một tình yêu cháy bỏng, thiết tha. Phải chăng xuất phát từ

tình yêu đó cộng với tài thơ ông mà bài thơ nào về Kinh Bắc cũng hay, cũng ám ảnh dữ

dội, day dứt tâm hồn bạn đọc! Đó chính là cái phong cách đặc thù, “cái thiêng”, cái “ma

lực” riêng của hồn thơ Hoàng Cầm?

Viết về Kinh Bắc, nhà thơ đã góp phần tạo dựng, tỏa sáng được một không gian

văn hóa, cốt cách, tâm hồn con người Kinh Bắc từ trong văn hóa dân gian với những cổ

tích, thần thoại, truyền thuyết và cả thời kỳ hiện đại cũng đều hiện về trong thơ ông hết

sức chân thực, sống động; hình ảnh những mẹ già, cụ già phơ phơ tóc trắng, những cô

gái trong sáng, ngây thơ với nụ cười như mùa thu tỏa nắng, những em bé trẻ thơ sột soạt

quần nâu... như một bức tranh nhiều gam màu ghim chặt trong bến quê Hoàng Cầm -

bến quê Kinh Bắc thơ ông.

42

Thiên nhiên Kinh Bắc cũng không kém phần sống động, hữu tình với dòng sông

Đuống nghiêng nghiêng, dòng Tiêu Tương, dòng sông Thương thơ mộng bát ngát, dòng

sông Cầu lơ thơ nước chảy còn mãi ngân vang khúc khải hoàn Nam Quốc sơn hà;

những núi, đồi ngút ngàn cây xanh, đọng đầy truyền thuyết, huyền tích về một thuở hồng

hoang còn in hằn vết liêu trai... Viết về văn hóa Kinh Bắc, Hoàng Cầm hướng tầm nhìn

sâu rộng có tính lịch sử về thiên nhiên và những phong tục, tập quán, thân phận con

người, tính cách nhân vật, ông đã huy động vào đấy tâm hồn đa cảm, dồi dào ấn tượng,

tươi mươi, mướt mát mới trong sự tập trung bút lực cao độ. Nhìn về những con người

lam lũ, đặc biệt là hình ảnh những bà mẹ nghèo, tần tảo, chịu đựng bao gió sương che

chở cho các con trong các cuộc chiến tranh để viết, qua đó Hoàng Cầm như sẻ chia cùng

họ những đắng cay, ngọt bùi của kiếp người. Trong Bên kia sông Đuống, tác giả viết về

con người cụ thể ấy của một vùng đất: Mẹ già nua còm cõi gánh hàng rong/ Bước cao

thấp bên bờ tre hun hút/ Con cò trắng bay vùn vụt/ Lướt ngang dòng sông Đuồng về

đâu?/… Mẹ ta lòng đói dạ sầu/ Đường trơn mưa lạnh, mái đầu bạc phơ… mà lịch sử

hình thành về con người, làng mạc của vùng đất ấy không mấy xa lạ với chúng ta hôm

nay. Tại những làng quê Kinh Bắc đầy khắc nghiệt khi chiến tranh tàn phá với Lũ quỷ

mắt xanh rùng rợn/ Khua giày đinh đạp gãy quán gày teo vẫn hiện lên rạng ngời ánh

mắt và tiếng cười tươi sáng, giòn tan như mùa thu tỏa nắng của các cô gái thôn nữ,

cùng hình ảnh của những ngôi chùa với hội hè, đình đám, tiếng hát quê hương cất lên

sang sảng, véo von của văn hóa quê hương như càng khẳng định các giá trị văn hóa

một vùng thẩm mỹ đặc biệt, độc đáo để nhà thơ Hoàng Cầm tạo dựng lên những thi

liệu, thi đề cho lâu đài thi ca của mình. Nhà thơ thấu cảm với những hoàn cảnh, những

tâm trạng của những con người, những di tích lịch sử, văn hóa trên quê hương mình mà

xót xa, cay đắng như rụng rời chân tay trước cảnh bị giặc tàn phá. Từ những cuộc đời,

những con người sống thác cùng đất đai và văn hóa, phong tục quê hương và lặng lẽ

cống hiến cho đời, Hoàng Cầm đã tiếp tục thổi bùng lên ngọn lửa yêu thương hết mực

tình nghĩa, trung thành của mình.

Như vậy ta có thể thấy cây bút Hoàng Cầm đã cắt nghĩa cho chúng ta hiểu vì sao

trong vùng văn hóa Kinh Bắc với những con người lam lũ vất vả, chịu đựng biết bao mất

mát, hy sinh mà vẫn cống hiến hết mình, dốc hết tâm lực và trí tuệ để bảo vệ cuộc sống,

hạnh phúc của cộng đồng, trước bao biến cố của lịch sử mà vẫn lịch lãm cất cao tiếng hát

43

quan họ để đi cùng bạn năm châu? Đấy chính là kinh nghiệm sống của một con người

văn hóa? Việc đào sâu suy nghĩ, nhận thức về con người, thiên nhiên và những lề lối

phong tục ở một vùng đất đã làm cho thế giới hình tượng nghệ thuật trong thơ Hoàng

Cầm trở nên tự do, độc lập một cách tương đối (như Bakhtin quan niệm). Thế giới hình

tượng nghệ thuật ấy không chỉ phát tiếng nói của tác giả mà quan trọng hơn, đó là một sự

tự ý thức về bản thân đã được miêu tả thực sự, nó hành động, trải nghiệm, suy nghĩ với

chính những gì tự có. Điều này giải thích rằng, những con người và hình tượng nghệ

thuật trong tác phẩm của nhà thơ không chấp nhận một lối sống khác, một hình thức đời

sống khác, một sự trùng hợp khác ngoài quỹ đạo vùng thẩm mỹ của nó.

Tất cả những điều đó đã tạo nên một suối nguồn cảm hứng mãnh liệt trong thơ

Hoàng Cầm, qua đó nhà thơ tạo nên hệ thống hình ảnh sinh động, hình tượng nghệ thuật

đa dạng, phong phú, giàu giá trị biểu cảm, biểu vật và giàu giá trị vùng văn hóa, vùng

thẩm mỹ đích thực thông qua hệ thống ngôn ngữ và giọng điệu riêng biệt của nhà thơ đất

Kinh Bắc.

44

Chương 2

THẾ GIỚI BIỂU TƯỢNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM

2.1. Quan niệm về biểu tượng và biểu tượng thẩm mỹ

2.1.1. Quan niệm về biểu tượng

Trước đây, người ta cho biểu tượng là những hình ảnh do trí tưởng tượng bịa đặt

ra, như hình ảnh con rồng, vì thế, nó ít có giá trị; nhưng ngày nay những huyền thoại,

thần thoại, biểu tượng được sử dụng để giải nghĩa cuộc sống của cả một dân tộc.

Vậy biểu tượng là gì? Khi tìm hiểu ý nghĩa của biểu tượng, chúng ta không thể

hạn hẹp nó trong một định nghĩa được, biểu tượng được diễn tả bằng từ ngữ, nhưng từ

ngữ chỉ diễn tả những hình ảnh, không diễn đạt được tất cả ý nghĩa của biểu tượng, như

hình ảnh hoa sen: hoa thơm, không gì đẹp bằng sen, lá xanh, bông trắng, nhị vàng v.v...

Còn biểu tượng hoa sen: biểu tượng của Phật giáo, tòa sen: bản thể đức Phật, giác ngộ

(hoa sen nghìn cánh), thanh khiết như sen trắng, sen xanh; còn sen vàng thì nghĩa lại đĩ

thõa (Sen vàng lãng đãng như gần như xa).

Như thế, tìm hiểu một biểu tượng là trình bày những kích thích hơn là những

kiến thức, đó là phương pháp của Gaston Bachelard- triết gia người Pháp (1884- 1962).

Trước một biểu tượng như lửa, nước, khí v.v…, ông ghi lại những cảm nhận cá nhân bắt

nguồn từ toàn bộ con người (lửa: nấu bếp, sưởi nóng, đốt nhà, bắn súng…), từ cái di sản

thừa kế của cả một dân tộc (như nước: ruộng nước, lúa nước v.v..) hoặc cả một thời đại

(lửa: lửa tình yêu, thánh thần). Nếu hiểu như thế thì mọi vật đều có thể mang giá trị biểu

tượng: khi con nít kể chuyện thì một cái gối trở thành biểu tượng một cô tiên, một con

cọp hoặc một yêu quái. Nghệ thuật của trò chơi lớn là dùng những cục đất, cành cây

v.v... để có giá trị biểu tượng. Tuy nhiên, cũng cần phân biệt giữa biểu tượng với biểu

hiệu (như lá quốc kỳ); biểu tượng văn hóa với biểu tượng toán học; biểu tượng với huyền

thoại, thần thoại.

Tôn giáo ưa dùng các biểu tượng vì chúng đưa chúng ta sang một thế giới khác,

sống động hơn, cao siêu hơn, vượt ra ngoài thế giới khả giác, trong đó cái phần vô hình

được nhìn thấy một cách huyền bí: Phật Quan Âm ngự tòa sen, tay cầm bông sen chứ

không phải là hoa huệ. Và khi một nền văn hóa bị các nền văn hóa khác xâm nhập thì

biểu tượng trở thành đa chiều và có khả năng thâm nhập lẫn nhau như: Tấm Cám với

Cinderella, cái mõ hình con cá nơi các giáo xứ v.v…

45

Các nhà triết học quan niệm biểu tượng là hình thức cao nhất của quá trình nhận

thức cảm tính là bước chuyển biến quan trọng từ nhận thức cảm tính sang nhận thức lý

tính… Biểu tượng là hình ảnh khách thể đã được tri giác lưu lại trong bộ óc con người,

và do một tác động nào đấy được tái hiện, nhớ lại.

Trong khi đó các nhà tâm lý học lại coi biểu tượng là hiện tượng tâm sinh lí do có

một sự việc ở ngoại giới tác động vào giác quan khiến ý thức nhận biết được hình ảnh

của vật kích thích trở lại trí tuệ hay cảm giác. Trong quá trình nhận thức về thế giới, biểu

tượng là hình thức cao nhất của giai đoạn nhận thức cảm tính của con người. Cùng với

cảm giác và tri giác, biểu tượng đã tạo ra những tiền đề cơ sở cho nhận thức lý tính.

Đồng thời nó cũng góp phần giúp con người nhận thức được những thuộc tính: bản chất,

tính quy luật của sự vật, đem lại nhiều hiểu biết sâu sắc về sự vật. Bởi lẽ biểu tượng luôn

gắn liền với các khái niệm với những phán đoán, suy lí, đặc biệt là trí tưởng tượng.

Theo các nhà triết học văn hóa, biểu tượng là hình ảnh cảm tính vật chất của hiện

thực khách quan và mang ý nghĩa tượng trưng khái quát, gồm hai bình diện là cái biểu

đạt và cái được biểu đạt. Biểu tượng văn hóa chính là sự vật, hiện tượng nào đó được sử

dụng nhiều trong sinh hoạt văn hóa và dần dần được nâng cấp lên thành hình ảnh có ý

nghĩa biểu trưng nhằm nói lên ý nghĩa tinh thần ngoài ý nghĩa vật chất. Biểu tượng văn

hóa mang chiều sâu cảm xúc, tính dân tộc, tính thời đại.

Các nhà ngôn ngữ học thì dựa trên sự phân tích bản chất tín hiệu của ngôn ngữ,

coi biểu tượng cũng là một loại tín hiệu ngôn ngữ. Nhưng giữa biểu tượng và tín hiệu

ngôn ngữ nói chung có sự khác nhau cơ bản. Cả tín hiệu ngôn ngữ và biểu tượng đều có

hai bình diện là cái biểu đạt và cái được biểu đạt. Mối quan hệ giữa hai bình diện này, đối

với hệ thống tín hiệu ngôn ngữ nói chung là không có lí do, còn với biểu tượng, mối

quan hệ ấy là có lý do và cái được biểu đạt luôn luôn lớn hơn cái biểu đạt. Về chức năng,

tín hiệu ngôn ngữ thực hiện chức năng giao tiếp thuần túy, hướng vào đối tượng giao

tiếp, còn biểu tượng thực hiện chức năng nhận thức và biểu hiện đối tượng, chức năng đó

không chỉ hướng vào đối tượng mà còn hướng vào bản thể đối tượng. Trong văn học,

biểu tượng được nhìn nhận ở hai mặt. Thứ nhất, biểu tượng là hình ảnh cảm tính về hiện

thực khách quan. Thứ hai, biểu tượng không chỉ mang nghĩa đen, nghĩa biểu vật, nghĩa

miêu tả… mà nói đến biểu tượng là nói đến hiện tượng chuyển nghĩa, nghĩa bóng, nghĩa

biểu cảm.

46

Nói tóm lại, biểu tượng là một kích thích, là một gợi mở giúp chúng ta vượt qua

dáng vẻ bên ngoài để đi tìm ý nghĩa ẩn kín, thiêng liêng và đạt tới cõi siêu thực.

2.1.2. Quan niệm về biểu tượng thẩm mỹ

Khi nói tới biểu tượng thẩm mỹ là chủ yếu nói đến các biểu tượng trong văn học

nghệ thuật, đó chính là những hình ảnh về các hiện tượng của thế giới tự nhiên và con

người đã được nhà nghệ sỹ sáng tạo nên. Biểu tượng là “hình thức của nhận thức cao

hơn cảm giác cho ta hình ảnh của sự vật còn lưu giữ lại trong đầu óc sau khi tác động của

sự vật vào giác quan đã chấm dứt” [106, tr.67]. Trong văn học nghệ thuật, biểu tượng

không chỉ đóng vai trò phản ánh những dấu hiệu đặc trưng của sự vật, hiện tượng, một

cách khái quát, tiêu biểu nhất, mà còn mang tính cụ thể nhất định. Biểu tượng còn là sự

phản ánh khái quát hơn và trừu tượng hơn những hiện tượng, sự vật trong đời sống. Nó

là hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, song ngược lại, chính hiện thực khách

quan lại là điều kiện hàng đầu để tạo nên biểu tượng, do đó “Biểu tượng cùng với cảm

giác và tri giác tạo nên nhận thức cảm tính, hay theo thuật ngữ của Paplốp, tạo nên hệ

thống tín hiệu thứ nhất của hiện thực” [111, tr.50].

Theo Từ điển Petit Larousse, biểu tượng (symbole) là “một dấu hiệu, hình ảnh,

con vật hay đồ vật, biểu thị một điều trừu tượng; nó là hình ảnh cụ thể của một sự vật

hay một điều gì đó” (dẫn theo Đỗ Lai Thúy) [132, tr.108]. Trong Từ ký hiệu học đến

thi pháp học, Hoàng Trinh định nghĩa: “Biểu tượng là một sự vật mang tính thông

điệp, được dùng để chỉ một cái bên ngoài theo một quan hệ ước lệ, tức võ đoán (không

tất yếu) giữa sự vật trong thông điệp và những sự vật bên ngoài” [143, tr.82]. Đỗ Lai

Thuý thì cho rằng “Biểu tượng, theo nghĩa rộng, là một thứ xác định toàn bộ hiện thực

trừu tượng, nằm ngoài tầm với của các giác quan trong hình thức một hình ảnh hay một

vật thể” [132, tr.108].

Biểu tượng cũng là một phương tiện tạo hình và biểu đạt có tính gợi cảm, liên

tưởng, đa nghĩa, mang giá trị nghệ thuật cao. Biểu tượng là hình ảnh cụ thể - trong văn

học - chúng là một thi liệu được thi nhân sử dụng, tái hiện nhiều lần. Đặc biệt, ý đồ thẩm

mỹ luôn vượt ra ngoài giá trị biểu đạt. Biểu tượng- hay tượng trưng là phép chuyển nghĩa

dựa vào “những ẩn dụ tu từ, hoán dụ tu từ dùng nhiều lần, dùng phổ biến, trở nên quen

thuộc với mọi người, đến mức hễ nhắc đến nó ai cũng hiểu thống nhất nội dung biểu hiện

của nó” [70, tr.75]. Theo Từ điển văn hóa thế giới: “Giá trị của biểu tượng được xác

định chính trong sự chuyển vượt từ cái đã biết sang cái chưa biết, từ cái đã diễn đạt sang

47

khó tả nên lời” [17, XXV]. Như thế, biểu tượng là cái sự vật cái hình ảnh giúp chúng ta

vượt qua dáng vẻ bên ngoài để đi tìm ý nghĩa bên trong. Có thể nói cách khác thì đó là

“dấu chỉ khả giác”, những dấu chỉ này nếu gắn liền với những biểu tượng văn hóa của

mỗi một vùng, miền hay của một dân tộc.

Trên cơ sở những hình ảnh, sự kiện được trí nhớ lưu giữ, con người tưởng tượng

“nhận biết rõ các thuộc tính, đối tượng, các mối quan hệ,... của thế giới xung quanh, lại

được dùng làm chất liệu để chắp nối, tái tạo, xây dựng theo một lôgic mới, một trật tự

mới để tạo ra những biểu tượng hoàn toàn mới mẻ. Đó là những biểu tượng sẽ có hoặc

không bao giờ có trong xã hội (ví dụ tư tưởng về chủ nghĩa cộng sản, biểu tượng về con

Rồng Việt Nam...)” [35, tr.13]. Trong văn học nghệ thuật nói chung, sáng tác thơ ca nói

riêng, biểu tượng là một dạng của biểu tượng bậc cao, mang sắc thái của biểu tượng

tưởng tượng. Ví dụ: hình ảnh những tùng - trúc - cúc - mai thường là thuộc về biểu

tượng cho cốt cách, ý chí, khí phách của người quân tử; với Nguyễn Duy thì tre là biểu

tượng cho cốt cách, tâm lý của con người Việt Nam, chợ là biểu tượng cho đời sống sinh

hoạt tâm lý văn hoá trong thơ nữ sĩ Anh Thơ... Trong thơ Hoàng Cầm, ta gặp rất nhiều

hình ảnh biểu tượng cho những giá trị thẩm mỹ đặc biệt, gợi liên tưởng đến các giá trị

văn hoá truyền thống của con người: đêm, mưa, lễ hội, yếm áo, thực vật, men... Đó là

những biểu tượng trùng phức, đa nghĩa có sức hấp dẫn, ám ảnh lạ kỳ đối với người đọc,

nó được bài trí hài hoà tạo nên một thế giới riêng, mang đậm sắc màu văn hoá vùng

miền, dân tộc.

Thơ là sản phẩm của xã hội được cá thể hoá cao độ, qua đó mỗi nhà thơ đều tạo

cho mình một thế giới nghệ thuật riêng. Từ ngôn ngữ, giọng điệu, hình ảnh, cách nhìn

thế giới, cách rung động hồn thơ là riêng biệt, không trộn lẫn, không lặp lại. Các biểu

tượng được hình thành theo những sắc thái biểu cảm khác nhau và chuyển dịch ý nghĩa

đối với thời gian, không gian địa lý, tâm lý dân tộc, và cá tính sáng tạo cũng khác nhau.

Trong thơ hiện đại Việt Nam, các biểu tượng gắn với cuộc sống, tính cách riêng của từng

tác giả. Môi trường sống, kinh nghiệm sống từ thuở ấu thơ đến trưởng thành qua quá

trình lao động, đấu tranh và sự tích luỹ mọi mặt từ đời sống có ý nghĩa quyết định đến sự

hình thành biểu tượng. Qua các biểu tượng trong văn học, ta có thể nhận ra đời sống sinh

hoạt quen thuộc của nhân dân và nhận ra vùng thẩm mỹ độc đáo của họ (nếu có). Những

ấn tượng thuở ấu thơ in dấu rất rõ trong tư duy sáng tác của họ. Mặc dù có trải qua năm

tháng, qua nhiều không gian địa lý khác nhau, song những ấn tượng ấy vẫn mãi mãi tồn

48

tại và hiện ra theo ý thức, có khi ẩn sâu vào trong vô thức, tiềm thức, siêu thức và khi gặp

thời cơ sẽ hiện hình và toả sáng.

Mỗi tác phẩm văn học nghệ thuật chân chính đều nhằm để cắt nghĩa và nhận

thức đời sống, qua đó thể hiện tình cảm thẩm mỹ và tư tưởng nghệ thuật của tác giả.

Khác với các nhà khoa học, người nghệ sĩ thường không diễn đạt một cách trực tiếp ý

nghĩ, tình cảm bằng các khái niệm trừu tượng, mà bằng cách nào đó, họ làm trỗi dậy một

cách cụ thể và sinh động những sự vật hiện tượng đáng để ta suy nghĩ về tính cách, số

phận, tình đời và tình người của nhân vật. Đó là hình tượng nghệ thuật. Hình tượng nghệ

thuật chính là khách thể đời sống được người nghệ sĩ tái hiện và không ngừng sáng tạo

trong những tác phẩm của họ. Đây chính là một đặc điểm rất quan trọng trong việc thể

hiện hình tượng nghệ thuật. Từ đó ta có thể thưởng thức ở nhiều góc độ, nhiều giác quan.

Khi nói tới hình tượng nghệ thuật trong thơ ca, ta thường hay liên tưởng tới một

phong cảnh, một sự kiện xã hội, con người hay bất kỳ một đối tượng thẩm mỹ nào đó với

những sự biểu hiện hết sức phong phú, sinh động. Nó vừa có giá trị thể hiện những nét

cụ thể, cá biệt, không lặp lại, vừa có khả năng khái quát làm bộc lộ được bản chất của

một loại người hay một quá trình đời sống theo quan điểm của người nghệ sĩ.

Đọc thơ Hoàng Cầm, ta thấy có những hình ảnh được tác giả lặp lại nhiều lần. Đó

không chỉ là những hình ảnh ngẫu nhiên mà có sức ám ảnh lớn đối với tác giả và mang

tính biểu tượng cao như: dòng sông, núi đồi, ngôi chùa, những cơn mưa dài Kinh Bắc,

rồi hình ảnh những người mẹ, người chị, những nhân vật truyền thuyết và lịch sử trên đất

Kinh Bắc… Những hình ảnh đó đã trở thành biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa trong

thơ ông, có ý nghĩa sâu sắc trong cuộc đời sáng tác của tác giả, và qua đó, nhà thơ gửi

gắm nhiều thông điệp đến người đọc. Nghệ thuật xây dựng hình ảnh và biểu tượng trong

thơ Hoàng Cầm có một vẻ đẹp riêng mang chiều sâu của trí tuệ, văn hoá của nhà thơ.

Đọc những hình ảnh mang tình biểu tượng trên trang thơ Hoàng Cầm ta như thấy đồng

hiện tâm và trí của người nghệ sĩ đang nhập sâu vào từng sự vật để chắt lắng, dâng tặng

cho đời những dòng thơ tràn đầy ý nghĩa.

2.2. Biểu tượng thiên nhiên Kinh Bắc

2.2.1. Biểu tượng dòng sông

Việt Nam là một quốc gia nằm trong khu vực Đông Nam Á, khu vực chứa những

vùng đồng bằng màu mỡ đầy phù sa. Một đặc trưng của vùng này là sự chênh lệch về

điều kiện tự nhiên khá lớn giữa bình nguyên và núi rừng. Chính nét đặc trưng này cùng

49

với điều kiện khí hậu nóng ẩm, mưa nhiều và có gió mùa là cơ sở thuận lợi cho sự hình

thành và phát triển nghề trồng lúa nước. Đặc biệt sông nước đã để lại dấu ấn quan trọng

làm nên một nét độc đáo trong văn hóa Việt Nam, làm nên nền văn minh thực vật hay

văn minh thôn dã. Văn hóa lúa nước, tính chất thực vật (cốt lõi là cây lúa) đã in dấu ấn

đậm nét trong đời sống hằng ngày của con người Việt Nam như: ăn, ở và đi lại...

Cũng theo quan niệm văn hoá của người Việt thì tính sông nước cần được xem là

một đặc trưng của văn hoá Việt Nam. Các di chỉ từ thời đại đá mới, các bản làng từ đầu

thời đại kim khí về sau đều phần lớn phân bổ ở bờ nước: bờ sông, bờ đầm hay bờ biển.

Có thể nói, môi trường sinh thái thiên nhiên của mỗi vùng là một nhân tố tạo nên nét văn

hoá tiêu biểu của mỗi vùng đất mà trong đó tính sông nước là yếu tố quan trọng chi phối

mọi sinh hoạt lao động, sản xuất, phong tục tập quán của đời sống dân cư mỗi vùng,

“Trong các nền văn hoá lớn của thế giới, biểu tượng dòng sông hay dòng nước chảy

được coi là biểu tượng của “khả năng vạn vật, của tính lưu chuyển của mọi dạng thể”

(F.Schoun) đồng thời còn là của sự phong nhiêu, của cái chết và sự đổi mới. Đối với

người Hy Lạp, các dòng sông là những đối tượng thờ cúng: các dòng sông hầu như được

thần thánh hóa như là các con của Đại dương hay là Cha của các Nữ thần... chỉ có một

con sông cho mỗi người tắm. Theo nghĩa tượng trưng của từ ngữ bước xuống con sông

chính là để cho linh hồn nhập vào thân thể. Con sông mang ý nghĩa thân thể. Tâm hồn

khô khan bị lửa hút, tâm hồn ẩm ướt đọng lại trong thân thể. Thân thể có một cuộc sống

bấp bênh, nó chảy như nước và mỗi một linh hồn có một thân thể riêng. Cái phần phù du

của sự sống của nó, dòng dông của nó” [17, tr.829].

Người Việt từ xa xưa đã sống hoà thuận, gắn bó chặt chẽ với dòng sông, bến

nước, con đò. Do vậy, không gian sống của họ cũng gắn liền với không gian của sông

nước, coi tập tính của sông nước như tập tính con người. Cách đặt tên sông phổ biến ở cả

nước cũng thường gắn với biểu tượng về con người. Ví như: sông Cái, sông Con, sông

Cả, sông Cầu, sông Hương, và cả… sông Thương. Điều đó thể hiện mối quan hệ rất thân

tình, rất gia đình của con người với thế giới tự nhiên.

Hình ảnh những dòng sông vùng quê văn hoá, văn hiến Kinh Bắc được hiện rõ

lên trong thơ Hoàng Cầm ở chiều sâu tâm thức văn hoá với những rung cảm thẩm mỹ

hết sức tế vi, gợi nhiều liên tưởng nghệ thuật rất độc đáo. Theo khảo sát của chúng tôi,

những dòng sông Kinh Bắc liên tục được Hoàng Cầm nhắc đến trong thơ mình, với tần

số rất nhiều, mỗi lần nhắc đến là nhà thơ như đang có những suy ngẫm với những trăn

50

trở, trúc trắc trong nỗi niềm riêng chung đầy ẩn ức. Sông nước nơi đây vừa là hình ảnh

chung của đất nước, non sông, vừa rất cá biệt, vừa là tự nhiên khách quan, vừa thể hiện

tính văn hoá bản địa với những sự khác biệt mang tính đặc trưng vùng miền, tạo nên tính

thiêng về mặt tâm linh có tính lịch sử văn hoá gắn với đình, chùa hoặc những sinh hoạt

dân gian mang tính đặc thù, đồng thời vừa thể hiện sự thơ mộng, hữu tình và lãng mạn

đến khôn cùng.

Hình tượng sông Thương được nhắc đến nhiều trong văn học và các ca khúc với

một biểu tượng đẹp đẽ, kỳ thú, hữu tình. Từ trong ca dao xưa ta thấy: Sông Thương nước

chảy đôi dòng/ Đèn khêu đôi ngọn em trông ngọn nào? Đến văn học hiện đại, các tác giả

Thơ mới thường xây dựng cho mình những biểu tượng non - nước - sông - ngòi để gửi

gắm vào đó tình cảm tha thiết đối với giang sơn gấm vóc, như trong thơ của Anh Thơ,

Nguyễn Bính, Đoàn Văn Cừ, Tế Hanh, Huy Thông, Trần Huyền Trân, Vũ Hoàng

Chương, Huy Cận, Phạm Huy Thông, Vũ Đình Liên, Lưu Trọng Lư, Thế Lữ… Trong

thơ Bàng Bá Lân là hình ảnh sông xưa gợi bao kỷ niệm: Non nước sông Thương kỳ thú

lạ/ Một thời hiu hắt gió đưa chân. Một điều khá đặc biệt là giữa đôi bờ sông Thương ấy

chứa trong mình hai dòng trong và đục thơ mộng - điều đó tạo nên cốt cách văn hoá

mang biểu tượng nghệ thuật riêng của đất và người Kinh Bắc, gợi hứng cho các sáng tác

văn học nghệ thuật.

Sông Thương đã để lại những ấn tượng hết sức đặc biệt cả về cảnh lẫn tình trong

sáng tác nghệ thuật. Ý nghĩa của hình tượng không gian dòng sông Thương trong thi và

nhạc không chỉ ở chỗ nó gắn với những kỷ niệm tươi đẹp, quý giá nơi làng quê mà mỗi

người đều trân trọng ấp ủ, gìn giữ những nét văn hóa đặc trưng của dòng sông quê hương

này, mà còn có ý nghĩa lịch sử hết sức to lớn của dân tộc, quê hương. Sông Thương: biểu

tượng không chỉ mang ý nghĩa tri ân với một lớp cha anh mà còn có tính giáo dục truyền

thống cho nhiều thế hệ mai sau, bên cạnh đó còn là biểu tượng của tình yêu bị chia cắt.

Tương truyền bến Chi Li bên thành Xương Giang xưa là nơi thường diễn ra những cuộc

chia ly đôi lứa. Người chồng bao đời rời quê đi lính thú trấn ải phương Bắc, người vợ

tiễn chồng đến sông Thương là điểm dừng chân cuối cùng và họ phải chia tay nhau.

Trong thơ Hoàng Cầm, ta gặp lại hình tượng dòng sông Thương với một cảm

hứng, giọng điệu khác hẳn so với các nhà thơ khác. Đó là cảm hứng từ hồi ức với một

giọng điệu ẩn ức, nghẹn ngào đến khó tả trong một lối thơ vừa truyền thống, vừa hiện

đại, trẻ trung. Hình tượng dòng sông Thương hiện lên trong thơ Hoàng Cầm với vẻ đẹp

51

vốn có của nó và trong sự khác biệt từ cảm hứng lịch sử đến tên gọi, cảm hứng về tình

yêu thiên nhiên, quê hương, đất nước tràn ngập và tình yêu nam nữ với khát vọng

“ngược dòng” trong Sông Thương… Thương, ở đây, mối tình Chị - Em… là cả một trời

ẩn ức, khối nghẹn ngào. Cái giây phút ngỡ ngàng đến mắt tròn cối xay trong lúc gặp Chị

đã để lại trong Em cả một dòng thương nhớ khôn nguôi. Điệp khúc ngày chị bảo em

quên (bốn lần trong một bài thơ) dường như nghe đến não lòng, chán tai. Nhưng nó lại

giống như một chất xúc tác nhào nặn cảm xúc yêu ở em. Ngày chị bảo là ngày nào? Yếu

tố thời gian đã trở nên phi lôgíc, trở nên siêu hình, hư vô. Chị càng bảo em quên nhưng

em nào có quên được, ngược lại em càng nhớ chị da diết hơn, cháy bỏng hơn, nồng nàn

và đắm say, cuồng si hơn… Sau mỗi lời chị bảo, em lại lên men yêu cháy bỏng với hàng

loạt những hình ảnh trong chiều sâu tâm thức để theo đuổi mối tình si ấy. Vậy mà chị

vẫn bắt em đừng nhớ. Bi kịch của khát vọng ngày càng bị dồn nén để rồi bật ra cái

khoảng trống trong mơ hồ suy nghĩ thơ thẩn vách chiêm bao. Hiện tượng vắt dòng,

xuống câu như nhịp điệu Quan họ, như chiều buông trên dòng sông Thương đôi dòng

hững hờ càng tăng thêm khát vọng yêu của người em. Cũng như trong Cây Tam Cúc,

Cỏ Bồng Thi, Quả vườn ổi, Lá Diêu bông thì với Nước sông Thương, khát vọng của

em vẫn chỉ là khát vọng để cuối cùng Nước sông Thương vẫn chảy đôi dòng như mối

tình kia chưa đến bến hoà hợp. Và rồi trong Chân dung tự thú tác giả đã phải thừa nhận

một thực tế không chỉ với chính mình: Sông Thương thường ly thương. Ai bảo sông ấy là

sông Thương? Đành lòng vậy, dầu lòng vậy: Đắp bằng kín nỗi đau vô tận/ Vằng vặc ly

thương hai kiếp người (Gặp).

Mang một vẻ đẹp riêng trong dáng thế lượn vòng, uốn khúc, khi ôm núi như hình

cánh cung, khi cong mình như một dấu hỏi lớn, khi vắt mình qua những cánh đồng chở

nặng phù sa, khi vươn mình tưới cho những cánh đồng lúa trĩu hạt vàng thơm bông…

sông Thương được ví như một dải lụa đào trong gió thoảng chiều thu bên bãi dâu xanh

ngát, lại được ví như những làn sương khói cuộn mình, len lách trong ánh sương chiều

rơi chậm… Phải tinh tế lắm, phải có niềm yêu sông, yêu quê lắm lắm mới thấy được cái

thần thái và linh hồn của sông Thương, để từ đó bản ngã nghệ thuật được sinh thành mà

hoài thai nên những ấn phẩm nghệ thuật có giá trị để đời, cho dù chỉ là số ít. Dòng sông

Thương xuất hiện trong thơ Hoàng Cầm tuy không nhiều, song cũng kịp để lại một khát

vọng yêu, yêu thiên nhiên, yêu quê hương, đất nước, dân tộc, yêu con người và cả tình

yêu đôi lứa, còn nữa, là cảm hứng lịch sử, văn hóa dân tộc… Và chúng ta cũng kịp nhận

52

ra một điều: tình yêu đôi lứa trong thơ và cả trong ông nữa với những mối tình Chị - Em

(Hoàng Cầm) của hai người ở trong hai dòng đời này cũng giống như hai dòng chảy trên

đôi bờ sông Thương kia mà thôi. Thật khó hoà cho cùng. Đó phải chăng cũng chỉ là

những mối tình trong ca dao, trong dân gian nơi đây?: Sông thương nước chảy đôi dòng/

Dòng đục nặng mình chở phù sa/ Dòng trong thanh thản hát ca/ Ngàn đời trong - đục

không hoà dòng nhau… Nếu không muốn nói đó là một bi kịch. Nhớ về quê hương

không ai không nhớ về những dòng sông thơ mộng êm đềm. Sông Thương vẫn cứ mãi

êm đềm, thơ mộng như chính tự nó - là cội nguồn của cảm hứng sáng tác vô bờ bến cho

văn học nghệ thuật.

Đọc thơ Hoàng Cầm, ta cũng được chiêm ngưỡng vẻ đẹp thơ mộng bậc nhất của

một dòng sông Việt Nam - đó là sông Cầu miền quan họ Kinh Bắc.

Sông Cầu còn gọi là sông Như Nguyệt, sông Thị Cầu, sông Nguyệt Đức là con

sông quan trọng nhất trong hệ thống sông Thái Bình. Sông Cầu chảy vào mạn Tây Nam

tỉnh lị Bắc Giang (phân chia ranh giới Bắc Ninh - Thái Nguyên) trong hình một dạng

cánh cung địa chất cong cong uốn lượn như vầng trăng non, nên người xưa gọi nó bằng

một cái tên hoa mỹ là Như Nguyệt.

Như Nguyệt là một dòng sông từng chứng kiến bao dấu tích lịch sử của người

dân Đại Việt trong công cuộc chống lại xâm lăng cường quốc, bảo vệ đất nước vào cuối

thế kỷ XI. Nếu dòng sông Bạch Đằng đã lừng lẫy nhấn chìm Thái tử Hoằng Thao của

nhà Nam Hán xa xưa (936), giăng bắt giao châu xứ Hầu Nhân Bảo (981)…, thì Như

Nguyệt cùng danh tướng Lý Thường Kiệt đã anh dũng phá tan quân xâm lăng của Trung

Hoa ở bến đò (chiến tuyến) Như Nguyệt và Vọng Nguyệt (1077), đuổi Quách Quỳ và

Triệu Tiết ra khỏi bờ cõi nước nam qua bốn câu thơ đẫm chất anh hùng: Nam quốc Sơn

hà Nam đế cư - Tiệt nhiên định phận tại thiên thư- Như hà nghịch lỗ lai xâm phạm - Nhữ

đẳng hành khan thủ bại hư (tương truyền là của Lý Thường Kiệt). Đây cũng là trận thuỷ

chiến nổi tiếng của quân dân Đại Việt dưới triều Lý Nhân Tông cùng với 30 vạn liên

quân Bắc Tống, Chiêm Thành và Chân Lạp trong 40 ngày chiến đấu (18/1 - 28/2/1077).

Có thể nói 28 chữ trong bài Nam quốc sơn hà được viết bằng máu đỏ Lạc Long đời đời

còn in dấu trên dòng sông Cầu nước chảy êm đềm nối tiếp 49 làng quan họ cổ của Kinh

Bắc, trong đó phòng tuyến sông Như Nguyệt- được coi là nơi biểu tượng cho sức mạnh

của lòng dân thời kỳ đánh giặc Tống.

53

Cảm hứng thi ca về dòng sông Cầu cũng không phải là ít. Trong giai đoạn kháng

chiến chống Pháp, nữ sĩ Anh Thơ cũng đã từng có thơ về dòng sông thơ mộng này trong

tâm thức cội nguồn văn hoá dân tộc:

Sông Cầu nước xuôi đi, xanh vắt

Sớm mai này, nước muốn lắng dòng sông

Để in bóng những chòm râu phơ phất

Những vạt áo dài nền nã năm thân

(Đội ngũ trùng trùng tóc bạc lại xung phong).

Dòng sông Cầu cũng được hiện lên trong thơ Hoàng Cầm như một biểu tượng

cho những giá trị lịch sử văn hoá và văn hiến của vùng miền, của dân tộc từ thuở mở

nước, dựng nước và giữ nước của cha ông ta. Với Gió lông ngỗng, tác giả đưa ta về với

thời kỳ dựng nước thuở Hai Bà bên dòng sông Hát Môn những năm 40, đến thế kỷ thứ

VI thời An Dương Vương với hình tượng chiếc áo lông ngỗng của cô công chúa Mị

Châu như đang còn vương mắc dọc bờ sông Cầu lịch sử cho đến tận ngày nay:

Lông ngỗng trải bờ lau

Sông Cầu xuôi bến hát

Rập rềnh Mộ Dạ chiếu tân hôn...

Phải chăng dòng sông Cầu cũng là một chứng nhân lịch sử quan trọng, nó trở trên

mình những chuyện buồn vui của tác giả, và chứng kiến bao câu chuyện nổi trôi đầy thân

phận gắn với những vương tích về Mị Châu? Sông Cầu cũng chứng kiến bao sự thăng

trầm lịch sử, bao biến cố của đời người, cùng với khát vọng cuộc sống nhân văn, nhưng

đành để trôi theo dòng sông nước, trở về với hư không…

Vẻ đẹp của con sông Cầu trong Một lời quan họ cứ thoảng nhớ thoảng quên, cứ

chập chờn ẩn hiện như làn yếm mỏng xinh của gái quê Kinh Bắc gợi niềm đam mê vô

thức trong tâm thức Hoàng Cầm. Dù trong hạnh phúc hay bi kịch thì dòng sông quê

hương vẫn hiện lên trong tâm hồn nhạy cảm của ông. Đó là sự quan sát, trải nghiệm bằng

một trực cảm tâm linh tinh tế, nắm bắt kịp thời những chi tiết, những hình ảnh mà đôi khi

chỉ ngưng tụ trong một khoảnh khắc hoặc có thể từ trong một chiều sâu tâm thức lịch sử.

Hoàng Cầm xem dòng sông này là duyên cớ của những lời ca quan họ Kinh Bắc và do

vậy, sông Cầu đã trở thành nỗi đam mê, trở thành duyên cớ gửi trao tâm tình thơ - quan

họ của ông với những điệu lý huê tình, lý cây đa quyến rũ trong sự bảng lảng huyền ảo

của không gian, thời gian và sự tương tác giữa toàn bộ khách thể thẩm mỹ và chủ thể

54

nhận thức đến say cả lòng người. Quan họ và sông Cầu dường như là một trong những

chiếc cầu nối đồng hiện của hai miền tâm thức và thi ca Hoàng Cầm:

Lý cây đa... Lý huê tình

nguyệt cầm ngại gảy

dỗ dành ai nghe

Người ơi! Người ở…

… Hay là….

(Thể phách tinh anh).

Như vậy, có thể nói, với tính chất của một dòng sông văn hóa, sông Cầu được coi

là biểu tượng của sự linh thiêng với những chiến công oanh liệt trong lịch sử dân tộc và

sự thơ mộng, hữu tình bậc nhất của hệ thống sông Việt nam.

Đến với không gian của những dòng sông Kinh Bắc ta còn được Hoàng Cầm đưa

về sông Đuống, về với dòng sông của khát vọng ngày xưa - thuở thanh bình êm đẹp,

hạnh phúc, của những lễ hội dân gian tiêu biểu cho một giá trị văn hoá có sức sống vĩnh

hằng, trường tồn.

Dòng sông Đuống cũng là dòng sông cuộc đời trong đó như ngưng tụ nhịp sống,

nhịp sinh hoạt chứa dựng bao giá trị văn hoá, văn hiến, lấp lánh ánh đẹp cổ tích và huyền

sử từ một dòng tâm tư chảy mãi không nguôi. Đó còn là dòng sông của nền văn hoá lúa

nước với cơ tầng văn hoá nông nghiệp lấy nghề nông làm gốc - dĩ nông vi bản của người

dân Kinh Bắc. Nơi đó có những lúa nếp thơm nồng, những gà lợn nét tươi trong, những

tấm the đen, những hội hè đình đám trong bến dưới thuyền, trên đê ngoài bãi... Dòng

sông ấy chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử, những thăng trầm văn hoá, những khát vọng

đời người của những nhân vật truyền thuyết và lịch sử, đến những bà mẹ, anh bộ đội,

những người dân ở mọi tầng lớp, cả những mối tình Chị - Em nơi đồng chiều cuống rạ

của miền quê Kinh Bắc… Tất cả được di dưỡng và thăng hoa trong những thi phẩm của

Hoàng Cầm. Ông không những góp phần là người giữ gìn, bảo lưu các giá trị văn hoá

mà còn như người của dân gian đi truyền lại những câu chuyện dân gian về Kinh Bắc

cho chúng ta. Dòng sông Đuống - dòng sông Kinh Bắc vì thế càng trở nên có giá trị lịch

sử hơn bao giờ hết khi được chính Hoàng Cầm - người con của quê hương miêu tả nó

như một sinh thể có hồn trong thế trằn trọc, đớn đau, trăn trở, oằn mình mà nằm nghiêng

nghiêng vì hiện thực lịch sử, vì chiến tranh đang tàn phá một vùng quê trù mật.

55

Bờ sông Đuống không chỉ dày đặc di tích lịch sử, văn hóa tiêu biểu cấp Quốc gia,

lưu giữ nhiều lễ hội truyền thống quy mô vùng miền mà bên vùng đất Nam Đuống còn

tụ hội nhiều làng nghề thủ công truyền thống độc đáo như: nghề làm tranh dân gian

Đông Hồ, đúc đồng Đại Bái, nghề gốm Luy Lâu, Tranh tre Xuân Lai… Thật hiếm có

dòng sông nào chở đầy lịch sử, đậm đặc di tích như sông Đuống. Tựa mình bên triền đê

uốn lượn, dưới tán cây cổ thụ là Lăng Kinh Dương Vương, đền thờ Kinh Dương Vương.

Sông Đuống chảy được hơn nửa đường về phía Đông thì gặp dãy núi Thiên Thai đột

khởi giữa vùng đồng bằng. Sông núi gặp nhau tạo nên phong cảnh hữu tình nhưng Thiên

Thai lại trái ngang chặn dòng, buộc sông Đuống phải lượn vòng. Cũng từ đây, lịch sử

dường như có sự chuyển đoạn. Bắt đầu từ chân núi Thiên Thai đến Lục Đầu giang, chỉ

một khúc sông ngắn khoảng mươi cây số nhưng dòng Đuống đã oằn mình chở nặng bao

nỗi oan “động trời” trong sử cũ: Đầu tiên là câu chuyện của Thái sư Lê Văn Thịnh,

người làng Bảo Tháp (Đông Cứu, Gia Bình) từ hơn 900 năm về trước. Cách đền thờ Lê

Văn Thịnh chẳng bao xa, là “hiện trường” vụ thảm án xảy ra cách đây khoảng 570 năm

đã làm cả gia tộc đại quân sư Nguyễn Trãi - một khai quốc công thần triều Lê điêu đứng.

Gần 6 thế kỷ trôi qua, dấu tích vườn vải năm xưa giờ không còn nữa. Khu di tích Lệ Chi

Viên (xã Đại Lai, Gia Bình) bây giờ là cánh đồng lúa xanh mướt mát và cư dân xóm làng

quần tụ đông đúc. Gần Lệ Chi Viên là chùa Đại Bi nằm giữa một vườn cây cổ thụ xanh

mát phía ngoài đê thuộc xã Thái Bảo, nhân vật được thờ trong chùa là danh nhân Trúc

Lâm đệ tam tổ Huyền Quang (Lý Đạo Tái) - một Quốc sư, nhà văn hóa, nhà tư tưởng,

nhà thơ lớn đã rơi vào nỗi oan tình nàng Điểm Bích để “Dẫu mà tát cạn Bình Than/

Cũng không rửa được nỗi oan cho thầy”. Tiếp tục xuôi dòng sông Đuống đến khu Lăng

mộ và Đền thờ Cao Lỗ Vương (xã Cao Đức) lại gặp ông Nỏ (Cao Lỗ Vương - cha đẻ

của “nỏ thần An Dương Vương”) đã phải rửa nỗi oan bằng chính mạng sống của mình…

Dòng sông Đuống được hiện lên trong thơ Hoàng Cầm trước hết từ tâm thức lịch

sử, từ thời tiền sử, thời phong kiến gắn với những nhân vật truyền thuyết và lịch sử của

đất Kinh Bắc, của dân tộc Việt Nam. Về Kinh Bắc là về với giấc mơ thuở “hồng hoang”,

về nơi chứng kiến và ghi lại dấu tích lịch sử thời Kinh Dương Vương, thời Lạc Long

Quân và Âu Cơ, với những oai hùng của người anh hùng nơi Thánh Gióng - Phù Đổng

Thiên Vương đã sinh ra và đánh giặc từ bên bờ sông Đuống - nơi thuỷ tổ, cội nguồn dân

tộc Việt mà đánh ngược lên mạn Bắc qua Đông Anh, rồi mới đến Phong Châu - Phú Thọ

- nơi con cháu Kinh Dương Vương lập đô, lập nghiệp sau này. Phải chăng nhà Trời đã cố

56

tình để bà mẹ nghèo nơi thôn quê xóm cùng thụ thai bằng cách ướm vết chân - trên chính

mảnh đất của cội nguồn để rồi Gióng được đúc ngựa sắt, áo giáp sắt, roi sắt và giải phóng

giặc Ân trước hết cũng trên chính mảnh đất của tổ tiên - cha ông mình? Hoàng Cầm đã

thể hiện được ý thơ mang đậm chất sử thi hoành tráng của một sự kiện quan trọng lắng

đọng lại một lớp phù sa lịch sử, ghi lại dấu mốc quan trọng trong hành trình trở về với

dòng sông lịch sử của dân tộc mình?: Ướm vết chân bãi phù sa sông Đuống/ Dựng tre

làng Cháy/ Sạt năm tầng mây lửa rực Phong Châu (Nắng phù sa). Vinh dự thay, bên

dòng sông Đuống đã sinh ra người anh hùng thiếu nhi, để đến muôn nghìn năm sau ta

vẫn tưởng nhớ và mở Hội Gióng với những trò diễn tích xưa dọc hai bờ sông Đuống.

