ISSN 1859-1531 - TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGH - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 4, 2025 91
VĂN HÓA MIỀN NÚI TRONG TẢN VĂN ĐỖ BÍCH THÚY
NHÌN T PHÊ BÌNH CNH QUAN
MOUNTAIN CULTURE IN DO BICH THUY'S ESSAYS
FROM THE PERSPECTIVE OF LANDSCAPE CRITICISM
Trn Th Vân Anh, Bùi Bích Hnh*
Trường Đại học Sư phạm - Đại học Đà Nẵng, Vit Nam
1
*Tác giả liên hệ / Corresponding author: bbhanh@ued.udn.vn
(Nhận bài / Received: 05/2/2025; Sửa bài / Revised: 14/4/2025; Chấp nhận đăng / Accepted: 16/4/2025)
DOI: 10.31130/ud-jst.2025.204
Tóm tt - Phê bình cnh quan hiện đại là hưng nghiên cu liên
ngành gi m nhiu tiềm năng giải mã tác phm, xem cnh quan
trong văn học như một đối tượng thẩm chứa đựng quan nim
sáng tác, tư duy nghệ thut của nhà văn. Cảnh quan trong tản văn
Đỗ Bích Thúy phn lớn hướng v vùng cao, đậm đà bản sắc văn
hóa ca các dân tc thiu s. Các yếu t văn hóa được tri nhn
i nhiều góc đ: t không gian thiên nhiên hùng vĩ, nên thơ,
kiến trúc nhà đặc trưng phù hợp với điều kiện địa hình đến cnh
quan sinh hot thm nhun các giá tr phong tc, tp quán. Cnh
quan không ch không gian vt t nhiên còn cha đựng
nhng giá tr sâu sc v văn hóa, lịch s, xã hi tâm thông
qua thế gii biểu tượng. Tản văn Đỗ Bích Thúy là ng liu quan
trọng để thu hút các nghiên cu vn dng thuyết cnh quan
nhm kiến gii tác phm ngh thut t nhng góc nhìn mi.
Abstract - Contemporary landscape criticism is an interdisciplinary
approach that opens up diverse possibilities for interpreting literary
works, treating landscape as an aesthetic object that reflects the
author’s creative vision and artistic mindset. In Do Bich Thuy’s
essays, landscape is predominantly oriented toward the highlands,
imbued with the rich cultural identity of ethnic minority communities.
Cultural elements are perceived from multiple perspectives: from the
majestic and poetic natural environment, to distinctive architecture
adapted to mountainous terrain, and to living spaces deeply infused
with traditional customs and practices. Landscape is not merely a
physical space; it also embodies profound cultural, historical, social,
and psychological values through a symbolic world. Do Bich Thuy’s
essays serve as valuable material for studies that apply landscape
theory to the interpretation of literature from new vantage points.
T khóa - Đỗ Bích Thúy; miền núi; văn hóa; phê bình cnh quan;
tản văn
Key words - Do Bich Thuy; highlands; culture; landscape
criticism; essays
1. Đặt vấn đề
Đối với nhà văn, việc tìm được cho mình mt “khong
trng” phù hợp để to sinh con ch khát vng thành thc.
Không ít nhà văn thử sc vi nhiều đ tài vn loay hoay
chưa bt đưc tính sáng to, nhưng những trường hp
t khi mi cầm bút, đã sớm đào “trúng” mạch ngun văn
chương. Đỗ Bích Thúy là một trường hp như vậy. N nhà
văn người Kinh nhưng sinh ra và lớn lên tại thung ng của
ngưi Tày tnh Giang nên sớm được tiếp xúc vi v đẹp
cảnh quan, con ngưi và thm nhun nền văn hđậm đà
bn sc dân tc thiu s. Đề tài min núi tr thành ngun
cm hng dồi dào để Đỗ Bích Thúy nuôi ln những ý tưởng
văn chương. Mc dù, “nàng thơ của Tây Bc” đưc biết
đến nhiu qua s trường truyn ngn, tiu thuyết song
nhng sáng tác th tản văn ng đánh du duy ngh
thut tính sáng to của nhà văn. Đã một s công
trình nghiên cứu quan tâm đến văn chương ca Đỗ Bích
Thúy t đặc trưng thể loại, góc nhìn đa - văn hóa, nữ quyn
sinh thái… song hu hết tp trung vào các khía cnh ca lí
thuyết cảnh quan mà chưa khai thác toàn din và chuyên
sâu các loi hình hoặc các trường hp sáng tác, đc bit
th tản văn. Trong khi đó, phê bình cnh quan trong
văn học Vit Nam đang hướng tiếp cn thú v, gi m
nhiu tiềm năng khai thác. Cnh quan min núi trong sáng
tác ca Đỗ Bích Thúy không đơn thuần ch phông nn
tái hiện đi sống con ngưi vùng cao mà bản thân nó đã là
1
The University of Danang - University of Science and Education, Vietnam (Tran Thi Van Anh, Bui Bich Hanh)
một đối tượng thẩm mĩ, chứa đựng quan nim ca ch th
sáng to; không ch là cảnh quan thiên nhiên hùng vĩ, nên
thơ mà còn là “thực th văn hóa do con người tạo ra” [1, p.