Bên dòng sông Đuống còn lưu giữ bao huyền tích, huyền sử, gắn với những câu chuyện

dân gian và lịch sử, đã chứng kiến được tất cả từ câu chuyện của một thời mang dấu tích

hồng hoang và đã đi vào tâm thức của mọi người dân Kinh Bắc - đó là câu chuyện về Từ

Thức: Đêm giao thừa ai đưa mưa ra/ Từ Thức tìm đâu một mái nhà/ Có phải chính em

cầm gió bấc/ Quất ngang sông Đuống buốt phù sa (Bơ vơ); Giáng Tiên mới chớm hội

chùa/ Đã bay Từ Thức vào mơ mộng đào… (Tháng riêng đi chậm), đến câu chuyện của

một quốc gia, dân tộc mang đậm chất nhân văn nơi quê hương tiếng hát Quan họ: Tiếng

hát quan họ nâng gót phù sa/ Đã thành ngọc trai giữa lòng sông Đuống (Tìm đến chân

trời); Tháng riêng ơi vút vút nhanh/ như mây từ biển thổi vòng Thiên Thai/ như dòng

sông Đuống cuốn trôi/ như Tiêu Tương liễu buông dài Bách Môn/ nhanh như tiếng gọi

hú hồn/ Hỡi cô Huệ đỏ ngó vờn ngôi vua… Tất cả đã được Hoàng Cầm tạc nguyên hình

trong một mùa tháng giêng Kinh Bắc. Nhà thơ cũng thâu tóm giá trị văn hoá dân gian

truyền thống của người Kinh Bắc trong những nét vẽ mờ nhòe của tâm trạng từ những

thổn thức mất còn cái hồn vía Kinh Bắc như những hội hè đình đám, những núi Thiên

Thai, chùa Bút Tháp, những cô hàng xén răng đen với yếm thắm, lụa hồng và cả dòng

sông Đuống lấp lánh ánh bạc đẹp… Đó cũng là một trong những yếu tố phản ánh màu

sắc thẩm mỹ mang tính văn hóa sông nước của người dân Kinh Bắc. Người dân ở xứ

Palestine quan niệm: “các dòng sông là những tác nhân phì nhiêu hóa, có nguồn gốc

thiêng liêng, mưa và sương mang lại sức sinh sản và biểu hiện từ tâm của Chúa trời.

Trong đó nước là biểu tượng của sự tái sinh, là biểu tượng của đời sống tinh thần và

mang ý nghĩa vĩnh hằng. Nước chảy từ nguồn, nước của sự sống được coi là biểu tượng

về nguồn gốc vũ trụ. Nước làm cho thanh khiết, chữa khỏi bệnh, làm trẻ lại, vì vậy đưa

con người vào cõi vĩnh hằng...” [17, tr.711].

57

Ở Việt Nam, sông Đuống cũng được coi là một dòng sông có tác nhân phì nhiêu

hóa nguồn gốc thiêng liêng, là một trong những biểu tượng văn hóa, tinh thần của người

dân Kinh Bắc. Đây là con sông vốn thanh bình yên ả, đẹp đẽ hơn bất cứ vùng quê nào

trên đất nước ta. Điều đó đã được khẳng định từ thời Kinh Dương Vương chọn nơi đây

làm kinh đô của Xích Quỷ, Việt Thường (?). Hoàng Cầm luôn khát vọng về một Kinh

Bắc của “ngày xưa” với Bên kia sông Đuống có bờ cát trắng phẳng lỳ; xanh xanh bãi

mía bờ dâu/ ngô khoai biêng biếc, của Tranh Đông Hồ gà lợn nét tươi trong/Màu dân

tộc sáng bừng trên giấy điệp, quê hương của những mẹ con đàn lợn âm dương; đám

cưới chuột tưng bừng rộn rã… của Những người trai lên ngọn núi hồng như giải lụa...

(Quan họ lại bắt đầu). Đó là khát vọng cuộc sống với cả chất thơ, chất trữ tình của một

dòng sông quê hương, dòng sông Tổ quốc. Đó cũng là cả một không gian văn hoá đến

sống động của Kinh Bắc, của dân tộc. Vậy mà đến nay chỉ còn là một giấc mộng bình

yên, chỉ còn lại một Thiên Thai - sông Đuống lạnh lùng/ Bóng em không lướt - thuyền

không hướng chèo (Thể phách tinh anh).

Dòng sông Đuống (Bên kia sông Đuống) còn được miêu tả như một sinh linh

thực thụ, một sinh thể có hồn ở cái thế nghiêng mình cùng cả quê hương, cả dân tộc

trong thế chuyển mình của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp:

Sông Đuống trôi đi

Một dòng lấp lánh

Nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ;

Sông Đuống mang tâm trạng của con người trong nỗi cô đơn của tình yêu:

Nghiêng nghiêng sông Đuống đôi câu

Tung tình chín chín khúc sầu lẻ loi.

(Ai xui chắp mảnh xe hồng).

Trong Chân dung tự thú tác giả cũng viết: Sông Đuống nghiêng nghiêng buồn.

Cái thế nằm nghiêng của sông Đuống đã bội hoạt trí tưởng tượng và kích thích tính xúc

cảm đa chiều của bạn đọc, đã trở thành biểu tượng gắn kết trong thơ văn yêu nước của

Hoàng Cầm.

Người dân Kinh Bắc đã coi sông Đuống là một dạng thức ‘thực thể”, là nguồn

gốc của sự sống, là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh

sôi nảy nở, của hình thức thanh khiết, tính hiền minh và tính khoan dung. Với Hoàng

Cầm nói riêng, ông coi sông Đuống là một vị thuốc, là gia vị, là đồ uống trường sinh bất

58

tử cho thơ. Đó cũng là một sinh thể biết yêu, hiểu được điều đó, Hoàng Cầm là người thơ

duy nhất đã xua tan đi nỗi cô quạnh ấy bằng một đám cưới có một không hai trong lịch

sử văn học Việt Nam hiện đại: đám cưới hai dòng sông (hai dòng nước) - sông Đuống và

sông Hương trong sự chứng kiến của người trai Kinh Bắc và ông già bến Ngự:

Người trai Kinh Bắc

Vằng vặc cô đơn

Đưa dòng sông Đuống

Vào cưới sông Hương.

Từ những biểu tượng văn hóa nông nghiệp từ cổ xưa, Hoàng Cầm cũng coi nước

là nguồn thụ tinh cho đất và sinh ra những cư dân trên mặt đất, từ đây chúng ta có thể

quay trở lại với những biểu tượng phân tâm học của nước, được coi là nguồn thụ tinh cho

tâm hồn: sông nhỏ, sông lớn, biển là hình tượng của đời người và của những biến động

của những ước muốn và những cảm xúc… Như vậy, ta thấy tác phẩm văn học không

tĩnh tại trên trang viết. Không phải lúc nhà văn đánh dấu chấm câu cuối cùng kết thúc tác

phẩm đồng nghĩa với việc đánh luôn dấu chấm hết cho vòng đời của tác phẩm ấy. Khi

tác phẩm rời thế giới bên trong của người nghệ sỹ để bước vào thế giới khách thể mới

thực sự bắt đầu cuộc sống của nó. Nó được vận động theo quỹ đạo riêng, có điều quỹ

đạo ấy chỉ được thực thi chừng nào nó nhận được một lực tác động từ phía bên ngoài.

Lực tác động ấy mang tên “sự đọc” - quá trình lấp đầy khoảng trống văn bản của độc giả.

Sông nước luôn chứa đựng biểu tượng văn hóa nghệ thuật tiềm tàng, tuỳ thuộc

vào phương thức miêu tả sông, thể hiện sông như thế nào trong mỗi câu thơ, bài thơ mà

sông có những khả năng biểu trưng hoá nghệ thuật khác nhau. Trong đời sống văn hóa

tinh thần của cư dân Kinh Bắc, sông ngòi mang vẻ đẹp cân xứng, hài hòa, người nghệ sĩ

đã tìm thấy trong vẻ đẹp sơn thủy hữu tình này một sự hòa nhập giữa "văn hóa sông" gắn

với "văn hóa núi" và tập tính sinh hoạt cộng đồng dân cư nơi đây. Sông ngòi Kinh Bắc

đã trở thành đối tượng thẩm mỹ của thơ ca, nhạc họa, nhưng chỉ dưới ngòi bút của

Hoàng Cầm, dòng sông thi ca này mới được soi chiếu từ nhiều phía, nó chảy tràn trên

những trang thơ của thi nhân với nhiều dáng vẻ. Nơi đây, mỗi dòng sông không chỉ là

một thực thể vật chất hào phóng của thiên nhiên ban tặng, bồi đắp phù sa tạo nên vùng

đất phì nhiêu, màu mỡ mà còn là một trong những thành tố góp phần kiến tạo nên cái khí

thiêng "Kinh đô văn hóa" của người Việt. Tiêu Tương là một trong những dòng sông văn

hoá như vậy: Ngã ba sông chín hướng tình/ Về Kinh Bắc gặp rập rềnh Trương Chi (Ai

59

xui chắp mảnh xe hồng). Cơ sở hình thành biểu tượng sông trong thơ Hoàng Cầm chính

là sự liên tưởng từ một nét tương đồng nào đó giữa sông và đối tượng được biểu hiện.

Cũng thấy là nhà thơ có chú ý đến nghĩa vật thể của sông, nhưng chủ yếu là chú ý đến

nghĩa biểu trưng nghệ thuật của nó. Một ý nghĩa thẩm mỹ của sông được quy định bởi

một đặc tính tự nhiên nào có của chính nó (điều này không phải là ngoại lệ đối với các

hình tượng khác). Có một mối liên hệ chặt chẽ giữa các ý nghĩa thẩm mỹ của sông và

điều đó tạo nên sự thống nhất về mặt ngữ nghĩa của hình tượng trong quá trình biểu

trưng hoá nghệ thuật.

Trong tác phẩm của mình, phải chăng vì đôi bờ sông Đuống chứa đựng quá nhiều

những di tích, chứng tích lịch sử, những huyền sử từ thuở hồng hoang, nơi chứng kiến

biết bao những thăng trầm của lịch sử quê hương, của dân tộc nên cái thế của sông

Đuống cũng bị nghiêng hơn trong dáng dấp của một sinh thể nghệ thuật, cái dáng đặc

biệt chỉ có ở trong tâm trí nhà thơ đất Kinh Bắc, để rồi thoát thai ra ngoài thành một thực

thể có hồn? Đó cũng chính là nét độc đáo riêng tạo nên một đặc điểm nghệ thuật đặc thù,

một biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa, làm nên cái hồn cốt riêng cho phong cách thơ

Hoàng Cầm thêm nhiều bản sắc.

Nhớ thi nhân và thi ca Hoàng Cầm ai chẳng muốn về những dòng sông Kinh Bắc

để được đắm mình trong chất men lấp lánh của những dòng chảy văn hoá ấy. Chất men

phù sa sông ấy kỳ thực là đắm đuối, mộng ảo, khao khát mang tên Hoàng Cầm luôn

được thăng hoa ở nhiều cung bậc trong hành trình đi tìm cái Đẹp, cái Thật, cái Thiện của

một đời thơ không mấy bằng phẳng. Nhà thơ đi tìm và tìm mãi suốt đời bằng sự trung

thực với bản ngã cá nhân để rồi dần dà tạo dựng nên một phong cách thơ riêng, thế giới

thơ riêng không giống ai. Đấy đích thực là Hoàng Cầm. Hoàng Cầm và thơ ông sẽ bất tử

với màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp, với từng khuôn mặt búp sen, những cô hàng

xén răng đen, cười như mùa thu tỏa nắng, với mẹ già nua… Cái đẹp ấy đã từng được đặt

giữa bi thương dân tộc, đã bao phen đối chọi với súng đạn, máu lửa chiến tranh và kỳ

diệu thay nó được giữ vẹn nguyên từ thuở ấy đến giờ. Cái Đẹp ấy sinh sôi nảy nở tình

trong hồn thơ ông, cho ta một hình dung trữ tình cũng rất Đẹp về một thi bá đất Việt sinh

ra từ làng quê Song Hồ, Thuận Thành, Kinh Bắc.

Tiếp cận với thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm từ thụ động đến chủ động, từ ít

đến nhiều, từ nông đến sâu, từ giản đơn đến phức tạp, cũng không dễ thẩm thấu hết thơ

ông ở những Bên kia sông Đuống, Mưa Thuận Thành, Lá diêu bông, Về Kinh Bắc, 99

60

tình khúc… luôn mang cảm hứng dào dạt đam mê, chân thật và huyền ảo. Tổng thể

Hoàng Cầm, chính là cái thực và cái ảo, cái linh thiêng và huê tình trong lối thơ vừa

truyền thống vừa hiện đại cứ đan xen trộn lẫn vào nhau, tỏ tỏ mờ mờ, lúng liếng lung

linh, sâu xa thăm thẳm một cách khéo léo, nhuần nhụy, bất ngờ và rất đỗi tài hoa trong sự

mới mẻ ấy. Hoàng Cầm đích thực là một điển hình sinh động về người nghệ sĩ lao động

trong việc sáng tạo thi ca. Ở ông có sự hội tụ xưa - nay, cũ - mới, chính trị mà lãng mạn,

lãng mạn mà chính trị và xuyên suốt bao trùm các tác phẩm của Hoàng Cầm vẫn là tình

yêu quê hương đất nước, dân tộc, tình yêu văn hóa, thiên nhiên, con người thật đằm thắm

sâu sắc tới khôn cùng.

Từ thiên nhiên với hệ thống sông nước, Hoàng Cầm đã xây dựng thành những

bức tranh nghệ thuật khá đa dạng, phản ánh nhận thức và thái độ thẩm mỹ của người

Kinh Bắc. Đặc điểm này tạo nên tính địa phương của thơ ca viết về Kinh Bắc, qua đó

góp phần làm phong phú thêm cho tiến trình phát triển chung của thơ ca Việt Nam hiện

đại và đặc điểm riêng của nghệ thuật thơ Hoàng Cầm.

Đến nay, Hoàng Cầm đã sang đò nhưng mạch nguồn dòng sông không vơi cạn.

Con sông thơ Hoàng Cầm bắt nguồn từ vùng Kinh Bắc thiêng liêng trong chiều sâu văn

hóa và rất đỗi huê tình, rình rang… qua những mưa nắng, thăng trầm mà vẫn dìu dặt

chảy tràn cùng dân tộc. Có một Hoàng Cầm thi sĩ của dân tộc nặng lòng yêu quê hương

đất nước, lại có một Hoàng Cầm thi sĩ của tình yêu đôi lứa đầy đắm say và mộng mị

với những ẩn ức vẫn còn nén nghẹn búp xuân xanh. Ông ra đi, để lại cho ta những ám

ảnh thi ca huyền bí. Tiếc thương, đương nhiên rồi nhưng điều làm ta quan tâm hơn

không gì khác là sự đánh giá xứng đáng những đóng góp của Hoàng Cầm với nền thơ

ca Việt Nam. Trước và nay, trong tư cách của một công dân, một chiến sĩ, một con

người, một thi sĩ - Hoàng Cầm đã tưới những đường mưa thơ trên quê hương, trên các

trang thơ. Cơn mưa bước ra từ ngõ thơ ông, ngõ ngách thôn xóm quê ông, mang nét

buồn khôi nguyên đằng đẵng để rồi mưa thơ giăng rải trên các dòng sông Kinh Bắc, âu

cũng là một dáng nét của màu dân tộc, xứ sở và hình như trên con đường tới cõi thiên

thu đang vọng về nụ cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh trong hồn người yêu quý

và trân trọng thơ ông.

Có thể nói, hệ thống sông ngòi Kinh Bắc đã tạo nên một thế giới phù sa màu mỡ

nâng đỡ cho những giá trị văn hoá, lịch sử đặc biệt của vùng quê văn hiến này để nó phát

61

triển, giao thoa, và cũng đã kịp neo lại tên tuổi của mình trong dòng chảy chung của văn

hoá dân tộc, tạo nên một dấu ấn riêng biệt của văn hoá sông nước miền Kinh Bắc.

2.2.2. Biểu tượng núi, đồi

Biểu tượng nghệ thuật là một dạng mã hóa những cảm xúc, tư tưởng của người

nghệ sĩ về hiện thực đời sống. Biểu tượng còn bộc lộ cá tính sáng tạo, phong cách tác giả,

khuynh hướng văn học và cả đặc trưng văn hóa của từng vùng, miền văn hóa. Nghiên

cứu tác phẩm từ góc độ biểu tượng văn hóa do đó đã và đang thu hút sự quan tâm của

nhiều nhà nghiên cứu văn học nghệ thuật. Hoàng Cầm được coi là nhà thơ của văn hóa

Kinh Bắc. Trong thơ ông, không gian văn hóa hiện ra những cây cỏ, hoa lá, đình chùa,

con người, sông, núi và vạn vật mang bản sắc vùng miền, những hình ảnh trên xuất hiện

với tần số cao, mang nhiều giá trị tượng trưng và trở thành chiếc khóa mã hóa thế giới

nghệ thuật của nhà thơ.

Trong thơ Hoàng Cầm, núi, đồi có khi hiện lên như một chỉnh thể: núi Thiên

Thai, đồi Lim. Có thể thấy, núi, đồi không chỉ là mô típ thơ khá độc đáo và có sức rung

động mãnh liệt, có năng lực tạo tượng miêu tả mà còn là một phương tiện trữ tình, một

công cụ biểu đạt tư tưởng, tình cảm của Hoàng Cầm. Nghiên cứu về biểu tượng này ta

thấy, trong nỗi nhớ khắc khoải, trong niềm hoài niệm tha thiết của người con viết về quê

hương, hình ảnh núi, đồi hiện lên thật thân thương, thanh bình và thơ mộng với vẻ đẹp

như từ trong cổ tích. Ở đó chứa đựng một khoảng không gian, thời gian ngăn cách nhưng

thật gần gũi, một khoảng không gian cổ kính nhưng rất đỗi quen thuộc, thân thương, vừa

thực vừa ảo. Nghĩa là một khoảng không gian mang đầy đủ sự liên hệ của làng quê Việt

Nam tự nghìn đời. Trên cái nền không gian ấy, nhà thơ khắc họa sâu sắc những cảnh

sinh hoạt, đôi khi là những số phận, tính cách và vẻ đẹp tâm hồn của những người dân

quê bình dị. Như vậy, tiến hành đi sâu phá và nghiên cứu về biểu tượng này, có thể thấy

được tài năng nghệ thuật, sở trường cũng như phần nào cho thấy diện mạo bức tranh làng

quê Việt Nam, đặc biệt là không gian vùng quê, vùng đất thiêng Kinh Bắc với những

cuộc đời, số phận, những cuộc tình duyên, những oan trái của kiếp người…

Núi đồi Kinh Bắc không nhiều, nhưng đồi Lim và núi Thiên Thai là các biểu

tượng tiêu biểu trong thơ Hoàng Cầm về thiên nhiên, văn hoá, tình yêu, tình người

Kinh Bắc, đặc biệt là nó gắn với không gian thiêng liêng của đình, chùa, miếu, đền

thờ… nơi đây để toả ánh sáng linh thiêng. Hình như không còn thiếu một ngôi chùa,

mái đình nào của Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm mà tách rời khỏi sông, núi: chùa

62

Dâu, Bút Tháp, Pháp Môn, Phật Tích, Đền tám vua triều Lý, Đền Cổ Loa, Miếu Hai

Cô, Đình Lim, Đình Bảng…

Ở Việt Nam, sự gắn bó thiết thân máu thịt tình sông - núi với con người là vô

cùng sâu nặng. Từ xa xưa, ông cha ta đã biết lấy thế núi - đồi làm lũy thành, phên dậu mà

giữ gìn lấy đất đai Tổ quốc. Những ải Chi Lăng, đèo Mã Phục, dải Hoàng Liên, Trường

Sơn... từng âm vang chiến thắng thời trận mạc cùng dân tộc. Bao ngọn núi quê hương

dâng tảng ngực trần uy nghiêm, bền gan, kiêu dũng che bom, đỡ đạn, ngăn chặn bão

dông. Dựa vào thế núi mà giữ đất. Và núi đã được ông cha ta dùng trong nghĩa núi sông

còn là do nghĩa vậy chăng?

Thơ Hoàng Cầm khởi dựng một không gian địa lý vùng Kinh Bắc. Nhưng đây

không phải không gian địa lý thuần tuý, mà đã phản chiếu những đặc trưng của một

không gian văn hoá, không gian xã hội, không gian tinh thần, không gian tâm linh…

quanh những tên đất, tên làng, tên sông, tên núi thân thương ấy, đồng thời cũng phản

ánh đầy đủ sinh hoạt cộng đồng mang đậm dấu tích lịch sử, phong tục tập quán của

vùng quê này.

Cùng với hệ thống sông ngòi uốn lượn quanh co kỳ thú, hệ thống núi và đồi nơi

đây cũng tạo nên những vẻ đẹp rất phong tình, diễm lệ cho vùng quê quan họ huê tình...

Theo thống kê của chúng tôi, có hơn 40 lần Hoàng Cầm nhắc tới hình ảnh núi và đồi

Kinh Bắc. Và trong cách cảm nhận hình ảnh núi đồi ở đây, chúng tôi thấy có sự khác biệt

với sự cảm nhận về hệ thống núi, đồi trong thơ ca các dân tộc thiểu số. Thơ ca dân tộc

thiểu số nhắc tới hệ thống núi và đồi với vẻ đẹp thuần túy của thiên nhiên ban tặng với

những đại ngàn rừng cây bao phủ hoặc những câu chuyện tình lãng mạn, hoặc gắn với

những cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, non sông. Ở đó, tình cảm con người gắn liền với

rừng cây, sông suối, gắn liền với những sinh hoạt cộng đồng với bản sắc văn hóa cố hữu.

Đến với thế giới thiên nhiên núi đồi Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm ta nhận thấy dường

như hệ thống núi, đồi nào ở đây cũng đẹp, thơ mộng, hữu tình, gắn với những huyền tích

dân gian, huyền sử, lịch sử văn hoá lâu đời của quê hương như: núi Neo, núi Dạm, núi

Tiêu, núi Chè, núi Phượng Hoàng, núi Cô Tiên, núi Thiên Thai, đồi Lim... đã trở thành

các thi liệu chủ yếu và đi vào thế giới thơ Hoàng Cầm như những câu chuyện cổ tích đầy

hấp dẫn và nhuốm đậm sắc màu huyền sử mà nên thơ, hoặc gắn với những cuộc hành

quân dã ngoại của các đơn vị chiến đấu trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ của

dân tộc. Đặc biệt núi Thiên Thai được coi là biểu tượng văn hóa núi Kinh Bắc, đồng thời

63

tạo cảm hứng sáng tác nghệ thuật cho nhiều thế hệ các nghệ sĩ và thi sĩ của vùng Kinh

Bắc. Đó là một vùng thẩm mỹ lớn cho các nhà thơ Việt Nam, trong đó có nhà thơ Hoàng

Cầm thể hiện cảm xúc của mình.

Khai thác luận điểm này, chúng tôi đi vào những yếu tố mang tính thiêng về mặt

tâm linh, tính lịch sử văn hoá gắn với đình, chùa hoặc những sinh hoạt văn hoá mang tính

đặc thù đồng thời cũng thấy được vẻ đẹp huyền thoại, lung linh sắc màu của huyền sử.

Qua đó tạo ra mối liên hệ giữa các biểu tượng trên với nhau, bởi “Trước hết cần phải nói

một điều rằng, ý nghĩa của biểu tượng núi có nhiều mặt, vừa là chiều cao, vừa là điểm

trung tâm. Núi tham gia vào hệ biểu tượng của cái siêu tại, siêu phàm, gắn với tính cách

là trung tâm của những hiện tượng hiển linh trong khí quyển và rất nhiều sự tích thần

hiện, núi là biểu tượng của cái bản thể biểu hiện. Như vậy núi là nơi “Trời đất gặp nhau”,

là nơi ở của thánh thần và là điểm cuối của con đường đi lên của con người. Là trung tâm

của thế giới. Mọi nước, mọi dân tộc đều có ngọn núi thiêng của mình” [17, tr.701].

Ở vùng Kinh Bắc, núi Thiên Thai được coi là một ngọn núi thiêng, do đó nó được

nhắc nhiều trong văn học nghệ thuật, trong các làn điệu dân ca quan họ, ca dao ... như

trong dân ca quan họ: Trèo lên trên núi Thiên Thai, thấy chim Loan Phượng ăn xoài bể

Đông. Từ xa nhìn tới, dãy núi Thiên Thai mờ xanh có hai ngọn cao vồng lên như một

con thuyền giương cánh buồm ung dung trôi trên biển lúa. Trong tâm thức người Kinh

Bắc và người dân Việt, núi Thiên Thai là biểu tượng của chốn thần tiên, là nơi ở của linh

hồn, là lâu đài của nội tâm. Nơi thiên đường đầy hoa thơm cỏ lạ trong không khí liêu trai.

Nơi con người khát khao được đến! Từ thực tế của thiên nhiên ban tặng cùng những

huyền tích lịch sử dân gian, núi Thiên Thai đã mang tới cho văn học dân gian vùng Kinh

Bắc nhiều câu chuyện kể hấp dẫn, thú vị về Từ Thức gặp tiên, nơi đây sau này còn có

ngôi chùa cổ thờ Thái sư Lê Văn Thịnh. Cũng chính từ câu chuyện này mà núi ấy càng

trở nên thu hút sự quan tâm tìm hiểu của thi ca, nhạc họa, văn hóa, lịch sử. Cảnh sắc

thiên nhiên nơi đây cũng nhuộm màu lãng mạn không kém phần thơ mộng, nhất là vào

dịp cuối thu, màu nắng vàng như một chiếc khăn voan màu vàng nhạt trùm lên núi non,

làng xóm, ruộng đồng tạo nên một nét đẹp kỳ vĩ, hùng vĩ và kỳ diệu gợi không khí liêu

trai một thời. Thiên Thai đã trở thành điểm tựa vật chất, tinh thần cho bao thế hệ con

người, trở thành đề tài cho những cây bút làm nên những áng thơ, văn, lời ca, thêu dệt, tô

điểm cho hình bóng Thiên Thai in đậm vào tâm hồn mỗi người dân cho dù họ chưa một

lần tới được nơi đây. Với mỗi người dân Kinh Bắc, Thiên Thai là ngọn núi thiêng, là nơi

64

để các thánh thần lưu trú. Còn với Hoàng Cầm, cùng với Nham Biền, Cô Tiên thì ông

coi đây như là phương tiện để thế giới thơ ông bước vào xác lập quan hệ với thần tiên,

trở về với khởi nguyên (núi Thiên Thai là nơi người đi lên trời thành tiên và là nơi tiên

trở về, núi Nham Biền là nơi tiên về tắm, núi Cô Tiên là nơi tiên về ngủ), do đó biểu

tượng núi trong thơ Hoàng Cầm vừa mang tính thiêng, mỗi ngọn núi (như đã kể ở trên) ở

Kinh Bắc đều tượng trưng cho một sự hiển linh. Và bên cạnh sự linh thiêng ấy, nhà thơ

không quên thơ mộng hóa trong cái huê tình của gái quê Kinh Bắc thấp thoáng ẩn hiện đi

lại đó đây. Trong bài thơ Bên kia sông Đuống, nhà thơ Hoàng Cầm viết: Ai về bên kia

sông Ðuống/ Có nhớ từng khuôn mặt búp sen/ Những cô hàng xén răng đen/ Cười như

mùa thu toả nắng…/ … Ai về bên kia sông Đuống/ Cho ta gửi tấm the đen/ Mấy trăm

năm thấp thoáng mộng bình yên/ Những hội hè đình đám/ Trên núi Thiên Thai/ Trong

chùa Bút Tháp/ Giữa huyện Lang Tài ... là một ví dụ cụ thể. Từ những cánh đồng chiều

Kinh Bắc, từ những sông ngòi, núi đồi Kinh Bắc, từ thời gian đến không gian trong thơ

Hoàng Cầm đều gợi lên những nét đẹp văn hoá với những dấu ấn khó quên. Và ở đó,

những nơi ấy, đâu đâu ta cũng thấy bảng lảng bóng hình người con gái đi ra từ cội nguồn

văn hoá Luy Lâu tình tứ, duyên dáng cùng với những sắc điệu dân ca bay bổng khiến

lòng người phải say đắm khôn nguôi.

Theo ông Trần Quốc Thịnh - nhà nghiên cứu văn hoá dân gian xứ Bắc, năm nay

(2013) 79 tuổi, là nhân chứng sống suốt từ hơn nửa thế kỷ trước cho tới nay, hầu như tất

cả những cuốn sách lịch sử, dã sử, những bài thơ, lời ca về Thiên Thai ông đều nhớ

được. Ông kể về dải núi này với niềm tự hào, say mê: Cả dãy núi kia mang hình dáng

một con rồng có đủ chín khúc gắn với chín ngọn núi nối tiếp nhau nằm trải dài bên bờ

sông Đuống. Trái núi Thiên Thai được gọi là đầu rồng. Đây là nơi đã sinh ra vị danh

nhân đất nước đó là Thái sư Lê Văn Thịnh. Ngày xưa rừng thông phủ kín núi, trên đỉnh

ngọn Thiên Thai có một ngôi chùa cổ trăm gian và một vườn hồng đào, đây là một giống

đào đặc biệt, hoa nở thành từng chùm buông xuống như những chiếc đuôi cáo nên mới

có cái tên là Hồng Đào. Điều đó cho thấy Thiên Thai là một không gian văn hóa tiêu

biểu của Kinh Bắc trong sáng tác thơ và nhạc.

Cùng với hệ thống núi đồi Kinh Bắc, núi Neo ở Yên Dũng cũng được coi là một

dãy núi có nhiều truyền thuyết với 99 ngọn gắn với 99 con chim Phượng Hoàng về đây

tìm đất đế đô. Đến thời kỳ kháng chiến chống thực dân Pháp, núi Neo cũng được Hoàng

Cầm nhắc đến với bao kỷ niệm khó quên cùng những cuộc hành quân dã ngoại để biểu

65

diễn văn nghệ phục vụ các đơn vị kháng chiến ở vùng quê Yên Dũng. Nhà thơ Hoàng

Cầm từng ở vùng quê này đến gần một tháng, do vậy những cảnh quan thơ mộng nơi đây

đã nhập vào hồn thơ thi sĩ tự lúc nào không rõ: Chèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo….

Và phải chăng cảm hứng về cây Cỏ Bồng Thi trong một cuộc tình lỡ dở của nhà thơ phải

chăng cũng xuất phát từ chính nơi đây? Núi Neo - Nham Biền cũng được coi là biểu

tượng của truyền thuyết linh thiêng đất Kinh Bắc, gắn với sự tích Vua Bà (Cái tên núi

Vua Bà có từ bao giờ, chẳng ai rõ được, chỉ biết rằng người Việt xưa và cả ngày nay có

tục thờ mẫu - mẫu lớn nhất là mẫu mẹ Âu Cơ, bà mẹ sinh ra trăm người con. Người con

cả được tôn xưng là Hùng Vương dựng lên nước Văn Lang. Ấy là tổ nước ta vậy, việc

vua Hùng tìm đất dựng kinh đô đều gắn với truyền tích 100 con phượng hoàng, hoặc 100

cây thông, 100 con voi. Nơi nào được coi là vùng đất linh thiêng, linh khí của đất trời tụ

lại thì 100 con chim phượng đậu ở đó…. Núi Nham Biền chỉ có 99 ngọn, thế là 1 con

không có chỗ đậu, nên cả đàn đành bay đi. Tuy không phải là vùng đất đóng đô được

nhưng đó cũng là nơi đất quí. Có thể cái tên Vua Bà bắt nguồn từ tục thờ mẫu ấy). Như

thế, cùng với núi Thiên Thai, núi Neo - Nham Biền cũng là một trong những biểu tượng

của văn hóa dân gian vùng Kinh Bắc quê ông.

Nhà thơ Hoàng Cầm còn để lại bao dư vang nghệ thuật đối với hình ảnh của

những người nông dân gắn với những công việc lao động ruộng vườn, những sinh hoạt

văn hoá dân gian dưới chân núi Neo, núi Cô Tiên (Yên Dũng), núi Dạm (Quế Võ) và

những ngôi làng quanh ngọn đồi có ngôi chùa Bổ Đà (Việt Yên)…

Bên cạnh những ngọn núi linh thiêng kỳ ảo và thơ mộng, Kinh Bắc còn có những

ngọn đồi mang dấu ấn lịch sử lâu đời, gắn với những sinh hoạt văn hóa của người dân

nơi đây. Đó là đồi Lim - biểu tượng của sân khấu dân ca quan họ Kinh Bắc. Nằm giữa

một cánh đồng bằng phẳng, phì nhiêu, từ cõi hỗn mang, đồi Lim bỗng nhú lên như một

sự sáng tạo của thế giới ban tặng cho nhân dân nơi đây. Tuy nó không có được cái

hùng vĩ, uy nghi của núi, nhưng nó đã đánh dấu bước đầu của sự nảy sinh và phân hóa

tư duy trong cái thiêng của nền văn hóa Quan họ Kinh Bắc. Đồi Lim đã trở thành nơi

hẹn hò của bao cặp hát, của bao bọn hát trong những canh hát ngắn, dài. Nam thanh nữ

tú thì say mê bỏ nhà, bỏ cửa, ngày đêm đi tìm cho bằng được người bạn hát để “thử

giọng” trong cả một rừng người trên đồi Lim ấy. Thơ Hoàng Cầm không thể thiếu đồi

Lim, càng không thể thiếu quan họ. Ông đã nhập hai thành một để dựng lên chính cái

biểu tượng của văn hóa Kinh Bắc, đồng thời cũng nói lên được cái đặc trưng của văn

66

hóa tìm bạn trong ngày hội này: Đồi Lim bốc lên với cả rừng người/ Lượn tròn trong

gió tiếng hát tiếng cười/ Vang vang điện đài thế giới…/ Người đóng băng đi tìm mặt

trời le lói/ Chợt nghe lửa mắt người trai sông Cầu…. Nhắc đến đồi Lim là nói đến loại

hình sinh hoạt văn hóa quan họ và ngược lại, hễ nhắc đến hát Quan họ là nhắc đến đồi

Lim với Hội Lim.

Lâu đài thơ kỳ ảo của Hoàng Cầm đẹp trong sóng mắt sông Cầu, sông Đuống,

trong mây ráng Luy lâu, Thiên Thai, Phật Tích, chùa Dâu, Vân Hà, Yên Dũng… rồi

những tên làng, tên hội, tên người, tên núi, tên đồi có thật của vùng văn hoá Kinh Bắc và

cả những cái tên ông tạo ra (như miếu Hai cô) đều rất sâu lắng trong hồn quê Việt, như

một lời khẳng định vĩnh cửu, trường tồn với thời gian. Lịch sử đất và người, văn hoá và

văn hiến Kinh Bắc vốn đã lâu đời truyền thống, trải dài hơn 4000 năm, nay được thi sĩ

Hoàng Cầm chưng cất trong hồn thơ Kinh Bắc qua việc phản ánh tinh thần, tình cảm của

mình lại càng đưa ta về với tiềm thức dân tộc của chính uyên nguyên bản ngã mình. Thơ

ông sừng sững như một trái núi khổng lồ với rừng cây rậm rạp phủ quanh còn xanh tươi,

với nền văn hóa lâu đời sống mãi và ngày càng có sức lan toả trong lòng độc giả âu cũng

không có gì là khó hiểu.

2.2.3. Biểu tượng lá, cỏ, quả

Trong nguồn thi liệu và thi đề của thơ ca Việt Nam, thế giới thực vật luôn có

những đóng góp đáng kể cho sáng tác thơ ca: các loại cây tre, xoan, trầu, cau... Vốn dĩ là

những loài cây quen thuộc của làng quê từ bao đời, được các thi nhân thụ cảm như một

đối tượng thẩm mỹ riêng biệt về tình yêu quê hương, văn hóa và con người Việt Nam.

Theo quan niệm của dân gian, trong quá trình hình thành và phát triển nền văn

hóa, việc sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người.

Với người Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên

lại càng dài lâu và bền chặt, hệ thực vật trong tư duy dân gian người Việt luôn gắn liền

với các biểu tượng về tín ngưỡng thờ cúng, sùng bái. Việc đồng thời phụ thuộc vào nhiều

yếu tố khác nhau của tự nhiên dẫn đến hậu quả trong lĩnh vực tư duy là lối tư duy tổng

hợp và trong lĩnh vực tín ngưỡng là tín ngưỡng đa thần, tính chất âm tính của văn hóa

nông nghiệp dẫn đến hệ quả trong lĩnh vực quan hệ xã hội là lối sống thiên về tình cảm,

trọng phụ nữ.

Theo đó, biểu tượng là những hình ảnh cụ thể của vật thể và hiện tượng thế giới

bên ngoài và các tính chất của chúng xuất hiện trong ý thức con người mà không có sự

67

trực tiếp tác động của kích thích bên ngoài lên các cơ quan cảm thụ con người đó… Vậy

biểu tượng là yếu tố quan trọng hợp thành các rung động, cảm xúc, phương tiện có hiệu

lực để điều khiển các trạng thái cảm xúc con người. Biểu tượng có nhiều loại: biểu tượng

thị giác, biểu tượng thính giác, biểu tượng xúc giác, biểu tượng khứu giác, biểu tượng

vận động. Trong sáng tác thơ ca thì biểu tượng nên thơ được coi là một biểu tượng có

hình tượng bởi vì biểu tượng nên thơ không phải phơi bày trước mắt ta bản chất trừu

tượng của cái hiện thực cụ thể.

Như vậy, có thể thấy, bản chất của biểu tượng nghệ thuật là mang tính thẩm mỹ,

gắn liền với tư tưởng, tình cảm, tài năng cá tính sáng tạo ở nhà thơ. Vì lẽ đó, chỉ có

những hình ảnh nào chứa đựng trong nó những đặc tính một hình tượng thi ca, nghĩa là

nó cho phép ta nhận ra khái niệm của sự vật một cách cụ thể sinh động, khơi gợi trí

tưởng tượng, đánh thức cả một thế giới tinh thần ở người đọc mới được xem là một biểu

tượng nghệ thuật. Biểu tượng mang sắc thái riêng từng nhà thơ mà ngay từ đầu đã có

chiều hướng quyết định đến cách chọn hình ảnh, tứ thơ. Nhà thơ ở nhà máy hay ở làng

quê, nhà thơ ở miền núi hay ở miền biển - đều mang dấu ấn biểu tượng nhất định. Đối

với từng nhà thơ, biểu tượng thời thơ ấu khá quan trọng và nó cũng giữ lâu trong tâm hồn

nhà thơ. Như Bàng Bá Lân với chiếc cổng làng, Tế Hanh với biểu tượng sông nước; biểu

tượng trăng hiện lên trong thơ Bác; biểu tượng con đường trong thơ Tố Hữu; biểu tượng

về người lái tàu trong thơ Sóng Hồng; biểu tượng ngọn đèn trong thơ Chính Hữu; biểu

tượng con nai vàng trong thơ Lưu Trọng Lư; biểu tượng chợ trong thơ Anh Thơ… Với

mỗi vùng văn học, các nhà thơ, nhà văn đều có biểu tượng riêng. Các biểu tượng ấy cơ

bản đã được định hình trong quá trình phát triển lâu dài của truyền thống văn học, văn

hóa, mà ít sáng tạo ra những biểu tượng mới. Tuy nhiên, việc tạo dựng lên những biểu

tượng mới như trong thơ Hoàng Cầm (ở đây, chúng tôi nói tới biểu tượng lá, cỏ, quả) thì

quả thực không phải là nhà thơ nào cũng có được. Và, với Hoàng Cầm, ông dựng lên

biểu tượng lá, cỏ, quả không phải là để theo tín ngưỡng thờ cúng trong văn hóa nông

nghiệp của người Việt, mà để nhằm nói về biểu tượng của tình yêu đôi lứa. Các biểu

tượng về tình yêu đôi lứa trong thơ ông phát triển phong phú theo cuộc đời con người,

theo các chuyến đi, quá trình quan sát, theo tuổi đời, theo thời gian mà định hình nên cá

tính yêu của ông. Các biểu tượng đó sẽ được in dấu ấn vào hành trình thơ Hoàng Cầm và

trở thành tài sản chung cho loại hình nghệ thuật thơ ca về sau.

68

Trong quan niệm của người Việt Nam thì cây, lá, quả, cỏ... nằm trong hệ thực vật,

là những thứ luôn gắn liền với đời sống sinh hoạt thuần nông, gắn với cách cảm, cách

nghĩ về một nền nông nghiệp cổ truyền lấy nghề nông làm nghề gốc: Lúa non phấp phới

đầu bờ/ Hễ nghe tiếng sấm phất cờ mà lên (ca dao). Nhìn vào sắc màu, sự phát triển của

cây cối mà biết được, đo được về thời gian, thời tiết. Vậy cây, lá, quả, cỏ trước hết nó

thuộc hệ biểu tượng về đất đai nông nghiệp. Đó là sự kết nối, giao hòa giữa thiên - địa và

được xem như là cội nguồn của sự sống. Nhưng đi vào trong thế giới thi ca, qua quá trình

xử lý "dữ liệu" của nhà thơ thì nó lại trở thành những biểu tượng mang giá trị nghệ thuật

ở một tầng bậc ý nghĩa khác nhau, nói cách khác nó biểu tượng cho một ý đồ nghệ thuật

riêng của tác giả. Bởi người nghệ sỹ sáng tạo ra tác phẩm trước hết là cắt nghĩa hình

tượng sự việc để nhận thức đời sống, thể hiện tư tưởng tình cảm, sau đó mới gửi gắm

những tâm sự của mình. Trong nền thơ ca hiện đại Việt Nam, thi sĩ Hoàng Cầm cũng gửi

gắm tình cảm, tình yêu của mình một phần qua hệ thống biểu tượng như thế.

Có thể nói Hoàng Cầm là nhà thơ đã tạo ra nhiều tín hiệu nghệ thuật mà trước hết

đó là những tín hiệu thẩm mỹ mang chủ tính riêng biệt, biểu tượng cho một tình yêu

trong ông: tình yêu quê hương đất nước luôn xót xa cay đắng và một tình yêu đôi lứa với

những khối u tình nhiều khi như còn đang khắc khoải, uất nghẹn trong trái tim. Cách thể

hiện tình yêu trong ông không giống với các nhà thơ hiện đại Việt Nam khác, Hoàng

Cầm đã tạo lên một thế giới tình yêu lạ lùng, huyền diệu và đầy bí ẩn từ những: lá Diêu

Bông, lá lan đao, cỏ bồng thi, lá trường sinh, cỏ Thiên Đồng, lá đài bi, lá bẽ bàng. Đó là

những tín hiệu thẩm mĩ, những biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa đã nhập vào trong

điệu hồn thơ ông, mà trước hết đó là biểu tượng của cái đẹp để nhà thơ bước vào một cõi

thơ đầy bí ẩn, siêu thực, vô lý, với những hình ảnh thơ không dễ gì nắm bắt được bằng tư

duy lôgíc thông thường, mà phải đặt nó trong mối quan hệ với một trường văn hóa thẩm

mỹ riêng của vùng miền, của nhà thơ mới mong một sự giải mã nghệ thuật.

Trong thơ văn cổ, nếu như Tùng - Trúc - Cúc - Mai được coi là bộ tranh tứ bình

biểu tượng cho bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông, thì đến thơ hiện đại Việt Nam ta cũng

thấy có một bộ tranh đặc sắc trong các thi phẩm của Hoàng Cầm với những: Lá - Cỏ -

Quả (Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng Thi, Quả Vườn Ổi,...), những tín hiệu nghệ thuật thơ

được bật ra từ cõi mơ, từ vô thức, từ hư không mang biểu tượng cho khát vọng tình yêu

da diết, ám ảnh. Những tín hiệu ấy cứ ẩn hiện chập chờn, mơ màng, thức- tỉnh trong suốt

quá trình sáng tác, tưởng chừng như vô nghĩa, thông thường nhưng lại tạo nên một sự

69

liên tưởng diệu kỳ trong trường liên tưởng mối tình yêu - Hoàng Cầm. Nếu xét kỹ ta

thấy, đó là những hình ảnh thơ nghĩa đen không có mà nghĩa bóng cũng không rõ, cứ

phiêu diêu, mơ hồ ảo ảnh, bởi dường như lời thơ là lời của người trong mộng báo về:

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng

Chị thẩn thơ đi tìm

Đồng chiều

Cuống rạ (Lá Diêu Bông).

Sáng tác được một hình ảnh thơ như thế, hẳn nhà thơ phải bước vào một thế giới

không thuộc về hiện thực, là thế giới của tiềm thức, vô thức và bật được ra những ý thơ,

lời thơ mà Hoàng Cầm gọi đó là "Thần tự" và "nhiều khi chỉ cảm thấy được thôi" [14,

tr.211]. Phải chăng vì thế mà chúng đều là biểu tượng của cái đẹp, cái đẹp trong mối

quan hệ giữa thực và hư. Hành trình đi tìm Lá diêu bông, Cỏ bồng thi, Quả vườn ổi là đi

tìm cái đẹp trong cõi phiêu diêu, mơ hồ, mông lung và mãi mãi vẫn chỉ là một khối cô

đơn lẽo đẽo bụi hồng của thi nhân?

Trên phương diện này, chúng tôi tìm hiểu bình diện con người tâm linh từ hai

nhân vật Chị - Em gắn với biểu tượng thực vật xuyên qua những tháng năm mộng ảo của

vùng Kinh Bắc diễm lệ, đa tình với những cảm xúc như vượt qua khỏi sự kiểm soát của

lý trí (theo khảo sát của chúng tôi trong thơ Hoàng Cầm, cặp xưng hô Chị - Em chiếm vị

trí chủ đạo: Mưa Thuận Thành có 21/33 bài thơ, 99 tình khúc có 82/99 bài thơ, Về

Kinh Bắc chiếm phần lớn).

Mối tình Chị - Em trong Lá Diêu Bông được nhà thơ “ép sống” trong thời gian

của tâm thức cô liêu, của khát vọng ảo ảnh mơ hồ, của tư duy sáng tạo vô thức để đến

khi ra đời nó là một biểu tượng bất tử của mối tình hư ảo:

Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng...

... Xòe tay phủ mặt chị không nhìn.

Nhà thơ đã kết hợp khả năng của giấc mơ và khả năng tư duy vô thức để tạo ra

các liên kết giữa các ký ức đã ghi nhớ, được chọn lọc và kích thích chúng hoạt động để

thực hiện sự nhận thức về thế giới xung quanh, định hướng cho hành vi phù hợp với môi

trường sống. Ở đây là tâm tình của chàng trai đa tình Hoàng Cầm năm 12 tuổi với người

gái láng giềng hơn những 8 tuổi ấy giống như một câu chuyện cổ tích - Cổ tích Hoàng

Cầm, cổ tích Lá Diêu Bông. Cổ Tích về một mối tình tuổi thơ thật đẹp, thật ngọt ngào ấy

đã làm cho cậu bé cả cuộc đời đi đầu non cuối bể để tìm lá nhưng kết quả đem lại chỉ là

70

sự Cơ hàn của một quá trình, một chu trình hoàn tất, tính toàn thể của sự sống con người

(nhân sinh thất thập cổ lai hy) mà ông đã gửi lại trong Tinh anh thể phách:

người ngang té nhào

uống vào như chơi

Bẩy mươi rồi vẫn cơ hàn, thẫn thờ phố dọc Tám mươi khát cả lưỡi dao sắc như nước loáng Chín mươi... dẫu đến mười mươi khát thương em quá Khóc thôi một mình.

Lá - ở đây là biểu tượng của hạnh phúc và sự phồn vinh, nhưng lá đã không tìm

thấy, tình yêu từ chiếc lá ấy cũng không có được, tình yêu ấy chỉ tồn tại trong một giấc

mơ thơ, giấc mơ của một thời qúa vãng cứ chập chùng ẩn hiện đẹp đẽ, sang trọng, linh

thiêng mà xa vời như chiếc Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng kia. Ký ức ấy đã in

quá sâu trong tâm thức nhà thơ, để mỗi khi hiện về nó lại đọng thành hình, thành khối.

Người con gái cứ lúng la lúng liếng, nửa nhìn nửa liếc, kín kín, hở hở vậy thôi và để đó,

làm cho cây còn bật rễ lật nhào huống chi chàng trai Hoàng Cầm đa tình đến vậy ? Có

thể nói đây là một trong 5 mối tình lạ lùng nhất trong thơ ông, là mối tình đầu đời ám ảnh

nhất của ông, là giấc mơ ngọt ngào nhưng cũng là vị thuốc Hoàng Cầm đắng chát trong

đời khi ông choàng tỉnh giấc mà dư âm để lại của nó là những vần thơ hết sức lạ kỳ từ

trong vô thức, lạ kỳ như giấc mơ của cậu bé mơ mộng tuổi 12. Mơ mộng quá nên cậu bé

cứ đi tìm lá:

Lần 1: Hai ngày sau em tìm thấy lá

Lần 2: Mùa đông sau em tìm thấy lá

Lần 3: Ngày cưới chị em tìm thấy lá

Lần 4: Vẫn mải miết đi tìm cho đến khi: Chị ba con em tìm thấy lá.

Bốn lần tìm thấy lá nhưng bốn lần chị đều phủ nhận sạch trơn bởi một tín hiệu giao

tiếp bằng mắt (eye contact):

Lần 1: Chị chau mày/ đâu phải lá Diêu Bông

Lần 2: Chị lắc đầu / trông nắng vãn bên sông

Lần 3: Chị cười/ xe chỉ ấm trôn kim

Lần 4: Xòe tay phủ mặt/ Chị không nhìn

71

Sự thay đổi dần sắc thái trong câu trả lời của Chị mỗi lần nhìn lá đã thay lời giải

mật mã Diêu Bông. Nghệ thuật chối từ của người chị được nhà thơ diễn tả hết sức tinh tế,

mặc dù nỗi đau xé lòng của chị cứ tăng dần dần. Nhưng chị khó nói với em một lời.

Ngôn ngữ thể hiện trong thơ ông vì thế cứ mơ hồ, chỉ có thể thấy hay, mà khó có thể cắt

nghĩa, lý giải. Ngôn ngữ ấy bắt nguồn từ sự am hiểu văn hóa, từ chiều sâu của cảm thức

tư duy lưỡng phân trong chốn tâm hồn và từ sự từng trải lịch lãm của con người tác giả.

Để hiểu được câu trả lời của Chị, Em phải nắm bắt bằng một tín hiệu “mắt” và càng bắt

bằng tín hiệu “mắt” ấy thì Em càng thấy yêu Chị, say mê, sy mê Chị. Si mê đến nỗi đau

đớn để rồi chìm vào cõi lạc lõng bơ vơ:

Từ thủa ấy

Em cầm chiếc lá

Đi đầu non cuối bể.

Và lắng nghe tiếng Gió quê vi vút gọi nơi đồng chiều ấy cứ ngân vang mãi

khúc ca:

Diêu Bông hời...

... ới Diêu Bông...!.

Hoàng Cầm đã làm cho không gian hóa thời gian, khoảng cách thời gian là

khoảng cách của các dòng thơ, câu thơ cứ trôi tuột một cách vu vơ mơ hồ, mải miết, phi

lôgíc, siêu thực với các khoảng trống của tư duy để tạo nên một siêu hình ảnh thơ. Tiếng

của chị hay là lời của gió thoảng mây bay nơi đồng chiều Kinh Bắc? Với nhà thơ cánh

đồng nơi đây là miền đất của tuổi thơ, tuổi trẻ, đó là nơi tựa hồ cõi thần tiên, nơi đây các

cánh đồng mọc những loại cỏ nở đầy những loài hoa vĩnh cửu - cánh đồng thiên đường.

Nhà thơ cố níu giữ hạnh phúc trong một không gian ảo, trong giấc mơ tình ái, không

gian ấy hòa lẫn vào một cuộc đời thực để tạo nên những khát khao đầy ẩn ức, ngậm ngùi

với nỗi niềm 80 (80 tuổi):

Dẫu anh biết Diêu Bông không thực

Sao Diêu Bông cứ thức hồn em

Cứ sao băng mãi đường đêm

Cứ trăng lên đậu cành mềm xuân quê.

(Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông).

Phải chăng Hoàng Cầm quá ảo, quá si mê nên gần 60 năm trời mới nhận ra chiếc

Lá Diêu Bông kia là không có thực? Hay cố tình sống trong ảo giác để được hạnh phúc?

72

Bởi qúa khứ ấy, hình ảnh Chị - mối tình Diêu Bông ấy nó quá đẹp? để giờ đây mới thú

nhận một điều:

Diêu Bông gọi mãi không về

Cứ ngồi canh một giấc mơ mặn nồng

... Diêu Bông biệt chẳng cần em tiễn

Cứ chập chờn ẩn hiện tháng năm

... Diêu Bông anh áng chừng mệt mỏi.

Cái đẹp gần gũi mà sao như xa vời quá, linh thiêng, huyền bí quá không thể chạm

tới được. Trong sự cố công trên đường đi tìm nhân duyên, tìm chiếc lá bùa yêu ấy, giờ

đây chỉ còn là chuyện kể mà thôi, và thi nhân nhận ra rằng Diêu Bông là không có thực:

Rằng... xưa... ai biết vì sao

Lá gì lại gọi thế nào...

Diêu Bông...

(Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông).

Giờ đây chỉ còn là hoài niệm về một quá khứ xót xa, đắng cay, tiếc nuối, hoài

niệm cho những giấc mơ. Vì thế mà nhân buồn, thi cũng buồn theo. Với Hoàng Cầm,

Diêu Bông chỉ là ảo, là hư, là hư ảo nên ông mới nợ đời, nợ tình vì cái hư ảo ấy:

Một đời nợ suốt Diêu Bông

Gọi đôi kết lứa xe hồng được đâu.

(Ai xui chắp mảnh xe hồng).

Điều đó cho thấy lá Diêu Bông chỉ còn tồn tại với ý nghĩa là biểu tượng cho một

tình yêu của Hoàng Cầm, Hoàng Cầm - Diêu Bông - Mối tình thơ. Lá Diêu Bông là lá

gì? Nó có ở đâu... đến người sáng tạo ra nó, cho nó hiện hữu trong trái tim cháy bỏng yêu

đương của đôi lứa cũng không biết nó mọc ở đèo cao, suối sâu nào. Có thể nói, làm được

điều đó, Hoàng Cầm đã tạo dựng cho mình một sự độc đáo lớn trong lịch sử thơ tình

Việt Nam: ông đã vẽ chiếc lá từ cõi mộng để chuyển hóa vào cõi thực. Phải chăng lá

Diêu Bông chính là biểu tượng của tình yêu chân thành hằng khao khát? Mối tình của

người Quan họ trong Lá Diêu Bông âm thầm bén duyên với người đọc tự ngày nào. Bài

thơ không chỉ khắc họa cái không gian làng quê Kinh Bắc, mà hơn thế còn tô đậm vẻ

đẹp tâm hồn phong phú của con người nơi đây. Bởi lẽ trong thơ, Hoàng Cầm còn gợi về

trong tâm trí ta chút duyên thầm của lời ca Quan họ mượt mà đằm thắm.

73

Mối tình của người Em với Chị trong thơ Hoàng Cầm cho chúng ta liên tưởng thú

vị đến những tình cảm thiêng liêng của liền anh liền chị trong đêm hội giã bạn người

Kinh Bắc. Mỗi năm một lần “đến hẹn lại lên” trong đêm hội làng, hội vùng, anh hai chị

hai bằng lời ca tiếng hát xoắn quyện khúc “giao duyên” tâm tình cho thỏa nỗi nhớ mong.

Cái motif tình yêu của trò chơi tìm lá Diêu Bông chính là nét đặc trưng tiêu biểu cho thế

giới tình yêu của người quan họ. Trong tâm hồn nhà thơ luôn thường trực con người quê

hương này, như lời tự thuật của ông: Tôi người làng quan họ/ Quê mẹ bên này sông/

Cách quê cha/ một dòng nước trắng. Do đó nếu không hiểu văn hóa Quan họ thì sẽ khó

cắt nghĩa cách thể hiện tình yêu nam nữ trong thơ Hoàng Cầm.

Thơ Việt Nam hiện đại dường như đã có sự đổi ngôi về đặc trưng loại thể, song

cũng chính nhờ sự đổi ngôi này đã mang lại giá trị đặc sắc về mặt nội dung và nghệ

thuật cho chúng. Lá Diêu Bông của Hoàng Cầm là một trong số ít bài thơ thành công

nằm trong trường sáng tác đó. Đây là tác phẩm nổi tiếng xuất hiện trên thi đàn Việt

Nam mà rất nhiều người khi đọc bài thơ này đều thấy có “chút gì” của mình ở trong đó.

Người ta cảm thấy Lá diêu bông về tính không thực cho một tình cảm có thật mà

Hoàng Cầm đã khéo léo đưa câu chuyện tình đầu đời của mình vào. Sinh ra và lớn lên

ở miền quê quan họ, Hoàng Cầm đã đi cùng dân tộc suốt chiều dài Bên kia sông

Đuống, và biết đâu khi đã bước sang một thế giới khác rồi ông sẽ tìm được Lá Diêu

Bông mà ông hằng mường tượng? Bởi lẽ, với Hoàng Cầm, sự sống luôn là Nguyên

hình ảo vọng chấp chới giữa hiện thực và huyễn mộng: Khi lửa khói tàn đêm, dòng

sông êm ái/ Tôi lại gặp em, tưởng tháng năm dài chững lại/ Em vẫn thế… thon cây

mềm trái/ Tóc hong chiều còn óng tuổi mơ xanh. Chính Hoàng Cầm cũng từng nói “Lá

Diêu Bông là chiếc lá huyền thoại, chiếc lá ngây thơ về một tình yêu đầy mộng mơ thời

thơ ấu”. Chiếc lá ấy đã vượt thời gian và không gian. Trong Hoàng Cầm - Tác phẩm

thơ, (Nxb Hội Nhà văn ấn hành năm 2003, Lại Nguyên Ân biên soạn) chúng tôi khảo

sát có tới 20 lần Hoàng Cầm nhắc tới lá và đều mang đậm giá trị thẩm mỹ) như chiếc lá

Diêu Bông trong thi ca ông.

Quả vườn ổi cũng là một trong số những ví dụ như vậy.

Nếu xét theo nghĩa đen thông thường thì quả ổi là một thứ quả có thực, ăn được,

trồng chủ yếu trong vườn nhà. Nhưng ở đây, nhà thơ lại gọi theo một cách khác mang

nét nghĩa biểu tượng riêng: Quả vườn ổi - một thứ quả chưa được định nghĩa hay gọi

74

thành tên. Cùng với Cây tam cúc, Cỏ bồng thi, Lá diêu bông thì Quả vườn ổi đã tạo nên

một thế giới thực vật lạ lùng, huyền diệu và đầy bí ẩn, đồng thời nó cũng trở thành những

biểu tượng nghệ thuật đa tầng nghĩa cho khát vọng tình yêu đôi lứa.

Bằng lối bịa nghệ thuật, kết hợp với việc lựa chọn từ ngữ sáng tạo, linh hoạt,

Hoàng Cầm đã tạo ra sự mới lạ, độc đáo riêng cho phong cách thơ mình:

Em mười hai tuổi tìm theo Chị

Qua cầu bà Sấm bến cô Mưa

Đi....

Vẫn là theo Chị, nhưng không phải ra đồng chiều cuống rạ, để rút trộm rơm nhà

đi trải ổ nữa, mà là đi tìm hạnh phúc nơi cầu bà Sấm, bến cô Mưa - cầu ấy, bến ấy ở đâu,

nơi nào? Xa hay gần? Tất cả đều không rõ, vô định, không lý giải nổi. Đó chỉ có thể là

những địa danh ở trong thơ, và như thế thì tìm đến bao giờ? Ý thơ mang tính tượng

trưng, siêu thực bởi chính tác giả cũng tâm sự “Miếu Hai cô là ở đâu? Hai cô nào... hoặc

cầu bà Sấm là trên con sông nào, bến cô Mưa là ở khúc sông nào của con sông nào tôi

cũng chịu không có lời giải đáp” [17, tr.211]. Ý tại ngôn ngoại, ta chỉ biết rằng đằng sau

những địa danh ấy là những bước chân phong trần vất vả của Em còn đang hằn lên trên

con đường tìm tình yêu, hạnh phúc cho cuộc đời mình. Nhưng đi đâu, tìm ở nơi đâu?

“Đi...” - một dòng thơ chỉ chứa có một từ biệt lập và dấu ba chấm mà sao nặng nề như

những bước chân không còn đủ sức trên con đường dài vô tận, hun hút vào hư không.

Đằng sau dấu ba chấm (...) ấy là những gì? Bằng cấu trúc tỉnh lược ngôn từ, tác giả đã

tạo ra được những khoảng trắng thẩm mỹ thu hút tư duy người đọc và đòi hỏi bạn đọc

giải mã tín hiệu thẩm mỹ ấy. Đi ngày đi tháng, đi mãi, đi hoài và... tìm, nhưng kết quả

vẫn là tìm không thấy. Không thấy là điều tất nhiên bởi tất cả đều là bờ hoang. Mà thực

ra cái cận kề cũng có lấy được đâu:

Cách nhau ba bước vào vườn ổi

Chị xoạc cành ngang... em gốc cây

- Xin Chị một quả chín

Quả chín quá tầm tay

- Xin Chị một quả ương

Quả ương chim khoét thủng.

Khoảng cách giữa Chị và Em đã đủ gần “ba bước” để với lấy. Hạnh phúc được

ăn quả tưởng như trong tầm tay. Ấy vậy mà sự thật cứ trớ trêu Em quá. Quả vườn ổi ở

75

đây rõ ràng là một trái cấm. Xét về mặt biểu tượng văn hóa thì quả là "Biểu tượng của

sự sung túc, dồi dào chảy tràn ra ngoài cái sừng Nữ thần phong nhiêu hoặc những cốc,

bình trong tiệc cổ của các thần linh, vì trái cây chứa nhiều hạt, nên Giueenon so sánh

nó với Quả trứng thế giới, biểu tượng của mọi nguồn gốc, mọi sự khởi nguyên. Trong

văn học, quả mang ý nghĩa tượng trưng... từ đó tạo biểu tượng quả như là những ham

muốn nhục thể, khao khát bất tử hay phồn vinh" [17, tr.749]. Như thế người Chị nhất

định không cho dù quả ương hay quả chín, nghệ thuật chối từ, không đồng ý vẫn kiểu

như trong Lá diêu bông, nghĩa là bịa ra cái cớ ca dao (kiểu như Bỏ quên chiếc áo trên

cành hoa sen) cho đỡ mất lòng. Nhưng Hoàng Cầm hiểu điều đó hơn ai hết nên quyết

lấy bằng được, chinh phục bằng được trái cấm (trái tim - tình yêu) ấy và muốn làm chủ

được sự bất tử ấy, sự phục sinh ấy (làm chủ văn hóa - tất nhiên nó mang ý nghĩa biểu

trưng). Trên thực tế nếu có quả chín thì chim sao phải khoét quả ương? Bốn câu thơ có

dấu gạch ngang đầu dòng như bốn câu đối thoại thơ làm oằn lòng một tâm hồn dại yêu,

sy mê yêu Hoàng Cầm!

Mặc cảm với số phận nhưng Em vẫn không bỏ qua cơ hội, mà tiếp tục theo chị dù

Chị có đi đến đâu Em cũng theo đến cùng để thỏa khát khao: Lẽo đẽo. Em đi vườn mai

sau/Cúi nhặt chiều mưa dăm quả rụng. “Lẽo đẽo” là một hình ảnh thơ dễ liên tưởng.

Nhưng “vườn mai sau” thì là vô định. Phải chăng là vườn hạnh phúc ở phía tương lai?

Thật là Đường mê hun hút phương trời (Vào đường mê). Không gian đã hóa thời gian

trong cái vô định của sự vật hiện tượng, mọi thứ đã trở nên siêu hình, lạc lõng, bơ vơ,

ngơ ngác, xa vời:

Ta con bê vàng lạc dáng chiều xanh

đi mãi tìm sim chẳng chín

Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô

Gặm cỏ mưa phùn.

(Về với ta).

Nhưng đến câu thơ cuối thì lại trở về hiện thực của buổi chiều mưa buồn hiu hắt

với sự cô đơn như thơ cổ điển. Trong buổi chiều mưa ấy, Em chỉ nhặt được dăm quả

rụng (mặc dù là được dăm quả - số nhiều) - nhưng đó lại là cái dư thừa tồi tệ, cái bỏ đi,

vô giá trị. Kết thúc bài thơ Em đã có được hạnh phúc nhưng vẫn ngậm ngùi bằng lòng

vui với nỗi niềm hạnh phúc cỏn con ấy? Đó phải chăng là cái vui của kẻ bạch đinh lung

linh những mơ ước muốn lọt dinh công chúa ? Ý thơ tuy gợi buồn - một nỗi buồn sang

76

trọng, nhưng nhờ tính chất hư ảo của bài thơ mà tín hiệu nghệ thuật đã thoát ra khỏi cái

vỏ bọc khô cứng của ngữ liệu trở nên thanh thoát nhẹ nhàng và tinh tế hơn, tạo nhiều giá

trị nhân sinh hơn.

Cùng với Lá Diêu Bông, Quả Vườn Ổi, thì Cỏ Bồng Thi cũng mang ý nghĩa

biểu tượng hết sức sâu xa. Đó là những thứ không thuộc về hiện thực, chúng xuất hiện

trong thơ không phải để miêu tả, gọi tên một loài thực vật thông thường.

Ở Cỏ Bồng Thi, mối tình Chị - Em vẫn bảng lảng bay lên trong những câu thơ như

chứa đựng một tâm sự thầm kín mà ông hằng níu giữ. Với một giọng thơ đầy sức quyến

rũ bởi cái nội tâm sâu thẳm từ chiều sâu văn hóa Kinh Bắc cứ rờ rỡ hiện lên vừa linh

thiêng, vừa rất đỗi huê tình, Hoàng Cầm đã làm say đắm lòng người bởi những khát

vọng yêu đương không dễ gì gặp được trong văn học hiện đại Việt Nam. Không những

vậy, thơ Hoàng Cầm còn mượt mà như một điệu dân ca, lại có sự tha thiết, bồng bềnh,

hồn nhiên mà dân dã của hát xoan, hát ghẹo, bên cạnh đó là sự khó cắt nghĩa cho đặng rõ

ràng của một tâm thức thơ ngây luôn hướng về những gì là mộng ảo, ký ức. Ký ức

Hoàng Cầm cứ cồn cào hòa trộn giữa hiện thực và mộng ảo. Bởi thế đọc thơ ông,

thường thì người ta thấy cảm nhiều hơn là để phân tích. Nếu như ở Lá Diêu Bông là

chuyện đố lá thì ở đây là chuyện đố tìm một loại cỏ.

Cuộc chơi ở đây bắt đầu từ tuổi 17: Ngày mười bảy tuổi/ Chót chơi đố cỏ Bồng Thi/

Cỏ Bồng Thi phải cheo leo mỏm đá.... Ý thơ vừa thực vừa ảo, càng suy nghĩ ta càng thấy

ảo. Cỏ Bồng Thi là loại cỏ gì chính Hoàng Cầm cũng không giải thích nổi. Ông gọi

những tín hiệu đó là thần tự, tức chữ của thần linh đọc lúc nửa đêm chứ “không phải là

của tôi nghĩ” (Hoàng Cầm), dù sao chúng ta cũng thấy đó là sự sáng tạo, lạ hóa ngôn

ngữ tuyệt vời của người nghệ sĩ đất Kinh Bắc. Giống như Diêu Bông, Bồng Thi - đọc lên

gợi âm hưởng vang nhẹ và nhòe mờ về ý nghĩa, cảm giác như chơi vơi, cheo leo nơi

mỏm đá. Bồng thi có âm đọc như Bồng lai kết hợp từ cỏ - rất rõ về nghĩa gợi ra những

liên tưởng mới trong sự cảm nhận về một thứ thi pháp thơ lạ hoá mới, chứ khó có thể cắt

nghĩa một cách rõ ràng. Qua đó nhà thơ đã chuyển hóa được một lượng thông tin thẩm

mỹ lớn đến người đọc từ trái tim nhạy cảm của mình.

Sự chênh lệch giữa cái nói ra và cái không được nói ra chính là giá trị nghệ thuật

được biểu đạt của các tín hiệu thẩm mỹ. Cỏ Bồng Thi là một sản phẩm của trí tưởng

tượng, chứa đựng ý nghĩa tín hiệu thẩm mỹ về tình yêu Chị, Em - Hoàng Cầm:

77

Chị đưa Em đến bến này

Cheo leo mỏm đá

Trước vực

Sau khe

Thọng lọng tơ gì quấn gót

Tua khăn còn buộc búp hoa lan

Ù ù gió thổi

Em vọng ai đâu mà hóa đá.

Cái sự đố ấy thật trớ trêu làm sao, Cỏ Bồng Thi đã là ảo, nơi cheo leo mỏm đá,

trước vực sau khe cũng không rõ là ở đâu, ở mỏm núi Neo cheo leo chập chùng của dãy

núi Nham Biền đọng đầy truyền thuyết: Chèo ngọn núi Neo đá chởm tai mèo (Đếm giờ),

hay trên dãy Lạn Kha? Ở trên núi Thiên Thai hay đâu đó trong hòn Cô Tiên nơi vùng

quê Kinh Bắc? Không rõ thì làm sao tìm cho thấy? Cái "cheo leo” nơi cỏ Bồng mọc

cũng như cái "cheo leo” nơi bến tình Chị - Em vậy. Liệu tình yêu ấy có đậu quả, có an

toàn, có bền vững? Vậy nên ngắt được cỏ ấy là điều không tưởng. Tình chị dành cho Em

cũng là điều không tưởng. Nhưng tại sao Em cứ tin một niềm tin vô cớ ở một nơi nguy

hiểm như thế? Giấc mơ Bồng thi luôn ẩn chứa những ham muốn vô thức với sự khát

khao bản năng, căn cốt phát sinh từ thời thơ ấu. Đó chính là cái vị riêng Hoàng Cầm. Có

thể nói, Ông được sinh ra từ Kinh Bắc, bám rễ tư duy sống, tư duy thơ ăn sâu dưới đất

chìm trong vật chất, văn hóa nguyên thủy Kinh Bắc, nên mới tốt tươi, mới đượm lại cái

vị riêng ấy độc đáo đến như vậy. Ông - Hoàng Cầm - cây cỏ đắng Hoàng Cầm, trữ lượng

dược phẩm vô tận cho những ai hợp với cái vị riêng ấy.

Với một lớp ngôn từ vừa truyền thống vừa hiện đại, có giá trị tạo hình cao: vực,

khe, thòng lọng, quấn gót, trói, dây muống dại kín Em rồi, ù ù... thể hiện sự nhận thức có

tính mỹ học trong tâm thức sáng tạo nghệ thuật, tạo nên được một siêu hình ảnh thơ từ

thủ pháp thi ca mới trong phong cách nghệ thuật thơ riêng biệt của Hoàng Cầm. Ngôn từ

trong thi ca không phải là sự bí ẩn, nó chính là ngôn ngữ của dân tộc, nhưng được thi

nhân tái tạo và không ngừng sáng tạo, chọn lọc, gọt rũa, mài sắc để hoàn thiện và tạo sức

quyến rũ, bồng bềnh... Và ở đây là những bấp bênh, gập ghềnh, trúc trắc với những ẩn

ức, nén nghẹn chưa được giải tỏa của mối tình đơn phương với bao điều còn muốn nói

trong Em. Thật vô định quá. Em cứ đi mải miết (như đi tìm lá Diêu Bông, Cây tam cúc,

Quả vườn ổi) vừa Đợi mùa vừa tìm cỏ lạ:

78

Em lên núi xa hái cỏ thiên đồng

Cài tóc Chị sênh tiền gõ nhịp

đánh đồng trên mái đình cong.

Theo khảo sát của chúng tôi trong Thơ Hoàng Cầm [15], chỉ 4 lần nhà thơ nhắc

đến cỏ (cỏ bồng thi, cỏ thiên đồng) để tìm, nhưng cỏ cứ mọc hoang ở nơi đâu chẳng biết,

bao giờ Em mới tìm được cái thứ cỏ lạ ấy? mà chỉ thấy toàn những cây cỏ đắng chát cho

cuộc đời:

Bao giờ anh xế về em

Ôm cây cỏ đắng làm men cuối đời.

(Mai sau dù có bao giờ).

Cái khát khao đành bỏ lửng, đến khi “xế chiều” Hoàng Cầm mới nhận ra cái thứ cỏ

ấy là hư không, là ảo tưởng, một loại ảo tưởng tình yêu. Cỏ không chỉ là sắc đẹp của

thiên nhiên mà còn là linh hồn của biết bao kỷ niệm đời người. Năm tháng dần trôi,

nhưng nhà thơ không bao giờ quên những cây cỏ đặc biệt đã gặp trên mỗi nẻo đường

đời. Cái tài mang tính nghệ thuật của Hoàng Cầm chính là ông không chỉ ép lên trang thơ

những xác cỏ vô hồn mà mỗi loại cỏ từng được ông điểm mặt đều là một nỗi niềm, một

ẩn dụ về cuộc đời, số phận con người. Do đó cỏ trong thơ Hoàng Cầm là biểu tượng cho

cái khát vọng yêu và mang tính biểu tượng cho “cái lẽ có - và - không” tự thuở xa xưa

vĩnh hằng theo năm tháng, in dấu ở hiện tại và tương lai. Trong không gian nghệ thuật

thơ mình, ông đã nhận ra đó là một điểm sáng của hư không. Tất cả đều... không thực.

Chỉ có cái cây Cỏ Đắng - Hoàng Cầm kia mới thật có trên đời, lúc đó ông mới nhận thấy

trái tim mình là một “lồng đau”:

Vẫn lồng đau ấy vào thương phận

Nối chim vào ngọn lá mây

Nối men không tỉnh, nối ngày không đêm (Thờ ơ).

Sáu, bảy tuổi đã thấy mình bị cô đơn, lên tám, ông yêu chị Vinh để Lá diêu bông

ám ảnh suốt đời. Quá nhạy cảm, đa cảm, thì cô đơn càng sâu, càng ngấu. Hoàng Cầm

không chìm vào cô đơn, mà vượt lên, chế ngự và làm sáng rực nó qua những giấc mơ

của mình bằng lãng mạn khôn cùng. Hoàng Cầm để tất cả những giấc mơ chuyển động

trên phối cảnh rất thực mà đẹp hơn hiện thực. Kinh Bắc quê hương là vùng thẩm mỹ, là

bối cảnh chính, là thiên đường của tình yêu, với hội hè, ca hát, hẹn hò, đám cưới, chùa

chiền. Ký ức - hiện tại - tương lai được phổ quang tỏa sắc cầu vồng lộng lẫy, của thiên

79

nhiên và những sản phẩm văn hóa phi vật thể, của trang phục mớ bảy mớ ba, tạo nên

một Kinh Bắc huyền thoại giàu bản sắc văn hóa. Hoàng Cầm đã chinh phục được vùng

thẩm mỹ ấy, nhưng lại bất lực trong việc chinh phục các cô gái quê Kinh Bắc.

Nhà văn Pháp gốc Trung Quốc là Cao Hành Kiện (sinh năm 1940) sau 20 năm xa

quê hương, ông vẫn không nguôi nhớ quê mình, ông coi Vũ Di - ngọn núi của quê

hương là cao nhất, là đáng chinh phục, để trở về (nhưng ngọn núi cao và khó vượt nhất,

là ngọn núi trong lòng). Còn Mạc Ngôn, thì lúc nào cũng ngợi ca vùng Cao Mật, tỉnh

Sơn Đông. Cái gì đẹp, lạ, hấp dẫn nhất, ông cũng đưa về Cao Mật quê hương. Với

Hoàng Cầm, ông luôn coi Kinh Bắc là đẹp nhất, đẹp từ trong cõi mộng, đẹp từ thuở mở

nước và dựng nước của dân tộc, đó là nơi tượng hình và rạng rỡ văn minh sông Hồng,

ngàn năm châu thổ kết tinh và toả sáng hào quang qua những phong tục truyền thống,

những cuộc thi tài, thi hát quan họ, vẽ tranh dân gian, trò chơi, bao cuộc yêu đương, tình

tứ dở dang và vô bờ bến... Ngay từ lúc là chú bé, ông đã yêu và theo thời gian, muốn bao

bọc để âu yếm cho người mình yêu được hạnh phúc. Người đàn ông đích thực che chở

cho người yêu của mình, cũng là để được che chở. “Tình yêu cao cả có mặt ở đâu, thì

phép màu xuất hiện ở đó” (Willa Cather), Hoàng Cầm nương tựa vào tình yêu và coi nó

là phép màu cho mình, những giấc mơ ước muốn thành hiện thực luôn được chờ đợi và

hứa hẹn trong thơ. Bởi thế, Hoàng Cầm đã tạo ra một hiện thực trong thơ khác với hiện

thực được nhìn thấy, đó là hiện thực nghệ thuật, hay là hiện thực của giấc mơ.

Cũng bởi thế, Hoàng Cầm đã phá cách cảm thức bằng cảm giác mạnh và thường

trực ám ảnh nhục cảm. Không thực hiện được khát vọng, Hoàng Cầm đã tạo dựng không

gian ân ái triền miên, mãnh liệt, phóng túng giữa đất trời với thiên nhiên. Thơ ông tràn

ngập ái ân, gợi cảm, mang màu sắc tính dục, khi ẩn dụ, khi phơi mở, đầy nam tính táo

bạo, đầy nhục cảm nữ tính. Hoàng Cầm luôn tin thơ đến từ một xứ sở mầu nhiệm nên

ông thả sức tung thơ. Ông không ngần ngại thổ lộ rằng, những bài thơ thành công nhất

của ông đều nhờ ghi chép lại từng câu, từng chữ như vọng về từ một giọng đọc bí ẩn

trong cảm giác siêu thức, nhòe mờ của tâm trạng, nhất là vào những khi đêm khuya.

Phương pháp làm thơ kỳ diệu đó của Hoàng Cầm khiến không ít người cắt nghĩa thơ ông

được rõ ràng, nhất là việc giải mã những ẩn ngữ nghệ thuật. Tuy nhiên, đọc thơ ông phải

đọc được cả văn hóa Kinh Bắc và đọc cả chính bản thân ông chúng ta mới dễ dàng tri

nhận được những mối tình đeo đẳng suốt cuộc đời nhà thơ. Phía sau mỗi bài thơ của

Hoàng Cầm đều mờ tỏ bóng hình một người phụ nữ nết na, cam chịu. Mối tình Chị - Em

80

không chỉ xuất hiện trong Lá Diêu Bông mà vẫn “dan díu” trong nhiều bài thơ khác của

ông. Thật lạ, mối tình Chị - Em luôn bật ra những câu thơ đẹp ngơ ngác và buồn day dứt,

thường trực từ tấm lòng si mê của nhà thơ, khi níu kéo khoảnh khắc Chị em xanh nức

nở: Vậy thì Em ngắt quãng tân hôn/ Theo Chị lùa mưa đuổi nắng buồn/ Hai đứa lung

linh lơi yếm áo/ Thuyền trăng dềnh sã cánh cô đơn, khi ngoảnh lại trò chơi Cây tam cúc

để thảng thốt: Ghé cây bài tìm hơi tóc ấm/ Em đừng lớn nữa Chị đừng đi/ Tướng sĩ đỏ

đen chui sấp ngửa/ Ổ rơm thơm đọng tuổi đương thì…, khi hững hờ nhìn nước sông

Thương đôi dòng trôi xa…

Yêu là lẽ sống, là nhu cầu thiết yếu của tinh thần. Bao nhiêu là yếm, váy, rừng trái

vú bay… buông đầy thơ Hoàng Cầm với cách thể hiện độc đáo, mới mẻ của niềm yêu.

Trần Dần, một nhà thơ cách tân bậc nhất thơ hiện đại Việt Nam đã gọi thơ Hoàng Cầm là

tân cổ điển. Hoàng Cầm đã dắt sông Đuống chảy vào văn học chống Pháp, rồi mang lại

lá Diêu Bông, cỏ Bồng Thi, quả vườn ổi, cây Tam cúc nhảy từng bước trong dòng chảy

văn học đương đại. Ông cứ đi như đi trong chốn không - thời gian của dòng chảy văn

hoá, lịch sử, con người Kinh Bắc để đặt vào quê hương từng nhịp bước chân của mình.

Có thể nói, với biểu tượng thực vật (lá - cỏ - quả), Hoàng Cầm đã rất thành công

trong việc liên tiếp thể hiện các tín hiệu văn hoá thẩm mỹ yêu mới, đặc trưng về mối tình

Chị - Em. Và qua những bài thơ được đề cập chủ yếu ở trên, ta có thể thấy được sơ đồ

cảm hứng sáng tác của nhà thơ: từ những tâm tư thơ dại - thơ dại yêu- miên man yêu một

người lớn tuổi hơn- khát khao tình yêu cháy bỏng - muốn cưới để thỏa mãn khát vọng

yêu... nhưng không được, mà tình yêu ấy đã được kết thành Lá Diêu Bông, Cỏ Bồng

Thi, Quả Vườn ổi, Cây tam cúc, Nước sông Thương. Qua đó ta thấy được những ẩn ức

đang còn nén nghẹn về một giấc mơ đầy khắc khoải trong mối tình Chị - Em còn đang

xanh nên cứ thổn thức, muốn bật tung, thoát ra khỏi cái ghềnh chữ “V” ấy. Qua thời gian

của đêm ngày, năm tháng, qua không gian của đồng chiều Kinh Bắc với những gió, mưa,

núi, đồi, lúc lên ngọn sông Thương, khi đến bến Kỳ Cùng, lúc đếm sao, đếm nắng, đếm

giờ, đếm triệu triệu năm... nhưng hiện thực vẫn là hiện thực của đắng cay, u uất và rồi

đành phải chôn chặt sau một “khối tình nghẹn”(chữ dùng của Chu Văn Sơn). Vì thế hình

tượng thơ mang vẻ đẹp kỳ ảo với những hình ảnh siêu thực được nở ra từ bông hoa của

một loại cây kỳ lạ được phối ghép từ Cỏ Bồng Thi, Lá Diêu Bông, Quả Vườn ổi... Đó

là cây Cỏ Đắng- Hoàng Cầm mà cội rễ của nó được bám chặt ở vùng Kinh Bắc trù mật

81

về nền văn hóa, văn hiến lâu đời. Chính cội rễ ấy đã di dưỡng và thăng hoa cho những

tình khúc của Hoàng Cầm!

2.3. Biểu tượng con người Kinh Bắc

Trong sáng tác văn học, người nghệ sĩ thường nhận thức và phản ánh hiện thực

xã hội bằng hình tượng nghệ thuật. Qua hoạt động sáng tạo nghệ thuật, những tư tưởng,

tình cảm, cảm xúc của nhà văn được nảy sinh ở nhiều góc độ khác nhau nhưng có chung

một bản chất là mang tính thẩm mỹ. Hình tượng nghệ thuật là bức tranh vừa cụ thể vừa

khái quát của cuộc sống con người, được xây dựng nhờ hư cấu và có ý nghĩa thẩm mỹ.

Như vậy, hình tượng nghệ thuật không đơn thuần chỉ là bức tranh của hiện thực

xã hội, mà thông qua sự sáng tạo của tác giả văn học, nó đã được nghệ thuật hoá bằng

một sắc màu lãng mạn. Đó cũng chính là một trong những luận điểm thường thấy của

truyền thống văn học Việt Nam: từ những sự vật - hiện tượng có thực trong trong đời

sống, trong lịch sử, rồi bằng tư duy nghệ thuật, người nghệ sĩ đã tái tạo và không ngừng

sáng tạo để chúng mang bóng dáng của huyền thoại, huyền sử.

Văn học lấy ngôn từ làm chất liệu và hình tượng văn học là hình tượng ngôn từ

hết sức độc đáo. Theo đó, nghệ thuật, với tư cách là đối tượng thẩm mỹ nên nó thường là

mang tính tạo hình cao. Hình tượng nghệ thuật là hình thức đặc thù để nhận thức hiện

thực, là vũ khí của nhà văn trong quá trình thể hiện lý tưởng nghệ thuật của mình. Mỗi

một loại hình tượng trong tác phẩm nghệ thuật đều thể hiện cách cảm nhận riêng của tác

giả. Ở đó vừa có tính cá nhân, vừa phục vụ một chủ đích tư tưởng thống nhất. Vì vậy mà

hình tượng văn học luôn có sự thống nhất cao độ giữa các mặt đối lập: lý trí và tình cảm,

chủ quan và khách quan, hiện thực và lý tưởng…

Kinh Bắc vốn nổi tiếng là một vùng quê mang đậm bản sắc văn hoá dân gian, với

những Luy Lâu, Thuận Thành, Nham Biền, Cô Tiên, Thiên Thai, Phật Tích, Tiêu Tương,

Thiên Đức, Tiên Du, Tiên Sơn… Nơi đây từng là quê hương của rất nhiều truyền thuyết

và huyền thoại. Đó là những đóng góp đáng kể cho các hoạt động sáng tạo nghệ thuật, là

môi trường thẩm mỹ quan trọng để các nghệ sĩ xưa và nay khơi nguồn sáng tạo.

Là người con của quê hương, lại được trời cho hạnh ngộ tương phùng giữa thi

hứng với thiên địa nhân văn, Hoàng Cầm đã mang theo trong lòng mình cả một dòng

văn hoá Kinh Bắc. Dòng văn hoá ấy chảy suốt trong hồn thơ ông từ cảnh sắc thiên nhiên

đến đời sống văn hóa, phong tục và tâm hồn con người hiện hình từ trong quá khứ. Ngòi

bút và hồn thơ của ông luôn đồng điệu cùng hồn người Kinh Bắc.

82

2.3.1. Biểu tượng con người trong truyền thuyết và lịch sử

Trong sáng tác của mình, dưới góc nhìn của huyền thoại, huyền sử, hư ảo, bí ẩn,

Hoàng Cầm đã dựng lại những hình tượng nhân vật truyền thuyết, lịch sử Kinh Bắc

trong thơ thật sống động, hấp dẫn và có sức quyến rũ đặc biệt, họ trở thành những biểu

tượng về văn hóa con người mang vẻ đẹp vĩnh cửu, có sức mạnh, sức sống trường tồn,

bất tuyệt. Đó là những nhân vật như: An Dương Vương, Thánh Gióng, Mỵ Châu, Mỵ

Nương, Trương Chi, Từ Thức, Giáng Tiên, Hai Bà Trưng, Ỷ Lan, Chiêu Hoàng, Hoàng

Hoa Thám… Họ đều có xuất thân hoặc từng lo dựng nghiệp bền lâu cùng dân tộc trên

vùng đất Kinh Bắc.

Trong thơ Hoàng Cầm, hình tượng Thánh Gióng- Phù Đổng Thiên Vương

được trở đi trở lại nhiều lần với những hình ảnh thơ đầy chất hiện thực đan xen vẻ

đẹp lãng mạn, cố nhiên vẫn mang đậm sắc màu của huyền thoại trong không gian văn

hoá đậm đặc:

Thiên Vương chẳng nói

Lúc gật đầu

vó ngựa đào ao hồ…

Thiên Vương chẳng nói

Lúc nghiêng tai

cò chở nắng tề phi điệp điệp Đằng Ngà…

Hình ảnh Thiên Vương “chẳng nói” thể hiện sự giận dữ làm ta liên tưởng tới biểu

tượng văn hóa của người Thượng cổ ngày xưa: (Sao) Thiên Vương được coi là thần Hỗn

mang nổi cơn giận dữ thần lửa thức tỉnh, đứng lên chống chọi lại các Đại dương. Nhà thơ

Hoàng Cầm đã khéo vận dụng các hình ảnh để tạo lên sức nóng của hành động, của bản

chất anh hùng con người Kinh Bắc. Điệp từ “chẳng nói” được nhà thơ diễn tả như một

cấu trúc của nghệ thuật huyền thoại nhằm khẳng định bản lĩnh, cá tính cương quyết và

sức mạnh đặc biệt của Thánh Gióng. Ý thơ đồng thời gợi chiều sâu tâm cảm văn hoá tâm

linh của con người thơ và con người Việt Nam, nó như chất chứa, tiềm ẩn nguồn sức

mạnh vô biên để khi cần thiết bỗng vụt hoá anh hùng. Đó là biểu tượng con người anh

hùng thiếu nhi trong thần thoại, con người của siêu nhiên.

Hình tượng người anh hùng thường được coi là con của cuộc giao phối giữa một

vị thần với một người trần, người anh hùng tượng trưng sự kết hợp giữa các lực lượng

trên trời và dưới đất. Họ đáng được hưởng sự bất tử sau khi đã bảo vệ xong cuộc chiến

83

của dân tộc. Ở Hy Lạp, nguyên mẫu đã trở thành anh hùng bất tử là Hêraclès. Đặc điểm

của người anh hùng là sẵn có một thể lực hiếm có, một sự khéo léo đặc biệt và một tinh

thần dũng cảm trong mọi thử thách. Những lúc trong chiến đấu, người anh hùng thường

ở trạng thái thịnh nộ hiếu chiến, một biểu hiện có ý nghĩa tôn giáo và phương thuật về sự

quá đỗi anh hùng của các hiệp sĩ chỉ đối với những kẻ thù của họ. Bằng cuộc chiến đấu,

người anh hùng tượng trưng cho ý chí vươn lên, cho trạng thái xung đột của tâm hồn con

người. Do đó, người anh hùng được tô điểm bằng các biểu hiện của mặt trời, mà ánh

sáng và hơi nóng của nó luôn chiến thắng sự tối tăm và lạnh lẽo của cái chết. Trong thơ

Hoàng Cầm, hình tượng con người Thánh Gióng- Phù Đổng Thiên Vương được coi là

một điển hình như vậy. Bằng sự am hiểu nguồn gốc văn hóa cả phương Đông và phương

Tây, cả cổ xưa lẫn hiện đại, nhà thơ đã xây dựng thành công biểu tượng nhân kiệt - anh

hùng đất Kinh Bắc từ chính nhân cách văn hóa, lịch sử của quê hương, dân tộc mình.

Văn hóa bản địa dường như đã ăn vào máu thịt nhà thơ, như một tín ngưỡng đã

ăn sâu vào ký ức từ thời nguyên thủy để rồi nó chảy tràn, chuyển hóa trong ông. Từ con

ngựa sắt thần kỳ trong huyền thoại của Thánh Gióng đến con ngựa Ô thần kỳ thời hiện

đại của người anh hùng Hoàng Hoa Thám trong thơ Hoàng Cầm cũng là một thể hiện về

mối liên hệ sâu sắc giữa truyền thống và hiện đại, trong cách cảm, cách nghĩ của người

dân Việt. Được coi là con đẻ của bóng đêm và sự huyền bí, con Ngựa nguyên mẫu ấy

cùng một lúc mang đến cái chết (đối với kẻ thù) và đem lại sự sống (cho dân tộc Việt),

nó liên quan tới các hình ảnh nước và lửa, là sức mạnh của sự phá hủy và cái chiến thắng

tuyệt đối. Sự hấp thụ các biểu tượng khác nhau ấy được bắt nguồn từ hàm nghĩa phức

hợp của những đối tượng âm tính vĩ đại, ở đấy trí tưởng tượng của con người theo phép

loại suy đã có mối liên hệ chặt chẽ giữa đất và vai trò người Mẹ của đất với ngọn đèn của

trái đất và mặt trăng, với nước và giới tính, với chiêm bao và bói toán, với sự sinh

trưởng, phát triển và đổi mới thường kỳ.

Thế giới tâm linh đang mở cửa cho hiện thực bùng phát để rồi tiếp cận đến những

cõi mơ, cõi bí ẩn và huyền ảo:

Ngựa Ô - truy lao Cầu Vồng Yên Thế Râu cắm rừng quanh ánh mắt sao bay Ngựa Ô - truy phi một đêm đến cửa Bồ Đề... Bờm nhả khói Đuôi dựng mây Vó chồm nghiêng soái phủ...

84

Ngựa trong thơ Hoàng Cầm là con Tuấn mã của mặt trời. Đó là con ngựa trong

văn hóa dân gian, được tượng trưng cho sức mạnh của ân đức lan tỏa bốn phương. Con

ngựa trở thành biểu tượng của chinh chiến (gắn với người anh hùng), thậm chí trở thành

con vật trong chiến đấu là chủ yếu. Các nhà phân tâm học cũng biến con ngựa thành biểu

tượng của cái tâm vô thức hoặc là cái linh hồn phi nhân tính. Từ trong cội nguồn văn

hóa, con ngựa thần kỳ trở về, nâng bổng mình cùng dân tộc lên tận trời cao chan hòa ánh

sáng với dân tộc. Nó trở thành sinh linh của thiên giới hay là mặt trời, trong xứ sở của

các thần linh chí thiện và các bán thần; điều này càng mở rộng hơn nữa biên độ của biểu

trưng văn hóa, nghệ thuật về con vật này. Chính với cách so sánh như vậy, Hoàng Cầm

đã làm cho hình tượng hai con ngựa nhưng thực chất chỉ là một, chính nó đã giúp người

cưỡi nó vượt qua một cách an toàn những cửa ải với một phép màu bí nhiệm mà lý trí

khó có thể giải thích nổi. Nó như một con vật có khả năng dẫn dắt linh hồn, có con mắt

chọc thủng màn đêm, trở thành con vật Thần nhập để đưa đường cho những người anh

hùng trong chiều dài lịch sử dân tộc. Qua đó, nhà thơ để hai nhân vật anh hùng Thánh

Gióng và Hoàng Hoa Thám hiện lên như một biểu tượng văn hóa, gần gũi như những

con người trong cuộc sống thực tại, sống một cuộc đời mới. Hơn nữa, với bút pháp hư

ảo, nhà thơ đã làm cho hình tượng thơ thật sống động, nên thơ, có hồn và lãng mạn biết

bao. Đó là những con người mang tinh thần thượng võ, một biểu tượng về nhân kiệt

thiêng liêng trên vùng đất Kinh Bắc. Nhà thơ miêu tả họ với tất cả niềm kính trọng,

ngưỡng vọng và tôn vinh. Họ là biểu tượng của văn hoá, văn hiến Kinh Bắc và của dân

tộc. Mặc dù Trai Cầu Vồng Yên Thế đã đi, nhưng cái oai phong lẫm liệt, cái dáng “anh

ùng”, cái hồn cốt văn hoá thì vẫn như còn đâu đây trong cuộc sống của người Kinh Bắc

nói riêng, của dân tộc Việt Nam nói chung.

Không chỉ miêu tả những người anh hùng với các cuộc chiến, nhà thơ Hoàng

Cầm còn dành những câu thơ, những trang thơ để nói về những câu chuyện tình đẹp nhất

trong lịch sử tình yêu trên đất Kinh Bắc cũng chính là những câu chuyện khiến Hoàng

Cầm ngậm ngùi nhất như chuyện Từ Thức - Giáng Tiên, Trương Chi - Mỵ Nương... đặc

biệt là tiếng sáo - biểu tượng người nghệ sĩ đất Kinh Bắc- Trương Chi đã trở thành biểu

tượng tình yêu muôn thuở của người dân đất Việt: Ngã ba sông chín hướng tình/ Về

Kinh Bắc gặp rập rềnh Trương Chi” hay “Cõi Trương Chi đã lạnh dần/ anh còn quấn

tóc trói trần Mỵ Nương (Tập Kiều)...

85

Ở một khía cạnh khác ta còn nhận ra nét vẽ thực của chất thơ Hoàng Cầm trong

hình tượng An Dương Vương và người con - cô công chúa Mỵ Châu được hiện về với

những bi kịch còn chứa chan nỗi đau kia của dân tộc, gia đình, thân phận nhân vật như

đang đối thoại với chúng ta, với nhà thơ. Mượn hình ảnh tiếng con cú kêu trên chòi canh

ai oán và tiếng con ễnh ương trong giếng ngọc ngậm miệng gắt gỏng đến ghê rợn (Gió

lông ngỗng), muốn thổi bay nỗi oan hờn là những minh chứng như muốn gột rửa nỗi

oan cừu cho Trái tim lầm lỡ để trên đầu (ý thơ của Tố Hữu) của cô công chúa Mỵ Châu.

Trong nhiều nền văn hóa trên thế giới, con Ếch hay con Ễnh Ương được dùng trong

nhiều quan niệm biểu tượng khác nhau, trong đó quan niệm chính liên quan đến môi

trường tự nhiên của nó là nước. Ở Trung Hoa cổ đại, ếch được dùng hay được mô phỏng

để cầu mưa, có hình ếch trên trống đồng bởi vì trống và ếch gọi được mưa. Ở Châu Âu,

ếch cũng được coi là một biểu tượng của sự phục sinh do những biến thái của nó. Với

Việt Nam, ếch là một dạng của linh hồn đang phiêu diêu trong khi thể xác đang ngủ.

Như thể hiểu được nguồn gốc văn hóa, Hoàng Cầm đã đồng cảm với số phận Mỵ Châu,

chia sẻ với An Dương Vương về tấn bi kịch nước mất nhà tan. Mỵ Châu vì thế càng trở

nên được ảo hoá trong khát vọng cho biểu tượng của một tình yêu đẹp đẽ và hạnh phúc

đích thực:

Tượng cẩm thạch uốn mình

chợt trắng hồng tinh khôi

khao khát

Đêm trăng tự tạo

ảo mê hay thực ấm nồng khuya…

để chập chờn vòng tay

mắt giếng Mỵ Châu

hố ngọc tan lìa

(Về cõi thật em).