20]. Do đó, vic vn dng lí thuyết cnh quan đ khám phá
khía cnh di sản văn hóa phong phú và đa dạng được trình
hin trong các tp tản văn của Đỗ Bích Thúy là một hướng
đi mới, “đ xut một phương thức nhn thc thế gii, biu
l mt h thng cnh quan kinh nghiệm văn hoá độc
đáo, đy sức hút” (dẫn theo [2, p. 121]).
2. Ni dung
2.1. Cnh quan thiên nhiên và du ấn văn hóa
Carl Sauer, nhà địa người , đã đưa ra khái nim
“cảnh quan văn hóa”, nhn mnh rng cnh quan không ch
là mt thc th t nhiên mà còn là sn phm do con người
to ra. “Cảnh quan văn hóa đưc hình thành t cnh quan
thiên nhiên bi một nhóm văn hóa. Văn hóa tác nhân,
khu vc t nhiên là phương tiện, cảnh quan văn hóa là kết
quả” [3, p. 343]. Ông cho rng, con người thông qua lao
động và văn hóa đã tác động, biến đổi t nhiên, to nên mt
không gian phản ánh văn hóa, lịch s, và cách sng ca h.
Khi đi vào các tác phẩm văn học, cnh quan thiên nhiên
không ch bi cnh cho các nhân vt bc l tưởng,
cm xúc luôn n cha nhng giá tr v phong tc, tp
quán, tri thc dân gian, sinh hot cng đng gn vi tri
nghim ca chính tác gi. Cnh quan trong tác phẩm văn
92 Trn Th Vân Anh, Bùi Bích Hnh
học đảm nhim vai trò thông điệp v văn hóa. Điu này
đưc th hin rõ qua các tản văn v min núi của Đỗ Bích
Thúy. La chọn được mảng đề tài không quá nhiều người
khai thác, n nhà văn tn tụy lao động trên mảnh đất văn
chương còn nhiu “khoảng trng” đó. Vi tấm lòng đau
đáu của người làm ngh thuật được “trở v vùng cao”, nhà
văn tâm huyết nói vi bn đọc v mt vùng đất “đã hóa tâm
hn”, n náu nhiu giá tr văn hóa đặc sc.
Sáng tác của Đỗ Bích Thúy m ra mt không gian thiên
nhiên hữu tình, nên thơ; đậm du n bn sc vùng min.
Cnh quan mỗi địa hình khu vc min núi Tây Bc li
vy gọi” bạn đọc khám phá nét đặc trưng văn hóa riêng
gn vi tri thc dân gian và s lao đng, sáng to ca các
đồng bào thiu s. Chng hạn, dưới thung lũng, địa hình
sông sui vi nguồn nước di dào, phát trin trồng lúa nước
hoa màu, đánh bắt cá, làm nương rẫy. Đỗ Bích Thúy đã đưa
cái nhìn “tự thuật” vào trong sáng tác ca mình, đó, bn
đọc cm nhn câu chuyn đời sng riêng ca tác giả, người
k chuyn, ng đồng bào người Tày đã sử dng hiu qu
dòng chy t sông, sui đ phát trin trng lúa, th
rung, to ngun thc phm theo mùa v. Hình nh dòng
sông đã trở đi trở li trong nhiu tản văn, tr thành biu
ng thẩm mĩ. Đối với dân nơi đây, dòng sông không
ch cung cp nguồn nước, “mang phù sa thơm nồng tràn
vào nhng tha rung thp theo nhng con sui nhỏ” [4, p.
54] tr nên thân thuộc như mt thành viên trong ngôi
làng, “thân thuộc như thể luôn chy trong tôi, hoc
như thể tôi đã luôn đẫm mình trong nó suốt bao tháng năm
qua” và “cuc sng của cư dân bên cnh nhng dòng sông
luôn d chịu, êm đềm, tĩnh lặng” [5, p. 30]. Đỗ Bích Thúy
luôn cho thy s gn kết cht ch giữa con ngưi thiên
nhiên. Viết v dòng sông nhưng cũng là để liên tưởng đến
s vận động không ngng ca dòng chy cuộc đời, mà
đó, dòng sông đưc xem là yếu t khi ngun ca s sng,
cu ni giữa con người và đt tri. Tác phm Cái chu
g dòng sông đã cho thấy rt mi liên h mt thiết
này. Mt đứa khi mới sinh được ni ra sông múc
c v ra mt vi mong mun nhận được s trong lành,
mnh m sc sng t t nhiên. Khi trong nhà tang,
người thân cũng ra sông múc c v ra mt với ý nghĩa
thanh tẩy, giúp họ rũ bỏ bụi trần, rời khỏi thế gian một cách
thanh thản trong sạch. Nước sông được coi n“nước
thiêng” giúp dẫn dắt linh hồn người mất trở về với tổ tiên
hoặc a mình vào thiên nhiên. “Sự thiêng liêng hóa những
nguồn nước phổ biến… chúng là biểu hiện đầu tiên của
vật chất trụ bản, không chúng thì không thể bảo
đảm được sự sinh sản và trưởng thành của muôn loài [6,
p. 650]. Tác giả đặc biệt chú ý đến cảnh quan sông các
biến thể của nó trong tản văn bởi biểu tượng này không chỉ
phản ánh trực tiếp đời sống vật chất và tinh thần của người
dân miền núi còn ý nghĩa quan trọng trong kí c,
tình cm, k nim của chính nhà văn. S tn ti ca dòng
sông “in dấu ca biết bao cuộc đời” [7, p. 112]. Thông
qua hình ảnh dòng sông, người đọc hiểu thêm được quan
nim v đi sng tâm linh, lòng tôn kính vi nhng giá tr
truyn thng s gn bó, gần gũi với thiên nhiên của đng
bào thiu s ới thung lũng.