Trong truyền thống văn hóa, những giếng nước đều mang một tính chất linh

thiêng, chúng hiện ra như là một sự tổng hợp của cả ba cấp vũ trụ: trời - đất - địa phủ; cả

ba yếu tố: đất - nước - không khí; chúng là một con đường liên thông của sự sống. Bản

thân cái giếng là một vũ trụ hoặc là tổng hợp của vũ trụ. Nó thông với nơi ở của người

chết; tiếng vang từ đáy giếng dội lên, những ánh phản xạ thoáng qua của mặt nước bị lay

động làm tăng thêm sự bí mật hơn là soi tỏ nó... đồng thời nó cũng mang ý nghĩa của sự

86

giải thoát. Cái giếng - còn trở thành một tiểu vũ trụ, là chính bản thân con người. Nói như

vậy để thấy Hoàng Cầm sử dụng các chất liệu, hình ảnh đều mang tính biểu tượng và

tính truyền thống, tính thiêng gắn với cái đẹp đích thực trong cuộc sống. Vấn đề này

chúng tôi sẽ trở lại ở phần ngôn ngữ thơ ông trong chương 3 của Luận án.

Trong Hội đền tám vua triều Lý, nhà thơ có cảm xúc đặc biệt khi đứng trước pho

tượng vua bà - Lý Chiêu Hoàng (Lý Chiêu Hoàng (1218 - 1278), là vị vua thứ chín (tại

ngôi từ năm 1224 đến 1225) - vị vua cuối cùng của triều Lý, đồng thời cũng là vị Nữ

hoàng duy nhất trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Lịch sử ghi nhận bà như

"chiếc cầu nối" chuyển giao êm thấm từ vương triều Lý lúc đó đã mục ruỗng, yếu kém,

sang vương triều Trần, bởi cuộc hôn nhân từ tình cảm trong sáng của thuở thơ ấu với

Trần Thái Tông - Trần Cảnh). Triều Lý là một vương triều đã từng đưa đất nước Đại

Việt lên cảnh huy hoàng trong lịch sử phong kiến Việt Nam. Cuộc chuyển giao quyền

lực từ vua Lý Chiêu Hoàng cho Trần Cảnh do Thái sư Trần Thủ Độ dàn xếp là một cuộc

sang tên thành công đến hoàn hảo. Hoàng Cầm đã đồng tình và tán thành với hành động

của Trần Thủ Độ trong việc “chọn chồng” cho Chiêu Thánh: Ví như không có Trần Thủ

Độ/ Mắt dại vua bà biết chọn ai.

Vị Thái sư này luôn biết đặt công việc quốc gia đại sự lên trước. Ý thơ nhằm ca

ngợi Trần Thủ Độ đã hiểu được “ý trời” trong cuộc chuyển giao lịch sử này. Bởi ông

muốn có một Lý Chiêu Hoàng nhìn về phía trước như những gì mà nhà thơ cảm nhận và

đọc được trong sử sách. Quan trọng hơn, đó chính là điều mà lịch sử cảm nhận và mong

đợi. Một Lý Chiêu Hoàng sẵn lòng thắp lên một ngọn lửa cho tương lai.

Trong số những nhân vật lịch sử trên đất Kinh Bắc trong thơ Hoàng Cầm không

thể không nhắc đến Ỷ Lan. Đây là nhân vật được nhà thơ trở đi trở lại rất nhiều lần, hoặc

trực tiếp, hoặc gián tiếp thì cũng đều là những sự ca ngợi đặc biệt về biểu tượng người

gái quê Kinh Bắc đã làm nên những sự việc lạ lùng mà lừng lẫy một thời. Việc thần kỳ

nhất mà bà làm được ấy là hai lần thay chồng và con nhiếp chính làm rực rỡ ngai vàng,

uy nghi điện các; là “phận gái thay chồng” tổ chức binh lính và nhân dân chống ngoại

xâm trong thế oai hùng và thắng lớn. Vì vậy bà là nhân vật lịch sử, nhà văn hoá đích

thực. Hơn thế, là nhân vật lịch sử có nhân cách văn hóa lớn: từ một người gái quê Kinh

Bắc bình thường đã trở thành cung phi, thần phi, nguyên phi, rồi Hoàng Thái hậu, bà

được nhân dân phong là Quan Âm nữ, được vua phong là Thần nhân, được Triều đình

coi là Nữ hoàng, được dân Ngọc Linh thờ làm Thành hoàng Bản Thổ... Là người con đất

87

Kinh Bắc, Hoàng Cầm cũng dành tình cảm đặc biệt khi viết về nhân vật này. Trong bài

Theo dòng mẫu hệ tác giả có đôi nét so sánh giữa Ỷ Lan và Đặng Tuyên phi, qua đó

khẳng định cá tính và bản lĩnh, biểu tượng về nhân cách văn hoá của Ỷ Lan. Trong cuộc

đời tuy có lúc phải Chịu nỗi đời dang dở nhưng bà vẫn giữ nguyên nhuỵ hồng, giữ

nguyên cái cốt cách, bản chất văn hoá của người con gái đất Kinh Bắc.

Có thể nói, mọi hình thái ý thức đều là sự phản ánh của thế giới khách quan thông

qua chủ thể con người. Trong ý nghĩa ấy thì sáng tác văn học vừa mang tính chủ quan,

vừa mang tính khách quan. Nó không đơn thuần chỉ là một hoạt động phản ánh mà còn

là hoạt động sáng tạo - sự sáng tạo vừa mang tính trực tiếp vừa mang tính gián tiếp độc

đáo để cuối cùng tác phẩm ra đời như là nảy sinh trong cuộc sống một hiện tượng thẩm

mỹ hoàn toàn mới mẻ. Tác phẩm ra đời là kết quả của một quá trình tích lũy, thai nghén

“mang nặng đẻ đau”. Nhà văn đưa tác phẩm tới tay bạn đọc cũng như đặt đứa con vào

cuộc đời với bao lo toan hy vọng. Liệu những điều mình nghiền ngẫm, trăn trở và thể

hiện bằng hình tượng nghệ thuật này có tìm được sự trân trọng, đồng cảm của người đọc

như là sự gặp gỡ tri kỷ, tri âm? Rõ ràng là dù muốn hay không, tác phẩm văn học vẫn giữ

vai trò là điểm tiếp xúc giữa thế giới bên trong của người nghệ sỹ với thế giới quan bên

ngoài hay nói cách khác: một tác phẩm văn học không đứng im trong suốt quá trình tồn

tại của nó, nhờ sự tiếp nhận của người đọc mà nó có sức sống trường cửu, bất chấp thời

gian và không gian (cố nhiên là với những tác phẩm văn học chân chính và nổi tiếng).

Trở về với Kinh Bắc, nhà thơ Hoàng Cầm rất đỗi tự hào với những con người của

quê hương, những anh hùng Kinh Bắc trong lịch sử dân tộc. Các biểu tượng nghệ thuật

trong thơ Hoàng Cầm hoàn toàn được trân trọng bởi họ đều là những “nhân kiệt” điểm tô

cho gương mặt quê hương, làm sáng danh Kinh Bắc trong trang vàng sử biếc từ thuở

hồng hoang đến hiện đại. Đây thực sự là những câu chuyện bằng thơ hết sức trữ tình mà

Hoàng Cầm đã đan dệt lại trong các trang thơ của mình. Đọc thơ ông, nhất là những bài

trong tập Về Kinh Bắc mới thấy được chính Hoàng Cầm, chính cái dòng thơ đặc thù sâu

xa thầm kín của ông, trong đó có những tình yêu quê hương tha thiết, có những huyền

thoại của thời lập quốc, có những linh hiển của tổ tiên, có những bí ẩn không nên lời và

đôi khi còn phảng phất hình ảnh kỳ bí... tất cả trộn lẫn với nhau thành một tuyệt phẩm về

vùng Kinh Bắc.

Với bút pháp vừa lãng mạn vừa hiện thực, hư ảo, Hoàng Cầm đã làm sống dậy

không gian văn hoá tâm linh của những nhân vật truyền thuyết và lịch sử trên đất Kinh

88

Bắc từ những vị Vua, vị tướng, công chúa đến những người nông dân bình thường (An

Dương Vương, Thánh Gióng, Hoàng Hoa Thám, Ỷ Lan, Mỵ Châu, Trương Chi...) làm

cho họ như đang đối thoại với con người hiện tại vậy. Có thể nói họ là những người góp

phần làm nên những biểu tượng văn hóa dưới hai góc độ là: người anh hùng và người

nghệ sĩ. Miêu tả về những nhân vật này, nhà thơ hẳn phải có một tình cảm đặc biệt với

con người và vùng đất quê hương. Tình yêu quê hương xứ sở chính là tình yêu nước

trong ông, nó ngấm vào máu thịt ông từ thuở ấu thơ để rồi trở thành cái bản ngã nghệ

thuật mang sắc thái và cá tình riêng biệt của ông. Kinh Bắc như một dòng sông văn hoá

chảy đều trong ông để rồi lắng đọng lại những lớp phù sa văn hoá ấy là các trang thơ,

trang văn ẩn chứa bao giá trị nghệ thuật luôn đón đợi sự khám phá, giải mã của bạn đọc.

2.3.2. Biểu tượng người mẹ

Mẹ là mẫu - là Mẹ của muôn loài. Muôn loài phải vươn lên bản chất mẫu để

trường tồn, để vô hạn. Mẫu là hiện thực tinh thần của bản nguyên nữ tính, là sức sống

biểu hiện ở khắp mọi nơi và sức sống này chính là bản nguyên tinh thần thể hiện qua

hình hài phụ nữ. Trạng thái bản nguyên của Thánh mẫu là người mẹ và là trinh nữ, thể

hiện đồng thời khả năng của thế giới và niềm cực lạc thần thánh. Trong phân tâm học

hiện đại, biểu tượng người mẹ có giá trị một mẫu gốc. Người mẹ là dạng thức đầu tiên

của anima mà mỗi cá thể con người sở nghiệm, tức là cái vô thức Người mẹ còn tượng

trưng cho bản năng đã thăng hoa ở mức hoàn hảo nhất và một sự hoàn hảo nhất của tình

yêu thương, dinh dưỡng, sự nồng ấm, sự an toàn của chỗ trú thân...

Loài người sống cũng luôn phải hướng về mẹ. Tình mẹ là trường cửu, là bất

tuyệt. Đó là một ý nghĩa bao trùm và biểu hiện những giá trị nhân sinh quan, thế giới

quan về sự toàn vẹn của triết lý ấy: Công cha như núi Thái Sơn/ Nghĩa mẹ như nước

trong nguồn chảy ra (ca dao).

Có thể nói, hình tượng người mẹ là biểu tượng tinh thần, một trong những hình

tượng nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca Việt Nam. Hình tượng ấy vừa phản ánh khí thế hào

hùng của dân tộc, vừa là biểu trưng của văn hóa truyền thống và hiện đại của nhân dân

Việt Nam. Như một nỗi niềm ân nghĩa thiêng liêng, xưa cũng như nay, trong quan niệm

về Bà mẹ - Tổ quốc của người Việt Nam là hướng về cội nguồn, hướng về người mẹ đã

sinh ra dân tộc này, con người của đất nước này. Đó là một trong nhưng biểu trưng đẹp

nhất, sáng chói nhất, tượng trưng sâu sắc nhất về hình tượng Tổ quốc. Người mẹ, một

hình tượng có khả năng khái quát được tầm vóc, phẩm chất của Tổ quốc Việt Nam. Nó,

89

thầm lặng mà mãnh liệt, dịu dàng, thủy chung mà anh dũng, kiên trung, giản dị, đau

thương, vất vả mà đôn hậu, hào hùng và tươi thắm vô ngần. Những bà mẹ, người chị ấy

đã làm nên chân dung Việt Nam, tâm hồn Việt Nam, văn hóa Việt Nam.

Hình tượng người mẹ không chỉ xuất hiện trong thơ Hoàng Cầm, mà nó nảy sinh

từ trong sâu thẳm của văn học dân gian, văn học cổ điển Việt Nam. Tuy nhiên, qua thơ

Hoàng Cầm, qua thơ ca cách mạng giai đoạn này, mới được thể hiện một cách rõ nét và

tập trung nhất. Hình tượng người mẹ đã xuyên suốt trong thơ Hoàng Cầm và tỏa sáng

như chất lân tinh. Đó là những hình ảnh tiêu biểu kết tinh thành chân dung Mẹ.

Hình tượng người Mẹ xuất hiện khá nhiều trong thơ ca Việt Nam hiện đại, như

trong thơ của Tố Hữu, Xuân Quỳnh... Có thể nói, phần nhiều đời thơ Hoàng Cầm được

khơi nguồn từ hình ảnh của người mẹ. Mẹ luôn là nơi để nhà thơ ký gửi tâm hồn mình,

dù đi đâu, ở đâu ông cũng luôn nhớ về mẹ như nhớ về một kỷ niệm đằm thắm mà dịu

ngọt, với niềm nhớ thương vô hạn. Ý niệm đó thường không thể tách rời sự yêu thương.

Mà tình thương là chất liệu ngọt ngào, êm dịu và cố nhiên là an lành. Cũng dễ hiểu vì

ông vốn là thi sĩ “Theo dòng mẫu hệ”. Hoàng Cầm làm những bài thơ về mẹ, bài nào

cũng thấy hay, cũng chất chứa nỗi niềm yêu thương, và nó như những lời hát ca ngợi

công lao mẹ.

Theo khảo sát của chúng tôi, trong tập thơ chính, tập thơ cột sống của ông - Về

Kinh Bắc có tới 34 lần trên 48 bài thơ tác giả trực tiếp nhắc đến hình ảnh người mẹ. Tại

sao Hoàng Cầm nói nhiều tới Mẹ như vậy? Đúng như tên tập thơ - Về Kinh Bắc - là về

với quê hương, mà “nói đến quê hương, phải bắt đầu bằng người Mẹ. Mẹ là hiện thân

trọn vẹn nhất, sinh động nhất của quê hương”, huống chi mẹ nhà thơ “vốn là một cô gái

Kinh Bắc có nhan sắc, óng ả, kiều diễm, có đôi mắt “lúng liếng” thật tinh tế, đôi mắt rất

quan họ, có dáng đi đài các, uyển chuyển thanh tao” [17, tr.195]. Hơn nữa, mẹ ông lại là

người con gái hát quan họ hay nổi tiếng, “năm nào cũng được các bà lão làng Bựu Sim -

quê gốc mẹ tôi - khen thưởng”... Và như thế, Hoàng Cầm đã được thừa hưởng dòng máu

nghệ thuật dân ca quan họ từ người mẹ vào thơ mình. Mẹ là biểu tượng của cả một kho

tàng yêu thương dịu ngọt, bầu trời của hạnh phúc và giản dị, của thiêng liêng và cao quý

mà nhà thơ đã bơi lội, đằm mình trong thế giới ấy. Điều đó đã tạo nên những ảnh hưởng

của văn hoá quan họ cho sáng tác thơ ông ở tập này. Về Kinh Bắc (1959 - 1960) cũng

chính là tập thơ để thi sĩ “Dâng hương hồn mẹ” trong tâm trạng của đứa con muốn trở

về với Mẹ quê hương:

90

Ta con chim cu về gù rặng tre

đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng

đưa mây lành những phương trời lạ

Về tụ nóc cây rơm...

Ngay nhịp một - Khấn nguyện - tác giả cũng coi đó như một nén tâm nhang để

chia sẻ với mẹ những gánh nặng nhọc nhằn trong cuộc đời. Trong đó Đêm thổ là bài mở

đầu cho tập thơ, cũng là lời mở đầu cho nỗi nhớ của người con xa quê nay trở về với đất

Mẹ yêu thương. Quê hương và Mẹ luôn là bầu sinh quyển chứa chan những tình cảm

trong tâm hồn nhà thơ. Trong phần Vĩ thanh của tập Về Kinh Bắc ông tâm sự “những

buổi sớm mai, chích choè trên cây mít, con chèo bẻo, con bói cá ở cọc cầu ao, tiếng chim

cu ngày mùa, ríu rít vợ chồng chim én đầu hồi mái nhà tranh tre thuở bé... bây giờ đâu?

Nhớ mà buồn. Thời gian đã đuổi chúng ta đi về đâu, hay chúng bây giờ không thích chơi

với tôi nữa? Hơn 70 năm rồi, cứ nhớ đến bầu sinh quyển ấy là trong lòng tôi bỗng nao

nao một cuộc hồi sinh... vậy là chúng đi vào thơ tôi từ bao giờ tôi chẳng biết”. Và khi nhà

thơ đã dâng đầy nỗi nhớ ấy trong tâm hồn thì cũng là lúc tuôn tràn nó thành những vần

thơ đầy xúc động về Mẹ: Cúi lạy Mẹ con trở về Kinh Bắc.

Trở về với mẹ là trở về quê hương trong nỗi nhớ bồi hồi. Tình cảm nhân văn cao

đẹp trong thơ ca là mối quan hệ sâu sắc giữa nhà thơ và cuộc đời. Tình cảm này được thể

hiện khá sâu đậm trong phong trào thơ ca lãng mạn 1932 - 1945 nói chung. Đó là nỗi

buồn khi phải chia xa quê hương, xót xa trước cảnh quê hương bị thiên tai địch hoạ, bị

chiến tranh tàn phá liên miên, nên họ phải cảm thông chia sẻ với số phận của những con

người bất hạnh và luôn hướng về tình cảm gia đình - mẹ con và hướng về chiều sâu của

cội nguồn văn hoá - lịch sử dân tộc với những ẩn ức tình cảm khác nhau. Chính vì thế mà

khi Hoàng Cầm Về Kinh Bắc là trở về với những kỷ niệm của tuổi thơ, của ký ức nhưng

luôn được hâm nóng trong huyết quản và trái tim của nhà thơ:

Chiều xưa giẻ quạt voi lồng

Thân cau vụt vẫy đuôi mèo trắng mốc

Chuồn chuồn khiêng nắng sang sông (Đêm thổ).

Viết về mẹ, Hoàng Cầm chìm sâu trong những dòng cảm xúc không dễ gì dứt ra

được. Ông miêu tả bằng thứ ngôn ngữ hết sức tình cảm, chân thành: cúi lạy mẹ, bế em về

nằm khoanh lòng mẹ, nhớ sữa mẹ, cơm nếp dâng hương ngày giỗ mẹ; được nằm mẹ gối

đầu tay; Hơi mẹ ơ hờ, Mẹ ơi... Mẹ là nơi che chở lòng con thơ dại, từ khi trong thai, đến

91

lúc Mẹ đau trở dạ/ Sinh con ra cho đến lúc mẹ không còn nhìn được con nữa. Mẹ là

chiếc nôi diệu kỳ ẵm con, đón con trở về bất cứ lúc nào, là nơi để nhà thơ làm điểm tựa

tâm hồn, do vậy Mẹ luôn gần gũi, động viên con. Tuổi thơ con muốn gì được nấy, từ

những tấm áo. Áo là biểu tượng ái hữu, phúc bẩm, là dấu hiệu chia sẻ tâm hồn cùng một

nền văn hóa tinh thần, thể hiện cùng một phong tục. Áo chính là thân thể của con người,

mẹ cho con áo chính là cho cái phúc bẩm, thân thể, tinh thần với con: Con tìm những thứ

được rồi đây/ Áo bông đón rét có/ Áo lụa sang hè có/ Mẹ mới may, Mẹ gọi về chia bánh

đa... (Đứa trẻ). Con nào thiếu thứ gì? Mẹ luôn là hiện thân của những ngọt ngào, sự ngọt

ngào của những lời ru, của dòng sữa... Hoàng Cầm và thơ ca của ông được sinh ra từ

chính những sự ngọt ngào ấy:

... À... ơi...

Câu ru mẹ mới

Có bàn tay vỗ tóc...

... ngủ đi con...

Nhớ mẹ, Hoàng Cầm thường gọi Mẹ ơi/ Mẹ ơi.... Đó là tiếng gọi của Đứa trẻ

đang thổn thức một tấm lòng thương nhớ khôn nguôi. Với mẹ, con bao giờ cũng bé

bỏng, dù trong cô đơn hay hạnh phúc thì nhà thơ vẫn như có mẹ ở bên. Mẹ là người luôn

dõi theo bước đi của con từ khi con còn chập chững, cả đến khi con đã trưởng thành... Có

lẽ biểu tượng gắn bó và xuyên suốt hơn cả đối với người Việt đó là biểu tượng MẸ. Thời

mẫu hệ, mẹ là biểu tượng của sức mạnh, là biểu tượng của sự bảo vệ. Mẹ (Thần Mẫu)

được khắc trên chuôi dao, tiếp sức cho các chiến binh Đông Sơn. Mẹ là biểu tượng của

sự sinh thành con người. Theo truyền thuyết, mẹ luôn gắn liền với các biểu tượng khác

nhau; đất mẹ, quả bầu mẹ là những biểu tượng mẹ - người sinh thành; Mẹ Lúa là biểu

tượng cho người mẹ nuôi dưỡng. Mẫu Thoải (Mẹ Nước), Mẫu Thượng Ngàn (Mẹ

Rừng)… là biểu tượng của bà mẹ chở che, phù hộ. Tư duy về mẹ mạnh đến nỗi người

Việt đã “mẫu hóa” một số vị Phật. Tứ pháp quyền năng như thế vẫn mang dáng dấp của

người phụ nữ. Quan Âm ở Ấn Độ vốn là nam, nhưng vào đến Việt Nam bỗng hóa thành

Phật Bà. Rồi Quan Âm nghìn tay nghìn mắt nhìn thấu khắp nỗi khổ của chúng sinh và tế

độ muôn loài, hay Quan Âm Tống Tử ôm con trong lòng đau đáu và bất diệt, đó là

những biểu tượng sâu sắc nhất trong lòng người Việt. Ở mảnh đất này, chỉ có mẹ mới là

người xoa dịu và chở che.

92

Không phải ngẫu nhiên mà nhà thơ dành hẳn phần đầu của tập Về Kinh Bắc để

nói về hình ảnh người mẹ, về quê hương. Hoàng Cầm nhớ về quê, về Mẹ với tâm trạng

thức tỉnh, mê man từ cảnh cũ người xưa, và tất cả nay đều lẩn khuất trong bóng nhân

gian cô tịch của một cõi viễn miền xa thẳm khó nắm bắt. Con trở về với Mẹ nên con

Khấn nguyện để được mẹ phù hộ. Trong niềm khát khao của nỗi nhớ, hình ảnh người

mẹ vừa hiện lên quen thuộc, vừa gần gũi thân thương, xong lại cũng rất xa xôi mờ ảo.

Cái “nhân ảnh” ấy liệu có còn là thực hay đã về với bến quê của đời người? Hình ảnh mẹ

nghèo Vai áo toạc ba vá chằng tơ dứa với nụ cười đẹp mê ánh sáng từ Miệng hé hạt na

nhoà bến vắng, và sự hy sinh của người mẹ biết đến khi nào con mới đền đáp cho được

Gió mát này Mẹ quạt/ từ chênh chếch nẻo tàn trăng (Đợi mùa). Hình tượng thơ đã bị

nhoè mờ nét nghĩa thực để tạo nên một dòng cảm xúc trong hư vô trong sự đối lập thực -

ảo, xưa - nay. Bao giờ cũng vậy, xưa là cái đẹp, là sự sống, là cái để hướng tới, trong khi

đó, nay lại là miền không gian cô quạnh, không gian của chiều sâu lịch sử văn hoá trong

nỗi nhớ, của những hồi ức, những kỷ niệm. Nỗi nhớ tràn vào tâm hồn ông như lớp rêu

xanh phủ trên nền thềm cũ...

Nhớ và thương yêu mẹ, Hoàng Cầm đều có thơ về mẹ. Trong kháng chiến chống

ngoại xâm, mẹ hiện lên tần tảo, chịu thương, chịu khó, gần gũi với bao đức hy sinh vì

dân vì nước. Đó là biểu tượng người mẹ với bao phẩm chất lớn lao, thiêng liêng. Đó là

điển hình của người phụ nữ, người Mẹ - Việt Nam, Mẹ của mỗi chúng ta. Với mẹ, hy

sinh cho các con là hạnh phúc và chẳng cần đền đáp. Hình tượng mẹ Kinh Bắc trong bài

Bên kia sông Đuống: Mẹ ta lòng đói dạ sầu/ Đường trơn mưa lạnh mái đầu bạc phơ.../

... Mẹ già lại quảy gánh hàng rong/ Bước cao thấp bên bờ tre hun hút... như đang trong

bước đường từ miền cổ tích dân gian ra để giúp con vậy. Ý thơ như một ám ảnh nghệ

thuật đọng mãi trong tâm hồn bạn đọc. Mẹ được hiện lên trong rất nhiều cung bậc khác

nhau, ngôn từ thể hiện giản dị, không đao to búa lớn. Mà giả như giàu có ngôn từ bao

nhiêu đi nữa, nhà thơ cũng không nói được về mẹ hay hơn, nhiều hơn thế. Một đời mẹ

thân cò lặn lội, chưa một lần con thấy mẹ thở than, chưa một lần con thấy mẹ thảnh

thơi... Nhìn về mẹ, Hoàng Cầm có một cái nhìn lịch sử, thời gian, một thứ thời gian đằng

đẵng, chắt chiu, tạo dựng, đắp bồi, để có những định hình trong cốt cách Việt Nam từ

thuở Âu Cơ.

Có thể nói trong thơ Hoàng Cầm, biểu tượng người mẹ là một dòng sông - dòng

sông mẹ. Dòng sông ấy chảy suốt chiều dài thời gian lịch sử Kinh Bắc, lịch sử Việt

93

Nam 4000 năm, lịch sử kể từ khi Việt Nam có văn hoá đến nay. Sông Mẹ chảy suốt

hồn thơ, đời thơ Hoàng Cầm từ khi người con đất Kinh Bắc này biết làm thơ đến nay.

Dòng sông ấy chảy qua các giai đoạn, thời kỳ sáng tác thơ khác nhau nhưng thời kỳ

nào cũng độc đáo và giàu bản sắc. Trong các thời kỳ ấy dòng sông tiếp nhận nguồn

nước của các sông khác... nhưng mạch chính của nó vẫn từ nguồn Mẹ rồi lại “luân hồi”

đổ về Mẹ - quê hương.

Những biểu hiện về sự hóa thân của người mẹ, người phụ nữ anh hùng vào

non sông, đất nước là sự tiếp nối quan niệm truyền thống về con người thiên nhiên,

con người vũ trụ của nhân dân ta. Niềm thiêng liêng cao cả của họ đã trở thành biểu

tượng văn hóa của dân tộc, những di tích lịch sử muôn đời của non sông, đất nước.

Họ trở thành một lẽ sống bất diệt của con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam.

Hình tượng người mẹ Kinh Bắc là nét đẹp của lòng vị tha nhân hậu, thủy

chung, là sự biểu hiện sức sống mãnh liệt, ý chí quật khởi của con người nơi đây. Sự

miêu tả, cảm nhận về hình ảnh người mẹ qua thơ hoàng Cầm xuất phát từ cội nguồn

sâu thẳm của truyền thống văn hóa dân tộc, từ nòi giống Lạc Hồng của mẹ Âu Cơ và

Lạc Long Quân. Đấy là phẩm chất đẹp đẽ được tinh lọc từ dòng sữa mẹ của hôm qua

và hôm nay. Trở về hòa nhập trong tình biển mẹ, mạch ngầm kia được nuôi dưỡng

trong vị mặn ân tình đầy chất trí tuệ và ngời ánh lân tinh. Qua biểu tượng người Mẹ,

Hoàng Cầm đã khắc họa thêm một nét đẹp truyền thống của tâm hồn Kinh Bắc, bản

sắc văn hóa Việt Nam.

Với tính chất là một biểu tượng văn học, biểu tượng người mẹ trong thơ

Hoàng Cầm được xuất hiện ở nhiều cung bậc và được thể hiện bằng nhiều trạng thái

tình cảm, cảm xúc và niềm trân trọng, tự hào khác nhau. Tựu chung lại có thể nói thơ

ông viết về mẹ chính là viết về biểu tượng của một nét văn hoá- văn hoá Mẫu của

Việt Nam nói chung và của Kinh Bắc nói riêng, nó được ảnh hưởng, giao thoa, tiếp

biến từ một tín ngưỡng văn hoá Mẹ bản địa, và là sự ứng tác từ nền văn hoá vùng

miền vào cá nhân con người để hình thành nên một hồn thơ đa cảm với giọng điệu

ngọt ngào chất văn hoá quê hương. Văn hoá quê hương, văn hoá mẹ như những giọt

mưa rơi xuống cánh đồng thơ Hoàng Cầm để đằm lên một hương vị ngọt ngào như

những làn quan họ quê ông. Và đấy cũng chính là chất men để tạo nên một chất giọng

riêng ở nhà thơ của văn hoá Kinh Bắc.

94

2.4. Biểu tượng về văn hoá phong tục Kinh Bắc

2.4.1. Biểu tượng lễ hội

Không gian nghệ thuật là một loại quan niệm nghệ thuật, nói như Trần Đình Sử

nó "là một hiện tượng tâm linh nội cảm, chứ không phải là hiện tượng địa lý và vật lý"

[114, tr.143]. Trong tác phẩm văn học, không gian nghệ thuật vốn đã được tổ chức lại

theo một điểm nhìn, một trường nhìn nhất định, trở thành hình thức phản ánh bên trong

của hình tượng nghệ thuật và được xây dựng trong sự thụ cảm, trong ý thức, trong quan

hệ của người nghệ sĩ về thời gian và con người.

Như vậy hiện thực cuộc sống được chuyển hóa vào văn học nghệ thuật theo hai

quy luật: quy luật phản ánh và quy luật ý đồ chủ quan của tác giả. Trong sự tái hiện thế

giới nghệ thuật của mình, không gian nghệ thuật trong tác phẩm nghệ thuật luôn chứa

đựng trong nó cái “mã văn hoá”, “mã mỹ học” (Lốt man).

Lễ hội cổ truyền là một hình thái tín ngưỡng gắn bó chặt chẽ với làng quê, vùng

quê, là hiện thân của cái thiêng liêng. Có thể nói rằng “tính thiêng” là một tính chất đặc

thù của lễ hội, hay nói cách khác nó là linh hồn của lễ hội, nó bao trùm lên toàn bộ không

gian và thời gian, lên mọi hành động của con người trong nghi lễ, trò tục, lên mọi chi tiết

trong lễ vật dâng cúng... Nền tảng của văn hóa Việt Nam được hình thành trên đất Kinh

Bắc từ thời mở nước, dựng nước và giữ nước của dân tộc ta, nơi đây được coi là vùng

đất của những lễ hội dân gian tiêu biểu của cư dân Đồng bằng Bắc bộ như lễ hội thờ thần

nông, thần thổ công, thờ thành hoàng làng, thờ thần thổ địa, thờ thần mây, thần mưa,

thần sấm, thần chớp... Hàng năm xuân thu nhị kỳ, vào mỗi dịp nông nhàn, người dân

Kinh Bắc đua nhau đi mở hội và trảy hội. Rất nhiều cặp trai gái đã nên duyên khi mùa

hội đã tan. Nổi tiếng hơn cả là hội Lim hát quan họ, hội pháo Đồng Kỵ, hội rước phật

chùa Dâu, hội thánh Phù Đổng, hội thượng võ Yên Thế, hội Chen Nga Hoàng, hội Vân

Hà, hội Đền Đô... Có thể nói cả mùa xuân Kinh Bắc là mùa của lễ hội, người đi trảy hội

khắp nơi, khắp các làng, các huyện: Mồng bốn là hội kéo co/ Mồng năm hội Ó chẳng

cho nhau về/ Mồng sáu đi hội Bồ Đề/ Mồng bảy trở về đi hội Đống Cao/ Ai ơi mồng chín

tháng tư/ Không đi hội Gióng cũng hư mất đời (Ca dao). Chính không gian lễ hội Kinh

Bắc ấy đã gây cảm hứng cho nhiều nhà thơ, nhưng mỗi nhà thơ xúc cảm theo một cách

riêng. Với Hoàng Cầm, Kinh Bắc thực sự đã trở thành một vùng thẩm mỹ lớn để nhà thơ

đắm say tâm hồn cho những sáng tác nghệ thuật thơ ca của mình.

95

Vùng Kinh Bắc có tới hơn 60 lễ hội cổ truyền (có cả hội đền, hội đình, hội chùa,

hội mùa...). Trong thơ Hoàng Cầm hiện lên hầu như đầy đủ các lễ hội độc đáo vùng Kinh

Bắc. Trong tập Về Kinh Bắc nhà thơ dành riêng cả một nhịp (nhịp 6 - Điểm trang) để

nói về hội hè Kinh Bắc và hội nào cũng trở thành những biểu tượng của con người và

văn hoá nơi đây. Chính điều đó đã tạo nên một thế giới nghệ thuật, một không gian nghệ

thuật đầy hấp dẫn và tiêu biểu trong thơ ông.

Lễ hội là một hiện tượng mang ý nghĩa văn hoá về cội nguồn và lịch sử của dân

tộc Việt. Thời gian lễ hội không chỉ là thời gian nghỉ ngơi mà còn là không gian vui chơi,

là ngày hội thăng hoa của tâm hồn, là nơi tìm về của thế giới tâm linh, được biểu hiện

trong những phong tục tập quán, bản sắc văn hoá của mỗi dân tộc. Mỗi một lễ hội đều

chứa đựng những nét độc đáo và sắc màu văn hoá riêng.

Đây là một Hội vật diễn tả cuộc thi vật đã được Hoàng Cầm thi vị hoá, cổ tích

hoá, hay nói cách khác mang đậm sắc màu, không gian của huyền thoại:

Cứ lệ 3 năm mở một lần, người tham dự là những đô lực sĩ, hội mở trên đất

Kinh Bắc. Mục đích là để nhà vua tuyển chọn dòng võ tướng, giỏi tiên phong có sức

mạnh vật núi núi lăn, ngáng sông sông chảy. Hội là sự kết tinh vẻ đẹp và sức mạnh của

nhiều trai tài Kinh Bắc. Đến với hội thi, họ là những người hùng muốn trổ hết tài năng

học được từ khi còn tấm bé, mong sao dành được phẩm tước từ tay vua. Họ quyết tâm

thi đấu, đấu từ sáng sớm hôm trước đến rạng đông hôm sau, làm cho ức vạn người xem

khiếp sợ, cát lòng sông phải tản mác khắp nơi. Như thế đủ thấy hội thi hoành tráng đến

cỡ nào. Hình tượng người chiến thắng hiện lên thật kỳ vĩ và hết sức lãng mạn, mang

vóc dáng của sử thi và huyền thoại: Vươn tay chạm giời/ Tóc hất sao mai/ Quỳ xuống/

Vọng về cửa khuyết/ Lạy hai lạy/ Lưng vàm rạp cỏ... Qua “hội vật” những cô gái Kinh

Bắc cũng chọn cho mình được tấm chồng như ý, xứng đáng và họ cũng trở thành

những mĩ nữ, tân thê của người thắng cuộc: Nàng chấm thi khép mắt/ Kén được một

người/ Nụ cười chếch đôi mắt lạ.

Có thể nói "hội vật" là lễ hội truyền thống thể hiện sức mạnh của người dân vùng

Kinh Bắc nói riêng và của làng quê Việt Nam nói chung. Ở Kinh Bắc, hội vật diễn ra sôi

nổi ở các vùng Thuận Thành, Từ Sơn, Tiên Sơn, Yên Dũng, Yên Thế, Việt Yên... Hội đã

phản ánh được đặc trưng mang tính biểu tượng của những sinh hoạt văn hoá dân gian

tiêu biểu, sự gắn kết văn hoá cộng đồng lành mạnh mang bản sắc dân tộc: đó là ý thức tự

cường và truyền thống đấu tranh chống giặc giữ nước. Truyền thống ấy của người Kinh

96

Bắc luôn đóng góp cho dân tộc những vị tướng lừng danh, những đô vật nổi tiếng ở mọi

thời đại.

Thi sợi bún cũng là một dạng sinh hoạt văn hoá dân gian tiêu biểu của người dân

làng Hồ đất Kinh Bắc. Làm bún là một công việc rất công phu và cẩn trọng đối với

người thợ. Nhà thơ Hoàng Cầm lại miêu tả cuộc thi ở một biểu tượng nghệ thuật khác:

mượn hình ảnh sợi bún để nói lên số phận của những cô gái Kinh Bắc. Họ quyết tâm làm

nên sợi bún để được giật giải và một giấc mơ đi vào không gian của Đêm vàng Kinh Bắc.

Nhưng đó là giấc mơ không an lành: Con trăn đen thoi thóp/ Ơi đêm Đông Hồ/ Nát nhàu

thân tố nữ.... Quá tập trung vào việc làm bún để đi thi, người gái Kinh Bắc đã để tuổi hoa

niên qua mau, khi nhận ra cái thực tế ấy thì đã quá muộn. Và họ phải hứng chịu cái bi

kịch của cuộc đời mình khi mà đã đứt quãng hoa niên, để rồi giờ đây sợi bún ngà đâu có

vá lại dung nhan... cho nàng được.

Lễ hội dân gian của người Việt Nam nói chung và người dân Kinh Bắc nói riêng

luôn giải phóng một số cách ứng xử mà thường bị nhiều quy ước đạo đức xã hội nghiêm

ngặt ràng buộc. Bởi thế, mượn cớ đi lễ hội để giải phóng cá tính, giải phóng cá nhân là

điều có thể chấp nhận được trong cộng đồng xã hội. Frued cho rằng lễ hội dân gian cho

phép người ta có những hành vi quá trớn có thể chấp nhận được. Theo đó, lấy cớ là ngày

lễ hội, người ta vi phạm điều mà bình thường xã hội cấm đoán. Trong các lễ hội, say

rượu hoặc sàm sỡ và hành vi kiểu hội hè được châm trước khi người ta thoát khỏi cái

nhàm chán ngày thường.

Văn hóa Nho giáo đã làm hạn chế rất nhiều tính chất của các lễ hội phồn thực của

người Việt. Tuy vậy, một số phong tục từ xưa vẫn còn xuất hiện trong các lễ hội người

Việt như: trò bắt chạch trong chum ở xã Văn Trung - Lập Thạch - Vĩnh Phúc. Tiêu biểu

hơn cả là Hội Chen Nga Hoàng ở làng Ngà - Quế Võ - Kinh Bắc xưa mà Hoàng Cầm

miêu tả rất rõ nét, mang tính biểu tượng cho lễ hội phồn thực Kinh Bắc, hay nói cách

khác đó là một lễ hội truy hoan. Trong nền văn hóa thế giới, “các lễ hội truy hoan là biểu

hiện của sự thoái triển, sự trở về trạng thái hỗn mang, sự buông thả trụy lạc trong rượu

chè, hát hò, dâm dật, trong các hành vi kỳ quặc, hư trá, làm mất hết khả năng kiềm chế

của lý trí; nhưng mặt khác, đây là một hình thức tìm lại cái nguyên sơ, thả mình vào các

sức mạnh sơ đẳng của sự sống, khi thấy cuộc sống thường nhật, phép giao tiếp lễ độ, lịch

sự, sinh hoạt đô thị trở thành nhạt nhẽo vô vị. Người ta đã nhiều lần nhận thấy chính vì

vậy mà các cuộc truy hoan thường là các tiết mục chính trong các ngày hội… chúng

97

tượng trưng cho ước muốn mãnh liệt thay đổi cuộc sống…” [17. tr.510]. Hội chen ở đây

kéo dài từ mồng 6 đến 15 tháng giêng (vừa sau Tết Nguyên đán) và mang đậm yếu tố

của văn hoá phồn thực. Đây là một dịp để trai gái, già trẻ vui chơi thoả thích mà không

cần ý tứ. Hội chính thức được bắt đầu sau lễ cúng ở đền Mỵ Nương trong núi. Đầu tiên,

nam giới, cả trẻ và già chen đám con gái bà già, sau đó phụ nữ chen lại nam giới (dân

gian có câu: trẻ dong với trẻ, già dong với già). Trong khi chen nhau nam giới có thể áp

ngực họ vào ngực phụ nữ hoặc sờ soạng cơ thể người phụ nữ. Đây là loại hình hội phồn

thực có Trò chơi tinh thần và trò chơi cơ thể độc đáo nhất vùng Kinh Bắc và có lẽ cũng

là độc đáo nhất cả nước (?). Hội đã hội tụ đầy đủ các thành phần trong làng, trong vùng

tham gia (kể cả nông dân, địa chủ, cường hào). Tất cả đều đến đây xem và... chen, chen

từ ban ngày đến ban đêm và chen đến một chỗ nhất định (kín đáo) thì dừng lại đúng lúc

thời gian tối nhất để (…):

Í ới... sao chìm

Đòi đôi ú tim... tìm

Oà ập... cánh chim... e ấp...

Có thể nói, các cuộc truy hoan ở đây là không giới hạn, không luật lệ. Và người

làng không phạt vạ cô gái nếu mang thai vào đêm đó.

Nói đến Hội Gióng, Hoàng Cầm đã làm sống dậy cái không khí truyền thống anh

hùng, thượng võ của cha ông với một giọng thơ đầy hào sảng. Gióng là một nhân vật anh

hùng. Theo truyền thuyết, Gióng đã dẹp tan quân xâm lăng phương Bắc (giặc Ân). Ông

là con của mẹ Đất (mẹ trồng lúa, trồng cà) và cha Trời (mưa dông, gió dật). Là con của

mẹ thực và cha ảo. Hội Gióng nói đến người anh hùng làng Phù Đổng, mà Phù Đổng là

biểu tượng của Kinh Bắc, rộng hơn, là biểu tượng của tuổi trẻ anh hùng Việt Nam, là

biểu tượng của chính Việt Nam. Để kỷ niệm và tưởng nhớ người anh hùng nhỏ tuổi này,

người dân làng Phù Đổng tổ chức hội Gióng từ ngày 6 -12/4 hàng năm theo lịch trăng.

Hội diễn ra với nhiều hình thức lễ nghi, lễ rước, biểu diễn nhiều trò diễn dân gian để

tưởng nhớ tới bữa ăn, sức mạnh và các cuộc chiến tranh thời văn hoá nông nghiệp cổ

xưa. Một vết tích khác của thời xưa là vào đêm ngày 7/4, nam nữ thanh niên tổ chức các

trò chơi đuổi bắt nhau dọc bờ đê sông Hồng nhằm tái hiện lại cuộc sống, cuộc chiến thời

quá khứ của dân tộc được diễn lại một cách tượng trưng. Qua đó thể hiện tâm lý xã hội

rất to lớn. Chính chúng là kết tinh ý thức công dân và tinh thần dân tộc; ngoài giải trí,

chúng là mối dây liên kết nhắc nhở họ về những lợi ích chung, nguồn gốc chung, cùng

98

một giống nòi, ý thức giáo dục, rèn luyện để bảo vệ giang san mỗi khi lâm nguy. Đây

cũng là sự thể hiện giá trị phù chú và hình thái của sự dâng cúng, chuyển giao năng

lượng tâm thần để phát triển các khả năng thích ứng của xã hội:

Trăm đôi gái trai anh tú

Ngựa lồng bãi rộng

Gươm thần phun lửa đốt môi.

Hình ảnh thơ chứa sức mạnh vô biên của tuổi trẻ với "ngựa lồng", "gươm thần",

"phun lửa" đã thể hiện được sự oai hùng với bản lĩnh tột cùng của một dân tộc vốn có

truyền thống chống giặc giữ nước. Chính nhờ truyền thống oai hùng đó mà sau này nhân

dân ta "hào kiệt đời nào cũng có”. Hào kiệt được gợi dậy từ lốt chân của Thánh Gióng.

Cậu bé làng Phù Đổng bay về trời nhưng vẫn để lại những vết chân ngựa và những dấu

tích của các bụi tre Đằng Ngà - cũng là những vết tích của truyền thống, của lịch sử còn

đọng lại tạo nên cái hồn cốt riêng cho văn hoá dân tộc Việt. Phải nhìn cho đặng thấy

những cái ao nhỏ ngày nay vẫn còn nằm rải rác, trải dài trên các cánh đồng huyện Quế

Võ - Bắc Ninh kia mới thấy được hết những giá trị lịch sử được in dấu từ vết chân của

ngựa Gióng. Bản chất của lễ hội là một hoạt đông văn hoá tâm linh, biểu hiện một

khuynh hướng tín ngưỡng. Trong khi hành lễ, chúng ta cảm thấy thực sự đang liên giao

với một thế giới thiêng liêng, nhưng gần gũi, ở đó có những vị thần xuất chúng được tôn

thờ trong tâm trí chúng ta từ tuổi còn thơ. Nhà dân tộc học người Pháp G.Dumoutier, sau

khi dự lễ hội Phù Đổng ở Việt Nam, đã viết vào sổ lưu niệm tại đền Gióng như sau: “Cái

cảnh mà chúng tôi đã chứng kiến sẽ mãi mãi in trong tâm trí như một trong những cảnh

đáng ngạc nhiên nhất là chúng tôi đã thấy được... Tại Châu Âu cổ kính của chúng ta, có

dân tộc nào có thể tự hào là hàng năm còn kỷ niệm một sự kiện anh hùng trong lịch sử

của mình cách ngày nay hàng hai nghìn ba trăm năm như thế”.

Miêu tả chiếc gậy tre - gậy thần đánh giặc thời Văn Lang đến chiếc gậy tình yêu

"đi xe duyên cô tấm, ông Hoàng" thời đại Lý - Trần và chiếc gậy nghĩa tình đi vớt

Trương Chi với nơi "gấm đỏ lầu tây" trong Hội Gióng là một biểu tượng thơ mang nhiều

ý nghĩa biểu tượng văn hoá, đồng thời chứa dựng nhiều tính sáng tạo với những giá trị

nhân văn cao cả. Xây dựng lên biểu tượng thơ như thế, nhà thơ đã hoá thân vào không

gian của lễ hội - thơ mình để trở thành một Thánh Gióng hữu hình trong cuộc đời, cũng

luôn biết khát khao tình yêu và hạnh phúc, mượn không gian lễ hội để thể hiện niềm khát

khao tình yêu âu cũng là một phong cách thơ Hoàng Cầm. Nếu để ý ta sẽ thấy rằng trong

99

tất cả các lễ hội mà ông miêu tả thì hầu như đều nói về truyền thống văn hóa và nói về

tình yêu, mượn cớ nói về lễ hội để nói về truyền thống văn hóa và nói về tình yêu. Nói

cách khác, đằng sau không gian văn hoá của những lễ hội dân gian ấy chứa đựng cả một

biểu tượng tình yêu lớn: tình yêu nam nữ - trai gái, tình yêu quê hương, tình yêu dân tộc

luôn đằm sâu trong tâm hồn ông với ý thức về cội nguồn, về lý tưởng cái đẹp, lý tưởng

thẩm mỹ nhân văn nơi cuộc đời trần thế...

Hội Long Khám, Hội Vân Hà cũng là một sáng tạo nghệ thuật tuyệt vời của

Hoàng Cầm, ông dám mạnh dạn nói về chuyện mà người dân thường tránh nói: chuyện

nam - nữ nơi chốn tu hành, ở đây là chuyện ni cô chùa Long Khám khát khao tình yêu

trần tục:

Hội Long Khám đêm sao chi chít

Bồ đề mở lá thả ni cô

Thiện nam vin khói đi quanh chùa...

Mơ Từ Thức...

... mẫu đơn một nhành rơi....

Nhà thơ đã khéo gợi về câu chuyện tình giữa Từ Thức và Giáng Tiên - người nhà

trời đẹp như hoa ngọc lan mười búp chắp, như hoa mẫu đơn- biểu tượng của sự phú quý,

đẹp đẽ, giản dị nhưng vô cùng hấp dẫn đặc biệt là bởi cái màu đỏ của hoa mẫu đơn (cả

hai loài hoa này đều thường hay trồng trong nhà chùa) để nói về ni cô chùa Long Khám.

Lấy cớ đi trảy hội để hò hẹn, gặp gỡ với ni cô là một hành động "vượt đèn đỏ" của giới

tu hành. Nhưng Hoàng Cầm muốn thể hiện khát vọng tự do cá nhân, tự do trong tình yêu

và hạnh phúc của những con người tuy vào chùa - nơi linh thiêng ở chốn thiền môn

nhưng chưa tắt được "lửa lòng". Song hành giữa cái đẹp, cái khát vọng tình yêu, nhục

dục bên cạnh cái linh thiêng âu cũng là một khía cạnh thơ- một phong cách thể hiện cái

giá trị phồn thực trong thơ Hoàng Cầm. Cùng với ngôn ngữ thơ vừa hiện thực, vừa siêu

thực của cỏ ba tầng, giò lụa nổi, giò mỡ chìm, lá sung bay, cùng âm thanh của những

tiếng chống giục, lợn kêu eng éc, tiếng dao phay liếc thành vại, tiếng chim lợn và cả điệu

nồi niêu... là sự tranh thủ của những người vừa đủ “men rượu nồng” đang dậy lên “men

tình" trong hội:

Hội tàn men

quẩn quanh nghiêng ngửa

Giật yếm đào túm vội đôi bầu...