Nhân vt trong tản văn Đỗ Bích Thúy cũng thưng đưc
đặt trong bi cnh không gian rng - i được coi là “nguồn
sng cho c làng” [8, p. 93]. Nếu như ở miền xuôi, “tấc đất
tấc vàng”, đất đai là tài nguyên quan trọng để con người xây
nhà dng ca, sinh sng, làm vic thì min núi, mi sinh
hot ca dân đều gn vi rng như: đốn cây dng nhà,
nht ci v nấu ăn i m, lên rng hái thuốc, đào
măngNgười n đồng bào thiu s gn bó c một đời
ngưi vi rng. T khi sinh ra, ln lên y dựng gia đình
riêng, đến lúc chết đi cũng trở v vi rng. Trong sáng tác
Đỗ Bích Thúy, rng biểu ợng ý nghĩa giàu sc ám
nh, là nơi con người hc cách hòa hp vi thiên nhiên. Địa
hình ro cao him tr, núi, đồi, rng, ry xen k không bng
phẳng, giao thông đi lại khó khăn, người dân tn dng ngun
tài nguyên rng để phc v đi sng sinh hot. Rng trong
tản văn của Đỗ Bích Thúy còn được kiến tạo như một thc
th phn ánh tính cách, tâm hồn ngưi dân min núi. Con
ngưi nơi đây không hoàn cảnh khó khăn gục ngã. Sau
nhng cht vt tổn thương, họ luôn dũng cảm đối mt tích
cực vươn n, như những cánh rừng “đều không vì tng b
tàn phá không hồi sinh. Hơn thế, chúng hi sinh mnh
m đến tht khó hình dung. Chúng khát khao đưc sng mt
cách khe mnh và rng rỡ, tươi mới mi ngày và luôn tràn
đầy năng lượng tích cc” [5, p. 47].
Khi tri nghim cnh quan thiên nhiên miền núi, Đỗ
Bích Thúy luôn có xu hướng khám phá nhng va tầng văn
hóa. Do vy, mi khu vc min núi phía Bc xut hin
trong tản văn đều nhng cảnh quan đặc trưng thể hin
du n văn hóa đa dng ca các dân tc thiu s. Nếu như
địa hình thung lũng với cảnh quan đặc trưng là nhiu sông
suối, địa hình ro cao “bên trái là vách núi, bên phải là vc
sâu, thnh thoảng chúng đổi ch cho nhau” [9, p. 62] thì địa
hình sườn núi ni bt vi hình nh nhng rung bc thang.
dân thích nghi với điều kin t nhiên, ci tạo môi trường
để sinh sống, đồng thi to nên nhng cảnh quan văn hóa
tiêu biu. “My chục năm rồi người Mán vn sng sau
núi, cách xa th xã, cách xa người Kinh… canh tác theo
kiu trng sắn quanh nương đ va làm hàng rào va ly
c, còn gia trng ngô, các loại đậu hoặc gieo lúa nương”
[5, p. 31]. Điu này ghi du s sáng tạo trong lao động kết
hp vi tri thc dân gian ca cư dân bản địa trong vic tn
dụng điều kin t nhiên đ thay đổi phương thức sn xut
cho phù hp. Sau mỗi mùa mưa đất đai bạc đi một chút,
“người Dao lại địu phân bón ngưc lên, b vào mi gc
ngô gc lúa bù vào ch mất mát đó” [4, p. 185]. Địa hình
n i khá dốc, “mặt tri luôn mọc trên đỉnh đầu h và
lặn dưới gót chân họ” [4, p. 183] nên những người đàn ông,
đàn bà Dao phi dy rt sớm để leo lên trin núi, trng lúa
nương. Cảnh quan thiên nhiên hun đúc cho con người bn
tính chăm ch, cn cù, chịu thương chu khó. Biết bao thế
h người đã sinh sng theo khu vực như vy hết đời này
sang đời khác, h chp nhn và nuôi dưỡng thành nim lc
quan, bng lòng vi cuc sng hin ti. H sng hn nhiên
như cây c gia núi rừng, lao động mt thì nm ng lưng
ngay trên vt c, thnh thoảng yêu đời li ct tiếng hát.
Ngoi giới đã trở thành yếu t quan trọng quy định phương
thc sn xut, ảnh hưởng tới đời sng sinh hoạt, văn hóa
của con ngưi.
Thiên nhiên min núi trong tản văn Đỗ Bích Thúy
không ch là v đẹp ca to hóa, là d phn không tách ri
trong đời sng, còn định hình văn hóa lối sng ca
ISSN 1859-1531 - TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGH - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 4, 2025 93
các dân tc thiu s. Nghĩa giữa con người vi thiên
nhiên mi quan h mt thiết, trong tâm thế thích nghi
với các điều kin t nhiên; đồng thời chính môi trường t
nhiên ng được ci to, tương tác tr li bởi con ngưi.
John Wylie cho rằng: “Cảnh quan quc gia, khu vc hoc
địa phương đặc trưng biểu hin ca nhng phn ng
s điu chnh của con người đối với môi trường t nhiên
trong thi gian dài - mt cách hiu v văn hóa” [1, pp. 9-
10]. Do đó, đằng sau mi cnh quan thiên nhiên min núi
trong tản văn Đỗ Bích Thúy đều mang du n ca mt vùng
văn hóa, xut phát t tình yêu s am hiu ca chính
ngưi sáng tạo đắm say với không gian văn hóa núi rng.
2.2. Kiến trúc truyn thng và tri thc bản địa
Tản văn Đ Bích Thúy nmt bc tranh phn chiếu
đa diện. Trên nn của không gian thiên nhiên hùng vĩ, tr
tình v đẹp ca nhng kiến trúc truyn thng phn ánh
li sng, phong tc tri thc bản địa của đng bào vùng
núi phía Bc Vit Nam. Nếu như văn học là mt hình thc
tinh chnh giàu tưởng tượng ca ngôn t [10] thì kiến
trúc cnh quan là s định hình có ch ý ca môi trường t
nhiên, mt hình thc ngh thuật đặc biệt, nơi yếu t t
nhiên đưc chnh sa kiến to bi tham d ca con
ngưi. Kiến trúc nhà mang nhng du n đặc trưng của
từng đồng bào thiu s, thích hp vi điều kin t nhiên
như đa hình, khí hậu… tạo nên s đa dng cảnh quan, đa
dạng văn hóa. Chng hn, nhng tản văn v ngưi Mông,
Dao… sinh sống trên sườn núi hoặc đỉnh núi thường xut
hin kiểu nhà trình tường. Đây là cách tác giả trưng bày s
hợp lưu văn a, tộc người trong một không gian văn hóa
thiu s dung hp mà riêng bit. Nhà được to nên bi
nhng bức tường dày, bn chc bằng đt nn mà không cn
dùng xi măng hay gch nung. Tri qua bao nhiêu thế h
sinh sng, cư dân am hiểu v điu kin thi tiết khc nghit
vùng núi cao nên xây kiu nhà này giúp kín gió, cách
nhit tt, gi ấm vào mùa đông, mát vào mùa hè. Nhà trình
tường không ch là sn phm của lao động cá nhân mà còn
có ý nghĩa với c cộng đồng bi qtrình làm nhà đòi hỏi
s kiên trì, t m chung tay ca c tp th. Cnh quan nhà
phn ánh s lao động, sáng to và tri thc bản địa trong
vic tn dng tài nguyên sn có để định hình nên cnh quan
văn hóa. Nhà ch mt ca ra vào, mái lp ngói âm
dương, mỗi căn buồng đều tr mt ô ca sổ. Nhưng ô nào
cũng xíu” [9, p. 236]. Đỗ Bích Thúy gii kiến trúc
nhà như vy có th vì mt lí do tâm linh nào đó, nhưng ch
yếu là đ che chn tốt hơn khỏi thi tiết gió rét, mưa nhiu.
Ô ca nh trong căn phòng tối om mt biểu tượng ngh
thut. V chng A Ph ca Tô Hoài hay Lặng yên dưới vc
sâu của Đỗ Bích Thúy đều khc ha ô ca s như một biu
ng ca s đối lp gia không gian ngt ngt, bc bi
trong căn buồng vi thế gii mênh mông, rng ln, t do
ngoài kia. Trong tản văn Bên trong ô ca s, Đỗ Bích Thúy
đã chia sẻ u chuyn mt din viên n vào vai nhân vt
trong tác phẩm được chuyn th thành phim ca ch đã cảm
thy áp lc, bc bối như thế nào khi ngồi trong căn bung
ti duy nht ngun sáng t nhiên t ô ca s ht vào,
hn diễn viên đã đt mình trong tâm thế, cm xúc trung
thc ca nhân vt trong tiu thuyết. Nhưng thc tế cũng
không hẳn bi quan, con người min núi vn bản lĩnh,
kiên cường, mnh mẽ. “Những ô ca trong ngôi nhà ca
ngưi Mông l ng mang tới bao nhiêu ưc cho các
gái nhỏ” [9, p. 239], bi qua ô ca s, h nghe thy tiếng
sáo ca bn tình, h thấy le lói ánh trăng hắt vào ô ca
ng bao nhiêu ý nghĩ đẹp đẽ v mt thế gii rng ln
ngoài kia. “Xét cho cùng ô ca kia to hay nh chng quan
trng gì mấy. Điều đáng nói là khi ngồi n trong nó nhìn
ra thì ngưi ta nuôi những ước mơ gì mà thôi” [9, p. 240].
Như vy th thy cùng mt kiến trúc cảnh quan nhưng
m ra rt nhiu góc nhìn, quan điểm gn vi tri nghim
cm xúc ca tng ch th nhn thc. Chính điều này mang
li quan nim riêng bit v t nhiên, địa văn hóa con
ngưi trong dung môi cnh quan, th hin phong cách ca
nhà văn với cm thc thiên nhiên sâu sc cũng như cách x
lí t nhiên, mi quan h gia t nhiên con người mang
du n cá tính sáng to.