100

Đó là thứ ngôn ngữ của tình cảm đang bị dồn nén, của sự hòa nhập giữa ký ức và

thực tại, thực thực hư hư tạo nên giọng điệu đầy chất trữ tình thiết tha với cuộc sống, với

tình yêu trên nhiều cung bậc khác nhau. Chính lối nghệ thuật thể hiện cái thực tại ấy đã

tạo thành một trường liên tưởng siêu cảm giác trong thơ ông. Tuy nhiên để có được điều

đó, Hoàng Cầm đã phải đắm mình vào trang thơ, trang quê để rồi tất cả cùng hòa đồng

vang lên thành một thứ giai âm tiêu giao, sâu lắng man mác nét buồn khôi nguyên. Vì

thế nên ngôn ngữ thơ ông thường lồng tự nhiên những câu dìu dặt, luyến lắy giọng dân

ca để tạo cho giai điệu bài thơ nhiều lúc xuất thần, vượt khỏi sự dụng công phu chữ song

vẫn mang dáng vẻ mới lạ, độc đáo, thú vị, góp phần quan trọng vào việc tìm tòi, đổi mới,

cách tân ngôn ngữ thơ hiện đại Việt Nam. Đọc thơ Hoàng Cầm không có cảm giác nhàm

chán một phần là do vậy.

Quả không sai khi nói Kinh Bắc là vùng đất của huyền thoại, cái nôi của văn hoá

dân tộc. Nhưng cái tài hoa của nhà thơ Hoàng Cầm đã làm sáng lên hồn dân tộc trong nét

vẽ của tranh Đông Hồ thì lại càng cộng hưởng sự hấp dẫn của không gian văn hóa lễ hội

Kinh Bắc. Và chất tài hoa kia đã khơi gợi được rất nhiều liên tưởng, khơi dậy được cảm

thức muốn sống lại trong hoài niệm, tâm hồn như muốn được thăng hoa lên từ những

dấu tích của lịch sử, huyền thoại, truyền thuyết đang hiển hiện sống động đến lạ lùng

này. Nhà thơ đã cảm nhận cái "hồn dân tộc" vừa xa xôi, vừa trừu tượng, vừa thật sống

động gần gũi thân thương, vừa sâu lắng và rồi đặng lưu giữ, làm ấm sáng mãi nguồn

mạch vô tận của sức mạnh văn hoá vùng miền, văn hóa dân tộc - cội nguồn đã làm nên

một bản sắc Việt Nam hôm nay.

Hồn dân tộc ẩn chứa trong những hình hài văn hoá ấy.

Trong dòng chảy của văn hoá Kinh Bắc còn có các lễ hội nổi tiếng cả vùng, cả

nước. Đó là hội Lim hát quan họ. Hội được tổ chức vào ngày 13 tháng giêng âm lịch,

đây là hội hát quan họ nổi tiếng vùng Kinh Bắc.

Nếu như hát Thường Thang là đặc sản văn hóa của người Mường ở Hòa Bình:

con gái Mường vừa lớn lên đã học cách đánh cồng dệt vải nên hai tay dẻo, bước chân

linh hoạt, nhún nhẩy duyên dáng, trong hội người Mường còn tổ chức thi hát Thường

Thang, cuộc thi này kéo dài có khi thâu đêm với những lời ca, điệu múa, tiếng trống... tất

cả cùng say sưa trong hương sắc, đất trời thì hội hát quan họ ở Kinh Bắc, đặc biệt là các

cuộc hát canh có khi còn kéo dài những mấy ngày với sự hội tụ các vẻ đẹp văn hóa của

một vùng quê văn hiến, do đó hát Quan họ được coi là loại hình văn hóa dân gian tiêu

101

biểu và được coi là biểu tượng của viên ngọc quý trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Trải

qua bao thăng trầm của xã hội và biến động của quê hương đất nước, lễ hội Kinh Bắc

không những không mất đi mà ngày càng phát triển phong phú hơn, tươi đẹp hơn, tỏa

sáng cùng truyền thống quê hương, thể hiện sức sống dồi dào, mạnh mẽ và vô tận của

văn hóa Kinh Bắc.

Một ý nghĩa văn hoá lớn khác của lễ hội trong thơ Hoàng Cầm là tác dụng giáo

dục con người, dù không có một lời rao giảng hay một bài học được viết thành văn. Điều

thấm thía nhất là các lễ hội ấy nhắc lại với mỗi người rằng chúng ta có một cội nguồn, để

từ đấy, lớp lớp con người sinh ra trên vùng đất này, đã lao động cật lực, chiến đấu kiên

cường đẩy lịch sử đi lên. Những bó lúa, bông ngô, hoa thơm, quả ngọt dâng lên thần linh

như kết tinh tình yêu quê hương, đất nước trong đó. Lễ hội dẫn ta về quá khứ xa xưa của

dân tộc, khơi dậy những tình cảm vừa trong lành, vừa sâu nặng để càng se kết bản thân ta

với quê cha đất tổ bằng những sợi dây vô hình bền chặt.

Nhìn chung thơ Hoàng Cầm đã dựng lại và phản ánh rõ nét những biểu tượng đặc

trưng tiêu biểu của không gian lễ hội đất Kinh Bắc. Từ đó mở ra một chiều kích mới, cái

nhìn mới trong việc thể hiện thế giới nghệ thuật thơ ca của mình từ ngôn ngữ, giọng điệu,

thể thơ và đề tài. Nhà thơ luôn lấy tình yêu làm tâm điểm để soi sáng và phản ánh bản

sắc văn hoá- xã hội cộng đồng làng xã người Việt cổ nói chung, bản sắc của vùng quê

Kinh Bắc nói riêng và cũng từ đó cũng nhân lên tình cảm yêu quê hương đất nước với

những ước mơ trong trẻo, nhằm dựng lại những giá trị văn hoá cổ truyền của vùng miền,

của dân tộc. Không gian lễ hội làm nổi bật được cái hồn cốt văn hoá Kinh Bắc trong

phong cách thơ ông. Không gian ấy hiện lên trong thơ ông thật nên thơ, sống động, cổ

tích, bản sắc và nhân văn biết bao. Điều đó chứng tỏ nhà thơ phải có một cảm xúc mãnh

liệt, một tình yêu lớn gắn bó tới mức máu thịt, "chân tay" với Kinh Bắc thì mới tạo nên

một khoảng trời thơ Kinh Bắc ấy. Qua đó còn khẳng định một điều rằng Kinh Bắc luôn

là vùng văn hoá, vùng thẩm mỹ lớn, độc đáo trong sáng tác thơ ca của Hoàng Cầm.

2.4.2. Hát Quan họ - một biểu tượng văn hoá thẩm mỹ độc đáo

Mỗi khi Tết đến xuân về, hoà trong không khí ấm áp, tràn trề sức sống của đất

trời, hoa lá, cỏ cây và con người muôn nơi là dịp hội ở các làng quê vùng Kinh Bắc được

bung ra thể hiện hết mình. Nhưng đặc sắc, ấn tượng và cuốn hút hơn cả vẫn là hội của

các làng Quan họ. Người Quan họ thường mách bảo nhau rằng: cái xuân của bạn hãy

còn dài lắm, dù nguyệt hoa hoa nguyệt có trùng phùng đến mấy thì hãy cũng để đó, trúc

102

mai có dập dìu bao nhiêu thì bạn cũng đã vội gì mà không dám để ra một bên để đi chơi

hội, vì mỗi bước đi của bạn trong ngày xuân Quan họ đều vương vấn những tình cảm

cao đẹp của con người, với những khát vọng thưởng thức văn chương nghệ thuật tuyệt

diệu, trong đó là những giọng ca vang, rền, nền, nảy, ấm áp, mượt mà, luyến láy, xoắn

quện đến mê hoặc lòng người.

Đôi cánh thơ Hoàng Cầm được sinh ra từ tiếng hát của người mẹ Kinh Bắc:

Tiếng mẹ hát mọc cho đôi cánh trắng/ Nghìn lần đập vẫy vùng... chim trời từng đôi cất

cánh/ bay dài trên quê hương... (Tôi người làng quan họ), do vậy khi viết những vần

thơ về quan họ, Hoàng Cầm luôn có ý thức truyền tải cái hay, cái đẹp, cái truyền thống

văn hoá của ngôn ngữ, giọng điệu Quan họ và khẳng định Quan họ là bản sắc văn hoá,

văn hiến mang tính trường tồn, cần bảo lưu, gìn giữ và phát triển. Và ông coi văn hoá

Quan họ chính là chất Men - thơ để làm dậy lên những giọng điệu ngọt ngào và sắc màu

ngôn ngữ mang đậm chất Kinh Bắc trong sáng tác thơ mình.

Quan họ là loại hình ca hát dân gian đặc trưng của người Kinh Bắc, người hát hát

đối nhau bằng các làn điệu truyền thống và rất ứng biến. Hội Quan họ diễn ra ở trong

nhà, trên sân đình, trước cửa chùa, hay bồng bềnh trên những chiếc thuyền giữa ao hồ -

dấu tích xưa của các vết chân ngựa Gióng hoặc của dòng sông Dâu, dòng Tiêu Tương đã

một thời vang vọng tiếng hát chàng Trương Chi làm say đắm nàng Mỵ Nương xinh đẹp.

Đến hẹn lại lên. Vào hội, các liền anh áo the khăn xếp, các liền chị nón thúng quai thao,

áo mớ ba mớ bẩy được gặp gỡ với những tình cảm nồng ấm, thân tình, tinh tế và lịch lãm

theo lối riêng của người Quan họ. Họ hát lên những làn điệu trong kho tàng ngôn ngữ

dân ca địa phương đạt tới trình độ nghệ thuật cao. Ngôn ngữ Quan họ là sự hội tụ tuyệt

vời của ngôn ngữ thơ ca và nhạc hoạ trong những cung bậc tình cảm giao hoà giữa nam

và nữ, giữa con người với con người, con người với thiên nhiên tạo vật và thần linh... thể

hiện khát vọng vươn tới cuộc sống hạnh phúc, phồn thịnh, thuỷ chung như nhất. Trong

số các nhà thơ hiện đại Việt Nam có thơ hay về Quan họ phải kể đến Nữ sĩ Anh Thơ,

Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Thanh Kim... Nữ sĩ Anh Thơ đã có những lúc bơi lội trong

những làn điệu dặt dìu, tình tứ của giọng ca Quan họ như Cô chi đoàn phó: Câu Quan

họ hát về Kinh Bắc/ Có con sông Thương nước chảy đôi dòng/ Có con sông Cầu nước

chảy lơ thơ... Nhưng có thể nói, Hoàng Cầm là nhà thơ đã tiếp thu sáng tạo nhịp điệu

Quan họ bằng một trường liên tưởng thẩm mỹ kỳ lạ để làm nảy ra những hình ảnh, ngôn

ngữ- đó là thứ ngôn ngữ thơ ca dân gian Kinh Bắc kết hợp với ngôn ngữ hiện đại, và chỉ

103

có ngôn ngữ trong thể thơ tự do mới làm được việc đó một cách hiệu quả nhất, và với

giọng điệu mới lạ hơn cả. Đặc biệt ở hệ lời:

Trầu têm cánh phượng... lỡ thề tử sinh

Lý cây đa... Lý huê tình

Nguyệt cầm ngại gảy... dỗ dành ai ca

Người ơi người ở... Hay là...

(Thể phách tinh anh).

Viết về Quan họ, Hoàng Cầm tập trung nhiều vào không gian văn hoá Quan họ

trong Hội Lim. Có thể nói, chưa hội nào ở Kinh Bắc hội tụ nhiều làng quan họ, nhiều

canh hát quan họ như hội Lim - lễ hội hát Quan họ nổi tiếng nhất vùng. Về với hội Lim

là về với không gian của một trời thơ và nhạc, với sắc thái của một không gian văn hoá

truyền thống riêng biệt ở xứ Bắc - Kinh Bắc. Không trực tiếp hoặc đi sâu miêu tả tiếng

hát, nhưng nhà thơ đã nói được cái tinh túy linh hồn văn hoá Quan họ. Đó là những giai

điệu “ứ hự”, “hừ la” đầy nghẹn ngào, ẩn ức, thứ ngôn ngữ riêng biệt chỉ có trong lời ca,

lời thơ Quan họ: Ứ hự tình ơi/ Đố ai lấp được Ngân hà/ Để em về lấp lời ca đêm

trường/ Bụi nào vẩn được mặt gương/ Vẫn soi nắn lại khăn vuông đợi mình (Chân trời

tua tủa mảnh trai), hoặc Ứ... hự... hề... hi... ha.../ U...ơi... ời... ới... a... (Chân dung tự

thú). Đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng gặp thứ ngôn ngữ, nhất là cái giọng điệu

mượt mà, say đắm ấy như: chuốt rơm bện ổ, nhai trầu, chùm cau, têm trầu cánh

phượng, ngực yếm, đêm trăng, con thuyền, se chỉ trắng, con thoi dệt sợi, nhà chứa, sợi

xích thằng, sân đình, sân chùa, ba mươi sáu khúc bổng trầm, hát ru lanh lảnh, rồi

những giọng, trốn, trộm, tìm... Qua sông tìm nhau/ Tìm giải yếm nâu/ Bắc cầu đôi ta/

Tìm thắt lưng xanh/ vắt cành hoa lý/ Hỡi con chim khuyên/ Hót chuyền cành tre/ Có

đến bên hè (Khi mùa xuân về)...

Âm vang của tiếng hát như muốn vượt khỏi không gian cả một vùng quê rộng

lớn, vượt không gian sông Cầu, sông Đuống, sông Thương..., vượt Kinh Bắc để đến với

thế giới Năm châu bốn bể, với bạn Châu Phi đêm đi trong rừng cũng thoáng nghe lanh

lảnh lời ca. Và với Hoàng Cầm tiếng hát quan họ không chỉ là biểu tượng cho một

không gian văn hóa riêng Kinh Bắc mà còn là bản sắc của một Việt Nam văn hoá và văn

hiến: Từ Việt Nam thôn xóm bé phương nào cũng mang tiếng hát bay trong trời. Tiếng

hát quan họ được coi là một cuộc hôn phối mê say giữa dân ca đồng bằng và trung du

104

nằm trong vùng văn hoá Luy Lâu, văn hoá sông Hồng của nền văn minh đất Việt với dân

ca nước Chàm của các vua họ Chế từ thế kỷ thứ XI, thế kỷ rực rỡ nhất của vương triều

Lý. Hoàng Cầm đã biết "học cách tôn trọng... văn hóa của các thực thể văn hóa khác trên

mọi bình diện” [157, tr.96] nhưng vẫn "biết nâng niu gìn giữ giá trị bản sắc văn hóa của

nhóm mình trong khi vẫn không tách biệt ra khỏi nền văn hóa lớn hơn” [158, tr.96]. Nhà

thơ Hoàng Cầm ngay từ nhỏ đã đắm chìm, say mê trong những lời ru Quan họ ngọt

ngào, từ những giọng hát đầu được cất lên làm say cả gỗ đá, bài ca xưa vắt vẻo cầu vồng

ở bếp từng nhà, ở trên môi cụ già, ở quê mẹ, quê cha... Vì thế có người nói chất quan họ

trong thơ ông đã đạt đến độ hàn lâm. Hoàng Cầm từng khẳng định "Tôi người làng quan

họ" và tiếng hát Quan họ còn mang đậm nhiều giá trị nhân văn, nhân sinh cao cả trong

lối sinh hoạt đặc trưng thể hiện tình người Quan họ:

Tiếng hát quan họ nâng gót chân lầm lỗi,

qua cầu về với mẹ cha

Nước mắt thương làm từng giọng gõ phù sa

đã thành ngọc trai giữa dòng sông Đuống.

(Tìm đến chân trời).

Hiểu được tình cảm con người biết yêu lao động, hay hình ảnh những người phụ

nữ biết chăm lo trong “năm liệu bảy lo...”, và họ hiểu rằng học “công- dung- ngôn-

hạnh” từ Quan họ là nững bài học nhân văn sâu sắc nhất. Hội Lim và tiếng hát Quan họ

thực sự là "bài ca vỗ sóng ngàn xưa”. Dưới ngòi bút tài hoa và trí tưởng tượng bay bổng,

phóng khoáng của Hoàng Cầm, Tiếng hát quan họ lại trở thành biểu tượng cho cái đẹp

và nghệ thuật văn hoá dân gian của Kinh Bắc, của Việt Nam và của cả thế giới:

Tôi mơ

Tiếng hát quan họ

Cất cao thành trái núi khổng lồ

Ném xuống biển cồn sóng gió... (Tìm đến chân trời).

Đó không chỉ là những câu thơ đơn thuần, mà còn là tâm trạng, tâm tư, nguyện

vọng, là tình cảm quê hương trong ông và hơn thế nó còn được lồng vào trong tình yêu

quê hương đất nước. Lễ hội Quan họ Kinh Bắc luôn hội tụ các vẻ đẹp văn hóa của một

vùng quê văn hiến, là loại hình văn hóa dân gian tiêu biểu và được coi là viên ngọc quý

trong kho tàng văn hóa Việt Nam. Trải qua bao thăng trầm của xã hội và biến động của

105

quê hương đất nước, văn hoá Quan họ không những không mất đi mà ngày càng phát

triển phong phú hơn, tươi đẹp hơn, tỏa sáng cùng truyền thống quê hương, thể hiện sức

sống dồi dào, mạnh mẽ và vô tận của văn hóa Kinh Bắc.

Có thể nói "Sự sáng tạo bắt nguồn từ truyền thống văn hóa, nhưng nảy nở trong

tương tác văn hóa với các nền văn hóa khác. Vì vậy, di sản dưới mọi hình thức đều

đáng được bảo tồn, phát huy và truyền lại cho thế hệ tương lai để lưu giữ kinh nghiệm

và cảm hứng của loài người, để đẩy mạnh sáng tạo trong sự đa dạng và thúc đẩy đối

thoại giữa các nền văn hóa” [159, tr.97]. Văn hoá quan họ là một phần không gian văn

hoá rất đặc trưng ảnh hưởng đến đời sống thi ca Hoàng Cầm và cũng từ đó ông có

những mạch ngầm thi liệu phù hợp với cảm xúc thi ca. Chính giá trị nghệ thuật đó

được bảo tồn và phát huy trong ông, là nguồn thi hứng, thi liệu dồi dào để nhà thơ viết

lên những vần thơ đậm chất giọng Quan họ. Hoàng Cầm sinh ra và lớn lên trong chính

vùng đất này nên ông là người hiểu và say mê Quan họ. Tình yêu đó đã đồng điệu với

tâm hồn ông mà sinh thành nên bản ngã nghệ thuật Quan họ trong thi tứ ông. Dân gian

và bác học, truyền thống và hiện đại được lồng trong điệu thơ Hoàng Cầm tạo nên vẻ

đẹp Kinh Bắc diễm lệ, tài hoa, một nét thẩm mỹ “rất riêng” cho phong cách thơ ông.

Do vậy không gian văn hoá Quan họ trong thơ Hoàng Cầm luôn có một giá trị độc lập

trong toàn bộ di sản thơ ông.

Trong cuộc sống cũng như trong nghệ thuật, con người sáng tạo các biểu tượng

văn hoá để tác động và để thấy được diện mạo tinh thần của chính mình. Các biểu tượng

cùng với truyền thống văn hoá đã góp phần gìn giữ, lưu truyền và bảo tồn những giá trị

vốn có. Biểu tượng hàm chứa trong nó những ước định, hiển nhiên là trực tiếp cùng

những bừng sáng trong sáng tạo nghệ thuật của nhà văn. Đó là vật môi giới giúp ta tri

giác cái bất khả tri giác, là chiếc chìa khoá kỳ diệu của văn hoá con người, biểu hiện cụ

thể thế giới tinh thần với những giới hạn trong cảm nhận thế giới, không gian, thời gian

và con người trong các hình tượng nghệ thuật, đồng thời biểu tượng cũng được xem như

là một trong những thủ pháp nghệ thuật tích cực để tạo dựng hình tượng văn học phong

phú, giàu giá trị biểu cảm. Theo đó, các biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm là một sáng tạo

nghệ thuật đặc biệt được trưng cất lên từ vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc. Trong đó tác

giả đã tạo ra được một thế giới những hàm nghĩa sâu xa về thế giới thiên nhiên, con

người và phong tục tập quán, lịch sử của dân tộc, của nhân dân vùng Kinh Bắc một cách

sâu sắc và giàu ý vị nhân sinh.

106

Qua việc tìm hiểu nghệ thuật xây dựng một số hình ảnh và biểu tượng như trên,

chúng ta phần nào thấy rõ tài năng, sự sáng tạo tuyệt vời và vẻ đẹp tâm hồn của Hoàng

Cầm. Những hình ảnh, biểu tượng đó sẽ còn vương mắc mãi trong tâm trí người đọc, hay

đó cũng chính là sức sống của những trang thơ mang đậm giá trị thẩm mỹ, giá trị văn hoá

sâu sắc về lề lối giao tiếp, phong tục, ẩm thực, về tình yêu nam- nữ, tình yêu quê hương

đất nước, giá trị nhân văn cao cả! Hoàng Cầm đã khẳng định tên tuổi của mình trong

dòng thơ trữ tình Việt Nam hiện đại bằng khối óc, trái tim và tâm hồn của một người

nghệ sĩ chân chính. Đặc biệt, không dừng lại với những gì đã có, nhà thơ vẫn luôn gắng

gượng với mọi nỗi đau bi kịch để dâng cho đời những trang hoa đẹp tươi. Viết thơ là viết

tiếp trang văn của sự sống, là trái tim còn đập và cuộc đời còn niềm vui, hạnh phúc. Viết

bằng tất cả huyết lệ của một đời con tằm nhả tơ, con yến nhỏ máu xây tổ. Viết bằng ngòi

bút dũng cảm, bằng vốn sống và miền tâm cảm, tâm linh ấp ủ trái tim thắm đỏ tình

người, tình yêu quê hương Tổ quốc! Đó chính là máu thịt, là phong cách, là thi pháp, là

tư tưởng nghệ thuật của Hoàng Cầm.

107

Chương 3

VÙNG THẨM MỸ TRONG THƠ HOÀNG CẦM

NHÌN TỪ PHƯƠNG DIỆN NGÔN NGỮ

3.1. Quan niệm về ngôn ngữ và ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học

3.1.1. Quan niệm về ngôn ngữ

Trong cuộc sống, con người có khả năng truyền đạt kinh nghiệm cá nhân cho

người khác và sử dụng kinh nghiệm của nguời khác vào hoạt động của mình, làm cho

mình có những khả năng to lớn, nhận thức và nắm vững được bản chất của tự nhiên, xã

hội và bản thân… chính là nhờ ngôn ngữ. Ngôn ngữ là một hiện tượng xã hội - lịch sử,

do sống và làm việc cùng nhau nên con người có nhu cầu giao tiếp với nhau và nhận

thức hiện thực. Trong quá trình lao động cùng nhau thì quá trình giao tiếp và nhận thức

không tách rời nhau: trong lao động, con người phải thông báo cho nhau về sự vật, hiện

tượng nào đó, nhưng để thông báo lại phải khái quát sự vật, hiện tượng đó vào trong một

lớp, một nhóm các sự vật, hiện tượng nhất định, cùng loại. Ngôn ngữ đã ra đời và thoã

mãn được nhu cầu thống nhất các hoạt động đó. Do vậy ngôn ngữ có một vai trò đặc biệt

quan trọng trong đời sống con người. Vậy ngôn ngữ là gì? Theo quan niệm của ngôn ngữ

học thì ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp trọng yếu trong đời sống con người, "Ngôn

ngữ là ý thức thực tại thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn tại cho cả người khác nữa, như vậy

cùng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ sinh ra

là do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với người khác nữa" [154, tr.8].

Ngôn ngữ là một hệ thống kí hiệu từ ngữ chức năng là một phương tiện để giao

tiếp và là công cụ của tư duy. Ngôn ngữ được hình thành trong quá trình hoạt động và

giao lưu của mỗi cá nhân với người khác trong xã hội. Ngôn ngữ mang bản chất xã hội,

lịch sử và tính giai cấp. Nó “là phương tiện bảo lưu và truyền thông tin; là một trong

những phương tiện điều chỉnh hành vi của con người. Ngôn ngữ tồn tại dưới dạng nói

(lời, tiếng; lời nói, tiếng nói) và dạng viết (chữ, văn tự)... Ngôn ngữ dân tộc là phương

tiện giao tiếp bằng lời nói và chữ viết của một cộng đồng dân tộc; nó được hình thành ở

thời kỳ dân tộc phát triển thành quốc gia; tức là thành một cộng đồng người dùng chung

một ngôn ngữ, sống chung trên một lãnh thổ, cùng một đời sống kinh tế, có chung một

đặc điểm về tính cách và về văn hoá. Ngôn ngữ dân tộc là ngôn ngữ toàn dân, nó bao

gồm toàn bộ các biến thức về phương ngữ, ngôn ngữ thông tục, ngôn ngữ văn học (ngôn

ngữ viết); các biến thức này được thống nhất bởi có chung một vốn từ cơ bản, một hệ

108

thống ngữ pháp và (ở mức độ nhất định) một hệ thống ngữ âm. Cấu trúc thực tại của

ngôn ngữ dân tộc thống nhất bởi những yếu tố hằng xuyên ra khả năng hiểu biết lẫn nhau

giữa những con người nói cùng một ngôn ngữ dân tộc" [1, tr.229- 230].

Đặc điểm nổi bật nhất của ngôn ngữ là gắn chặt với tâm lý, tình cảm của quần

chúng nhân dân, do đó nó chứa đựng những tín hiệu thẩm mỹ đặc biệt, mà "Ngôn ngữ

là một hệ thống tín hiệu, nó khác với những hệ thống vật chất khác không phải là tín

hiệu, chẳng hạn, kết cấu của một cái cây, một vật thể nước, đá, kết cấu của một cơ thể

sống...", tuy nhiên "là một hệ thống tín hiệu phức tạp bao gồm các yếu tố đồng loại và

không đồng loại, với số lượng không xác định... Trong ngôn ngữ, có khi một cái biểu

hiện tương ứng với nhiều cái được biểu hiện khác nhau, chẳng hạn, các từ đa nghĩa và

đồng âm, có khi nhiều cái biểu hiện khác nhau chỉ tương ứng với một cái được biểu

hiện, chẳng hạn các từ đồng nghĩa. Mặt khác, vì ngôn ngữ không những chỉ là phương

tiện giao tiếp và phương tiện tư duy mà còn là phương tiện biểu hiện tình cảm, cho nên

mỗi tín hiệu ngôn ngữ, ngoài nội dung khái niệm còn có thể biểu hiện cả các sắc thái

tình cảm của con người nữa" [44, tr.55-57-59]. Khi đi vào đời sống con người như là

một công cụ giao tiếp quan trọng, ngôn ngữ trong các ngành nghệ thuật có những khác

biệt cơ bản, theo Từ điển mỹ học phổ thông: "Ngôn ngữ là hệ thống tín hiệu đặc biệt

bao gồm những dấu hiệu, ký hiệu được sử dụng với mục đích trao đổi hoặc truyền đạt

thông tin. Trong nghệ thuật, mỗi chuyên ngành đều có ngôn ngữ riêng để diễn đạt loại

hình nghệ thuật của mình" [89, tr.116]

Ngôn ngữ gồm 3 bộ phận: ngữ âm, từ vựng và ngữ pháp, tức là hệ thống các

quy tắc qui định sự ghép thành câu. Chức năng của ngôn ngữ thường được dùng để chỉ

nghĩa, thông báo và khái quát hóa. Với các chức năng ấy vừa làm phương tiện tồn tại,

truyền đạt và nắm vững kinh nghiệm xã hội - lịch sử loài người, con người có thể biểu

đạt hoặc tiếp nhận những trạng thái cảm xúc tình cảm cá nhân. Tuy nhiên khả năng

biểu cảm của ngôn ngữ rất đa dạng, phong phú và phức tạp. Cùng một nội dung, nhưng

với nhịp điệu và âm điệu diễn tả khác nhau người ta có thể biểu đạt những tình cảm

cảm xúc khác nhau.

Qua đây ta thấy ngôn ngữ liên quan chặt chẽ với tư duy và trí tưởng tượng của

con người. Mối quan hệ chặt chẽ ấy mà ngôn ngữ có một vai trò to lớn trong tư duy,

tưởng tượng. Nó là phương tiện để hình thành biểu đạt và duy trì các hình ảnh mới của

tưởng tượng. Không có ngôn ngữ không thể tiến hành tưởng tượng. Chính nhờ ngôn ngữ

109

đã giúp con người chấp nối, gắn kết, kết hợp…những kinh nghiệm đã qua với những cái

đang xảy ra thành những biểu tượng mới chưa hề có. Ngôn ngữ giúp chúng ta làm chính

xác hóa các hình ảnh của tưởng tượng đang nảy sinh, tách ra chúng những thành những

mặt cơ bản nhất, sau đó lại tạo mối quan hệ riêng để xích chúng gần với nhau để tạo nên

một biểu tượng mới trong tư duy, tưởng tượng.

Tóm lại, ngôn ngữ là hiện tượng lịch sử - xã hội được nảy sinh trong quá trình

hoạt động thực tiễn của con người. Trong thực tế cuộc sống, nhờ có ngôn ngữ mà con

người có khả năng thực hiện quá trình giao tiếp để trao đổi ý nghĩ, tình cảm kinh nghiệm

của mình với người khác, ngôn ngữ có vai trò hết sức to lớn trong quá trình hình thành

và phát triển tâm lí của con người nhất là đối với nhận thức… nhất là trong hoạt động

sáng tạo văn học nghệ thuật.

3.1.2. Quan niệm ngôn ngữ nghệ thuật trong văn học

Nói đến ngôn ngữ nghệ thuật (ngôn ngữ văn chương, ngôn ngữ văn học) trước

hết là nói đến ngôn ngữ gợi hình, gợi cảm được dùng trong văn bản nghệ thuật. Ngôn

ngữ nghệ thuật còn được sử dụng trong lời nói hằng ngày và cả trong văn bản thuộc các

phong cách ngôn ngữ khác. Chẳng hạn, trong văn bản chính luận để cho lí lẽ và lập luận

có sức thuyết phục, lay động lòng người, người viết vẫn có lúc dùng những từ ngữ và

biết những câu văn có tính hình tượng cụ thể và giàu sức biểu cảm.

Tuy nhiên, cần phân biệt ngôn ngữ nghệ thuật và ngôn ngữ sinh hoạt. Ngôn ngữ

sinh hoạt là lời ăn tiếng nói hàng ngày, dùng để thông tin, trao đổi ý nghĩ, tình cảm,... đáp

ứng những nhu cầu trong cuộc sống. Ngôn ngữ sinh hoạt chủ yếu thể hiện ở dạng nói,

những cũng có thể ở dạng viết. Trong văn bản văn học, lời thoại của nhân vật là dạng tái

hiện, mô phỏng ngôn ngữ sinh hoạt trong đời sống hàng ngày.

Ngôn ngữ trong các văn bản nghệ thuật được phân chia làm 3 loại: Ngôn ngữ tự

sự trong truyện, tiểu thuyết, bút kí, kí sự, phóng sự…; Ngôn ngữ trong ca dao, vè, thơ

(nhiều thể loại khác nhau),…; Ngôn ngữ sân khấu trong kịch, chèo, tuồng,… Mỗi loại

trên có thể chia thành nhiều thể. Trong các thể loại này, các phương tiện diễn đạt có tính

nghệ thuật đan xen lẫn nhau để người đọc thẩm bình, thưởng thức, giao cảm: hoặc là cái

hay của âm điệu, hoặc vẻ đẹp chân thức sinh động của hình ảnh, hoặc những cảm xúc

chân thành gợi ra những nỗi niềm vui, buồn, yêu, thương trong cuộc sống. Theo đó, ngôn

ngữ nghệ thuật không chỉ thực hiện chức năng thông tin, mà điều quan trọng là nó thực

hiện chức năng thâm mĩ: biểu hiện cái đẹp và khơi gợi, nuôi dưỡng cảm xúc thẩm mĩ ở

110

người đọc, người nghe. Ngôn ngữ nghệ thuật tuy lấy ngôn ngữ tự nhiên, hằng ngày làm

chết liệu nhưng khác với ngôn ngữ hằng ngày ở chức năng thẩm mĩ. Chính cái phẩm

chất thẩm mĩ mà nó có được ấy là do sự lựa chọn, xếp đặt, trau chuốt, tinh luyện của

người sử dụng theo các mục đích thẩm mĩ khác nhau, hay nói cách khác là theo ý đồ của

người nghệ sĩ khi sử dụng.

Như vậy, ngôn ngữ nghệ thuật là ngôn ngữ chủ yếu dùng trong các tác phẩm văn

học, không chỉ có chức năng thông tin mà còn thoả mãn nhu cầu thẩm mỹ của con

người. Nó là ngôn ngữ được tổ chức, xếp đặt, lựa chọn, tinh luyện từ ngôn ngữ thông

thường và đạt được giá trị nghệ thuật của bản chất xã hội thẩm mỹ.

Ngôn ngữ nghệ thuật trong tác phẩm văn học là ngôn ngữ toàn dân tộc đã được

nghệ thuật hoá. Ngôn ngữ đã được hình thành, chọn lọc, gọt giũa, trau chuốt… và đặc

biệt ngôn ngữ ấy phải đem lại cho người đọc những cảm xúc thẩm mỹ, xúc cảm được

nhận biết thông qua những rung động tình cảm. Điều đó khác hẳn với những xúc cảm

của khoa học - những rung động thuần túy thông qua suy lý và chứng minh.

Ngôn ngữ trong tác phẩm văn học là một hiện tượng nghệ thuật. Bất kỳ một tác

phẩm văn học chân chính nào cũng đều được viết hoặc kể bằng lời. Ở phương diện thể

loại văn học có lời thơ, lời văn. Ở phương diện chức năng và các thành phần cấu tạo của

lời văn nghệ thuật có lời tác giả, lời nhân vật, lời trực tiếp, lời gián tiếp… nói chung là lời

văn. Lời văn là hình thức ngôn từ nghệ thuật của tác phẩm văn học. Lời văn thực chất là

một dạng ngôn từ tự nhiên đã được nhà văn tổ chức theo quy luật nghệ thuật về mặt nội

dung, phương pháp, thể loại, được đưa vào hệ thống giao tiếp khác mang chức năng khác

(không phải giao tiếp thông thường như lời nói thông thường). Nó mang những giá trị

đặc biệt, vừa truyền tải dung lượng thông tin nhất định, vừa mang tính thẩm mỹ cao.

Ngôn ngữ ở vị trí trung tâm của văn học nghệ thuật luôn thể hiện được cái phông văn

hóa và tính sáng tạo của người nghệ sĩ.

Ngôn ngữ trong đời sống hàng ngày của con người không phải là ngôn từ nghệ

thuật, bởi ngôn từ nghệ thuật là ngôn từ được lựa chọn, được tổ chức thành văn bản cố

định, sao cho nói một lần mà có thể giao tiếp mãi mãi. Ngôn từ nghệ thuật có chức năng

đặc biệt trong việc giúp nhà văn hình thành nên tác phẩm nghệ thuật của mình. Đối với

mỗi nhà văn chân chính thì việc lựa chọn ngôn từ sao cho hợp lý với phong cách nghệ

thuật của mình là một điều rất quan trọng, bởi thông qua ngôn từ nghệ thuật mà nhà văn

đó biểu hiện trong tác phẩm, người đọc sẽ dễ dàng nhận ra những chân dung văn học.

111

Tuy nhiên việc lựa chọn ngôn từ nghệ thuật cho những tác phẩm văn học của mình lại

không phải là một việc mà nhà văn đó có quyền tự quyết định. Ngôn từ nghệ thuật của

mỗi nhà văn do yếu tố văn hoá cá nhân, tài năng nghệ thuật, môi trường sống và mục

đích sáng tác chi phối. Ngôn từ nghệ thuật ghi dấu ấn của cá nhân nhà văn vào trong

từng câu chữ. Văn hoá chi phối đến phong cách nghệ thuật của nhà văn và vì vậy chi

phối đến ngôn từ nghệ thuật của nhà văn đó.

Việc sử dụng ngôn từ nghệ thuật là một phương diện quan trọng giúp nhà văn

sáng tác, qua đó làm phong phú thêm cho ngôn từ nghệ thuật và ngôn ngữ đời sống. Việc

tìm hiểu ngôn từ nghệ thuật của nhà văn giúp người đọc có trong tay một chìa khoá quan

trọng để khám phá thế giới nghệ thuật sáng tác cũng như phong cách nghệ thuật của nhà

văn đó. Ngôn ngữ là chất liệu của tác phẩm văn chương. M.Gorky đã nói: Ngôn ngữ là

yếu tố thứ nhất của văn học. F.de Saussure trong Giáo trình Ngôn ngữ học đại cương

đã đưa ra luận điểm: “ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của tư duy, là hệ thống ký hiệu biểu đạt

tư tưởng. Ngôn ngữ là sự hiện thực hoá của tư tưởng” [153]. Trong Hệ tư tưởng Đức,

Mác và Ăng ghen cho rằng: “Ngôn ngữ là ý thức thực tại, thực tiễn, ngôn ngữ cũng tồn

tại cho người khác nữa, và như vậy là cũng tồn tại lần đầu tiên cho bản thân tôi nữa, và

cũng như ý thức, ngôn ngữ chỉ nảy sinh ra do nhu cầu, do cần thiết phải giao dịch với

người khác” [154, tr.8]. Về ngôn ngữ thơ ca, trong Mỹ học, Hêgel đã nêu lên ba đặc

điểm sau: thứ nhất là việc sáng tạo; thứ hai là trật tự các từ hay là hình tượng ngôn ngữ;

thứ ba là cấu trúc các trường cú. Có thể nói đây là ba đặc trưng quan trọng nhất của ngôn

ngữ thơ ca.

Trong tác phẩm văn học nghệ thuật thì ngôn ngữ được coi là yếu tố quan trọng. Ở

mỗi thể loại đều có những đặc trưng ngôn ngữ riêng biệt, độc đáo. Mỗi nhà văn khi sáng

tạo nên tác phẩm, bên cạnh việc sáng tạo ra hệ thống nhân vật, hệ thống hình tượng, thế

giới nghệ thuật... thì cũng đồng thời sáng tạo hệ thống lời văn, lời thơ. Tuy nhiên, đó là

lời văn, lời thơ của cá nhân tác giả ấy, theo phong cách của từng cá nhân mỗi người để

tạo nên phong cách nghệ thuật riêng biệt trong việc sử dụng ngôn ngữ, hình ảnh và các

biểu tượng trong sáng tác. Như vậy, sáng tạo văn chương cũng đồng thời là quá trình

sáng tạo ra một hệ thống ngôn ngữ. Nghiên cứu tư duy nghệ thuật của một nhà văn nhà

thơ chính là nghiên cứu xem nhà thơ đó tư duy như thế nào trên chất liệu ngôn ngữ và

các hình tượng nghệ thuật. Là một thành tố văn học, ngôn ngữ trong văn chương nói

112

chung đã tồn tại như một phương tiện để bảo tồn gìn giữ, phát huy và sáng tạo văn hoá

hữu hiệu. Một ngôn ngữ dân tộc vốn là kết quả của sự phát triển văn hoá, lịch sử, con

người của cả dân tộc ấy. Do vậy trong ngôn ngữ dân tộc có sự mã hoá toàn bộ những trải

nghiệm văn hoá - lịch sử của dân tộc.

Bắt nguồn từ ngôn ngữ trong dân gian, ngôn ngữ trong văn hoá Quan họ, qua

lăng kính chủ quan của mình, Hoàng Cầm đã chọn lọc, gọt giũa, tái tạo và không ngừng

sáng tạo ngôn ngữ Việt để cho tiếng Việt ngày càng phong phú hơn, trong sáng, giàu giá

trị biểu vật, biểu cảm và tầng sâu giá trị thẩm mỹ. Và quan trọng hơn, ngôn ngữ thơ

Hoàng Cầm đã trở thành phương tiện, hình thức để biểu đạt những giá trị, những biểu

tượng văn hoá vùng quê Kinh Bắc, ngôn ngữ thơ ông không dàn trải mà vẫn chồng xếp

được nhiều tầng ý nghĩa. Nhà thơ sáng tác theo kiểu vô thức, xúc cảm theo dòng tâm

tưởng để hiện lên đầy những biến động của tâm lý, nên ngôn ngữ nhiều khi rời rạc

tưởng chừng như cách xa, không ăn nhập gì với nhau, nhưng thực ra lại có cấu trúc

chặt chẽ, không hề ngẫu nhiên hay lỏng lẻo... Thái độ và tinh thần làm việc đặc biệt của

thi nhân đã lựa chọn cho mình cách biểu đạt bằng hệ thống hình tượng liên kết nhiều

kênh ngôn ngữ có dấu ấn riêng hết sức độc đáo. Đó là hình tượng ngôn ngữ của văn

hoá Quan họ có chiều sâu ngữ nghĩa, được mỹ lệ hoá, làm đẹp hơn những gì vốn quen

thuộc, bình thường...

Ngôn ngữ văn hoá quan họ như một thứ phù sa màu mỡ lắng đọng trong hồn thơ

Hoàng Cầm, là thứ làm nên bờ bãi của Quê hương ta lúa nếp thơm nồng/ Tranh Đông

Hồ gà lợn nét tươi trong/ Màu dân tộc sáng bừng trên giấy điệp (Bên kia sông Đuống).

Cái thế giới ngôn ngữ văn hoá quan họ tình tứ, réo rắt ấy như mời gọi, thắt buộc lòng

người, duyên dáng trữ tình đẹp như tranh làng Hồ, nền nã như những liền chị quan họ…

Tất cả được dồn nén trong cảm xúc thơ ông, mà tình cảm, cảm xúc trong thơ là cái cần

thiết nhất, nó tạo cho tác giả những xúc cảm tuôn trào, để suối nguồn ngôn ngữ sẽ lấp

lánh theo sau. Tiếng thơ, hồn thơ Hoàng Cầm cất lên như để chuyên chở một nền văn

hoá, văn hiến quan họ đất Kinh Bắc đi hội nhập với nền văn hoá trong cả cộng đồng văn

hoá Việt.

Hoàng Cầm là một trong những điển hình về sự nghiêm túc trong việc nỗ lực lao

động nghệ thuật, nhất là trong việc sáng tạo ngôn ngữ. Nghiên cứu ngôn ngữ thơ Hoàng

Cầm, chúng tôi nhận thấy có những đặc điểm nghệ thuật đáng lưu ý sau:

113

3.2. Đặc trưng vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ

Hoàng Cầm

3.2.1. Sự kết hợp của nhiều kênh ngôn ngữ

Trước hết, đó là sự kết hợp của ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ bác học vùng

Kinh Bắc:

Thơ Hoàng Cầm là đặc sản tinh thần tự nhiên trong sáng của vùng quê Quan họ

Kinh Bắc nổi tiếng. Thơ ông có sự kết hợp hài hoà giữa ngôn ngữ dân gian và ngôn ngữ

bác học, trong đó yếu tố dân gian được thừa kế từ ngôn ngữ Quan họ là chủ yếu. Do hồn

quê đọng lại những làn điệu dân ca phóng khoáng trong tâm hồn ông nên bút pháp

Hoàng Cầm đã thể hiện được sự độc đáo, súc tích, ngôn ngữ thơ tinh luyện đầy biến ảo,

cấu tứ phóng túng, câu cú tung ra hay tạo sự bất ngờ… tạo nên một phong cách rất riêng

Hoàng Cầm, tạo nên nét riêng so với các tài tử khác ở trấn Kinh Bắc.

So với các loại hình văn hóa nghệ thuật dân gian khác như hát xoan, hát ghẹo, hát

chèo, hát ca trù, hát ví dặm, hát Thường Thang, hát tuồng, cải lương, ... thì hát Quan họ

có thời gian tồn tại lâu đời nhất (tuổi thọ hàng ngàn năm). Điều đó đã chứng minh hát

Quan họ là một nét văn hóa bản địa không những không bị phong kiến phương Bắc đồng

hóa, tiêu diệt, mà ngược lại vẫn phát triển nhờ bản sắc riêng và sức sống của nó trong tư

duy dân tộc và tâm hồn người dân vùng Kinh Bắc. Khẳng định được về mặt thời gian,

Quan họ len lỏi vào không gian của vùng miền, luồn lách qua các sông ngòi, bao quanh

các núi đồi, đình chùa, thôn làng Kinh Bắc để hoà cùng đời sống sinh hoạt văn hóa,

phong tục của nhân dân.

Lời ca Quan họ gắn với nếp sống, sinh hoạt, những tập tục, lề thói đã kết tinh tâm

hồn, tình cảm và những ước mơ khát vọng cao đẹp về nhiều mặt của người Kinh Bắc.

Nhờ thế, Quan họ đã hun đúc lên một bản lĩnh Văn hóa vùng hết sức độc đáo và là linh

hồn của văn hóa Kinh Bắc. Nơi đây có 49 làng Quan họ cổ với khoảng 200 làn điệu,

được hát suốt bốn mùa Xuân - Hạ - Thu - Đông. Quan họ giống như bầu khí quyển đặc

thù của lối sinh hoạt văn nghệ dân gian vùng đất này, nó còn có một lối giao tiếp hết sức

văn hoá từ phong độ lịch sự, trang nhã bên ngoài cho đến ngôn ngữ, cử chỉ cả khi đứng,

ngồi, mời chào… đều biểu thị sự tôn trọng quý mến: Mấy khi khách đến chơi nhà/ Đốt

than quạt nước chuyên trà khách xơi/ Trà này ngon lắm người ơi/ Mỗi người mỗi chén,

bõ công tôi chuyên trà (Lời ca Quan họ).

114

Hoàng Cầm là nhà thơ đất Kinh Bắc, ông coi nơi đây chính là một vùng thẩm mỹ

đặc biệt để bản ngã thơ được sinh thành và toả sáng, do vậy thơ ông luôn đậm đà chất

liệu Kinh Bắc. Ngôn ngữ Quan họ trong thơ Hoàng Cầm trước hết là ngôn ngữ dân gian

giàu chất thi vị, được chắt lọc, sáng tạo và không ngừng tái tạo từ ca dao tục ngữ, từ

truyện nôm giàu tính biểu tượng, hình tượng và giàu giá trị biểu cảm. Ngôn ngữ ấy cũng

hấp thụ cả tinh hoa của những vần thơ ca bác học... để rồi tạo nên sắc thái riêng, góp

phần hun đúc những giá trị riêng cho phong cách thơ ông. Đó là thứ ngôn ngữ thơ mộc

mạc của thể thơ tự do, cùng với nghệ thuật sử dụng vần, nhạc điệu linh hoạt, những hình

ảnh nên thơ, nên nhạc đã làm lời ca Quan họ trong thơ ông đạt đến độ hoàn mĩ. Nhưng

chính sự mộc mạc của ngôn từ, qua cách đối đáp (phải không ngừng thay đổi nhịp) lại

tạo thành một sức mạnh riêng làm xao xuyến lòng người và đọng mãi dư âm của bài thơ.

Đó còn là sự mộc mạc từ tiếng nói đích thực của trái tim ông, giọng điệu thơ trong bài

Quan họ mở đầu, cũng là một điển hình như vậy: Mẹ kể chuyện ngày xưa xa lắm/

Tháng tám ao hồ mát lạnh/ Làng quê còn níu lại hương sen/ Mười tám gái trai/ Thả một

con thuyền/ Song song chín đôi/ Mắt nhìn trong mắt/ Nón nghiêng tăm tắp/ Ngày mai ai

chắc được gần ai.