Không gian min núi phía Bắc là nơi cư ng ca nhiu
dân tc thiu s, mỗi đồng bào li bn sắc đặc trưng
riêng to nên s đa dạng văn hóa. Nếu như dân Mông,
Dao trên đỉnh núi xây dng kiến trúc nhà trình tường bng
đất nn thì ới thung lũng, người Tày li ch yếu xây
dng nhà sàn. Đỗ Bích Thúy miêu t nhà sàn ca người
Tày thường làm i chân núi, gn sông sui, vì h canh
tác trên ruộng lúa nước. Nhà sàn đưc dng trên các ct
cao giúp tránh m thp, đối pvi hiện tượng ngập lũ,
ngăn chặn các loi côn trùng như ruồi, mui, rn, rết. Chân
cột đá tảng để chng mi mọt, dưới gm sàn nuôi gia
súc. Kiu kiến trúc ph biến này cho thy không gian sinh
hoạt đậm cht miền núi, đồng thời cũng phản ánh s thích
nghi khéo léo của con người trong vic s dng không gian
sng phù hp với địa hình và khí hu. Nhng ngôi n
dng bng g lim, có khi hàng trăm năm tui, mái lp bng
cọ, “lớp n chng lên lớp kia dày hàng gang tay. Năm
này qua năm khác, cái mái mục nát, nhưng vn gn vi
nhau thành tng dày, nng trịch trên cao” [4, p. 191]. Trong
tác phẩm văn học, cnh quan mang tính la chn, khi nhà
văn đặt để s quan tâm ca mình v điu thì nhng chi
tiết ấy được miêu t càng hơn. Bng nhng tri nghim
thc tế, tác gi đem lại cái nhìn chân tht, nét v cnh
quan được la chn trình hin trong tác phm. Đỗ Bích
Thúy đc bit chú ý đến nhng chi tiết miêu t mái nhà sàn.
Tác gi giải thích mái nhà sàn được lp bng lá c thường
rt dày kín để gi ấm vào a đông, mát vào mùa hè,
độ bn cao, tri qua my đi mi thay mái c, mà khung
nhà thì vn gi nguyên. Cách thc ngưi dân bản địa ly
đưc lá c ng phi thc hin rt nhiều công đoạn t cht
lá, chn cho đến lợp mái. “Người ta phi leo lên ngn
cây c cao ti bảy, tám mét… phi cht t cành, ch sát
với thân… phi dùng dao rt sc, cht mt phát, ngt lm,
cành lìa khỏi thân, rơi xuống đất. Lúc đó, người ới đất
mi chặt riêng lá” [4, p. 191]. Nời Tày thường sinh sng
theo làng, bản, do đó khi mt nhà cn lp mái thì nhng
nhà xung quanh s cùng vào rng h tr. H làm vic cùng
nhau, nhà này giúp đ nhà khác, người ln cht c, tr
con chơi đùa xung quanh, “đàn đứng dưới để c tàu
c ra làm đôi, xếp thành tng mớ”, đàn ông “đng trên mái
để lp, một lượt na trái li một lượt na phi” [4, p. 193]
to nên khung cảnh đầm m, gn tình cảm như những
lp c trải qua bao nhiêu năm, du mc nát vn gn kết
vi nhau. Ngoài ra, sàn ca những ngôi nhà được lát ván
g hoc nhng thân vu già. “Lâu ngày, bao nhiêu bước
chân qua lại, chúng bóng loáng lên[11, p. 70]. Ngôi nhà
94 Trn Th Vân Anh, Bùi Bích Hnh
không phi ch nơi để mà còn là nơi cất gi nhng k
nim của đời người, t quãng ấu thơ chp chng tập đi,
ngi bên ca s ngóng m đi làm về cho đến khi tr thành
những người đàn làm vợ, làm m xây dng t m, tr
thành người đàn ông trụ ct của gia đình. Không gian nhà
biểu tượng ca gn kết các thế h gia đình chung sng,
bo tn giá tr truyn thng và phong tục lâu đời.
D dàng nhn thy cảnh quan chưa bị ảnh hưởng quá
nhiu bi quá trình hiện đại hóa, càng gi đưcnét nhng
du n văn hóa qua nhiều thế h. Trong mt thi gian dài,
các di sản văn hóa “được xem sn phm ca quá kh, phn
ánh th hin các giá tr, nim tin, tri thc... mang nh
truyn thng, thuc v quá khứ” [12]. Cách hiu như vậy
hình trung gii hn giá tr ca các di sản văn hóa mà bỏ qua
các chiu cạnh mang tính đương đại. Chng hn, truyn ngn
Tiếng đàn môi sau bờ rào đá của Đ Bích Thúy tái hin kiến
trúc nhà của người Mông và rõ hơn khi được chuyn th
thành phim Chuyn ca Pao. Ngày nay, mt trong nhng
điểm đến không th b qua khi du lịch Hà Giang, đó là “nhà
của Pao” - cũng là bối cnh chính trong b phim. Ngôi nhà
đưc xây dng theo kiến trúc truyn thng của ngưi Mông
với tường đất, mái ngói âm dương, phản ánh cuc sng và
văn hóa người Mông vùng cao. Như vậy, kiến trúc nhà
không phi biu tượng văn hóa thuộc v quá kh, cn
đưc bo tn mà là ngun lực vô giá đáp ng nhu cu phát
trin hin ti, d báo đến tương lai của dân tc thiu s nói
riêng và ca Vit Nam nói chung.
Khi tri nghim cnh quan, không ch các giác quan ca
ch th sáng to được đánh thức song hành vi ch
nhìn nhn v mi th theo những quan điểm c th - “nhng
quan điểm mà chúng ta đã đưc xã hi hóa và giáo dc” [1,
p. 4]. Cnh quan kiến trúc được trình hin trong sáng tác ca
Đỗ Bích Thúy ít nhiu mang thiên tính n, th hin quan
nim của nhà văn về con người, không gian, văn hóa min
núi. Trong các tn văn, không gian bếp gn vi hình nh
ngưi ph n thường xuyên xut hin. Người xưa câu:
“Xem trong bếp, biết nếp đàn bà” hay “Đàn ông coi nhà, đàn
coi bếp”, một phn nhn mnh vai trò, v tcủa người
ph n trong gia đình. Qua không gian bếp, nhà văn đã phát
hin phong tc rất đặc trưng của những người đàn miền
cao khi chn con dâu, đó da vào cách nhìn các gái
chm lửa, đun bếp để biết người đó khéo hay không. Thói
quen ca ngưi min núi luôn để mt gc ci to trong bếp,
than hng trong gc ci không cháy quá nhanh cũng không
d tắt để gi ấm cho căn bếp, và có th nhanh chóng nhúm
lên ngn la khi nấu ăn. Với Đỗ Bích Thúy, đây là chi tiết
giàu biu ý, th hin nim tin tình cm của người min
núi bi bếp lửa được xem s sng, ánh sáng ca ngôi
nhà. Bếp người y không bao gi tt la, cũng như tình u
cuc sng ca h không ngùn ngt cháy, song âm m nóng
trong tim. H không bao gi đ bếp b tt lửa“họ tin rng
ngn la trái tim ca ngôi nhà. cn phi luôn tn ti dù
ch là một viên than đỏ được vùi dưới tro” [5, p. 6] hay “bếp
ch nguội khi người không còn, ngưi b cuộc đời người đi”
[8, p. 65]. Căn bếp không ch nơi ngưi ph n th hin
vai trò ca nh trong ngôi nhà, vun vén nh yêu thương
cho chng con còn là nơi gn kết các thành viên trong
gia đình. Biểu tượng căn bếp đã trở đi trở li trong nhiu tn
văn Đỗ Bích Thúy; va là không gian vật lí, nơi con người
kiến to cnh quan nhm phc v đời sng hàng ngày, va
mang ý nghĩa biểu tượng cho tinh thần, nh cảm của con
người vùng cao. Tản văn ca y t n y đã mở ra cho
người đọc khám phá nhng du ấn văn hóa đặc trưng t cnh
quan kiến trúc của người dân min núi. Qu thc khi viết v
cnh quan ca một vùng đấto đó tyếu t văn hóa là ngữ
liệu đặc sc không th b qua, th hiện quan điểm ca nhà
văn; đồng thi có sc hp dẫn đối vi bn đọc.
2.3. Cnh quan sinh hot và phong tc tp quán
Khái niệm “cảnh quan” mang bản cht kép, va là hin
ng khách quan; va nhn thc ch quan của con người
v . Theo hướng này, nghiên cu cảnh quan “cn suy
ngm v vic ánh nhìn ca ta, cách ta quan sát thế gii, luôn
mang theo nhng giá tr, thái độ, h tư tưởng và k vọng văn
hóa nhất định” [1, p. 7]. Đ Bích Thúy li thế khi sm
chọn được cho mình một “mảnh đất để đi về trong văn
chương, mảnh đất y li giàu bn sắc văn hóa, dồi dào cht
liu sáng tác mà hết đời cũng không khai thác hết. Nhà văn
cái nhìn của người đứng ngoài quan sát vì ch không phi
“người con” của đồng bào thiu s, nhưng cũng cái
nhìn t bên trong đã khoảng thi gian sinh sng, gn
với đồng bào min núi y Bc. Chính nhng tri nghim
chân thc này giúp nhà văn am hiểu “say mê” n vi
cnh quan sinh hot đậm sc thái văn hóa vùng min.
Văn hóa miền núi đã tác động sâu sắc đến đi sng sinh
hot của người dân bản địa, tiếp ni t thế h này sang thế
h khác; đồng thi chính li sống, lao động sn xut ca
con người tác đng tr li hình thành nên cnh quan văn
hóa. Điều kiện địa hình, thi tiết không ch quy định
phương thức sn xut, kiến trúc nhà còn ảnh hưởng
đến không gian sinh hot. Mt trong nhng du ấn văn hóa
đặc sc trong đời sng của người dân min núi phi k đến
ch phiên. Do địa hình him tr, các bn làng xa cách nhau,
vy ch phiên không din ra hàng ngày mà ch m vào
nhng ngày c định trong tháng. Đây là nơi duy nhất người
dân th trao đổi hàng hóa, mua sm nhu yếu phm
giao lưu kinh tế. Nếu đ tái hin cnh quan phiên ch thì
không phải đến Đỗ Bích Thúy mới làm được, tuy nhiên,
thấy được màu sắc văn hóa qua nhng chi tiết nh ng
như tâm tư, suy nghĩ của con người min núi trong các
phiên ch thì tản văn ca ch li làm rt tt điều đó. Đỗ
Bích Thúy miêu t mi dịp đến phiên ch, những người
ph n miền núi thường chọn váy áo đp nht, cùng chng
đi chợ phiên mua bán, tìm kiếm nim vui sau nhng ngày
lao động vt v trên nương rẫy hay qun quanh trong nhà.