Cùng với khao khát yêu đương, Quan họ còn biểu đạt một tình yêu chân thật sâu

đằm với một vùng quê trù phú có “Sơn thuỷ hữu tình”, có “đường về Quan họ”, có đầu

làng cây đa, cây gạo chon von, một “quán Dốc chợ Cầu”, một “quán trắng phố Nhồi”,

những cửa chùa mở rộng cho trai thanh gái lịch sum vầy ca hát, những đêm trăng suông,

những “dòng sông phẳng lặng nước đầy”, một sông Cầu “nước chảy lơ thơ”, sông Dâu

“ba bốn chiếc thuyền kề”, những bến đò ngang vẳng vang tiếng gọi, những hội bơi trải,

hội chùa Tiêu... quanh miếu, quanh đền, những “mùa xuân chơi hội thong dong” với

“mùa hè tắm mát ở sông Lục đầu” và trăm thứ hoa đua nở… đã ăn sâu vào lời thơ Hoàng

Cầm như một nốt nhạc tính không thể thiếu mỗi khi nhà thơ động chạm đến cung đàn

Quan họ: Quen nhau vì tiếng hát/ Qua sông tìm nhau/ Tìm giải yếm nâu/ Bắc cầu đôi ta/

Tìm thắt lưng xanh/ Vắt cành hoa lý/ Hỡi con chim khuyên/ Hót chuyền cành tre/ Có đến

bên hè… (Khi mùa xuân trở về). Gắn với thế giới thiên nhiên phong phú ấy là những

con người có vẻ đẹp tâm hồn toả ra từ đôi mắt “lúng liếng”, cái duyên trong nụ cười

“lúm đồng tiền”, trong vành “nón ba tầm thao tua”, biết làm “một nong tằm thành năm

nong kén”, biết gắn đời mình với những thửa ruộng “năm sào” với những canh hát thâu

đêm “bổng trầm, non nỉ...”, cảnh và người ấy đã tạo nên một quê hương Quan họ và một

115

tình yêu quê hương nồng thắm thiết tha. Hoàng Cầm hiểu rõ điều đó và ông đã tiếp tục

khai thác để đưa vào ngôn ngữ thơ nhằm gìn giữ, không để mai một, phôi pha các giá trị

văn hóa, tinh thần mà nhiều thế hệ cha ông đã dày công tạo dựng.

Chính những tình cảm ấy đã góp phần hun đúc nên tâm hồn, tài năng của người

Quan họ. Những làn điệu dân ca kỳ diệu tồn tại bền lâu từ bao đời nay, tắm đẫm thiên

nhiên đất trời Kinh Bắc, di sản văn hóa tinh thần ấy đã phả hơi thở nồng nàn vào trái tim

con người bằng bầu khí quyển thơ mộng và quyến rũ, chúng như chất phù sa màu mỡ

lắng đọng vào hồn thơ Hoàng Cầm để làm nên một hồn thơ Kinh Bắc - mềm mại, huê

tình, tinh tế, trong trẻo mà đậm đà tình người, lấp lánh tài hoa, song cũng nén nghẹn vô

cùng. Chất Quan họ trong thơ ông còn thể hiện ở hệ thống ngôn từ đặc trưng của ngôn

ngữ quan họ đầy ắp các mỹ từ với những: chẻ tre đan nón ba tầm/ cho cô mình đội xem

hội đêm rằm; hay với những Ứ… hự… hề… hi… ha…/ U… ơ… ời… ới… a…; rồi những

điệu lý, cùng nhổ sào, vượt cạn, phận đen tóc trắng, núm hồng thơm thảo, canh cải lưng

canh, gối lằn nếp nếp… Nói chung đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng thấy ngôn ngữ

Quan họ với những đặc trưng riêng biệt của vùng văn hoá thẩm mỹ Kinh Bắc.

Thơ Hoàng Cầm là đặc sản văn minh tinh thần quê hương Kinh Bắc - miền quê

Quan họ - xứ của một cộng đồng làng xã, rất Đại Việt, rất dân chủ và bình đẳng. Con

người ở đây lấy tình làng nghĩa xóm làm trọng. Phép Vua thua lệ làng. Hội đồng kỳ lão

có quyền cao hơn chức dịch. Ra đường phải cúi đầu chào các già làng, còn với chức dịch

như Chánh Tổng, Lý Trưởng xưa thì tùy, không chào cũng không sao. Đi hát quan họ,

vào đám hội thì mọi người đều bình đẳng, không phân biệt giàu nghèo, chức vị, không

dè bỉu "tiền án, tiền sự"... Tất cả chỉ là "liền anh, liền chị", các quan viên họ cùng say

đắm với yêu nhau cởi áo cho nhau và bao giờ thấy lá diêu bông/ để cho váy lụa buông

chùng... mà hay!. Thơ Hoàng Cầm cũng do xuất phát từ hồn quê là thế, với bút pháp độc

đáo, một phong cách rất riêng không giống ai, ngôn ngữ tinh luyện siêu đẳng, thường bất

chấp văn phạm. Tuy nhiên cũng cần nói một điều là đối với người Quan họ, họ không

thích và không chấp nhận sự thô kệch, vụng về trong việc sử dụng ngôn ngữ, do đó, ảnh

hưởng đặc điểm tâm lý này của người Quan họ, ta thấy Hoàng Cầm đã sử dụng ngôn

ngữ một cách sang trọng, theo sự tinh tế của người Quan họ. Mặt khác, ông là người kế

tục ngôn ngữ Thơ Mới và đi xa hơn về phía hiện đại - một lối thơ siêu thực hôm nay nên

đạt được những thành tựu nghệ thuật cơ bản. Đó là tiếng nói đầy chiêm nghiệm và cũng

tràn trề giải thoát. Thơ Hoàng Cầm, chất quan họ Kinh Bắc đã đạt tới độ hàn lâm là thế.

116

Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư viễn của tâm linh với rất nhiều đam sy, trầm ẩn nên

không hiếm khoảnh khắc hồn thơ thi sỹ nhập vào vô thức như lời ca quan họ, như ngọn

lửa sưởi ấm tình người, là tia nắng mới tỏa sáng nơi chân trời cũ, như ai đó dù đi đâu,

đến đâu vẫn xe duyên, gửi hồn về Kinh Bắc thân thương, như chiếc ghim cho cánh diều

bay xa, bay cao.

Như đã nói, ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là sự kết hợp của thứ ngôn ngữ dân gian

và bác học vùng Kinh Bắc. Thơ ông hấp dẫn nhiều thế hệ người đọc khác nhau, vì ngoài

những tìm tòi về cách tân nghệ thuật, Hoàng Cầm vẫn gìn giữ cho riêng mình một vốn

ngôn ngữ và hình ảnh đặc trưng Kinh Bắc, độc đáo, tài hoa, thị thành mà quê kiểng.

Nhiều câu thơ của ông, dù không phải thơ tình, vẫn làm say đắm, thu hút bao nhiêu trái

tim người Việt. Nghệ thuật bao giờ cũng phải đạt đến mức vừa và đủ, già một chút là

thừa, non một chút là thiếu. Thơ Hoàng Cầm cứ chông chênh trước mắt mọi người như

chiếc kiềng hai chân. Đứng được như vậy bởi cái bản lĩnh nghệ thuật của ông đã được

khẳng định, vì ông có những cái chân mờ khác của trực cảm tâm linh chống đỡ, đó là

ngôn ngữ thơ được tinh luyện qua đời sống văn hoá dân tộc vào đời sống văn hoá cá

nhân ông, nhà thơ đã bỏ đi tất cả những từ thừa, những câu thừa để tạo nên một cấu trúc

văn bản nghệ thuật gọn gàng. Ngoài ra, ông còn đưa vào những từ mới lạ, hình ảnh độc

đáo, riêng biệt, sáng tạo dựa trên ngôn ngữ bác học vùng Kinh Bắc, biết cách xếp đặt

chúng làm cho câu thơ mới lạ hơn mà khi đọc vẫn thấy rất sang, mang giá trị thẩm mỹ

cao và ý nghĩa biểu tượng nghệ thuật phong phú, đa dạng. Do đó đọc thơ Hoàng Cầm

không nên chỉ đi tìm những tư tưởng cao siêu, hay những tình cảm đặc biệt, mà người

đọc dễ bị thu hút bởi cái “sang” của thơ ông và cái “say’ của người nghệ sĩ đất Kinh Bắc:

- Váy Đình Bảng buông chùng cửa võng (Lá diêu bông);

- Em vắt quả cam vàng đầu ngọn sông Thương Mắt tròn cối xay (Nước sông Thương); - Đêm phương Bắc khi sao hôm nhẹ khóc Hương tím em về đậu giữa trang thơ Thả cô đơn gió xanh lùa mái tóc Dìu em đi từng bước ấm sương mờ (Ngẩn ngơ); - Chị đi một chuyến chơi xanh cỏ Quay bánh linh xa miết triệu vòng (Chị Em xanh);

- Sơn ca chắt nắng Chuỗi trân châu trút xuống mâm vàng (Đếm nắng);

117

Hoặc hai bài Lá Diêu Bông rồi lại Bao giờ nói hết chuyện Diêu Bông, hoặc

Tinh anh thể phách rồi lại Thể Phách tinh anh có hai câu đầu láy nhau khá điệu: Em

trao vẹn cả tâm hồn/ Là giam tôi chật vòng tròn cung trăng, và: Em trao vẹn cả thân

mình/ Là giấm ớt tía đỏ bình men quê. Bên cạnh đó là những câu thơ đa tình của ông cứ

như đùa như trêu mọi người, nhưng vẫn giữ được độ thanh của nó: Tàn canh đứng…/

Rạng Đông vừa lọt/ Cửa khép hờ toang toác gió thu (Bênh); Ấp vú mình trần con dế

trũi/ Cành tre trải áo nép thân hình (Tắm đêm); Em trao mình thỏa khát khao/ Dấn thân

lạc lối mưa rào hoàng hôn (Thể phách tinh anh)… Chất ngôn ngữ dân ca Quan họ kết

hợp với xúc cảm nhục dục, hay nói cách khác là kết hợp các biểu tượng dục tính trong

cái huê tình, diễm lệ mà vẫn thấy có sự linh thiêng của người Kinh Bắc cũng tạo nên thế

đứng ổn định trong câu thơ Hoàng Cầm: Nhớ mưa Thuận Thành/ Long lanh mắt ướt/ Là

mưa ái phi/ Tơ tằm óng chuốt/ Ngón tay trắng mướt/ Nâng bồng Thiên Thai (Mưa

Thuận Thành). Thơ Hoàng Cầm đã tạo được ấn tượng trong lòng độc giả một phần

cũng bởi bằng chất ngọt ngào mê đắm ấy.

Điều đó cho thấy, việc sáng tạo thơ của Hoàng Cầm, nếu nói không cực đoan thì

đó chính là sự sáng tạo để lạ hóa ngôn ngữ và quá trình làm mới ngôn ngữ dựa trên cơ sở

ngôn ngữ dân gian và bác học vùng Kinh Bắc. Đây là một trong những yếu tố góp phần

tạo nên phong cách nghệ thuật của nhà thơ. Ngôn ngữ thơ không bao giờ là con chữ vô

hồn mà là hiện thân của tư tưởng, tình cảm, là mối tương giao giữa nhà thơ với người

đọc, là sự khẳng định phẩm chất thi nhân của nhà thơ giữa cuộc đời.

Thứ hai, là sự kết hợp ngôn ngữ của các biểu tượng văn hoá:

Thơ Hoàng Cầm được trang hoàng khá lộng lẫy bởi các ánh xạ mỹ kim của thế

giới nghệ thuật ngôn từ được tinh luyện từ các yếu tố văn hoá truyền thống và hiện đại,

từ dân gian đến bác học qua sự sàng lọc, sáng tạo, chưng cất của bản thân nhà thơ, nó tạo

nên một hợp chất đặc biệt, có cấu trúc đặc biệt của hồn vía văn hóa Kinh Bắc. Với

Hoàng Cầm, cấu trúc đặc biệt ấy được tri nhận từ việc dùng những ký hiệu ngoài ngôn

ngữ trong thơ để tạo không gian thị giác cho văn bản thơ. Đây là việc làm không mới cả

về lý luận và sáng tác, tuy nhiên cái mới của thơ Hoàng Cầm, cái tư cách hậu hiện đại

của nó lại nằm ở chỗ nó có sự chuyển hoá, giao lưu giữa ngôn ngữ và siêu ngôn ngữ,

giữa ngữ pháp của ngôn ngữ văn chương bình dân với siêu liên kết của biểu tượng văn

hoá bác học trong chất liệu thơ ca truyền thống và rồi giải phóng những tập tính văn hoá

cũ để thăng hoa trong biểu tượng văn hoá mới mang nội dung trí tuệ và thời đại.

118

Cái mới trong sự sáng tạo ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm còn là ở chỗ nhà thơ tự biến

sự đọc, sự nghiên cứu của mình thành thơ và ngược lại. Dường như tác giả cố tình tạo ra

một cơ chế rubic thơ để độc giả tuỳ ý xoay về vô tận các cấu hình, biểu tượng, mỗi cách

xoay lại làm hiện thêm những tương quan mới, những vấn đề nghệ thuật và những thế

năng văn hoá và biểu tượng mới. Ví dụ ngôn ngữ trong những bài thơ Cây Tam cúc, Lá

Diêu Bông, Quản vườn ổi, Nước sông Thương… đều là những điển hình thực tế, nó

vừa mang dáng dấp ngôn ngữ thơ của các biểu tượng văn hoá phương Đông với tính chất

hàm súc, lửng lơ, nương theo khơi gợi mà vẫn không bị gò bó, áp đặt. Hơn thế nữa, tính

chất lững lờ nước đôi, giao thoa để tạo nên sự cộng sinh, vì ông ý thức được việc mượn

hình tượng cũ để ký thác hồn vía mới là đặc trưng của văn hoá Việt như: Gió lông

ngỗng, Trai thời Trần, Thi sợi bún, Nước sông Thương, Hội Vật.... Theo đó, nhiều từ

ngữ cũng đảm nhận việc chuyển tải tâm thức Việt thông qua hình tượng thơ: sự quan tâm

đến ngôi thứ, vai trò của tình cảm và tính hung bạo bộc phát; tính chất quá độ giữa tự do

và xiềng xích (với việc vừa tô đậm những ngôi thứ ngữ pháp như muốn xiềng nhiều bài

thơ vào những luật tắc nghiêm nhặt, vừa thả nổi ngôn từ thoát khỏi luật ngữ pháp để

tham dự vào biểu tượng mới với những luật chơi mới phá huỷ ngữ pháp kia) rất tiêu biểu

cho cốt cách lưỡng thê của người Việt và rất điển hình cho thực trạng xã hội Việt Nam

ngày nay. Do đó có thể nói không cường điệu rằng thơ Hoàng Cầm mang một phong

cách thơ đậm đà tính dân tộc cũng là vì vậy.

Trong số các nhà thơ hiện đại Việt Nam, có lẽ Hoàng Cầm được coi là nhà thơ sử

dụng nhiều các biểu tượng văn hoá trong thơ hơn cả. Vẫn là chất liệu của ngôn ngữ

truyền thống, nhưng nhà thơ đã xây dựng lên cả một hệ biểu tượng mang giá trị văn hoá

cao như: thực vật, sông ngòi, núi đồi, người mẹ, người anh hùng, văn hoá Quan họ, lễ

hội hoặc các biểu tượng khác như: mưa, đêm, yếm, men, tình yêu... Chính điều đó đã làm

nên việc xây dựng các biểu tượng văn hóa mới trong thơ ông dựa trên những căn cốt sẵn

có của truyền thống văn hóa quê hương.

Thứ ba, là sự kết hợp ngôn ngữ của vô thức và ý thức, giữa bản ngã và ngoại cảnh:

Quá trình nhà thơ Hoàng Cầm đi tìm chữ và nghĩa để làm hành trang thơ cho

mình chính là hành trình thăm thẳm của sự phân ly, hội tụ giữa bản ngã và ngoại cảnh,

giữa vô thức và ý thức, giữa vô ngôn và chuẩn mực ngôn ngữ xã hội… Phải là người

được thẩm thấu các giá trị văn hóa đích thực, cốt lõi, qua màng lọc tư duy siêu cảm mới

119

tạo nên những câu thơ, bài thơ theo kiểu vô thức hay đến như vậy. Do vậy sáng tác theo

kiểu vô thức của Hoàng Cầm là cái vô thức được in dấu từ tiềm thức văn hóa mang tính

cội nguồn, chứ không giống sáng tác vô thức kiểu của Hoàng Hưng và một số nhà thơ

khác. Câu thơ, ý thơ Hoàng Cầm luôn dự trữ nguồn tư duy thụ cảm văn hóa đối với bạn

đọc, nhà thơ dựng lên thế giới của ngôn từ và ngôn từ hồi sinh trong thế giới tâm linh của

bạn đọc. Nhà thơ sinh ra chữ, nghĩa và ngược lại chữ, nghĩa cũng sinh ra nhà thơ. Ông

luôn thả hồn theo sự dẫn dắt của ngôn ngữ thi ca vô thức, thoát khỏi vũng lầy của lý trí

hướng về sự nguyên sơ của siêu cảm và sự mê đắm của thứ ngôn ngữ sơ khai mà loài

người đã và đang lãng quên. Hoàng Cầm là người dự cảm chữ và có ý thức sâu sắc về ý

nghĩa của ngôn từ. Vì vậy, ngôn ngữ thi ca quyến rũ tâm hồn nhà thơ, giúp ông từ bỏ thế

giới đang sống (trong những khoảnh khắc sáng tạo) để đắm chìm trong vô thức của thế

giới siêu văn bản với sự mông lung của những khoảnh khắc ngôn từ và độ âm vang của

nhịp điệu trái tim hoà nhập với nhịp điệu của đời sống (cả quá khứ và hiện tại) (điều này

lý giải sự đồng điệu giữa trái tim người nghệ sỹ với vùng thẩm mỹ quê ông). Nhà thơ tạo

sự lệch chuẩn tối đa về ngôn ngữ so với chuẩn mực ngôn ngữ xã hội và làm co giãn ý

nghĩa, cấu trúc của ngôn từ, giúp chúng sinh sôi bất tận và bùng phát mãnh liệt. Sự chế

tác ngôn ngữ thi ca bao giờ cũng gắn liền và tỷ lệ thuận với tầm vóc tư tưởng, nghệ thuật

của nhà thơ. Những nhà thơ tài năng đều là những người có tài năng trong việc sáng tạo

và làm mới hệ thống ngôn ngữ, tuy nhiên đó phải là việc làm mới ngôn ngữ dựa trên cơ

sở ngôn ngữ truyền thống của vùng miền, dân tộc.

Bakhtin từng viết đại ý: Khi những dạng thức thi ca đạt đến hạn độ tột bậc của

chúng về phong cách, thì ngôn ngữ thi ca thường trở thành thứ ngôn ngữ quyền uy, giáo

điều và bảo thủ, tự ngăn cách mình khỏi ảnh hưởng của những phương ngữ xã hội ngoài

văn học. Chính vì thế trên mảnh đất thi ca có thể xuất hiện ý tưởng về một “ngôn ngữ thi

ca” đặc biệt, một “ngôn ngữ của thần linh, một “ngôn ngữ thi ca của các giáo sĩ”... Nhìn

chung, có thể thấy giữa nhà thơ (nói chung) và ngôn ngữ thi ca có sự thống nhất toàn

vẹn, không có khoảng cách, mọi ranh giới đều bị xoá nhoà. Nhà thơ Hoàng Cầm xác lập

mối tương giao với con người và vũ trụ thông qua thế giới ngôn từ của riêng ông. Sự mã

hóa ngôn ngữ thi ca diễn ra trong quá trình sáng tạo và trên văn bản luôn là sự bí ẩn đối

với cả nhà thơ và bạn đọc. Chính vì thế, ngôn ngữ thi ca của ông có sức lay động, khơi

gợi những vùng sâu thẳm của vô thức mà không ngôn ngữ nào sánh nổi, cái kênh ngôn

120

ngữ thi ca ấy gần gũi với sự bí ẩn sâu thẳm của văn hóa Kinh Bắc. Sự mã hóa của ngôn

ngữ văn hóa Kinh Bắc không nằm ở lớp vỏ ngữ nghĩa mà là ở chiều sâu và khoảng lặng

của ngôn từ. Sự giải mã ngôn từ sẽ trở nên bất lực và vô nghĩa nếu không hướng đến sự

giao cảm thần diệu đôi khi tưởng như siêu hình giữa con người, sự vật và các giá trị văn

hóa bản địa ấy. Nhà thơ đã làm tốt công việc nhập vào thơ của mình sự lung linh, ảo diệu

của hồn sự vật, cho chúng giao hòa với nhau trong thế giới của cảm xúc và ngôn từ.

Thứ tư, là sự tương tác giữa chữ nghĩa và âm thanh, hình ảnh và ý nghĩa:

Chất thơ của ngôn ngữ thi ca Hoàng Cầm (một phần cũng giống như ngôn ngữ

thi ca của Xuân Diệu, Hàn Mặc tử trước cách mạng) không chỉ là nhạc tính như một số

nhà thơ đã quan niệm. Ngôn ngữ thi ca ra đời từ sự tương tác giữa chữ và âm thanh, giữa

hình ảnh và ý nghĩa. Paul Valéry đã viết đại ý: Thơ là sự dao động miên man giữa âm

thanh và ý nghĩa… Nếu câu thơ chỉ thuần là âm thanh hoặc ý nghĩa thì làm sao có thể

sánh cùng âm nhạc và triết học. Câu thơ hay bao giờ cũng là cuộc hôn phối kỳ diệu giữa

âm thanh và ý nghĩa, hình ảnh, tất nhiên còn tùy thuộc vào tư duy của từng nhà thơ. Chữ

và nghĩa trong ngôn ngữ thi ca Hoàng Cầm là sự hòa nhập ấy và hoà quyện với nhau như

hình với bóng, như xác với hồn nên việc tách rời chúng ra khỏi nhau sẽ làm tổn hại đến

bình diện ngôn ngữ và tính thẩm mỹ của câu thơ, của biểu tượng văn hóa mà ông đã đặt

trong đó. Hoàng Cầm đã xây dựng nên một thi pháp cho ông khi tạo ra sự lệch chuẩn về

ngôn ngữ và sự bứt phá về phong cách sáng tạo của mình. Do đó, thiên chức của nhà thơ

luôn cao đẹp khi ông dấn thân đến cùng trên con đường sáng tạo để đem đến cho con

người cái nhìn tươi tắn, mới mẻ về thế giới cùng với ước mơ về cái đẹp của con người và

thiên nhiên. Thơ Hoàng Cầm đích thực là một điển hình như vậy.

Sự nghiệp văn chương của Hoàng Cầm cũng như con người ông luôn ẩn giấu

những tầng dày, bề dày văn hóa Kinh Bắc, văn hóa Việt Nam, sâu sắc và chân thành,

giản dị và long lanh. Ngôn từ của ông óng ánh, sáng láng, dạt dào và thấm đẫm tâm linh.

Cuối năm 2008, lần trò chuyện thứ ba và cũng là lần cuối cùng với nhà thơ trên căn

phòng nhỏ tầng 5 tại nhà riêng số 43 - phố Lý Quốc Sư, Hà Nội, tôi có hỏi: nguồn cảm

hứng chính của thơ bác là gì? Ông trả lời thẳng thắn và ngắn gọn: cảm hứng dân tộc và

tình yêu, cậu cứ tìm hiểu hai vấn đề đó trong thơ tôi, đâu đâu cũng thấy. Quả đúng vậy,

dân tộc và tình yêu luôn là nguồn cảm hứng thơ ca bất tận của ông, nó vừa thủ thỉ chân

tình, vừa hào hùng sảng khoái, nó vừa nghiêm cẩn thiêng liêng của đình chùa, lễ hội, vừa

121

yêu kiều quyến rũ phong nhiêu, huê tình của gái quê Kinh Bắc. Trong phần "Vĩ thanh"

của tập Về Kinh Bắc ông đã nói: "Tất cả... tất cả... tôi bơi, chìm trong tất cả da thịt quê

hương, hồn phách quê hương. Quê hương Kinh Bắc. Và lời mở đầu cho tập thơ là một

lời cầu khẩn từ đáy tâm linh thơ dại: Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc".

Cuộc tuần du đã dừng, cuộc đời ông cũng rẽ một lối khác để về Kinh Bắc tạo

dựng nên một hệ biểu tượng văn hóa, để rồi từ lúc nào không rõ ông đã dựng lên biểu

tượng thơ ca - văn hóa Kinh Bắc cho chính ông- Hoàng Cầm- biểu tượng của thơ ca, văn

hóa trong vùng thẩm mỹ Kinh Bắc. Thơ ca của ông đã để lại nhiều ấn tượng vô cùng sâu

sắc trong lòng bạn đọc, đồng thời có những ảnh hưởng lớn đến nhiều nhà thơ Việt kế tiếp

sau ông với sự cách tân mang sắc thái văn hóa dân tộc. Đọc thơ Hoàng Cầm, tôi giống

như phải lòng một người cô gái Quan họ mà không dễ gì bỏ đi được cảnh tương tư vậy.

Hoàng Cầm đã sáng tạo ra một di sản ngôn ngữ tinh thần trên cơ sở tích hợp nhiều giá trị

văn hóa của cư dân nông nghiệp trồng lúa nước vùng Kinh Bắc. Ông đã đưa được những

cung bậc tình cảm, những nét văn hóa ứng xử lao động của người Việt vào trong ngôn

ngữ thơ mình, góp phần vào việc hiện đại hoá nền văn học dân tộc. Do vậy, nó tồn tại

một sức sống bền bỉ, mãnh liệt. Và chính mối liên hệ qua lại giữa văn học và văn hoá

vùng đã giúp chúng tôi nhận diện tỏ tường được các giá trị tư tưởng thẩm mĩ, nghệ thuật

của người nghệ sĩ - thi sĩ đất Kinh Bắc này.

Cũng cần phải nói rằng thơ Hoàng Cầm là sản phẩm của nỗi buồn thấm gạn chắt

ra từ nỗi bất hạnh triền miên của cuộc đời ông. Do đó những bài thơ, câu thơ luôn ám

ảnh, gây thổn thức, cấu véo tâm can người đọc, nhưng cũng chứa đầy thi vị của cuộc

sống, giàu sắc màu và bộn bề ý tưởng. Khi làm thơ, các câu, các ý cứ thế bật ra một cách

tự nhiên, một cách vô thức như trong bài Bên kia sông Đuống, Lá Diêu Bông hoặc các

bài trong chùm thơ viết về đêm…

Trong sáng tác, ông thường sử dụng những hình ảnh hoặc những so sánh nghệ

thuật gây ấn tượng đặc biệt, rất Kinh Bắc Mắt nứa cứa tay em (Đợi chờ), Những cô

hàng xén răng đen - Cười như mùa thu tỏa nắng, Lá đa lác đác trước lều - Vài ba vết

máu loang chiều mùa đông (Bên kia sông Đuống); những động từ mạnh kích thích tư

duy bạn đọc như từ: “nghển” trong “Đá nghển trông con gục đầu sườn núi Dạm”; từ

“xé” trong “Lụa vàng xé lộc rắc tro tiền”; từ “khua” trong |"Hỡi em khua guốc ưu

phiền”; từ “nhay” trong “Mẹ thì nước mắt nhiều hơn sữa - Ngực lép con nhay đã rã

rời” (Tâm sự đêm giao thừa); từ “rụng” trong “Đứng bên bờ sông này sao nhớ tiếc -

122

Sao xót xa như rụng bàn tay” (Bên kia sông Đuống); từ “tắt” trong “Thôi em xin tắt

cơn cười nghẹn - Nỗi nhục ngồi cao hơn nỗi đau” (Bênh)… được đặt rất đúng chỗ làm

rung rinh, sáng láng cả đoạn thơ. Ông dựng được những nhân hóa sống động, gợi

không khí chiến cuộc: Sông Đuống trôi đi một dòng lấp lánh - Nằm nghiêng nghiêng

trong kháng chiến trường kỳ (Bên kia sông Đuống), hoặc không khí chiến cuộc xưa

với hình tượng người anh hùng Thánh Gióng, hoặc gợi dậy những nét đồng dao tươi

sáng: Hạt mưa chèo bẻo /Nhạt nắng xiên khoai/ Hạt mưa hoa nhài/ Tàn đêm kỹ nữ/

Vỡ gạch Bát Tràng/ Mưa gái thương chồng/ Ướt đầm nắng quái/ Sang đò cạn sông

(Mưa). Những chất liệu đậm đà chất dân gian trong vùng ký ức nhoi nhói thức kỷ niệm

sống dậy: Áo hai bà giăng mắc…; Tượng Quan âm má ửng bồ quân; Hội Gióng giong

chiêng - Em bé về nằm khoanh lòng mẹ - nghe nghìn năm sau xoa nắn bầu vú lửa -

sông dài cát bỏng nắng hồng hoang mang đầy chất huyền thoại. Ông viết những câu

thơ rất lạ khiến bạn đọc ngỡ ngàng Mắt trăng hôm ấy mấy chiều đỏ hoe (Mai sau dù

có bao giờ), Nghẹn hương mùa mắt ướt òa xanh (Em cứ về bên ấy), Hàng tre nhả

yếm; Gậy mù ngửi hơi đường lạ; Loã thõa thân trăng; Chắp tay nhìn nghẹn mười

phương; Miệng bé hạt na nhòa bến vắng (Đợi mùa); Hai ngực hòa chung một tiếng

chuông (Chùa Hương). Ông đã phá vỡ cả cú pháp tiếng Việt và táo bạo tạo ra trường

liên tưởng thẩm mỹ mới với: Chị vỡ pha lê. Bùn vấy tay; Vậy thì em ngắt quãng tân

hôn (Chị em xanh)... Một thế giới nội tâm xao động dâng đầy, mang rặt hơi thở Hoàng

Cầm, gợi được không khí một vùng văn hóa Kinh Bắc độc đáo, và quan trọng hơn, ông

đã tư duy thơ từ bài đồng dao Bồ các là bác chim ra ở một biến thể khác để nói về sự

đa tình của gái quê Kinh Bắc. Xâu chuỗi các bài Sương cầu Lim, Gái hậu Lê, Hội

Long Khám sẽ thấy rõ điều đó. Đây là một ví dụ: Trống Chờ thúc chín tiếng/ Chuông

Trõ nện ba hồi/ Mõ Phù Lưu khua bến đò Lo/ Thấy Phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo/

Biết lòng chim sáo ri (Sương cầu Lim).

Có được một ngôn ngữ nghệ thuật thơ như thế, Hoàng Cầm đã khéo vận dụng tối

đa sự kết hợp của ngôn ngữ tư duy dân gian truyền thống - tư duy cộng đồng kết hợp với

kiểu tư duy hiện đại- tư duy của cá nhân ông để làm nên một bản sắc Hoàng Cầm. Cái

khởi nguyên tư duy dân gian trong thơ Hoàng Cầm được xuất phát từ hồn cốt văn hoá

Kinh Bắc tư thuở hồng hoang của của dân tộc trên vùng đất này. Hàng Cầm đã sống và

ngụp lặn cả cuộc đời trong nền văn hoá dân gian ấy để định hình nên tư duy cá nhân

trong một hồn thơ hết sức độc đáo.

123

Thứ năm, là sự kết hợp giữa cái siêu thực với cái huyền ảo dân gian:

Đây cũng là một đặc trưng nghệ thuật độc đáo để tạo nên nét riêng của Hoàng

Cầm trong toàn bộ sáng tác thơ ông nói chung, trong tập Về Kinh Bắc - tập thơ chính

của ông nói riêng. Sự đứt đoạn trong mạch nối các câu thơ, những khoảng lặng, khoảng

trống trên văn bản là những sáng tạo mới của Hoàng Cầm để tạo nên thế giới huyền ảo

siêu thực trên cơ sở tư duy huyền thoại của dân gian. Thủ pháp này khó có thể tìm thấy

trong cách biểu đạt của dân gian. Con người thời nguyên thủy cũng có sự tư duy như

vậy, nhưng họ thể hiện nó qua các hoạt động nghi lễ, vì trình độ ngôn ngữ sơ khai của

buổi bình mình trong lịch sử nhân loại chưa cho phép con người biểu lộ tư duy ấy bằng

ngôn ngữ. Bởi thế, sự sáng tạo của Hoàng Cầm khi vận dụng tư duy huyền thoại của

nguyên thủy ở đây là sự làm mới trong cách viết. Với chất liệu được lấy từ vùng quê

Kinh Bắc: hoa, lá, cỏ, cây, sông, núi, chùa, đình, tượng phật, lễ hội, sử sách, mẹ, chị, em,

váy, yếm, tranh,... của quê hương, ông đã tạo nên một thế giới thơ siêu thực thấm đẫm

chất huyền ảo dân gian, nhưng cũng hết sức hiện đại.

Tâm lý cá nhân cô đơn trong cuộc sống cũng là một yếu tố ảnh hưởng đến tâm lý

sáng tác của Hoàng Cầm. Tuổi thơ ông qua đi không bình lặng như những bạn cùng

trang lứa. Mẹ Hoàng Cầm vốn người làng Bựu Xim, có nhan sắc và hát quan họ hay nổi

tiếng. Nhưng sự tài sắc của người đàn bà không phải lúc nào cũng là vật bảo đảm cho

một tương lai hạnh phúc, khi lấy chồng, bà đã phải chịu số phận hẩm hiu. Bố Hoàng

Cầm là một nhà Nho, ba lần thi trường Nam Định không đậu, sau đó bất đắc chí nên bỏ

làng đi dạy học quanh vùng, rồi làm thầy lang, nhưng vẫn lang thang chữa bệnh khắp các

huyện trong vùng Bắc Ninh, Bắc Giang. Chính Hoàng Cầm bộc bạch: “Không hiểu sao,

tôi sớm có cái buồn cô đơn ngay từ những năm lên sáu, lên bảy tuổi. Bẩm sinh chăng?

Hay chính nỗi buồn của người con gái tài sắc lấy chồng từ năm mười bảy tuổi mà phải

phải sống cô đơn đến hơn mười năm?” [14, tr.197]. Do đó nhu cầu có mẹ thường trực

bên mình trở thành nỗi thảng thốt của đứa con khi không có mẹ: Mẹ ơi/ Mẹ ơi/ Con

không mong giời mưa/ (Mưa không được thả diều)/ bây giờ mẹ ở đâu. Bốn câu thơ với

lối ngôn ngữ dân gian giản dị, nhưng đọc kĩ, thấy trong đó cả sự hồn nhiên của trẻ thơ và

nỗi đau người lớn. Câu thơ trong dấu ngoặc đơn (Mưa không được thả diều) thực chất

chỉ là sự giải thích nhằm chống chế cảm xúc đau xót, cách nói chệch hướng, làm mờ hóa

nỗi đau mà đứa con không dám gọi tên. Con không mong giời mưa, đâu phải vì Mưa

không được thả diều, mà ẩn ý của nó đã được gợi đến trong sự liên tưởng với ngôn ngữ

124

bài ca dao: Trời mưa bong bóng phập phồng/ Mẹ đi lấy chồng con ở với ai. Ngôn ngữ

thơ Hoàng Cầm luôn thảng thốt ám ảnh vì sợ mất mẹ, mẹ đi lấy chồng. Ám ảnh mồ côi

vọng vào trong những cuộc đi tìm một bến bờ nào đó: Mùa chưa về/ Tu hú gọi Em đi tìm

Mẹ; Con đi tìm Mẹ/ Tre dậm lông mày/ Ao bèo chột mắt; Ta con bê vàng lạc dáng chiều

xanh/ đi mãi tìm sim sim chẳng chín/ Ta lên đồi thông nằm miếu Hai Cô/ gặm cỏ mưa

phùn/ Dóng dả gọi về đồng sương/ đôi ba người lận đận/ Đêm nay mẹ chẳng về

chuồng... Sau này khi đứa trẻ lớn lên, ngôi người nữ được dịch chuyển, từ mẹ sang chị,

từ tình mẫu tử sang tình yêu, tình gắn mẹ chuyển sang tình luyến chị. Trong tình yêu, xúc

cảm của Hoàng Cầm vẫn còn nguyên ám ảnh côi cút trong tâm thức: Chị bỏ em đi/ Cánh

nhẹ trên sông/ Chiếc lá mơ rừng/ Hát lừng ngọn gió/ Khóc đỏ chiều quê, Chị lỡ xe hồng/

Mẹ đi lấy chồng, Bao giờ Chị về/ Tóc phủ vai em chiều hương nhu; Quan đốc đồng áo

đen nẹp đỏ/ thả tịnh vàng cưới Chị/ võng mây trôi,...

Thơ Hoàng Cầm đầy những khoảng lặng, khoảng trống, lời câm, những đối thoại

giãn cách, rời rạc nên càng khắc sâu thêm tâm thức mồ côi của đứa trẻ. Phạm Thị Hoài

khi đọc Mưa Thuận Thành đã rất tinh tế nhận ra: “Thế giới tình cảm của Hoàng Cầm

trong Mưa Thuận Thành, dù gồm nhiều mảng rất khác nhau, chỉ xót xa, phiền muộn, yểu

điệu, yếu ớt, tinh vi, nhiều mặc cảm và nhiều nữ tính” [146, tr.258]. Nhân vật trữ tình

trong thơ Hoàng Cầm không có được cái mạnh mẽ nồng nàn nam tính của người con trai

như trong thơ Xuân Diệu: Anh xin làm sóng biếc/ Hôn mãi cát vàng em/ Hôn thật khẽ

thật êm/ Hôn êm đềm mãi mãi, cũng không có cái táo bạo như Đồng Đức Bốn sau này

trong thơ lãng mạn: Em bỏ chồng về ở với tôi không. Mối tình của Em với Chị, nói như

Chu Văn Sơn, là khối tình nghẹn, không được chấp nhận để bùng tỏa ra ngoài. Hoàng

Cầm không có đủ mạnh mẽ để phá bỏ quyết liệt giới hạn cấm kị. Sự phản ứng bền bỉ,

thấm gạn, nhưng âm ỉ, chứ không bùng phát mãnh liệt. Tình yêu của Em không được thể

hiện một cách công khai, mà phải gửi gắm qua các trò chơi dân gian. Bởi thế, Hoàng

Cầm không biết nói gì hơn, làm gì hơn là câm lặng? Còn biết làm gì hơn ngoài những

hành động thụ động yếu ớt kia?

Cả tập thơ Về Kinh Bắc giống như một giấc mơ đầy tính nguyên sơ trong cuộc

đời Hoàng Cầm. Những hình ảnh trong giấc mơ khó có thể cắt nghĩa rạch ròi. Khó có

thể hiểu được những hình ảnh trong thơ Hoàng Cầm bằng logic của ngôn ngữ lí trí đơn

thuần: Về Kinh Bắc phải đâu con nghẹn khóc/ Con không cười/ Con thoảng nhớ,

thoảng quên, mà đó là “trạng thái mơ màng”, “một sự mù đi và điếc đi với thế giới bên

125

ngoài” (Arnaudop) Trạng thái ấy xuyên suốt quá trình sáng tác thơ Hoàng Cầm, tạo

nên những hình ảnh chập chờn, hư thực - sản phẩm của trực giác. Những câu thơ: Mồ

tháng giêng mưa sũng/ Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu; Một trẻ sơ sinh

đuổi giọng mèo hoang qua miếu mưa phùn; Giếng ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử;

Nát nhàu thân tố nữ; Gàu giai ai vớt chị ơi/ Lòa lõa thân trăng, vục bên hồ tinh,… tạo

nên một thế giới thực mà ảo, gần mà xa, một thế giới không thuần nhất, không thuần

dạng mà trao đảo giữa những xu hướng tốt lành và ác độc, linh thiêng và đẹp đẽ huê

tình, vô tâm và thèm khát cháy bỏng. Mỗi một hình ảnh như một khúc đoạn trong giấc

mơ. Thật khó để có thể lý giải cơ chế liên tưởng của Hoàng Cầm bởi mạch liên tưởng

khó nắm bắt, lắt léo, tinh vi, đột ngột nhảy cóc, đột ngột mất hút, rồi lại đột ngột trở về

như không có gì cần giải thích.

Trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hoàng Cầm còn có sự kết hợp giữa ngôn ngữ dân

gian, ngôn ngữ thơ lãng mạn và ngôn ngữ của thơ tượng trưng - siêu thực. Điều này

được thể hiện lồng ghép trong một cấu trúc thơ linh hoạt, phong phú, đa dạng. Đó là cấu

trúc được định hình trong văn học dân gian- cấu trúc thách đố như trong là truyện cổ tích

và ca dao dân ca. Ở truyện cổ tích, cấu trúc thách đố là những thử thách được đặt ra với

nhân vật, nếu vượt qua thử thách sẽ được phần thưởng, hoặc được hưởng hạnh phúc. Ở

ca dao dân ca, thách đố được gửi gắm trong những lời hát đố: đố hoa, đố vật,... Thách đố

trong Về Kinh Bắc là đố lá diêu bông, đố cỏ bồng thi: Chị bảo/ đứa nào tìm được lá diêu

bông/ từ nay ta gọi là chồng; Ngày mười bảy tuổi/ chót chơi đố cỏ Bồng Thi/ cỏ Bồng

Thi phải cheo leo mỏm đá. Có điều trong văn học dân gian, cấu trúc thách đố cuối cùng

cũng được các nhân vật vượt qua, hoặc nếu gặp khó khăn thì thường cũng được trợ giúp

bởi một lực lượng siêu nhiên nào đó. Còn trong thơ Hoàng Cầm, việc giải đố là hoàn

toàn hầu như không thể, không được đối tượng thách đố công nhận, mặc dù tưởng chừng

như sắp cán đích đến nơi, chỉ còn cách nhau vài bước để hoá giải lời đố: Cách nhau ba

bước vào vườn ổi để Xin Chị một quả chín nhưng Quả chín quá tầm tay, vậy Xin Chị

một quả ương thì Quả ương chim khoét thủng...

Vậy là cả quả chín, quả ương đều vượt quá tầm tay. Em mãi mãi không thể chạm

tới. Chỉ Cách nhau ba bước mà thực ra là cả một khoảng xa vời vợi không thể vượt qua.

Ngôn ngữ thơ cứ chùng chình như trói buộc tư duy người đọc, như lôi cả độc giả vào trò

chơi vô thức của trường trận chữ đi tìm vật thiêng Hoàng Cầm. Như thế, những cuộc

kiếm tìm trong Về Kinh Bắc đều là những cuộc kiếm tìm vô vọng. Cả lá diêu bông, quả

126

vườn ổi, cỏ bồng thi đều là những cấm vật mà Em không bao giờ chạm tới. Vật thiêng ấy

(lá diêu bông, quả vườn ổi, cỏ bồng thi) chính là biểu tượng cho tình yêu, hạnh phúc lứa

đôi mà nhân vật kiếm tìm. Có thể thấy dấu ấn của mô típ đi tìm vật thiêng trong văn học

dân gian ở đây. Trong thần thoại, cổ tích, vật thiêng có thể là thuốc trường sinh, lọ nước

thần, tấm da cừu vàng,... Cũng như những vật thiêng trong thơ Hoàng Cầm, chúng đều

đem lại hạnh phúc và sự thần diệu cho cuộc sống con người. Để có được những vật màu

nhiệm ấy, nhân vật của huyền thoại phải trải qua hành trình nguy hiểm đầy thử thách.

Dấu ấn của mô típ tìm vật thiêng được tìm thấy ở Về Kinh Bắc. Nhưng sự khác biệt ở

đây là nhân vật trong huyền thoại luôn có sự trợ giúp của lực lượng thần linh. Vì thế,

hành trình đi tìm vật thiêng dầu có khó khăn hiểm trở bao nhiêu cũng đều tìm thấy. Còn

thơ Hoàng Cầm luôn khép lại trong nỗi hụt hẫng bơ vơ, chông chênh của những câu

chuyện không có hậu. Những thi phẩm của Hoàng Cầm mãi mãi là một cổ tích thời hiện

đại, với tất cả những hụt hẫng, dang dở, những mơ ước không thành, những khước từ

đau xót.

Nhưng dù sao cũng thấy được cái đẹp trong đó, cái đẹp của một tình yêu dang dở,

của một mối tình đơn phương, cái đẹp của tư duy thơ được xây dựng trong một hệ thống

ngôn ngữ mới lạ, độc đáo, dân gian mà hiện đại, truyền thống mà cũng hết sức mới mẻ.

Ngôn ngữ ấy được xuất phát từ chính tâm hồn thanh khiết, mơ mộng của ông. Khi làm

thơ, Hoàng Cầm tự bạch “Mơ mộng. Học, tìm, mơ mộng, rồi lại học, lại tìm, tìm mãi cái

Đẹp, cái Thật, cái Thiện. Trung thực với bản ngã, dần dần tạo ra phong cách thơ riêng,

thế giới thơ riêng, không vay mượn lặp lại người khác, không tự mãn, cố gắng không lặp

lại mình”. Ta thấy dường như cả cuộc Hoàng Cầm sống gắn bó suốt đời vì thơ nên ông

luôn trăn trở tìm cách để cách tân, để bứt phá tìm ra những điều mới lạ. Thi pháp mới

và bút lực tinh xảo của Hoàng Cầm đã tạo nên những cách tân vừa đủ gây mê để bạn đọc

hiểu chứ không tịt mít đánh đố như kiểu Bóng chữ của Lê Đạt hay thơ Trần Dần. Thật

chí lý khi một nhà thơ đồng hương của ông có một nhận xét tinh tường “Thơ Hoàng

Cầm, chất Quan họ Bắc Ninh đạt đến độ hàn lâm. Từ thực tại đã thăng hoa tới miền hư

viễn của tâm linh. Rất nhiều đam si, trầm ẩn nên không hiếm khoảnh khắc hồn thơ của

thi sĩ nhập vào vô thức” (Nguyễn Khôi - Bắc Ninh thi thoại).

Ngôn ngữ thơ là một phương diện nghệ thuật rất quan trọng. Song không chỉ có

ngôn ngữ, hình ảnh thơ cũng là một yếu tố được chú trọng. Hình ảnh thơ bao giờ cũng là

sự kết tinh của việc sử dụng ngôn ngữ. Vì thế hình ảnh thơ luôn có ý nghĩa trong việc tạo

127

hiệu ứng nghệ thuật. Và đến lượt mình, hình ảnh cũng là yếu tố góp phần khẳng định sự

hiện hữu của thơ. Vì “Thơ là biểu tượng, là hình ảnh. Thơ tạo dựng một vũ trụ qua trung

gian biểu tượng một vũ trụ phi thực, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa trong tính cách phi thực

của nó. Hơn đâu hết, biểu tượng hình ảnh là điều kiện của thơ, lý do tồn tại của thơ, biểu

tượng chính của thơ” [112, tr.314]. Như vậy, dù là tiếng vọng từ tâm linh, là tiếng gọi từ

trong vô thức thì thơ cũng phải tồn sinh dựa vào nhiều phương thức biểu hiện, trong đó

không thể không có ngôn ngữ và hình ảnh - những thi liệu đầu tiên mà người đọc chạm

tới trước khi bước vào khám phá thế giới nghệ thuật của thơ. “Thơ là vũ trụ những hình

ảnh có giá trị một sự mê hoặc, một thứ ma thuật. Nó biến thành hình ảnh của chính hình

ảnh” [112, tr.315]. Rõ ràng, hình ảnh thơ không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà

chính sự chọn lọc những hình ảnh có giá trị biểu cảm, có tính hàm súc, tạo hiệu ứng nghệ

thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập ngôn và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ.

Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là ngôn ngữ giàu tính hình tượng, hình ảnh, sắc màu

và tính biểu cảm cao. Nhà thơ tạo dựng một không gian vũ trụ qua trung gian biểu tượng

một vũ trụ phi thực tế, một vũ trụ chỉ có ý nghĩa trong tính cách phi thực của nó. Hơn đâu

hết, hình tượng thơ Hoàng Cầm chính là điều kiện của thơ ông, là lý do tồn tại của thơ

ông. Những hình tượng ấy đều gắn với những thiên nhiên, con người, những phong tục

tập quán và lễ hội nơi vùng quê Kinh Bắc- những thi liệu đầu tiên mà người đọc chạm

tới trước khi bước vào khám phá thế giới của tiềm thức, siêu thực trong thơ ông.