Nhng cp v chồng người Mông dắt nhau đi chợ phiên,
th đã bán xong vài th đó hoặc đã mua vài th lt
vặt nào đó, cùng ngồi ngh bên mt quán nh ven đường.
lão “đưa điếu cày lên chm rãi rít những hơi rất
khẽ… ph ra làn khói, m m, nh nhẹ, loang trước mặt”
và ông chng thì ngi cạnh “bình thn, kiên nhn ch đợi”
[9, p. 22]. Cnh quan bình d y đi vào tản văn của ch li
gi lên li sng rất đậm tình người, “thương nhau như
ngưi thân [9, p. 27], vô hồn nhiên. Tác gi nhắc đến
biểu tượng phiên ch không dng li ý nghĩa miêu t hot
động giao thương của người dân miền núi, mà hơn hết gii
thiu vi bạn đọc v một đặc trưng văn hóa của cộng đồng
ro cao Tây Bc. Ch phiên là cơ hội để con người tm ri
khi nhng lo toan bn b hay đơn điệu cuc sống. Đối vi
ISSN 1859-1531 - TP CHÍ KHOA HC VÀ CÔNG NGH - ĐẠI HỌC ĐÀ NẴNG, VOL. 23, NO. 4, 2025 95
những chàng trai, cô gái chưa lập gia đình, chợ phiên li
không gian gp g nên duyên, chn hẹn tưởng. Mi
ngưi b óc, tâm khác nhau nhưng cảnh quan, i
trường sng làm cho h có những đặc điểm giống nhau, đó
là tác động ca không gian xã hội lên đi sống con người.
“Phiên ch đến như một cái đốm sáng, lóe lên gia bóng
đêm dài dng dặc. Cái đốm sáng nh xíu, lp nh
đánh thức nim vui nhgin d, vn n np rt sâu trong
tâm hồn con người, vn b che kín bi s nhng công
việc để duy trì s sinh tn” [9, p. 25]. Cnh quan ch phiên
trong tản văn Đỗ Bích Thúy tr thành biểu tượng ca s t
do, khát khao hnh phúc và thoát khi nhng ràng buc, t
nht của đời sống thường ngày. cho thy s thích nghi
với điều kin t nhiên và xã hội, tính năng động, linh hot,
t cung t cp của người dân bản địa; đồng thi hi t đầy
đủ nhng yếu t văn hóa vật th phi vt th đặc trưng
của đồng bào miền núi. “Những nét khác bit v cnh quan,
văn hóa dân tộc, sn phẩm đặc trưng khiến ch phiên
sc hút rt lớn đối vi du khách thập phương” [13, p. 57],
không gian gn kết cộng đồng, giao thoa văn hóa giữa
các dân tc thiu s, din ra các nghi l, sinh hot to nên
nhng cuc gp g đầy màu sc.
Giá tr văn hóa thăng hoa được đi vào đi
sng xã hi bng c hai ý nim v cái Đẹpcái Thiêng”
[14, p. 229]. Bên cnh không gian ch phiên, cnh quan l
hi a xuân min i trong sáng tác Đỗ Bích Thúy
cũng bao hàm c hai ý niệm đó. Khi tái hin cnh l hi
Lng tng (hay Lùng tùng, còn gi là l hi xuống đồng),
nhà văn đã cho thy nét văn hóa độc đáo gn vi nhng
phong tc, l nghi ca các dân tc thiu s khu vc vùng
cao phía Bc Vit Nam. L hội thường được t chc vào
đầu năm, gắn lin với tín ngưỡng nông nghip cuc
sng của dân miềni. phn l, v ch l (thường
thy mo hoặc người già uy tín) s dâng l vt gm gà,
xôi, rượu, và c sn vật địa phương để cu xin thn linh
ban phước. Sau phn ng nghi thc xuống đng,
“ngưi ta luôn chn mt tha ruộng đp nht, phng phiu
m màng nht, rồi ông trưởng thôn hoặc ngưi uy tín
nht làng s mang ti mt con trâu thật là đẹp, sng tht
vải đỏ, quàng cái cày cũng buc vải đ vào c đi
những đường cày đầu tiên... Nếu như con trâu chịu đi một
lèo không dng lại phá bĩnh, thì đó là dấu hiu ca mt
năm mưa thuận gió hoà, a ng bi thu [5, p. 14].