Dựa trên căn cứ vào thứ ngôn ngữ có nhịp điệu vốn là đặc trưng thứ nhất của

ngôn ngữ thơ ca. Thứ nữa là ngôn từ của tác phẩm rất giàu giá trị tạo hình được biểu hiện

qua một thế giới tính từ được dùng hết sức phóng túng. Tuy nhiên hình tượng thơ Hoàng

Cầm không phải là tổng số của nhiều hình ảnh mà chính sự chọn lọc những hình ảnh về

thiên nhiên, con người và văn hoá nơi vùng quê Kinh Bắc có giá trị biểu cảm, có tính

hàm súc ấy mới tạo được hiệu ứng nghệ thuật cao, mới thể hiện tư tưởng, tinh thần lập

ngôn và cá tính sáng tạo của người nghệ sĩ - thi sĩ Hoàng Cầm. Thơ ông giàu nhạc điệu,

tình tứ, mang nặng dòng máu Quan họ, thi hứng của ông xoáy dọc xoáy ngang vào

những Kinh Bắc, sông Đuống, Bát Tràng, Thuận Thành... Ông tự tạo cho mình một

phong cách thi ca mới lạ dưạ trên nền tảng của từ vựng và phong tục cổ truyền. Đặng

Tiến đã gọi thơ Hoàng Cầm là "cuộc hôn phối hạnh phúc giữa tính dân tộc và tính hiện

đại" với vẻ đẹp "truyền thống lung linh trong ngôn ngữ thơ mới, trẻ trung và không kém

phần hiện đại" nhiều bài thơ của ông đã trở thành “ngôn truyền” trong công chúng độc

128

giả nhờ hệ thống từ ngữ mới lạ và thi pháp độc đáo như: Lá Diêu bông, Bên kia sông

Đuống, Ngã ba sông, Hội yếm bay, Một lời quan họ, Nước sông Thương, Cây tam

cúc, Tình Cầm, Chuyện trăm năm, Đêm thổ, Quả vườn ổi, Cỏ bồng thi, Tắm đêm…

Như đã nói, ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm có sự kết hợp lối tư duy giữa truyền thống

và hiện đại. Phải chăng đấy cũng chính là cách thế ra đi của nhà thơ. Mỗi hồn thơ được

thoát thai, tưới tắm bởi một cõi tâm của mình. Kinh Bắc là cõi thơ Hoàng Cầm, với sông

Đuống thiêng liêng, sông Cầu lịch sử mà lãng mạn, với bãi mía nương dâu phồn thực và

trầm tích văn hóa rêu phong trong từng viên gạch, mái ngói của đình, đền, chùa chiền,

miếu mạo, ao hồ… đã được ánh xạ qua Đêm Thủy:

Chùa Phật Tích ruổi trong màn lụa bạch

Tượng Quan Âm má ửng bồ quân

Chuông chiều cởi yếm

Chuông sớm đội khăn

Câu kinh tê tê mười ngón tay măng

Mõ đêm hè cuốc lội

Ao mưa dằng dịt lá trường sinh….

Nhưng trên hết vẫn là bóng dáng của những người con gái miền Quan họ, điển

hình là chị Vinh - giấc mơ tình yêu thời thơ ấu của Hoàng Cầm đã đi lại, nói cười và gợi

cảm hứng trong suốt đời thơ ông, tạo nên hiệu ứng nhòe mờ về cảm giác, về ngôn từ.

Mỗi ý nghĩ, mỗi hình ảnh cụ thể hay trừu tượng đều được nhà thơ cách điệu, làm cho

mới lạ hơn, thi hứng hơn. Và nếu ta không có cách riêng để cảm nhận thì khó mà nhập

được vào cõi thơ Hoàng Cầm, rồi cho là khó hiểu. Ông là người đi đầu cách tân thơ bằng

cách lược từ, ít bấu víu vào sự kiện; và là “chủ soái” (Nguyễn Việt Chiến) của trường

phái duy mỹ trong thơ Việt Nam đương đại. Vì thế, đọc thơ Hoàng Cầm hãy cảm trước,

cắt nghĩa sau. Trong cái lối tư duy truyền thống, ông đã hiện đại hóa tư duy thơ một cách

ngẫu nhiên, khác hẳn Lê Đạt chỉ đi vào hiện đại hóa hình thức thơ. Phải chăng, cái “hậu

hiện đại” ta đang kiếm tìm đã được ông khai mở.

Như vậy, có thể thấy cuộc đi tìm bản thể của ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm có cả sự

gặp gỡ và khác biệt với cuộc đi tìm cái tôi trong Thơ mới. Thơ mới thường đi tìm cái tôi

cá nhân bị đè nén ngàn năm trong đời sống cộng đồng, nhưng càng đi sâu vào cái tôi,

Thơ mới càng bất lực. Nói như Hoài Thanh: “Đời chúng ta nằm trong vòng chữ tôi. Mất

bề rộng ta đi tìm bề sâu. Nhưng càng đi sâu càng lạnh”. Có nhiều lí do, nhưng có thể

129

nhìn thấy một điều căn bản: cái tôi Thơ mới không có điểm tựa quê nhà. Nó là cái tôi

vong bản. Ngay cả ở nhà thơ chân quê Nguyễn Bính, thì quê nhà không còn thuần túy là

quê nhà nữa mà đã ít nhiều biến thiên trong cuộc va chạm với đô thị phương Tây. Còn

Hoàng Cầm tìm thấy bản ngã của mình bởi ông có một nơi chốn để trở về là quê hương

Kinh Bắc. Dấu ấn của văn hóa Kinh Bắc đã tạo cho ngôn ngữ thơ của Hoàng Cầm có

được đặc trưng riêng biệt. Đó là nơi mà sau những chấn thương trong cuộc đời Hoàng

Cầm có thể trở về để “cầm máu những vết thương” (Chu Văn Sơn). Ở nơi nguồn cội quê

hương, con người tìm thấy bản thể mình. Ở điểm này, Hoàng Cầm đã gặp gỡ với Henry

Vaughan trong hai câu thơ đấy ý nghĩa: “Và khi tro bụi rơi về/ Trong thinh lặng ấy cận

kề quê hương”..

3.2.2. Ngôn ngữ đầy ắp chất giàu tượng trưng và giàu tính nhạc

Ngôn ngữ trong văn học, nó là ngôn ngữ mang tính nghệ thuật mà đặc trưng là tính

thẩm mỹ, tính hình tượng, tính hàm súc, đa nghĩa, tính tạo hình, biểu cảm... thuật ngữ

"ngôn ngữ văn học" (literature langgues) còn được dùng để chỉ ngôn ngữ mang tính

chuẩn mực (ngôn ngữ văn hóa). Cần phân biệt ngôn ngữ thông thường (sinh hoạt) - được

hiểu như là hình thức vật chất "cái biểu đạt' cho tác phẩm văn học (cấp độ ngữ âm - từ

vựng - ngữ pháp. Ngôn ngữ với tư cách là một hệ thống các đơn vị chưa đi vào hoạt

động giao tiếp, gồm ba bộ phận này) và ngôn ngữ nghệ thuật ngôn ngữ được xử lí thẩm

mĩ và mang dụng ý nghệ thuật) đó là ngôn ngữ dùng để xây dựng hình tượng nghệ thuật

và giao tiếp nghệ thuật. Bao gồm những hệ thống về thông tin thẩm mĩ (tín hiệu thẩm

mĩ), "mô típ" (mẫu đề), "biểu tượng", "hình ảnh trùng lặp", "yếu tố thiên nhiên'', "yếu tố

thời gian mang tính ước lệ", "biểu trưng nghệ thuật', “hình ảnh sóng đôi"... Ý nghĩa của

công việc này đã cho phép những người nghiên cứu phát hiện một số đặc điểm trong

tính hệ thống của các yếu tố mang bản chất tín hiệu thẩm mĩ trong thơ Hoàng Cầm.

Thứ nhất, có thể nói lời thơ Hoàng Cầm là một lời thơ đầy nhạc điệu, chở đầy

hình tượng nghệ thuật và mang tính biểu cảm cao. Đó còn là nhạc điệu của tâm hồn, của

cảm xúc, vừa bảng lảng, vừa miên man, vừa vang xa, vừa nhạt nhoà sương khói. Đó là

cuộc hôn phối say sưa giữa âm thanh và chữ nghĩa, giữa giai điệu của cuộc sống và cảm

hứng sáng tạo của nhà thơ đẻ tạo nên những câu thơ làm say đắm người đọc: Đuổi tà lụa

nhạt/ Ánh trăng đầm thấm đẫm đường sương (Theo đuổi). Sức gợi cảm của câu thơ như

trôi theo hình tượng thiên nhiên đang diễn ra quanh ông tạo nên dòng nhạc du dương,

miên man kéo dài bất tận, như con thuyền trôi trên dòng sông Tương cùng những câu hát

130

ngân trong gió sương núi đồi: Đằm ca dao sáo diều chiều lịm tím lưng trâu (Đêm thổ);

Luồn tay ôm say / giấc bay lay đỉnh núi (Thi đánh đu); Mỵ Nương ơi sao hồ lơ lắc bể/

Oan khối tình/ Hát đời đời không vui/ Hương trà chén gõ Bạch đàn thanh/ Hát đời đời

nổi trôi/ Con đò sóng lim Tiêu Tương xanh (Nhớ Văn). Âm vận trong câu thơ, ý thơ cứ

bám đuổi lấy nhau, tìm bắt lấy nhau trong khi nhạc điệu câu thơ, ý thơ cứ kéo dài ra, tạo

nên cái hồn say mê ảo, say ngất lịm của nhà thơ: Sao bỗng phù- du- thương- lệ thế/ Kinh

kỳ thiêu rụi bướm men nâu/ Thì em cứ ngồi ôm dáng ngọc/ khóc trong tim/ e lại vỡ bình

quê men lý/ Đành rụng tiếng đàn khe cẩm thạch/ buông buông tay đờ đẫn nét hoa văn.

Cho máu hồng trinh bạch/ Ngậm buồng gan mài đá tím/ đến tua rua gài lệ đỉnh đầu/ bạc

phận đó anh ơi… (Khúc ca Phong Kiều). Ngôn ngữ tạo nên chất nhạc cho câu thơ cứ

ngân vang bất tận, nhà thơ như lạc vào mê cung của trường trận chữ trong “Đường mê”,

vấn vương như tình người Quan họ. Thì rõ ràng ngôn ngữ và nhạc điệu trong thơ Hoàng

Cầm là ngôn ngữ và nhạc điệu của người Quan họ. Các biểu tượng của văn hoá thẩm mỹ

vùng Kinh Bắc cứ bám lấy ông, theo đuổi riết ráo lấy ông mà nảy sinh ra những chồi tâm

nghệ thuật. Có điều lạ là đọc thơ Hoàng Cầm thấy nhiều đau thương hiện hình, trắc trở,

nhưng lại thuyết phục và cuốn hút người đọc nhờ cái Đẹp phi thường, rạng rỡ của giá trị

nhân sinh cao cả, cái đẹp trong quan niệm về nghệ thuật và quan niệm sống đã làm nảy

sinh một thế giới hình ảnh mới, thúc đẩy khả năng thực hiện ngôn ngữ một cách bất

thường trong thơ Hoàng Cầm. Chẳng hạn nhà thơ vẫn mượn hình thức ẩn dụ như một

cách thức quan trọng để bộc lộ nội tâm, tự tình riêng tư của mình: Về với anh/ Đứng bình

men dội/ Ngồi ấm men nâu/ Nằm tỏa lư trầm Kinh Bắc (Câu hát phù du).

Thứ hai, chúng ta thấy ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm chứa đựng một hệ thống ẩn dụ

hết sức có ý nghĩa về mặt tư duy trong tính tượng trưng của nghệ thuật. Ẩn dụ trong thơ

Hoàng Cầm chủ yếu là ẩn dụ nhận thức và ẩn dụ hình tượng. Ẩn dụ nhận thức được “nảy

sinh ra do kết quả của việc làm biến chuyển khả năng kết hợp của những từ chỉ dấu hiệu

khi làm thay đổi ý nghĩa của chúng từ cụ thể đến trừu tượng” [70, tr.53]. Còn ẩn dụ hình

tượng “là nguồn sản sinh ra đồng nghĩa… Là phương thức bình giá riêng có của cá nhân

nhà văn. Bằng những… sắc thái nghĩa, bằng ý nghĩa hình tượng tìm kiếm được, ẩn dụ

hình tượng tác động vào trực giác của người nhận và đem lại khả năng cảm thụ sáng tạo”

[70, tr.54]. Ở đây còn là sự phá vỡ mối tương quan phóng chiếu tương đồng để làm giàu

cho tính hình tượng nghệ thuật:

131

- Cúi lạy mẹ con trở về Kinh Bắc

Chiều xưa dẻ quạt voi lồng

Thân cau cụt vẫy đuôi mèo trắng mốc

Chuồn chuồn khiêng nắng qua sông…

…Đê mười tám khúc Văn Giang

Chuông Bách môn đổ xô gò má

Mây thành thổi lửa;

- Nẻo Đông Triều khép mở gió kỳ lân…;

- …Ngất núi ô kìa anh vỗ nhịp

Bay cờ triệu yếm ríu ran ca …

Nhà văn người Nga V.Kôrôlencô đã nhấn mạnh rằng một đặc tính hữu cơ của

nghệ thuật bằng ngôn ngữ là thường xuyên hướng về độc giả, thính giả, hướng về sự

cảm thụ của họ đối với những giá trị nghệ thuật, đại ý: Ngôn ngữ con người - đâu có

phải để mà cho nó tự thích thú, có ngôn ngữ cốt là để thể hiện và truyền đạt cho những

người khác những tư tưởng tình cảm, cái phần chân lý hoặc cảm ứng mà anh ta có

được. Và điều đó gắn bó hữu cơ với thực chất của ngôn ngữ đến mức là nếu bị nhốt

kín, nếu không được truyền đạt và không được chia sẻ thì ngôn ngữ sẽ mất dần và giảm

yếu đi... Tác giả phải luôn luôn cảm thấy những người khác và phải ngoái nhìn lại xem

(không phải vào chính lúc sáng tác) là tư tưởng, tình cảm, hình tượng của mình có thể

đứng vững trước độc giả và biến thành tư tưởng của họ, hình tượng của họ và tình cảm

của họ hay không. Và phải rèn dũa ngôn ngữ của mình sao cho nó có thể làm được

công việc đó (ngay lập tức hay sau đó - đấy là một vấn đề khác). Lúc ấy những khả

năng nghệ thuật mới phát triển, mới trở nên sôi động, mới được củng cố. Bị nhốt kín

trong sự tự thỏa mãn biệt lập, chúng càng ngày càng mai một đi, càng mất dần hiệu lực

và sức sống, chúng sẽ trở nên còm cõi hoặc biến thành những tình cảm phiến diện, đặc

biệt, mang tính chất kỳ quặc thuần túy. Khó có thể tưởng tượng một tác phẩm sẽ tồn tại

ra sao nếu như thiếu độc giả bởi khi ấy văn học mới thực sự hiện thực hóa nội dung của

nó. Nó sẽ mãi chỉ là một văn bản chết khô trên giấy. Người đọc không chỉ lắng nghe,

thấu hiểu tiếng nói của người nghệ sỹ gửi gắm trong tác phẩm mà còn góp phần trong

quá trình đồng sáng tạo của nhà văn...

Người đọc ngày nay vẫn nhận thấy rõ cả bài thơ Bên kia sông Đuống được viết

liền trong một mạch tâm sự, một giọng kể, một sắc thái tâm trạng, theo đó nền cảm xúc

132

xao xuyến trong toàn bài ấy là niềm hoài niệm tình tự dân tộc. Trữ lượng của cái nôi văn

hoá Kinh Bắc với núi Thiên Thai, với chùa Bút Tháp, chùa Phật Tích, với các địa danh

còn vang vọng lòng người như: chợ Hồ, chợ Sủi, Đông Tỉnh, Huê Cầu, với tranh Đông

Hồ in trên giấy điệp, với hội hè đình đám, con gái, con trai... cứ rờ rỡ được hiện lên qua

ngôn ngữ tả thực của tác giả. Tuy nhiên đó lại là một hoài niệm đau buồn, vì tất cả đã

nằm trong tay giặc, tất cả đang bị giày xéo, thiêu hủy. Hoài niệm về ký ức đau buồn để

qua đó nhân lên lòng yêu nước, yêu dân tộc mang chiều sâu văn hóa tâm linh có sức cảm

hóa lòng người Việt Nam rất rộng. Hoàng Cầm đã diễn tả các sự kiện thời sự bằng chất

liệu của ngôn ngữ văn hóa, bằng tự tình ngôn ngữ dân tộc trong cảm xúc không dễ gì có

được ở nhiều nhà thơ chuyên nghiệp khác. Thơ ca của ông là tiếng nói của cảm xúc,

nhưng cảm xúc không thể diễn tả bằng một thứ ngôn ngữ nào khác ngoài ngôn ngữ nghệ

thuật, ngôn ngữ thơ, ngôn ngữ của chiều sâu văn hóa Kinh Bắc, văn hóa dân tộc. Trong

thơ Hoàng Cầm, ta thường bắt gặp ở đó cái long lanh, sóng sánh của sự huê tình thấp

thoáng ẩn hiện trong bóng dáng của những cô gái quê Kinh Bắc và cái thiêng liêng của

cuộc sống tâm linh, lắng nghe ở đó tiếng trở mình rất khẽ của những tình cảm mong

manh của nhà thơ nói riêng và của người Kinh Bắc nói chung. Do vậy, thơ ông còn là

bến bờ khi con người cảm thấy hụt hẫng vào một giây phút nào đó trong cuộc sống. Đến

với thơ Hoàng Cầm, do đó là đến với lời mời gọi ân tình của trái tim để chia sẻ, chung

cùng, là tiếng hát của trái tim, là nhịp thở của con tim, vẫn là cuộc đời, vẫn là mời gọi

con người đến với cái đẹp Chân - Thiện - Mĩ, vươn tới tầm cao của khát vọng sống, của

giá trị nhân sinh, là người bạn tâm tình chia sẻ bao buồn vui với con người, là những suy

nghĩ đồng cảm mãnh liệt và quảng đại đến với mọi tâm hồn, là tất cả tấm lòng của người

nghệ sĩ. Đó là tình yêu quê hương, yêu con người Kinh Bắc được Hoàng Cầm viết lên

bởi những lời thơ thiết tha, tự hào và đầy lòng thương mến. Ngôn ngữ của nhà thơ luôn

luôn hướng vào nội tâm là vì vậy, đơn cử bài Bên kia sông Đuống: Mẹ con đàn lợn âm

dương / Chia lìa đôi ngả / Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã / Bây giờ tan tác về

đâu. Thi liệu ấy lấy từ nội dung tranh dân gian Đông Hồ. Và đây là từ phong tục, tập

quán hay đúng ra từ những kỷ niệm của tâm hồn người Kinh Bắc: Những hội hè đình

đám/ Trên núi Thiên Thai / Trong chùa Bút Tháp / Giữa huyện Lang Tài (...)/ Những

nàng môi cắn chỉ quết trầu / Những cụ già phơ phơ tóc trắng / Những em sột soạt quần

nâu / Bây giờ đi đâu? Về đâu?. Câu hỏi “về đâu” như một điệp khúc thổn thức đầy nhạc

tính mang âm hưởng xa xót sau mỗi lần nhắc tới những vẻ đẹp lộng lẫy, trong sáng, đầm

133

ấm của văn hóa truyền thống. Hoàng Cầm sử dụng đúng chỗ sức gợi của ngôn ngữ về

những hình ảnh xưa, mà ở thời điểm ấy vẫn còn là thực tại: khuôn mặt búp sen, hàm răng

đen, cặp môi cắn chỉ quết trầu, dăm miếng cau khô, mấy lọ phẩm hồng...

Trong thơ Hoàng Cầm, mạch thơ chính là mạch cảm xúc là yếu tố đã khơi nguồn

cho sức băng tới của các bài thơ, và chính trong sự vận động tự thân của thơ như một

dòng suối chảy xiết đã làm cho những hạt vàng lấp lánh của ngôn từ vốn bị vùi sâu dưới

lòng đất mẹ đã bật lên, đã có dịp phơi mình dưới ánh sáng mặt trời. Sức cuốn ấy của tình

cảm cũng tạo nên một dòng âm nhạc chảy xiết, vừa phong phú vừa linh hoạt, hầu như đủ

hết ở các thể thơ mà ông đã sử dụng đều có sự dài ngắn, mạnh nhẹ, cao thấp, nhanh

chậm, cứ nương theo nhu cầu tình cảm của con người mà ngân lên. Ta dễ dàng nhận ra

sức mạnh ấy của nhạc tính trong thơ của thi sĩ Hoàng Cầm khi đọc vào bất cứ đoạn nào

trong bài thơ Bên kia sông Đuống, chẳng hạn: Quê hương ta từ ngày khủng khiếp/ Giặc

kéo lên ngùn ngụt lửa hung tàn/ Ruộng ta khô/ Nhà ta cháy/ Chó ngộ một đàn/ Lưỡi dài

lê sắc máu/ Kiệt cùng ngõ thẳm bờ hoang/ Mẹ con đàn lợn âm dương/ Chia lìa đôi ngả/

Đám cưới chuột đang tưng bừng rộn rã/ Bây giờ tan tác về đâu… Và cứ thế cho đến

những câu thơ kết gợi vẻ đẹp như một dòng âm thanh, nhạc tính lanh lảnh vút lên giữa

trời xanh dưới vỏ bọc của thứ ngôn ngữ dân gian vùng Kinh Bắc cổ kính huê tình để tạo

sức gợi rất biểu cảm trước những thiên biến trong đời sống tinh thần của mình: Bao giờ

về bên kia sông Đuống/ Anh lại tìm em/ Em mặc yếm thắm/ Em thắt lụa hồng/ Em đi trẩy

hội non sông/ Cười mê ánh sáng muôn lòng xuân xanh.

Chất liệu của thơ là ngôn từ. Song để trở thành ngôn ngữ của thơ thì không phải

là một điều dễ dàng. Thơ Hoàng Cầm là loại ngôn từ giản dị, mộc mạc nhưng cũng tròn

đầy cả âm và nghĩa, chứa đựng một năng lượng tư duy thẩm mỹ rất lớn. Bản thân lời thơ

bình dị ấy đã phát ra những giai điệu triền miên, đậm tính nhạc, song đó là thứ âm nhạc

tự nhiên khởi phát từ tâm thi và thần thi. “Thế mạnh của những bài thơ là ở âm nhạc, ở

ngôn từ. Tính nhạc triền miên không dứt… lay động lòng người rất mạnh trước khi ta kịp

hiểu ý nghĩa sâu xa, tầm tư tưởng lớn của bài thơ. Thơ hay không bắt người ta hiểu rồi

mới yêu, âm nhạc của nó đi vào tâm can của người ta trước khi kịp hiểu nó là cái gì”

(Đào Duy Hiệp). Nhạc tính trong câu thơ của Hoàng Cầm gợi niềm tư duy miên man vô

tận, thêm vào đó là làm giàu thêm khả năng mô tả, gợi lên những cảm xúc và suy nghĩ đa

chiều, nhịp điệu thơ khi trầm lắng uyển chuyển, khi dồn dập tình tứ thích hợp cho việc

134

bộc lộ cái tôi trữ tình của nhà thơ. Nếu để ý, ta thấy câu thơ bài thơ nào cũng chứa đựng

nhạc tính thẩm mỹ:

- Ví chăng em cứ bơ vơ nhớ

Nắng lượn cồn mây

Lá hiện hình

Thì thương cuốc lả

hồn Chiêu Thánh

Mõ giục chuông dồn

… lệ chép kinh… (Ước nguyện);

- Bờm nhả khói

Đuôi dựng mây

Hí lửa dài

Vó chồm nghiêng soái phủ (Khói Yên Thế);

- Gái thường dân Kinh Bắc

Tìm ai đây giỏi phận làm chồng

Hai tay căng sợi chỉ

Quỳ ba đêm không mảy động đường tơ (Hội vật).

Là một nghệ thuật thời gian, thơ được tiếp nhận chủ yếu bằng tai. Là một nghệ

thuật không gian, thơ cần được thưởng thức bằng mắt. Sự kết hợp giữa tính thời gian và

tính không gian đòi hỏi người đọc sử dụng cả hai giác quan cùng một lúc; thính giác và

thị giác. Thông qua đó, đọc là nhìn và giải mã ý nghĩa của thơ cùng một lúc. Ngôn ngữ,

tự bản chất, là một thứ mã (code), làm bằng các ký hiệu. Không có ký hiệu nào tự nó và

cho nó cả. Ký hiệu nào cũng là một ký hiệu của một cái gì khác. Ferdinand de Saussure

phân biệt hai khía cạnh của ký hiệu (sign): cái biểu đạt (signìier) và cái được biểu đạt

(signified). Đọc thơ, bởi vậy, là từ cái biểu đạt đi tìm cái được biểu đạt. Tuy nhiên, cái

được biểu đạt, tự nó, sẽ biến thành cái biểu đạt cho cái được biểu đạt khác; rồi cái được

biểu đạt ấy lại trở thành cái biểu đạt cho một cái được biểu đạt nữa. Cứ thế, liên tục. Giải

mã thơ, do vậy, thực chất là quá trình phát hiện các mối quan hệ chằng chịt, phức tạp và

hầu như vô tận giữa những cái biểu đạt/ được biểu đạt/ biểu đạt/ đựơc biểu đạt… Phát

hiện ra các quan hệ là phát hiện tính hệ thống của một bài thơ. Giải mã một bài thơ, bởi

vậy, nghĩ cho cùng là khám phá ra cấu trúc của nó để làm giàu sức phát hiện các giá trị

nghệ thuật.

135

Soi chiếu vào thế giới nghệ thuật thơ ca Hoàng Cầm, ta có thể nói thế giới hình

tượng trong thơ ông chứa đựng những mã văn hóa với các biểu tượng nghệ thuật đa

nghĩa và những trường liên tưởng tượng trưng tưởng chừng như vô nghĩa, thông thường,

nhưng thực chất lại là những liên kết giữa các hình ảnh có tính chiêm nghiệm, biểu cảm

mang nhiều giá trị nghệ thuật thẩm mỹ cao. Điều đó đã khẳng định được bản lĩnh thơ

ông và khẳng định được vị trí của thơ ông trong tiến trình thơ hiện đại Việt Nam, nói như

Nguyễn Việt Chiến thì Hoàng Cầm là "Ông hoàng của trường phái thơ duy mỹ Việt

Nam, Ông hoàng của thơ trữ tình hiện đại” [4, tr 98- 99].

Tính chất tượng trưng trong thơ Hoàng Cầm thực chất được soi chiếu từ góc độ

“lạ hóa” trong cấu trúc câu và ý thơ. Dưới góc độ ngôn ngữ học, “Lạ hoá” là “toàn bộ

những thủ pháp (nghịch dị, nghịch lý…) được dùng trong nghệ thuật một cách có chủ

đích, nhằm đạt tới một hiệu quả nghệ thuật, theo đó, hiện tượng được miêu tả không phải

như ta đã quen biết, hiển nhiên, bình thường, mà như một cái gì mới mẻ, chưa quen, khác

lạ” [1, tr.186]. Thực ra khái niệm Lạ hoá đã được Brech và trước đó là các nhà nghiên

cứu thuộc trường phái hình thức ở Nga vào những năm đầu thế kỷ XX từng đề xuất.

Theo Shklovski: “việc đưa vào ngôn ngữ văn chương một từ thông tục hoặc một từ địa

phương…, đặt trên cái nền của ngôn ngữ văn học, có thể là phương cách biến đổi hệ

thống tín hiệu, có thể là một sự đổi mới tín hiệu phá vỡ khuôn đúc (stéréotype) và buộc

người ta phải nỗ lực nắm bắt sự vật” [1, tr.187].

Hoàng Cầm làm thơ thường là không theo chủ định trước, không bao giờ ông

ngồi "nghĩ thơ" mà phần lớn nó tự đến từ những rung cảm, những hoài niệm hay từ nỗi

đau buồn, ám ảnh, thất vọng nào đấy. Những xúc cảm ấy thường đến trong đêm khuya,

bằng một giọng nữ văng vẳng bên tai như Bên kia sông Đuống, Về Kinh Bắc, Mưa

Thuận Thành, Men đá vàng, 99 tình khúc - những tập thơ chính của ông đều xuất phát

từ những xúc cảm đó và xuyên suốt trong thơ ông là chất trữ tình bay bổng của một vùng

văn hóa phồn thịnh Kinh Bắc, của một con chim oanh vàng với giọng hót lảnh lót, của

một cây đàn hoàng tử với những âm điệu lịch lãm và sang trọng ngân vang trong nền thơ

Việt Nam... Do vậy thơ ông luôn có sự lạ hoá trong hệ thống ngôn từ, đặc biệt trong cách

biểu thị các hình ảnh được nói tới. Ông từng tâm sự: Có nhiều câu thơ vô nghĩa nhưng

nó vẫn giàu sức gợi, sức cảm. Theo tôi không nhất thiết phải giải nghĩa thơ mà hãy tự

cảm nhận, từ cảm nhận sẽ ra hình tượng. Thơ, nhiều khi chỉ là một cái đẹp đơn thuần.

Nhiều người hỏi "Lá diêu bông" là gì, tôi không biết nhưng rõ ràng nó phù hợp với

136

không khí, âm hưởng chủ đạo của bài thơ. Nhiều người lại hỏi tôi nghĩ gì khi viết một

câu thơ rất hình ảnh và hình tượng chỉ về con sông Đuống là "Nằm nghiêng nghiêng

trong kháng chiến trường kỳ… Quả thực cũng có nhiều nhà nghiên cứu còn băn khoăn

với hình ảnh con sông mà Hoàng Cầm đã tâm sự ở trên. Nhưng nếu giải nghĩa có thể

hiểu đó là sự nhân cách hóa con sông, nó cũng suy tư, trăn trở khi nghĩ về vận mệnh Tổ

quốc, dân tộc và chính nó.

Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm trong Mưa Thuận Thành, trong Lá diêu bông, Cây

tâm cúc, Qủa vườn ổi, Ước nguyện, Về với ta, Đợi mùa... cũng được coi là lạ và mang

tính tượng trưng cao. Cái lạ, dĩ nhiên có người thích, người khó chịu bởi việc giải mã cái

lạ đó không hề đơn giản. Tuy nhiên, nhiều người cũng cảm nhận thơ Hoàng Cầm là hay,

là tuyệt tác, hình thức ngôn ngữ thơ của Hoàng Cầm là tân kỳ, sáng tạo. Song dù sao cái

lạ thơ Hoàng Cầm vẫn chiếm gam chủ đạo, cái lạ ấy là cái điều gì đó khang khác trong

giọng điệu, trong ngôn ngữ, tư duy và trong hình thức. Chẳng hạn những câu thơ: Giếng

ngọc ễnh ương quát đêm tiền sử/ I… i… m… / ứ…!/ I… i… …m/ ứ…! (Gió lông ngỗng);

Thấy phẩm Huệ xênh xang năm sắc áo/ Biết lòng chim sáo chim ri (Sương cầu Lim). Rõ

ràng, những tìm tòi hình thức trong thơ nói chung, sự cách tân của Hoàng Cầm nói riêng

có điều gì đó đã phụ thuộc vào môi trường văn hoá thẩm mỹ vùng, văn hoá cá nhân để

tạo ra những thay đổi, và có sự lao tâm, khổ tứ của cá nhân tác giả vào cái môi trường

của sự sáng tạo để tạo nên sự cách tân đáng kể ấy.

Thứ ba, qua tìm hiểu, chúng ta thấy thơ Hoàng Cầm còn có một hệ lời đầy tính

sáng tạo vừa có giá trị của tượng trưng nghệ thuật vừa mang tính nhạc. Điều đó đã gây

nên hết bất ngờ này đến bất ngờ khác cho người đọc. Hệ thống chữ nghĩa trong thơ ông

như có hồn vía bao quanh để cho nhịp thơ chuyển động theo, với những âm thanh vang

vọng sâu thẳm vào trong tâm thức tư duy bạn đọc. Người xưa gọi là “nhãn tự”, là linh

hồn của câu thơ, bài thơ. Ý thức được điều đó trong việc làm thơ, Hoàng Cầm đã rất tinh

và rất tài tình trong việc sử dụng động từ trong thơ. Mỗi động từ làm nên cái hồn của câu

thơ, bài thơ, từ đó hướng đến những trường nghĩa khác rộng hơn cái mà nó vốn có, nhằm

tạo ra một nét nghĩa mới với sự lạ hoá trong lối tư duy để mang một ý nghĩa tượng trưng

khác. Ví dụ: Trăng lên chém đầu ngọn gió (Đêm hoả), Tiếng trống chèo vuốt ngực Châu

Long (Luân hồi), Gió mát chồi xuân đay nghiến luỹ tre làng (Đêm mộc)... Đó còn là

việc sử dụng những những động từ biểu cảm thế giới tâm trạng, cảm quan của nhà thơ về

cuộc đời, văn hoá tâm lý sống của con người nơi vùng quê Kinh Bắc đã khúc xạ vào

137

trong thơ ông để chiêm nghiệm: Nắng lượn cồn mây lá hiện hình (Ước nguyện), Con rô

rạch ngược nướng cong mùa thơ (Nhớ), Đi tìm đôi ếch cõng mưa rào… Ổ sáo đen mái

chèo khua vỡ trứng (Quà mẹ).

Tính nhạc trong thơ Hoàng Cầm còn được thể hiện ở những vần thơ viết về văn

hoá Quan họ. Viết về không gian văn hóa quan họ Kinh Bắc, mặc dù nhà thơ không trực

tiếp hoặc đi sâu miêu tả tiếng hát, nhưng đã nói được cái linh hồn của văn hoá Quan họ.

Đó là những giai điệu “ứ hự”, “hừ la” đầy ngẹn ngào, ẩn ức, thứ ngôn ngữ riêng biệt chỉ

có trong lời ca, lời thơ Quan họ. Đọc thơ Hoàng Cầm, đâu đâu ta cũng gặp cái thứ ngôn

ngữ của nhạc tính Quan họ ấy. Thơ hay bao giờ cũng là cuộc hôn phối kỳ diệu giữa âm

thanh, nhạc tính, ý nghĩa và hình tượng. Chữ và nghĩa quan họ trong ngôn ngữ thi ca

Hoàng Cầm hoà quện với nhau như hình với bóng, như xác với hồn nên việc tách rời

chúng ra khỏi nhau sẽ làm tổn hại đến bình diện ngôn ngữ và tính thẩm mỹ của câu thơ.

Thơ là một thực thể ngôn ngữ. Thơ ca Hoàng Cầm ám ảnh người đọc phải chăng cũng vì

vẻ đẹp toát ra từ thực thể ngôn ngữ duy mỹ của văn hoá Kinh Bắc ấy? Vũ trụ tâm hồn thi

nhân đã hoà điệu với tâm hồn người đọc, đã “tri âm” với người tiếp nhận thông qua chiếc

cầu nối ngôn ngữ văn hoá Quan họ.

Một đặc điểm nữa trong ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm là mang tính tượng trưng cao bởi

ở cái lạ hóa ngôn từ. Các nhà phê bình thuộc trường phái hình thức Nga rất đề cao tính lạ

hoá trong thơ ca. Lạ hoá đã mang lại cho thơ ca tính tượng trưng độc đáo trong sự tri nhận

của bạn đọc. Nhà nghiên cứu Huỳnh Như Phương trong Trường phái hình thức Nga lý

giải quan niệm lạ hoá: "Lạ hoá là một cách phản ứng lại áp lực của thói quen. Bằng cách

rứt đối tượng ra khỏi bối cảnh quen thuộc của nó, bằng cách đặt cạnh nhau những khái

niệm khác hẳn nhau, nhà văn xoá bỏ những sáo ngữ và hiệu ứng nhàm cũ để giúp người

đọc nhận thức sâu sắc về sự vật và cơ chế cảm giác của nó... Lạ hoá kháng cự lại không chỉ

sự tự động hoá của nhận thức con người về đời thực mà cả sự tự động hóa của ngôn từ và

thủ pháp trong văn học” [109]. Hoàng Cầm đã làm được điều đó. Ông không hoàn toàn

xây dựng những biểu tượng mang tính chất thời gian thuần tuý mà còn đưa những biểu

tượng đó vào trò chơi trùng phức của chữ nghĩa, của biểu tượng thơ ca, nghĩa là biểu tượng

vừa có sự di động giữa không gian và thời gian, giữa vô thức và hiện thực. Sự di động vị trí

này khiến thơ ông có thêm chiều sâu tâm tưởng, đa tầng nghĩa, mang tính tượng trưng cao

và rất giàu chất triết lý: Qua núi Tam Tầng nghe tiếng hát/ cô gái điên/ ôm xác chồng/ lội

138

đồng chiêm (Gái hậu Lê), Mẫu đơn một nhành rơi/ Ngọc lan mười búp chắp/ Nến tắt sao

không tắt/ Giải yếm lòng trai mải phất cờ (Hội Long Khám).

Đọc thơ ông, nhiều người sẽ có cảm giác mơ hồ, khó hiểu nếu bản thân độc giả

không có một sự thụ cảm linh khí nhất định để lý giải mã văn hoá Kinh Bắc, bởi thứ

ngôn ngữ Hoàng Cầm sử dụng là ngôn ngữ mang tính tượng trưng của văn hoá, lịch sử,

thiên nhiên, tình yêu và con người truyền thống đất Kinh Bắc. Chất Kinh Bắc thâm

nhập vào từng vi mạch của đời sống tâm hồn ông, và đôi khi ông dùng thứ ngôn ngữ tự

nhiên - một sự lạ hoá của vô thức, tiềm thức thể hiện tâm trạng mình, qua đó mang lại

một tín hiệu nghệ thuật riêng biệt, một biểu tượng văn hóa nhằm phá vỡ cảm giác của

độc giả, chứ không phải là sự gia công gọt giũa cầu kỳ câu chữ: Chợt mê thét giữa sân/

Nét mác chữ thiên đâm toạc lưng trâu mộng/ Máu đổ/ Mây đùn/ Gió lộng/ Sớm mai đi

(Đêm hỏa).

Việc sáng tạo ngôn ngữ trong văn chương nghệ thuật thể hiện một hành động

sáng tạo mang tầm truyền thuyết và lặp lại sự thể hiện niềm khao khát về một bản thể

thần thiêng. Có thể nói rằng ý niệm về cái cao cả hay cái thiêng liêng trong thơ Hoàng

Cầm đều đã bắt nguồn từ cái ý niệm về bản thể đó. Quá trình phát tán cái ý niệm đó

trong những môi trường biến đổi kế tiếp nhau của thời gian lịch sử lâu dài đã dung hợp ý

niệm về cái thiêng liêng vào các thể chế của con người từ đạo đức, tình cảm đến tư

tưởng... Và tất nhiên, trên thực tế là suốt những hành trình dằng dặc đó, tín ngưỡng / tôn

giáo và truyền thuyết vẫn tồn tại song hành, như những nguồn mạch của truyền thống

không bao giờ đứt đoạn. Đó là nguồn nhựa sống trong cái cây của ý niệm về tính thiêng

liêng hay tính thiêng thánh. Và đôi khi ta có thể thấy ý niệm về cái cao cả hiện thân trong

một lý tưởng cụ thể nào đó mà vẫn mang ở mặt kia của nó - tiềm ẩn hay hiển lộ - tính

thiêng liêng của các phạm trù thuộc về truyền thống. Đấy cũng là phép ẩn dụ tượng trưng

để nhằm tạo ra các tín hiệu nghệ thuật mà thơ ca đã không ngừng sử dụng, hay cũng có

thể nói là không ngừng quy chiếu về. Hơn nữa, đó là một nguồn cảm hứng lớn của thơ ca

ở mọi thời và là nguồn ý nghĩa lớn.

Với mỗi một tín hiệu ngôn ngữ, bao giờ cũng phải có hai mặt. Đó là: mặt biểu

hiện (hình thức tín hiệu) và mặt được biểu hiện (nội dung tín hiệu). Mặt hình thức của

tín hiệu là những dạng âm thanh khác nhau mà trong quá trình nói năng con người đã

thiết lập lên mã cụ thể cho mình, đó chính là đặc trưng âm thanh cụ thể của từng ngôn

ngữ. Còn mặt nội dung (cái được biểu hiện) là những thông tin, những thông điệp về

139

những mảnh khác nhau của thế giới hiện tại mà con người đang sống, hoặc những dấu

hiệu hình thức để phân cắt tư duy, phân cắt thực tại. Tổng hợp của bộ từ vựng và bộ

ngữ pháp tạo thành cơ chế phân định và thiết lập mối quan hệ giữa cái biểu hiện và cái

được biểu hiện của từng tín hiệu trong ngôn ngữ. Khi mối quan hệ cơ giới 1 - 1 bị phá

vỡ thì nó có nguy cơ làm phương hại tới quá trình giao tiếp của một cộng đồng nói

năng cụ thể. Vận dụng nghiên cứu thơ Hoàng Cầm ta thấy nguyên nhân của sự lạ hoá

(mã) ngôn ngữ nhằm phá vỡ cảm giác để tạo nên thế giới tư duy đa chiều trong thơ

Hoàng Cầm có thể là:

1. Vì cơ chế của bộ từ vựng một ngôn ngữ là cơ chế mở (open) để đáp ứng nhu

cầu phản ánh thực tại của nhà thơ.

2. Các luật ngữ pháp có những biến động do có sự tiếp xúc văn hoá (culture

contact) từ những ngôn ngữ khác. Chính những biến động như vậy sẽ làm ngôn ngữ thơ

Hoàng Cầm phát triển, nhưng cũng có thể sẽ làm ngôn ngữ bị phân tầng, phân lớp mạnh

mẽ tạo nên những cấu trúc nghệ thuật độc đáo có khi đến mức không thể kiểm soát được.

Trong lí thuyết tín hiệu học hiện đại, bộ từ vựng và bộ ngữ pháp của một ngôn

ngữ còn được gọi là mã của ngôn ngữ đó. Trong thực thể sáng tác, Hoàng Cầm đã đưa

được các giá trị văn hóa thẩm mỹ vùng vào trường tư duy thơ để tạo nên con bạch tuộc

lắm vòi là cái mã văn hoá - ngôn ngữ khá đặc biệt với cái vẻ long lanh và bí ẩn trong

thơ ông.

Nhiệm vụ chính của nhà nghiên cứu văn học, do đó, tập trung chủ yếu vào việc

phân tích những sự dị biệt trong ngôn ngữ văn chương và ngôn ngữ thực dụng trong

đời sống hàng ngày, cũng như phát hiện những cái lạ đã bị biến thành tự động hoá và

những cái lạ thực sự lạ, nghĩa là phát hiện những cái chủ tố (the dominant) trong từng

tác phẩm cụ thể. Vận dụng quan điểm trên vào nghiên cứu ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm ta

có thể thấy các tín hiệu nghệ thuật mà ông sử dụng kết hợp với hệ thống ngôn ngữ bao

quanh đều tạo nên một cái chủ tố, cái lạ thực sự là lạ, và được coi là biểu tượng của

một bản thể có trí tuệ. Ngôn ngữ thơ ông là linh hồn của một nền văn hóa, một vùng

văn hóa. Ngôn ngữ và các biểu tượng văn hóa trong thơ Hoàng Cầm chính là điều kiện

đảm bảo cho bản sắc thơ ông. Vì thế, người đọc, một khi chưa nhập kịp vào tác giả,

cảm thấy ngỡ ngàng, giống như thâm nhập vào không gian của một giấc mơ vừa quen

mà vừa lạ:

140

- Khấn thầm như mẹ lỡ đò ngang

Miệng hé hạt na nhòa bến vắng

Bao giờ mẹ về

Buộc yếm đào phai vỗ hát ru (Đợt mùa);

- Ta con phù du ao trời chật chội

đứng cánh bèo đo gió lặng tìm sao

uống nước mắt con vành khuyên nhớ tổ

vừa rụng chiều này

dềnh mặt trước hương sen

Ta soi

chỉ còn ta đạp lùi tinh tú

Ngủ say rồi

Đôi cá đòng đong (Về với ta).

Mỗi ý thơ đều chứa đựng ý nghĩa tượng trưng từ văn hoá truyền thống

vùng Kinh Bắc, tuy nhiên vẫn đảm bảo được cái mới của tư duy trong hiện đại.

Đó chính là hiệu quả thẩm mỹ của thi pháp mới với tính chất dán cắt, tô nhấn

phối ghép giữa yếu tố bình dân và cái cao siêu, giữa cái thực và cái hư để mang

đến một không gian văn bản phù hợp nhằm “nối mạng” biểu tượng - những đặc

trưng thẩm mỹ của chủ nghĩa hậu hiện đại. Thêm một lần, những quan niệm

truyền thống về thơ ca bị xóa bỏ. Đến đây, thơ không còn chỉ là nghệ thuật của

ngôn từ thuần tuý, thơ còn là sự cắt xé ngôn từ, sự bình luận ngôn từ, sự khám

phá cấu trúc bên trong của tác phẩm thơ để tạo nên tầng ý nghĩa thứ hai, thứ

ba…, tức là làm cái việc bắt ngôn ngữ “phải suy nghĩ về chính bản thân”, bổ

sung cho nhà thơ tư cách nhà phê bình, nghiên cứu trong bản thân tư duy sáng

tác để hướng tới câu hỏi: “cái này được làm ra như thế nào?” như Roland

Barthes đã đề nghị trong Độ không của lối viết [6]. Nói cách khác, thơ không

chỉ là hồn vía của ngôn ngữ, là vỏ âm thanh hình ảnh trong ngôn ngữ, mà còn là

xương cốt kỹ thuật, hành chính và ngữ pháp của ngôn ngữ như những liên hệ ở

ranh giới của kỹ thuật và thẩm mỹ, giữa hình thức và cấu trúc của văn bản nghệ

thuật với các nguyên tắc phân đoạn dòng thơ trong một bài thơ, mà nền tảng của

cấu trúc câu thơ là sự láy đi láy lại, qua đó tạo nên một hình tượng nghệ thuật

mới mà không phá hủy đơn vị từ vựng trong sự ngắt nhịp câu thơ: Gió vào trăm

141

cửa/ Gió ra hồng da trinh nữ/ Gió vào xanh quan lục/ Gió ra vàng thớ mít/ ong

bay vai áo tiểu thon mình (Đêm thủy). Nhìn vào cấu trúc ngôn ngữ thơ Hoàng

Cầm ta thấy giống như cuộc ú tìm của lý trí và kỹ thuật trong lãnh địa của giải trí

vô tư, mà tính chất hậu hiện đại của nó thể hiện ở trạng thái phi cá tính, phi chủ

thể và phi quan điểm. Nhà thơ, ở đây, giống như nhện giăng tơ đã giăng mắc

những liên tưởng, tưởng tượng thơ và và siêu thơ của mình trên những chất liệu

đã định hình chủ thể và quan điểm. Sự can thiệp này vừa phá huỷ vừa không phá

huỷ cấu trúc hình ảnh thơ, nó chập chờn giữa phá huỷ và sáng tạo, giữa truyền

thồng và hiện đại, giữa cũ và mới, giữa đùa giỡn và nghiêm túc, giữa định hình,

sáng tỏ và khuất khúc: Dòng dây vục mãi đêm hồ tinh/ Ấp vú mình trần con dế

trũi/ Cành tre trải áo nép thân hình/ Phấn mùa trăng thoa mờ sẹo tuổi (Tắm

đêm). Đặc điểm này trong thơ ông có cái hay là từ đó tạo nên các liên hệ ngữ

pháp và thi pháp truyền thống, cho đến khi có thể bất ngờ úp lên nó một lưới

siêu liên kết nối liền những ngữ “nội gián” đặc tuyển lại để tạo thành biểu tượng

mới. Có chăng mà qua đó, nhà thơ Lê Đạt đã phong tặng Hoàng Cầm là “một can

- đảm - chữ”?

Hoàng Cầm sử dụng chất liệu ngôn ngữ dân gian vốn có của dân tộc để tạo ra

một chỉnh thể nghệ thuật, làm chất liệu tạo hình nên những hình tượng chập chờn giữa

biểu hình và chất liệu. Song, cái chất liệu truyền thống, khi được nhà thơ sử dụng như

một cái nền để triển khai sự đọc của mình trên đó đã không còn giữ nguyên cái sắc thái

thẩm mỹ quen thuộc xưa kia nữa - nó đã được lạ hoá giống như trên sân khấu của Bertolt

Brecht, bởi tác giả đã điểm vào đó, xếp chồng lên đó những biểu tượng văn hoá khác lên

cái biểu tượng văn hoá cũ có tính chất nền tảng và tính chất liệu này. Đó rõ ràng là một

sự sáng tạo ngôn ngữ tuyệt vời của nhà thơ.

Thật vậy, sáng tạo thi ca là quá trình phức tạp. Như một ngọn nến, thi nhân tự đốt

cháy tâm hồn mình mới mong toả sáng giữa cuộc đời. Quá trình sáng tạo của nhà thơ là

sự kết tinh của “hồn thơ”. Để sáng tác thi ca, ngoài phần kỹ thuật, thi pháp, cũng như nội

dung tư tưởng, còn đòi hỏi một nguyên lý sinh động đó là cái hồn thơ, cái khả năng cảm

hứng và diễn tả của nhà thơ… làm cho nội dung kết cấu với hình thức và bài thơ có một

sức sống linh diệu. Và “Những chất thơ có được trong tác phẩm đều xuất phát từ một

hồn thơ. Hồn thơ là nguồn suối nguyên sinh (gennse) của cái đẹp nghệ thuật tìm thấy

trong một sáng tạo đam mê” [119, tr.87].