Tiếp theo là phn hi. Các trò chơi dân gian như ném còn,
kéo co, đẩy gậy cùng c điu a hát truyn thống như
múa sp, múa lân, hoc biu diễn các bài dân ca đặc trưng
ca dân tc thường được t chc, to nên không khí vui
tươi sôi đng. L hội còn nơi đ “trai gái say men
u, dựa vai nhau dưới nhng gc mn bung hoa trng
xóa” [7, p. 92]. Đây không ch là mt s kiện văn hóa đc
sắc còncách đ duy trì bn sc dân tc, khẳng định
giá tr tinh thn trong cuc sng của người min núi. Mi
cnh quan l hi đều mang nhng giá tr riêng to nên
s đa dng, hp dn của văn hóa truyền thng. Các chi tiết
v l hi trong tản văn Đ Bích Thuý như những lát ct
ghép li thành bc tranh toàn cnh sinh đng t bao quát
đến chi tiết, nhìn t góc độ xa đến cn cnh. Có thi, l
hi là biểu tượng ca s giao hòa giữa con ngưi thiên
nhiên, gia nhân cộng đng thông qua không gian
nghi l đặc trưng và không gian hi hè náo nhit.
Bên cạnh đó, trong mt s tác phm, Đỗ Bích Thúy
cũng miêu t cảnh đón dâu những phong tc, l nghi gn
vi việc cưới hi của người min núi. Nhng phong tc này
không ch mang giá tr văn hóa mà n chứa đng s tinh
tế trong mi quan h giữa con người, thiên nhiên cng
đồng. đây, nhà giàu hay nghèo được tính bng vic s
trong nhà, do vy nhiều gia đình thách i bng bò ch
không phi tin mt hay l vt (cau, tru, bánh phu thê,
ợu, chè…) như ngưi min xuôi. Cảnh đoàn rước dâu
của người Tày thường xut hin nhng bài hát giao duyên,
tiếng khèn, nhng b trang phc truyn thng to nên
mt bức tranh văn hóa sống động. L ới thưng din ra
tại nhà gái trước, sau đó mới đưa cô dâu về nhà trai. Trong
tản văn của Đỗ Bích Thúy, có nhng chi tiết tdâu
đi bộ gia những con đường núi gp ghnh, mang theo s
e ấp nhưng cũng đy kì vng v cuc sng mới. “Đoàn đưa
dâu lên đò, qua sông. Tới b bên kia còn phải đi ngược dc,
xuyên qua đường mòn i nhng tán cây rừng” [8, p. 82].
Tc l đón dâu của người Mông thì khác chút so với người
Tày, “dù đón dâu xa hay gn thì giữa đường cũng phải dng
lại đ ăn, còn dâu thay váy áo mới trước khi bước vào
nhà chng” [7, p. 82]. Nhng cảnh đón dâu ngày cưới trong
văn Đỗ Bích Thúy phn nào khúc x văn hóa vùng cao vi
nhng đặc tính ca tng tộc người thiu s.
Quan sát không gian không ch hành động bên ngoài
đơn thun của đôi mắt mà là hành động bên trong ca cm
xúc và trí não. Viết v văn hóa miền núi nhìn t cnh quan,
Đỗ Bích Thúy dường như không có cái nhìn phn bin mà
hu hết ghi chép mt cách trung thành t đim nhìn ca
chính người sinh sống trong môi trường văn hóa đó. Đ
Bích Thúy thm thu quan nim sng của con người min
núi nên cách tác gi nhìn nhn v văn hóa cũng mang quan
nim bản đa, t cnh ch phiên, l hi, phong tục cưới hi
đến tang ma. Người min núi quan nim “trần sao âm vậy”,
“chết không phi hết”, trong tản văn, cảnh đưa ma
đưc tái hin hoàn toàn thng nht vi quan nim này.
Đồng bào thiu s coi trng cõi chết ngay khi còn đang
sng. H thm chí lên rng ly g v làm sẵn quan tài để
chun b cho một đám ma chu đáo. Khi người mất, người
thân phi mi v nhà bằng được ông Then đ cúng thì
ngưi chết mới “đi” được. “Trước khi đón ông Then về,
ngưi nhà phi c một người đàn ông đi cõng… bộ qun
áo ca ông Then v trước… cõng trên lưng suốt chng
đưng dài v nhà đám, tuyệt đối không được dng, ngh,
đánh rơi” [9, p. 140]. Ông Then làm l gần mười ngày lin
(nhưng giờ rút gn ch khoảng hai ngày), “các loi nhc c
réo rt t sáng sớm đến đêm khuya, mâm bát bày lên li
dọn đi liên tc liên tc” [5, p. 25]. Văn hóa tang ma ca
ngưi min núi còn được nhà văn th hin cnh t chc
đám ma. Đây là không gian thiêng, biểu th cho quan nim
không gian tinh thn ca đồng bào thiu s. Trong c
phm, câu chuyn ni chết đ trong nchc ngày mi
mang ra nghĩa địa cho đc gi mt cm nghim tinh thn
v cuc sng âm dương “tín ngưỡng” ăn sâu vào nếp
sng ca các tộc người. Cảnh đưa người chết ra nghĩa địa
din ra nhiu nghi thc cu phc tp, d như người
chết đặt nm trong một cái nhà táng “khung tre, vách,
mái đu làm bng giy rc r sc màu, ct ta trang trí các
loi hoa giấy đẹp chng [5, p. 25]. Nhng ngôi nhà
táng được chụp lên quan tài trên đường t nhà đi ra nghĩa