142

Hồn thơ là yếu tố không thể thiếu trong quá trình sinh thành thơ ca. Nó không

những là nguyên nhân, động lực, là nỗi niềm tinh vân dậy lên đam mê và khát khao sáng

tạo mà còn là tiếng vọng từ trong cõi vô thức của người thơ. “Chất thơ thường hướng về

tác phẩm, tức là ngoại giới, hồn thơ là dư vang chưa thành hình còn đang ở trong trạng

thái tiềm thế, đồng hoá với mỹ cảm sống động trong tâm hồn thi sĩ” [119, tr.87]. Không

những thế, hồn thơ còn là “tiếng gọi” huyền nhiệm tạo mỹ cảm cho người đọc trong

quá trình tiếp nhận, theo cách nói của Hồ Hoàng Lạp, đại ý: Đọc một bài thơ, điều làm

tôi cảm thấy hay không ở bài thơ chính là cái hồn của bài thơ đó toát ra sau những dòng

chữ. Một chút sương khói thơ lãng đãng bay lên cao, chập chờn cảnh vật, lung linh

hình bóng. Rõ ràng, một bài thơ hay phải ẩn chứa một hồn thơ lung linh sau những

dòng chữ. Nên hồn thơ không chỉ là nội lực tạo xúc cảm cho nhà thơ trong quá trình

sáng tạo, là sự mời gọi nguồn mỹ cảm nơi người đọc. Nói như Trần Nhựt Tân thì nó

còn là xu hướng của cả một trường phái, “Hồn thơ vừa là mẫu số chung cho toàn thể

tác phẩm của một thi sĩ, vừa là đơn vị sáng tạo của một thi sĩ đối với các thi sĩ khác, kể

cả những thi sĩ cùng một thời đại, một khuynh hướng chịu chung một ảnh hưởng (đôi

khi) cả trong cùng một trường phái” [119, tr.101].

“Thơ là nghệ thuật lấy ngôn ngữ làm cứu cánh” (Jakobson). Đó là thứ ngôn ngữ

được chưng cất công phu vì bài thơ là tổ chức ở trình độ cao của ngôn ngữ, một tổ chức

chặt chẽ tinh tế của ngôn ngữ. Và ngôn ngữ thi ca là thứ ngôn ngữ kết hợp hài hòa giữa

ngôn ngữ và tư tưởng và nhiệm vụ của thi nhân là phải tạo nên sự nhiệm màu kỳ diệu ấy.

Đây mới thực sự là yếu tố làm nên giá trị thơ ca. Tư tưởng trong ngôn ngữ thơ như một

chiếc dây diều vừa đưa thơ cất cánh bay cao, bay xa trong bầu trời của thực và mộng vừa

neo thơ lại với bầu khí quyển đời sống của riêng nó. Ngôn ngữ thơ không phải là một thứ

ngôn ngữ xác ve sau mùa hè đã im bặt tiếng kêu, mà quan trọng hơn, đó là một thứ ngôn

ngữ không ngừng biến sinh mãnh liệt. Song ngôn ngữ trong thơ không phải là ngôn ngữ

nguyên sinh của đời sống. Đó là ngôn ngữ có giá trị tạo nghĩa, là một thứ bóng chữ. Nó

có một ma lực riêng, một cõi hồn riêng, nhiều khi vượt thoát khỏi ý thức của người cầm

bút để trở thành một thứ ám ảnh của vô thức. Trong quá trình sáng tạo ngôn ngữ thơ của

Hoàng Cầm cũng vậy, nó không những khác biệt ngôn ngữ nhật dụng, nó còn biệt lập

với người cầm bút, nó còn khả năng tự tồn, sinh sôi, nẩy nở chữ đẻ ra chữ và ra nghĩa.

Ngôn ngữ luôn có khả năng tạo nghĩa và luôn biến sinh theo sự biến sinh của đời sống xã

143

hội. Coi trọng vai trò của ngôn ngữ không những là một yếu tố hình thức góp phần tạo

nên giá trị của thơ, mà còn đề cao ý thức trách nhiệm của nhà thơ trong việc sáng tạo

ngôn ngữ. Nhà thơ phải là người làm mới ngôn ngữ để thơ luôn tạo nên những rung

động mới mẻ từ phía người tiếp nhận. Từ đó gây sự thu hút đối với bạn đọc. Trước năm

1945, Xuân Diệu được coi là một điển hình trong việc sáng tạo và làm mới ngôn ngữ.

Sau 1945, một số nhà thơ cũng có những cách tân, sáng tạo ngôn ngữ như: Hoàng Cầm,

Quang Dũng, Trần Dần, Thanh Tâm Tuyền, Bùi Giáng. Trong số đó, cách làm mới, làm

lạ hóa ngôn ngữ của Hoàng Cầm được bạn đọc quan tâm hơn cả, cũng bởi ông đã dựa

trên những chất liệu ngôn ngữ của truyền thống văn hóa dân gian để làm cơ sở, bước

đệm cho việc hiện đại hóa, lạ hóa cho ngôn ngữ của mình. Những bài thơ như Nước

sông Thương, Cây tam cúc, Lá diêu bông,… hoặc các bài trong chùm thơ viết về đêm

được nhà thơ sắp đặt lại theo lối viết tự động hoá và được “lạ hoá” thêm một bước về

ngôn ngữ, tạo ra trường nghĩa khác, đem đến cho người đọc sự thú vị đa chiều trong việc

khám phá ngôn từ. Một mặt ông đã dùng động từ tạo âm hưởng cho câu thơ đột biến,

mặt khác nó cụ thể hoá cái rất trừu tượng. Nó giúp chúng ta cảm nhận được những thế

giới vô hình và mông lung. Qua đây ta thấy, nếu hình ảnh trong đầu của nhà thơ không

sống động, thì người đọc thơ cũng không có cảm quan sống động của bài thơ. Sự tương

tác giữa họa, nhạc trong thơ có thể gần như tương tự với sự đóng góp của họa sĩ, nhạc

sĩ… tất cả đều chỉ bởi nhà thơ với ngòi bút và những từ ngữ trong một hệ thống ngôn

ngữ mà ra. Cách sử dụng dùng hình ảnh động đậy bằng việc cho thêm các động từ cũng

thường được thấy trong thơ Hoàng Cầm. Động từ trong thơ ông đã cụ thể hoá cái thế

giới nội tâm huyền bí, sâu xa của chính tác giả: Gió mát chồi xuân đay nghiến luỹ tre

làng (Đêm mộc); Bình pha lê nghiêng rượu niệm đêm tàn (Ngựa 1)… Ông sử dụng

động từ như một nhân tố tạo nên cái hồn của sự vật, hiện tượng được nói đến: Câu thơ

chểnh mảng gối đầu tay (Đèn nhang 1); Chuồn chuồn khiêng nắng liệng sang sông

(Đêm thổ)… Động từ biểu hiện thế giới tâm trạng, cảm quan của nhà thơ về cuộc đời và

con người: Ốc sên hiếng mắt ngó rình sớm mai (Tháng giêng đi chậm); chìa vôi quệt

gió hững hờ (Theo đuổi)… Thế giới hình ảnh trong thơ ông là những liên tưởng tượng

trưng tưởng chừng như vô ý, đơn giản, song lại tạo nên sợi dây liên hệ giữa những hình

ảnh cụ thể với những hình ảnh có tính đa nghĩa, siêu nghiệm: Ông phó may già mười

đêm chẳng ngủ/ Rủ xô gai biển động tìm kim (Đêm kim); Một thoáng gật đầu/ Giữa trời

144

gãy cánh/ Nửa mắt nhìn chênh/ Giếng cạn mùa mưa (Đếm sao); Gà con nhớ mẹ/ Cỏ

vàng rung chân/ Ới thương là thương (Đếm nắng)… Tuy không phải là một phu chữ,

nhưng Hoàng Cầm cũng rất thành công trong lĩnh vực chữ nghĩa. Con chữ trong tầm tay

của ông, dù là những con chữ bình thường cũng trở nên có sức sống kỳ lạ, mang tâm tư,

tập tính, hồn vía của con người Kinh Bắc.

Đúng là sự lạ hoá ngôn ngữ trong thơ Hoàng Cầm lại là cách làm cho người đọc

cảm thấy ngỡ ngàng, vừa quen mà vừa lạ. Ông tạo sự “lạ hoá” bằng cách đem những

từ ngữ trong các trường nghĩa khác nhau đặt bên nhau, tạo xé nát cấu trúc hình tượng,

rồi lắp ghép vào những chiều kích của không - thời gian khác nhau, để phá vỡ cách

nhận thức bằng tư duy logic của người đọc, khiến bài thơ trở thành một rừng chữ

nghĩa, biến hóa khôn lường để tạo ra một trường liên tưởng thẩm mỹ khó thâm nhập

mà tháo dỡ cấu trúc. Chữ nghĩa đứng trước mắt, nhưng hầu như lại “nằm ngoài tầm

kiểm soát” của tư duy, nằm ngoài cấu trúc và cách mã hoá của ngôn ngữ đời thường.

Toàn bộ cái sự vật tường chừng như phức tạp ấy thực ra nhìn tổng thể lại là một giai

điệu hoàn chỉnh trong sự ngắt nhịp của một bản nhạc thông thường, mà vai trò của ngữ

điệu được đánh dấu tới từng chi tiết. Trong quá trình phát triển dung lượng của ý thơ,

nó vẫn tiếp tục làm nảy sinh cái cơ cấu mang tính vần điệu của ngôn ngữ tinh diệu

trong thơ ông. Đó là cái mỏ quặng chữ ngàn cân của Hoàng Cầm trong quan niệm thơ-

trước hết- là cuộc đời, sau đó mới là nghệ thuật. Ta hãy đọc: Em chở nứa sang bờ

duyên phận/ Tay đóng bè chân xuôi thác ghềnh/ Tuổi đã rách vá gì cho kịp/ Da mỡ

đông tuốt sẹo ngang thân (Tắm đêm)… Câu thơ Hoàng Cầm bởi thế chứa đựng nhiều

tầng, nhiều lớp ý nghĩa. Nó còn có khả năng mở ra vô vàn những suy tư qua các lớp

nghĩa gợi mở đó, đọc một lần không dễ gì ta hiểu được, mà người đọc phải bóc từng

lớp, từng lớp nghĩa của một “tảng băng trôi” chữ nghĩa trong thế giới nghệ thuật thi ca

của ông mới mong có được sự giải mã trọn vẹn.

Ngôn ngữ thơ Hoàng Cầm thực sự là tấm gương phản chiếu văn hóa dân tộc và

tác động trong sự khúc xạ của luật âm dương (trong âm có dương, trong dương có âm;

âm sinh dương, dương sinh âm) thật là rộng lớn và sâu xa ! Đọc thơ ông, ta gặp một con

người Việt nguyên khôi qua hơi thở của lục bát, ngũ ngôn và nhịp thơ tự do tài tình lướt

qua khuôn phép, lề luật. Chính vì thế mà thơ ông không cũ đi trong cổ điển, và cũng

không quá xa lạ trong hiện đại. Nhiều câu thơ của ông thể hiện đầy sự tài hoa của nhạc

145

tính đến quyến rũ, khiến người “phải lòng” rồi thì không dễ gì dứt ra được nữa: Vắt áo

nghe thầm tiếng vải kêu; Một con mèo mướp ruỗi chân chiều; Ta con bê vàng lạc ráng

chiều xanh/ đi mãi tìm sim chẳng chín; Ta con chào mào khát nước/ về vườn xưa hạt

nhãn đã đâm mầm; Ta con chim cu về gù rặng tre/ mang nắng ấu thơ về sân đất trắng;

Chị gánh gạo về dinh phú hộ/ nứt vai thành sẹo lá lan đao…

Những câu thơ, nhờ thế, trở nên sáng sủa, trong sáng, dễ thu nhận thông tin và

chứa đựng tính tượng trưng đa nghĩa. Nhưng nghệ thuật, ngoài thông tin giao tiếp còn

mang lại nhiều giá trị thông tin thẩm mỹ thông qua ngôn ngữ của văn hóa vùng - đó

chính là bản chất của ngôn ngữ nghệ thuật thơ Hoàng Cầm. Thơ không chỉ có một

khuôn mặt, nhất là mặt dẹt ở những áp phích quảng cáo tuyên truyền, mà thường là

"hai mặt", hay bốn mặt như nàng Bayon, thậm chí vô số mặt. Thơ siêu thực là thế. Nó

không hề mô tả hay kể lể chi tiết đến một cảnh, một người, một sự kiện, một tình

huống, một phong cảnh cụ thể nào. Thơ siêu thực cũng không nói rõ một ý tưởng,

một quan niệm nào của riêng nhà thơ. Thơ siêu thực chỉ gợi ra một thế giới huyền ảo,

tượng trưng bằng cấu trúc đặc biệt của ngôn ngữ trong khung khổ bài thơ để người

đọc tự cảm nhận, tự liên tưởng, suy ngẫm về nỗi thăng trầm của lịch sử, của văn hóa

và các sự kiện biến thiên của con người, vùng đất qua cách nhìn của nhà thơ. Chính

cách nhìn của nhà thơ đã đưa đến cho văn bản thơ ông yếu tố năng động của nghệ

thuật ngôn từ.

Trong thơ Hoàng Cầm ta thấy ngôn ngữ thơ khi thể hiện sự rắn rỏi một nỗi

niềm chiến sĩ, khi lại tha thướt những nét hoa văn những dải lụa đào nghệ sĩ, khi linh

thiêng bên các đình, chùa, đền, miếu, khi tình tứ, lẳng lơ đến không ngờ, khi lại kính

cẩn, trang nghiêm, long lanh đài các mà cũng thật hoang sơ, cổ kính. Nhà thơ như từ

quá khứ đến với ta, vừa thân thuộc vừa xa lạ, vừa đắm đuối yêu thương vừa tương

hợp lại vừa không tương hợp với thế giới này. Tất cả những mâu thuẫn ấy đã hiện rõ

trong thơ ông. Và chính nó đã làm nên sự khác biệt của chính thơ ông, của chính ông:

Ta con chim cu về gù rặng tre

đưa nắng ấu thơ về sân đất trắng

đưa mây lành những phương trời lạ

về tụ nóc cây rơm (Về với ta).

146

Do đó, đọc thơ Hoàng Cầm thường là khó hiểu, khó nắm bắt được cái hồn cốt của

nó, nói cách khác là khó đọc được cái “Mã” ý nghĩa nằm trong trữ lượng, mạch ngầm

câu từ của bài thơ, ý thơ. Thơ Hoàng Cầm kết nối được những thế giới khác nhau để cho

ta cảm giác vừa mơ hồ vừa rõ rệt về một giấc mơ qua một cấu trúc ngữ pháp đứt đoạn

khá đặc biệt:

Bắn nát chiều mai ráng đỏ

Châu chấu ma vờn cổ yếm xây

Không gặp người quen

Hờ…

Ngõ cũ… (Đêm thổ).

Nhiều câu thơ miêu tả sự cô đơn đến không ngờ, gây hoài nghi cho tư duy người

đọc trong nỗi bơ vơ, nổi nênh của một kiếp người:

Ngày Chị bảo Em quên

Tranh tố nữ long hồ gián nhấm

mất chân đi

má đội tổ tò vò

Cuốn chiếu xa rồi

thơ thẩn vách chiêm bao (Nước sông Thương).

Hàng loạt những từ “ấu thơ”, “mây lành”, “cây rơm”, “tranh tố nữ”, “tò vò”,

“chiêm bao”… có khởi nguyên từ trong truyền thống ca dao và được Hoàng Cầm chọn

làm thi liệu để xây dựng nên những biểu tượng nghệ thuật thông qua một cấu trúc văn

bản mới với ngôn ngữ tự do trong tính đồng phối của văn bản, ngôn ngữ được giải phóng

khỏi ngữ pháp của văn bản cũ, để mang nghĩa mới trong một sứ mệnh văn hoá mới gắn

liền với nội dung chiều sâu của biểu tượng mới mà nó đã trở thành một nhân tố trong cấu

trúc. Trong khi xây dựng cú pháp thơ, Hoàng Cầm luôn tự ý thức việc đề cao tính liên

tục, tức coi trọng mối liên hệ giữa từ với từ, đồng thời thúc ép người đọc đọc từ chữ đầu

đến chữ cuối trong câu, từ câu đầu đến cấu cuối trong bài, tức là trừu tượng hóa sự đọc.

Đây chính là quá trình văn xuôi hóa thơ của Hoàng Cầm. Trong khi đó, thơ chú trọng

đến quan hệ trực quan giữa từ với sự vật để đi đến mục đích là khôi phục nghĩa nguyên

thủy của từ, tức "phục sinh từ", hoặc "lạ hóa" từ - như cách nói của Sklovski. Hoàng

Cầm - bằng một lối thơ vô thức, siêu thức đã tạo ra tính đồng đẳng trong thơ ông trên

147

mọi cấp độ thơ như: cấp độ chữ, cấp độ câu, và cấp độ nghĩa. Từ đó, tạo ra thi pháp chữ,

thi pháp câu, thi pháp nghĩa và, cuối cùng là tạo ra bút pháp (écriture) Hoàng Cầm. Nhà

thơ đã phá vỡ trật tự từ trong câu, thoát khỏi sự ràng buộc của cú pháp, chặt đứt tính liên

tục của cú pháp để bạn đọc tự mỗi người, theo cảm nhận riêng, có thể trật tự lại theo cách

của mình.

Sức nén của ngôn từ thơ Hoàng Cầm thật không dễ gì mở gói ra được. Đó là

sức nén của những câu thơ thuần Việt, Việt từ trong tâm huyết của từ ngữ, của âm điệu,

của dáng hình lịch sử dân tộc. Nhưng ở đây, tác giả đã làm cái việc gây rối các trật tự

biểu tượng đã thiết lập trong ngôn ngữ biểu tượng theo kiểu truyền thống để tạo nên

một nhịp cầu giữa ngữ pháp và siêu ngữ pháp, vừa dùng chữ vừa dùng ký hiệu ngoài

ngôn ngữ. Tuy nhiên ta vẫn nhận thấy các loại tín hiệu và biểu tượng đều nương tựa

vào nhau, giao thoa và cộng sinh để tạo lập biểu tượng, khơi gợi và tô nhấn cho những

thông điệp nhân văn truyền thống.

Có thể nói với những gì đã đạt được trong những cách tân ngôn ngữ nghệ thuật

của mình, Hoàng Cầm đã tiến thêm một bước xa hơn trong cách thể hiện bản lĩnh nghệ

thuật của mình với sự mới lạ độc đáo, tân kỳ mà cũng cổ điển, dân dã hơn bao giờ hết.

148

KẾT LUẬN

1. Văn hoá và văn học luôn có mối quan hệ qua lại và gắn bó chặt chẽ với nhau.

Văn hoá hình thành nên tư tưởng nghệ thuật, khiếu thẩm mỹ của người nghệ sĩ. Ngược

lại qua đó, người nghệ sĩ sẽ làm giàu và đẹp thêm cho nền văn hoá dân tộc. Trong cuộc

chuyển mình của đời sống văn hoá dân tộc như thời đại ngày nay, có sự tiếp xúc,

giao thoa với nhiều trường phái văn học trên thế giới, thì việc dựng lại và gìn giữ

bản sắc văn hoá vùng miền, dân tộc trong thơ của Hoàng Cầm là một việc làm rất

đáng trân trọng và đang chờ đợi sự đồng cảm, khám phá nhiều chiều. Hơn nữa, thức

nhận được, về mặt lý luận, bản chất của mối quan hệ văn học và văn hoá giúp cho

nghiên cứu sáng tác thơ Hoàng Cầm xử lý được một số trường hợp vướng mắc, mâu

thuẫn do cách tiếp cận cũ để lại, đồng thời có cơ sở lý thuyết để xây dựng một

phương pháp tiếp cận mới: Tiếp cận văn học từ góc độ văn hóa. Phương pháp này

bước đầu có sự thuận lợi để thúc đẩy việc tìm ra các biểu tượng văn hoá trong thơ

của ông trong mối quan hệ với vùng thẩm mỹ Kinh Bắc.

2. Hoàng Cầm là nhà thơ hiện đại nổi tiếng với một phong cách thơ rất riêng

biệt, độc đáo, thi pháp thơ mới lạ. Trên con đường nghệ thuật của riêng mình, ông

luôn có sự tìm tòi, thể hiện bản ngã nghệ thuật mới. Nhưng cội nguồn văn hoá quê

hương vẫn là nơi ông tìm về, đón lấy đó làm nguồn cảm hứng chủ đạo, là nơi thể

hiện tình cảm để tạo nên bản sắc riêng cho thơ mình. Tính nhất quán này cũng tạo

cho thơ ông những đặc sắc khi xây dựng những biểu tượng nghệ thuật về vùng văn

hoá Kinh Bắc.

3. Thế giới nghệ thuật thơ Hoàng Cầm là những biểu tượng đa dạng, đa tầng

nghĩa mang giá trị sâu sắc về yếu tố văn hoá miền Kinh Bắc.

Trong thi đàn Việt Nam, Hoàng Cầm là một nhà thơ lớn, cả về tài năng và

nhân cách. Người ta thường nói mỗi một con người sinh ra đã là một sản phẩm của

quê hương mình. Và Hoàng Cầm chính là “đặc sản” của đất Kinh Bắc! Trong thơ ông

hiện lên rõ nét một tính cách, một tâm hồn, một miền quê Quan họ. Cuộc đời và thi

nghiệp của Hoàng Cầm là một trường hợp điển hình cho sự thành công trong văn giới

Việt Nam hiện đại. Trong ông có sự kết hợp giữa con người thi nhân và con người

chiến sĩ (dân tộc và dân chủ), có sự kết hợp giữa lối sáng tác truyền thống và hiện đại,

149

ông coi cảm hứng từ chính cuộc đời mình là động lực tự nhiên với ý thức về sự làm

mới bút pháp do ảnh hưởng của những người bạn mang tinh thần cách tân quyết liệt.

Nằm giữa một cái nôi văn hóa dân gian đậm đà tâm thức tập thể và một chân trời tự

do cá nhân hấp thụ từ văn minh phương Tây, nên sáng tác của ông mang dấu ấn của

lối kể chuyện và giãi lòng, giữa thực và mộng, lộ và ẩn, hình ảnh và biểu tượng,

huyền thoại và thực tế, văn chương và thế sự để tạo nên một thi pháp Hoàng Cầm.

Thơ Hoàng Cầm có cách riêng để dễ lan truyền mà không bình dân, vẫn đáp ứng tâm

lý thưởng thức của công chúng trung lưu Việt Nam trong một hoàn cảnh xã hội khá

đặc biệt, khi văn nghệ đang chuyển mình từ công cụ chính trị trở lại là chính nó. Đời

ông là cả một đời nhớ tiếc những cái đã mất (Đứng bên này sông sao nhớ tiếc/ sao

xót xa như rụng bàn tay) mà ông chỉ hằng mong níu lại bằng thơ. Níu xuân xanh, níu

một mối tình ảo, níu một thời trầu cay mà đỏ, níu màu dân tộc sáng bừng sáng trên

giấy điệp… Và có lẽ, thơ Hoàng Cầm níu lòng ta cũng vì thế.

4. Thi sĩ Hoàng Cầm đã có được những đóng góp lớn rất đáng trân trọng vào

nền văn học Việt Nam hiện đại. Những thi phẩm của ông đã làm vẻ vang cho vùng đất

Kinh Bắc, vẻ vang cho nền thơ ca dân tộc, đặc biệt là ở giá trị các biểu tượng văn hóa

và hệ thống ngôn ngữ, giọng điệu nghệ thuật. Hoàng Cầm có một vị trí xứng đáng, một

địa vị vững chắc và trở thành một trong những tên tuổi thơ ca lớn trong lịch sử văn học

dân tộc. Không có vùng đất địa linh nhân kiệt, không có vùng văn hoá - vùng thẩm mỹ

Kinh Bắc hào hoa và ngồn ngộn sự sống thì không có người con của Sông Đuống trôi

đi/ Một dòng lấp lánh và ngược lại, chính Hoàng Cầm cũng là người bảo tồn, làm sống

dậy nền văn hoá trong lành đậm đà phong vị quê hương không thể trộn lẫn ấy.

5. Có thể nói, việc tái hiện đồng thời khẳng định những giá trị văn hóa của cha

ông qua các biểu tượng văn hóa vào trong tác phẩm là một việc làm có chủ ý của

Hoàng Cầm trong quá trình phản ánh hiện thực cuộc sống. Sáng tác của Hoàng Cầm

đã chuyển tải được những giá trị văn hóa độc đáo của cha ông đến với người đọc

bằng một sự cảm nhận rất “đời thường”. Đây có thể xem là khuynh hướng thẩm mỹ

trong sáng tạo nghệ thuật của nhà thơ Kinh Bắc này - khuynh hướng thổi vào tác

phẩm những phẩm chất và giá trị văn hóa của dân tộc, của quê hương (cụ thể ở đây là

những nét đẹp văn hóa nơi vùng đất Kinh Bắc - cái nôi văn hoá của dân tộc). Điều

này cũng góp phần lý giải vì sao sáng tác của Hoàng Cầm nói chung luôn được đông

150

đảo bạn đọc đón nhận. Thành công của Hoàng Cầm một lần nữa cho thấy bản lĩnh

của Hoàng Cầm khi đã dũng cảm chọn cho mình một hướng đi riêng đó là: không

“chạy theo đám đông”, không chạy theo xu hướng “công nghiệp hóa, hiện đại hóa” cả

trong cách nghĩ và cách sống (nhiều khi rất tầm thường và “lệch chuẩn”) mà khá

nhiều nhà văn cùng thời xem là “mốt” thời thượng khi sáng tác. Tác phẩm của Hoàng

Cầm vì thế, ẩn chứa nhiều hạt ngọc lung linh, óng ánh đẹp lạ thường phản ánh đúng

cái chất truyền thống - cái tâm hồn Việt Nam nghìn đời. Những trang viết của Hoàng

Cầm chính là một cuốn sách giới thiệu với bạn đọc hiểu thêm về con người và vùng

đất mang đậm dấu ấn của văn hóa Kinh Bắc - cội nguồn của văn hóa Việt Nam.

Các sáng tác của Hoàng Cầm hiện rõ chân dung một nhà thơ lớn với những tác

phẩm thấm đẫm lòng yêu đất nước, yêu lịch sử dựng và giữ nước oai hùng với những

tầng sâu văn hóa cội nguồn trong trẻo và ấm sáng. Mặc cho những lận đận trong cuộc

đời, những vần thơ ông không hề có chút oán hận, bi quan. Chất văn hóa Kinh Bắc

thấm đẫm trong thế giới giàu có của thơ ông và đến lượt các tác phẩm của ông đã làm

rạng danh tình yêu con người, tình yêu quê hương đất nước của miền Quan họ.

Nghiên cứu về sự nghiệp thơ ca Hoàng Cầm chắc chắn sẽ còn mở ra nhiều vấn đề

mới lạ trong ngôn ngữ, giọng điệu, thi pháp thơ và các biểu hiện văn hóa trong đó vẫn

đang đón đợi sự giải mã nhiều chiều của bạn đọc./.

151

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CÔNG BỐ

KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN

1. Trần Đức Hoàn, Trần Thị Việt Trung (2008), "Tín hiệu thẩm mỹ trong thơ

Hoàng Cầm", Tạp chí Nhà văn, số 8.

2. Trần Đức Hoàn (2008), "Một loại biểu trưng trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Diễn

đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12.

3. Trần Đức Hoàn, Nguyễn Thu Hương (2009), "Không gian lễ hội Kinh Bắc trong thơ

Hoàng Cầm", Tạp chí Nhà văn, số 1.

4. Trần Đức Hoàn (2009), "Cây Tam cúc và giấc mơ xe hồng", Tạp chí Ngôn ngữ, số 6.

5. Trần Đức Hoàn (2009), "Hình tượng nhân vật truyền thuyết và lịch sử Kinh Bắc

trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 7.

6. Trần Đức Hoàn (2010), "Không gian văn hoá Quan họ trong thơ Hoàng Cầm", Tạp

chí Nhà văn, số 2.

7. Trần Đức Hoàn (2011), "Về một biểu tượng trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 3.

8. Trần Đức Hoàn (2011), "Biểu tượng người Mẹ trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Diễn

đàn Văn nghệ Việt Nam, số 5.

9. Trần Đức Hoàn, Nguyễn Đức Hạnh (2011), "Biểu tượng Yếm - Áo trong thơ Việt

Nam và trong thơ Hoàng Cầm", Tạp chí Nhà Văn, số 6.

10. Trần Đức Hoàn (2012), Đặc điểm lạ hóa trong ngôn ngữ nghệ thuật thơ

Hoàng Cầm, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 10.

152

TÀI LIỆU THAM KHẢO

I. PHẦN TIẾNG VIỆT

1. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (1999), 150 thuật ngữ Văn học, Nxb Đại học Quốc gia

Hà Nội.

2. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm - Tác phẩm - Tập thơ, kịch, Nxb

Hội Nhà văn, Hà Nội.

3. Lại Nguyên Ân (biên soạn) (2004), Hoàng Cầm - Tác phẩm văn học, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

4. Lại Nguyên Ân (chủ biên) (2011), Hoàng Cầm - Hồn thơ độc đáo, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

5. Đào Duy Anh (2000), Việt Nam văn hoá sử cương, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

6. Barthes Roland (1997), Độ không của lối viết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

7. Nguyễn Duy Bắc (1998), Bản sắc dân tộc trong thơ ca Việt Nam 1945- 1975, Nxb

Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

8. Nguyễn Thị Minh Bắc (2007), Thơ Hoàng Cầm với văn hoá Kinh Bắc, Nxb Hội Nhà

văn, Hà Nội.

9. Benac Henri (2005), Dẫn giải ý tưởng văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

10. Brecht Berton, Tuyên ngôn của chủ nghĩa siêu thực, Nguồn: evan.com.vn.

11. Brutl Lévy (2008), Kinh nghiệm thần bí và biểu tượng ở người nguyên thủy, Nxb

Thế giới, Hà Nội.

12. Phạm Quốc Ca (1999), "Thơ trữ tình công dân trong nền thơ Việt Nam đổi mới",

Tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 3.

13. Hoàng Cầm (1999), Văn xuôi, Nxb Văn hoá, Hà Nội.

14. Hoàng Cầm (2002), Gọi đôi - Thơ lục bát chọn lọc, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

15. Hoàng Cầm (2003), Tác phẩm thơ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

16. Đỗ Hữu Châu (1998), Cơ sở ngữ nghĩa học từ vựng, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

17. Chevelier Jean, Gheerbrant Alain (Phạm Vinh Cư chủ biên dịch) (1997), Từ điển

biểu tượng văn hóa thế giới, Nxb Đà Nẵng.

18. Vũ Thị Sao Chi (2008), "Nhịp điệu và các loại hình ảnh của nhịp điệu trong văn

thơ", Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.

153

19. Nguyễn Việt Chiến (tuyển chọn và giới thiệu) (2007), Thơ Việt Nam tìm tòi và cách

tân, 1975 - 2005, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

20. Nguyễn Việt Chiến (2007), Hoàng Cầm, nhà cách tân của trường phái thơ duy

mỹ, Báo Văn nghệ, số 47 (ngày 24/11).

21. Hoàng Chinh (1979), Về khoa học và nghệ thuật trong phê bình văn học, Nxb

Khoa học Xã hội, Hà Nội.

22. Lương Minh Chung (2012), Thơ Hoàng Cầm từ góc nhìn văn hoá, Luận án tiến sĩ

Ngữ văn, Hà Nội.

23. Xuân Diệu (1994), Công việc làm thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

24. Phan Huy Dũng (1999), Kết cấu thơ trữ tình, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trường Đại

học Sư phạm Hà Nội.

25. Thành Duy (1982), Về tính dân tộc trong văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

26. Phạm Đức Dương (2002), Từ văn hoá đến văn học, Nxb Văn hoá - Thông tin,

Hà Nội.

27. Trần Thanh Đạm (31/10/1998), Văn học và văn hoá, Báo Văn nghệ, số 44.

28. Phan Cự Đệ (1982), Phong trào Thơ mới (1932-1945), Nxb Khoa học Xã hội,

Hà Nội.

29. Phan Cự Đệ (1984), Tác phẩm và chân dung, Nxb Văn học, Hà Nội.

30. Phan Cự Đệ (1999), Văn học lãng mạn Việt Nam (1930-1945), Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

31. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, Hà Nội.

32. Nguyễn Đăng Điệp (2003), Vọng từ con chữ, Nxb Văn học, Hà Nội.

33. Phan Cự Đệ- Hà Minh Đức (1979), Nhà văn Việt Nam (1945- 1975), Tập 1, Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

34. Phan Cự Đệ- Hà Minh Đức (1983), Nhà văn Việt Nam (1945- 1975), Tập 2, Nxb

Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.

35. Hà Minh Đức (1977), Thực tiễn cách mạng và sáng tác thi ca, Nxb Văn học, Hà Nội.

36. Hà Minh Đức (tuyển chọn) (1997), Nhìn lại một cuộc cách mạng trong thơ ca, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

37. Hà Minh Đức (chủ biên) (1998), Chặng đường mới của văn học Việt Nam, Nxb

Chính trị Quốc gia, Hà Nội.

38. Hà Minh Đức (2000), Đi tìm chân lý nghệ thuật, Nxb Văn học, Hà Nội.

154

39. Hà Minh Đức (chủ biên) (2000), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

40. Nguyễn Hoàng Đức (tuyển dịch) (2000), Cẩm nang mỹ học nghệ thuật thi ca phê

bình, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội.

41. Trần Thị Minh Đức (1995), Tâm lý học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

42. M.Gorky (1970), Bàn về văn học (2 tập), Nxb Văn học, Hà Nội.

43. Văn Giá (2008), "Để thi ca có được một hình thức mang tính tất yếu", Tạp chí Thơ, số

3.

44. Nguyễn Thiện Giáp (chủ biên) (1996), Dẫn luận ngôn ngữ học, Nxb Giáo dục,

Hà Nội.

45. Lê Bá Hán (chủ biên) (1998), Tinh hoa thơ mới thẩm bình và suy ngẫm, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

46. Hoàng Quốc Hải (2007), Văn hoá phong tục, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

47. Nguyễn Đức Hạnh (2002), Ảnh hưởng của thơ ca dân gian trong thơ ca Việt Nam

hiện đại, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Trung tâm Khoa học Xã hội và Nhân văn

Quốc gia, Hà Nội.

48. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Văn học và văn hoá, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

49. Nguyễn Văn Huyên (1997), Địa lý hành chính Kinh Bắc, Sở Văn hóa - Thông tin

Bắc Giang.

50. Hê ghen (1999) Mỹ học, Tập 1, Nxb Văn học, Hà Nội.

51. Hê ghen (1999) Mỹ học, Tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội.

52. Phùng Minh Hiến (2002), Tác phẩm văn chương một sinh thể nghệ thuật, Nxb Hội

Nhà văn, Hà Nội.

53. Đỗ Đức Hiểu (2002), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

54. Lê Như Hoa (1998), Bản lĩnh văn hoá Việt Nam một hướng tiếp cận, Nxb Văn hoá

- Thông tin, Hà Nội.

55. Nguyễn Thị Ngân Hoa, (2001), "Biểu tượng chiếc áo trong đời sống của người Việt

qua thơ ca", Tạp chí Ngôn ngữ, số 8.

56. Dương Thuý Hồng (2006), "Quan niệm của Nguyễn Đình Thi về thơ", Tạp chí

Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, số 6.

57. Lê Thị Bích Hồng (2006), "Tính nhạc của thơ và thơ phổ nhạc", Tạp chí Diễn đàn

Văn nghệ Việt Nam, số 6.

155

58. Hoàng Thị Huế (2007), Thơ mới nhìn từ góc độ quan hệ văn hoá - văn học, Nxb

Văn học, Hà Nội.

59. Bùi Công Hùng (2000), Tiếp cận nghệ thuật thơ ca, Nxb Văn hóa - Thông tin,

Hà Nội.

60. Đỗ Việt Hùng - Nguyễn Thị Ngân Hoa (2004), Phân tích phong cách ngôn ngữ

trong tác phẩm văn học, Nxb Đại học sư phạm Hà Nội.

61. Nguyễn Thanh Hùng (2001), Hiểu văn dạy văn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

62. Nguyễn Thanh Hùng (2002), Đọc và tiếp nhận văn chương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

63. Nguyễn Thuỵ Kha (1999), Nguồn cảm hứng sáng tác văn học Việt Nam của người

nghệ sĩ, Nxb Phụ nữ, Hà Nội.

64. Trần Thiện Khanh (2007), "Nguyên lý, cấu trúc nhịp thơ", Tạp chí Thơ, số 3.

65. Nguyễn Trọng Khánh (2003), "Con Sông Đuống và không gian tâm tư trong niềm

cảm xúc về một miền quê", Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 5.

66. Khrapchenkô M.B. (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học,

Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội.

67. Khasenco N. (1982), Bản chất cái đẹp, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

68. Võ Vĩnh Khuyến (2005), "Chiều sâu văn hoá trong tâm thức người lính qua bài thơ

“Bên kia sông Đuống” của Hoàng Cầm", Tạp chí Người Kinh Bắc, số 4.

69. Nguyễn Xuân Kính (1994), "Về việc vận dụng thi pháp cao dao trong thơ trữ tình

hiện nay", Tạp chí Văn học và Tuổi trẻ, số 11.

70. Đinh Trọng Lạc (2003), 99 phương tiện và biện pháp tu từ tiếng Việt, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

71. Nguyễn Xuân Lạc (biên soạn) (2003), Hoàng Cầm và giai điệu thơ Kinh Bắc, Nxb

Trẻ Hồ Chí Minh.

72. Phạm Minh Lăng (2004), Freud và phân tâm học, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

73. Mã Giang Lân (1992), "Nhìn lại thơ 30 năm chiến tranh", Tạp chí Văn học, số 2.

74. Mã Giang Lân (2000), Tìm hiểu thơ, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

75. Mã Giang Lân (2004), Văn học Việt Nam 1945 - 1954, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

76. Văn Lâm (2004), "Tiếp biến văn hoá - một ý tưởng để phát triển văn hoá", Tạp chí

Văn nghệ Quân đội, số 7.

77. Nguyễn Ngọc Lâm (2008), "Đôi điều bàn thêm về bài thơ Lá diêu bông của thi sĩ

Hoàng Cầm", Tạp chí Thơ, số 1.

156

78. Hồ Liên (2008), Một hướng tiếp cận văn hoá Việt Nam, Nxb Văn học, Hà Nội.

79. Nguyễn Tấn Long (1996), Việt Nam thi nhân tiền chiến (03 tập), Nxb Văn học, Hà

Nội.

80. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

81. Trần Đình Luyện (chủ biên) (2002), Văn hiến Kinh Bắc, Tập 1, Sở Văn hóa -

Thông tin Bắc Ninh.

82. Trần Đình Luyện (chủ biên) (2002), Văn hiến Kinh Bắc, Tập 2, Sở Văn hóa -

Thông tin Bắc Ninh.

83. Đặng Văn Lung (2004), Văn hoá Thánh Mẫu, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

84. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Khơi dòng lý thuyết, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

85. Phương Lựu (chủ biên) (2002), Lý luận văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

86. Nguyễn Đăng Mạnh (1996), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn,

Nxb Giáo dục, Hà Nội.

87. Nguyễn Đăng Mạnh (2006), Nhà văn Việt Nam hiện đại - Chân dung và phong

cách, Nxb Văn học, Hà Nội.

88. Hoàng Nam (1998), Bước đầu tìm hiểu văn hoá tộc người - văn hoá Việt Nam, Nxb

Văn hoá Dân tộc, Hà Nội.

89. Đặng Bích Ngân (chủ biên) (2002), Từ điển thuật ngữ mỹ học phổ thông, Nxb Giáo

dục, Hà Nội.

90. Phan Ngọc (1994), Văn hoá Việt Nam và cách tiếp cận mới, Nxb Văn hoá - Thông

tin, Hà Nội.

91. Lữ Huy Nguyên (tuyển chọn) (2004), Xuân Diệu - Thơ và đời, Nxb Văn học, Hà Nội.

93. Nhiều tác giả (1976), Mấy vấn đề lý luận văn học, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

94. Nhiều tác giả (1980), Lịch sử văn học Việt Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

95. Nhiều tác giả (1986), Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp (1945 -1954),

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

96. Nhiều tác giả (1986), Lịch sử Hà Bắc, Tập 1, Hội đồng lịch sử Hà Bắc.

97 Nhiều tác giả (1997), Văn nghệ dân gian Bắc Giang, Tập 3, Hội Văn học nghệ thuật

Bắc Giang.

157

98. Nhiều tác giả (2000), Phác thảo chân dung văn hoá Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

99. Nhiều tác giả (2002), Nhìn lại văn học Việt Nam thế kỷ XX, Nxb Chính trị Quốc

gia, Hà Nội.

100. Nhiều tác giả (2002), Thơ mới - Tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

101.Nhiều tác giả (2004), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước, Nxb Văn học, Hà Nội.

102. Nhiều tác giả (2005), Từ điển bách khoa Việt Nam, Nxb Từ điển bách khoa, Hà

Nội.

103. Nhiều tác giả (2006), Văn nghệ dân gian Bắc Giang, Tập 2, Hội Văn học nghệ

thuật Bắc Giang.

104. Otle Arist (2007), Nghệ thuật thy ca, Nxb Lao động, Hà Nội.

105. Vũ Ngọc Phan (1989), Nhà văn hiện đại, Tập 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

106. Hoàng Phê (chủ biên) (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.

107. Duy Phi (biên soạn) (2001), Di sản Văn học Kinh Bắc, Nxb Văn hoá Dân tộc,

Hà Nội.

108. Duy Phi (2008), Bắc Giang - Danh nhân cảo luận, Nxb Văn học, Hà Nội.

109. Huỳnh Như Phương (2004), Trường phái hình thức Nga, Nxb Đại học Quốc gia

Thành phố Hồ Chí Minh.

110. Vũ Quần Phương (2007), "Thơ kháng chiến chống Pháp", Tạp chí Thơ, số 3.

111. Rôdentan M. và Iuđin P. (chỉ đạo) (1957), Từ điển Triết học, Nxb Sự thật, Hà Nội.

112. Đặng Đức Siêu (1998), Ngữ liệu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

113. Chu Văn Sơn (1995), Ấn tượng Hoàng Cầm (In trong cuốn Tác phẩm chọn lọc),

Nxb Văn học, Hà Nội.

114. Trần Đình Sử (biên soạn) (1993), Giáo trình thi pháp học, Nxb Đại học sư phạm

Thành phố Hồ Chí Minh.

115. Trần Đình Sử (biên soạn) (2001), Thi Pháp Truyện Kiều, Nxb Văn hoá - Thông

tin, Hà Nội.

116 . Trần Đăng Suyền (2001), Nhà văn hiện thực đời sống và cá tính sáng tác, Nxb

Văn học, Hà Nội.

117. Hà Công Tài (1996), Ẩn dụ và đặc trưng hình thể trong ngôn từ thơ ca, Trung tâm

Khoa học Xã hội và Nhân văn Quốc gia, Hà Nội.

158

118. Nguyễn Trọng Tạo (2001), Chuyện ít biết về văn nghệ sĩ, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội.

119. Trần Nhựt Tân (2004), Đi tìm thông điệp của nàng thơ, Nxb Thanh niên, Hà Nội.

120. Khổng Đức Thiêm - Nguyễn Đình Bưu (2004), Phương ngôn xứ Bắc, Sở Văn

hoá - Thông tin Hà Bắc.

121. Trần Ngọc Thêm (1999), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

122. Ngô Đức Thịnh (chủ biên) (1993), Văn hoá vùng và phân vùng văn hoá ở Việt

Nam, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

123. Trần Quốc Thịnh (2004), Danh nhân lịch sử Kinh Bắc, Nxb Lao động, Hà Nội.

124. Trần Quốc Thịnh (2004), Văn hoá truyền thống làng xã huyện Yên Dũng, Nxb

Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

125. Hoàng Trung Thông (chủ biên) (1979), Văn học Việt Nam chống Mỹ cứu nước,

Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.

126. Vũ Duy Thông (2000), Cái đẹp trong thơ kháng chiến Việt Nam 1945 - 1975, Nxb

Giáo dục, Hà Nội.

127. Lưu Khánh Thơ (2005), "Thơ chống Mỹ trong tiến trình thơ Việt Nam hiện đại",

Tạp chí Văn nghệ quân đội, số 5.

128. Đặng Thu Thuỷ (2008), "Sự vận động quan niệm thơ và nhà thơ thời kỳ đổi mới",

Tạp chí Văn học, số 7.

129. Đỗ Lai Thuý (1992), Hồ Xuân Hương hoài niệm phồn thực, Nxb Văn hoá - Thông

tin, Hà Nội.

130. Đỗ Lai Thuý (biên soạn) (1992), Con mắt thơ, Nxb Lao động, Hà Nội.

131. Đỗ Lai Thuý (1998), "Hoàng Cầm, Nguyễn Bính và…", Tạp chí Văn học, số 5.

132. Đỗ Lai Thuý (biên soạn) (2004), Phân tâm học và văn hoá tâm linh, Nxb Văn hoá

- Thông tin, Hà Nội.

133. Đỗ Lai Thuý (biên soạn) (2004), Phân tâm học và văn học nghệ thuật, Nxb Văn

hoá - Thông tin, Hà Nội.

134. Đỗ Minh Thuý (1997), Mối quan hệ giữa văn hoá và văn học, Nxb Văn hoá dân

tộc, Hà Nội.

135. Nguyễn Chí Tình (1998), "Đôi điều tìm hiểu về tiếp biến văn hoá", Tạp chí Văn

nghệ Quân đội, số .

159

136. Nguyễn Đức Tồn (2002), Tìm hiểu đặc trưng văn học dân tộc của ngôn ngữ và tư

duy ở người Việt, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội,

137. Nguyễn Trọng Hoàn, Lê Quang Trang (1998), Những vấn đề văn hoá Việt Nam

hiện đại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.

138. Lê Ngọc Trà (1990), Lý luận văn học, Nxb Trẻ Thành phố Hồ Chí Minh.

139. Nguyễn Trãi (1960), Dư địa chí, Nxb Sử học, Hà Nội.

140. Võ Gia Trị (1999), Nghệ thuật văn chương và chân lý, Nxb Văn học, Hà Nội.

141. Võ Gia Trị (2001), "Trăm năm thơ ca", Tạp chí Nhà văn, số 4.

142. Võ Gia Trị (2001), Văn chương và nghệ sĩ, Nxb Văn học, Hà Nội.

143. Hoàng Trinh (1992), Từ ký hiệu học đến thi pháp học, Nxb Văn học, Hà Nội.

144. Giáng Vân (2007), "Một số suy nghĩ về thơ", Tạp chí Thơ, số 5.

145. Chế Lan Viên (1981), Nghĩ cạnh dòng thơ, Nxb Văn học, Hà Nội.

146. Hoài Việt (sưu tầm và biên soạn) (1997), Hoàng Cầm, thơ văn và cuộc đời, Nxb

Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.

147. Hồ Sĩ Vịnh (1998), Văn hoá ngọn nguồn của văn học, Báo Văn nghệ, số 36

(ngày 25/7).

148. Đỗ Anh Vũ (2008), "Sự phát triển dung lượng dòng thơ Việt Nam", Tạp chí

Ngôn ngữ, số 1.

149. Trần Quốc Vượng (1996), Theo dòng lịch sử, Nxb Văn hoá - Thông tin, Hà Nội.

150. Trần Quốc Vượng (1998), Việt Nam cái nhìn địa - văn hoá, Nxb Văn hoá Dân tộc,

Hà Nội.

151. Trần Quốc Vượng (2000), Văn hóa Việt Nam - tìm tòi và suy ngẫm, Nxb Văn học,

Hà Nội.

152. Trần Quốc Vượng (chủ biên) (2008), Cơ sở văn hoá Việt Nam, Nxb Giáo dục, Hà

Nội.

153. Saussure F.de. (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học Xã hội, Hà

Nội.

154 Các Mác- Ph. Ăngghen (1962), Bàn về ngôn ngữ học, Nxb Sự thật, Hà Nội.

160

II. PHẦN TIẾNG ANH

155. Barry Tomalin and Susan Stemplesky, (1993), Cultural a warreness, Oxford

University Prees.

156. Jean Paul Satre, (1960), We write for our time (The creative vision of modern

European witers on their art), Edited by Haskell. M. Block Harman.

157. Hong Dương Anh, (2008), Smithsonian Folklife Festival 2007 and the

Presentation of Cultural Diversity in America, Unbiversity of Maryland,

College Park, pp. 96.

158. Max Lemer, (1961), America as a Civilization, Simon and Schuster, pp. 93- 96.

159. Shaun Kingsley Marmay, (2003), Culture, ritual and revolution in Viet Nam,

Routledge Curzn, London.

160. UNESCO, Universal Declaration Cultural Diversity, Article 7, pp. 97.