Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br />
VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU<br />
<br />
XÂY DỰNG MÔ HÌNH HÀM CẦU SẢN PHẨM CÁ HỒI CỦA NA-UY Ở VIỆT NAM<br />
MODELING DEMAND FUNCTION FOR NORWEGIAN SALMON IN VIETNAM<br />
<br />
Phạm Thành Thái<br />
Khoa Kinh tế, Trường Đại học Nha Trang<br />
<br />
Tóm tắt<br />
Xây dựng hàm cầu cho các sản phẩm thủy sản đã được tiến hành rất phổ biến ở trên thế giới,<br />
nhưng ở Việt Nam hầu như chưa có nghiên cứu nào trong lĩnh vực này. Trong nghiên cứu này, ước<br />
lượng hàm cầu sản phẩm cá hồi của Na-Uy ở Việt Nam được tiến hành. Đặc trưng mô hình được sử<br />
dụng trong nghiên cứu này là hàm logarit tuyến tính. Mục đích chính của nghiên cứu này là nhằm xác<br />
định độ co dãn của cầu cá hồi theo giá, theo thu nhập, theo giá các mặt hàng liên quan. Kết quả<br />
nghiên cứu nhằm phục vụ công tác giảng dạy và nghiên cứu tại Đại học Nha Trang; giúp các nhà<br />
nhập khẩu cá hồi của Việt Nam có cơ sở khoa học hơn trong việc đề ra các chính sách hợp lý trong<br />
kinh doanh trong quá trình hội nhập với nền kinh tế thế giới. Ngoài ra, kết quả nghiên cứu cũng được<br />
so sánh với các kết quả nghiên cứu khác gần đây đã được báo cáo trong tập hợp lý thuyết và các<br />
nghiên cứu thực nghiệm về cầu cá hồi.<br />
Từ khóa: hàm cầu, cá hồi<br />
Abstract<br />
The formulation of demand functions for aquatic products has been prevalently practiced<br />
worldwide, but still represents a rather new phenomenon in the area of applied economics in Vietnam.<br />
This paper focuses on estimates of demand functions for Norwegian salmon products. Log-linear<br />
functions are used to construct the model. The major objective of the research is to define the ownprice elasticity of demand, income elasticity of demand, and cross-price elasticity of demand in the<br />
context of the salmon industry. The research findings are hoped to bring some added values to the<br />
improved teaching and educational training at Nha Trang University, in addition to providing salmon<br />
importers in Vietnam with scientific foundations for making relevant, appropriate decisions in the fastmoving economic integration process. A further step is to compare these findings with those from<br />
recent studies cited in literature about theoretical and empirical dimensions of salmon demand.<br />
I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br />
Ước lượng mô hình hàm cầu và độ co dãn<br />
<br />
vùng lãnh thổ, với kim ngạch nhập khẩu khoảng<br />
từ 90-100 triệu USD/năm, tương đương từ 4<br />
<br />
là một trong những hoạt động quan trọng và phổ<br />
biến nhất đối với các nhà Kinh tế học Vi mô<br />
<br />
đến 5% kim ngạch xuất khẩu thủy sản. Các mặt<br />
hàng thủy sản nhập khẩu của Việt Nam chủ yếu<br />
<br />
nhằm củng cố lý thuyết về cầu hàng hóa. Đối<br />
với các Nhà quản lý vĩ mô, các Nhà quản trị<br />
<br />
là tôm đông lạnh, cá đông lạnh, trong đó, tôm<br />
đông lạnh chiếm trên 70%, cá đông lạnh chiếm<br />
<br />
doanh nghiệp, việc ước lượng hàm cầu có ý<br />
<br />
10-16%, còn lại là các loại thủy sản khác như cá<br />
<br />
nghĩa đặc biệt quan trọng trong việc hoạch định<br />
chính sách, dự báo và ra những quyết định<br />
<br />
hồi tươi, cá hồi đông lạnh, tôm hùm, cá hộp,<br />
nghêu sò và nhiều loại cá biển. Chỉ riêng cá<br />
<br />
đúng đắn trong những tình huống cụ thể để<br />
phục vụ công tác quản lý một cách có hiệu quả<br />
<br />
hồi, bình quân mỗi năm có khoảng 1.500 tấn<br />
được nhập về từ các nước châu Âu để chế<br />
<br />
nhất là một việc rất cần thiết.<br />
Theo Bộ Thủy sản (2007), Việt Nam hiện<br />
<br />
biến, tái xuất và tiêu thụ trong nước.<br />
<br />
đang nhập khẩu thủy sản từ 40 quốc gia và<br />
70<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br />
Với nhu cầu lớn ngày càng tăng của cá hồi<br />
<br />
cá hồi của Na-Uy ở Việt Nam” là cần thiết và<br />
<br />
những nhà nhập khẩu cần phải có những bằng<br />
chứng nghiên cứu thực nghiệm để hiểu biết và<br />
<br />
hữu ích.<br />
II. ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU<br />
2.1. Đối tượng nghiên cứu<br />
<br />
nắm được thị trường các sản phẩm thủy sản<br />
nhập khẩu nói chung và cá hồi của Na-Uy nói<br />
<br />
Đối tượng nghiên cứu: Sản phẩm cá hồi<br />
của Na-Uy được nhập khẩu vào Việt Nam và<br />
<br />
riêng ở Việt Nam, có như vậy những nhà kinh<br />
doanh cũng như các nhà nhập khẩu cá hồi của<br />
Việt Nam mới có cơ sở ra quyết định. Trong<br />
<br />
quan sát các thông tin về cầu cá hồi thông qua<br />
người tiêu dùng.<br />
2.2. Phương pháp nghiên cứu<br />
<br />
quản lý kinh tế hiện đại, ngoài sự hiểu biết về<br />
mặt định tính các yếu tố và các mối quan hệ của<br />
<br />
Phương pháp chuyên gia, phương pháp<br />
thống kê mô tả, và phương pháp kinh tế lượng<br />
<br />
thị trường, người ta còn cần định lượng được<br />
các yếu tố và các mối quan hệ giữa các yếu tố<br />
<br />
được sử dụng trong nghiên cứu này.<br />
Mô hình nghiên cứu đề nghị có thể được<br />
<br />
đó. Để hiểu biết được các yếu tố ảnh hưởng và<br />
định lượng được những yếu tố ảnh hưởng tới<br />
<br />
biểu diễn dưới dạng hàm hồi quy tuyến tính<br />
logarit và được xây dựng dựa trên các giả định<br />
<br />
lượng cầu cá hồi của Na-Uy, hiện nay người ta<br />
<br />
sau:<br />
<br />
thường sử dụng mô hình kinh tế lượng. Một khi<br />
đã xây dựng được mô hình kinh tế lượng, việc<br />
<br />
- Đặc trưng mô hình này là biến sản lượng<br />
(Qt) là biến nội sinh, có nghĩa là giá trị của nó<br />
<br />
tiến hành dự báo thị trường như lượng cầu, xác<br />
định độ co dãn của cầu theo giá hoặc thu nhập<br />
<br />
được xác định bởi mô hình.<br />
- Các biến độc lập như giá cả, thu nhập,<br />
<br />
nêu trên, các nhà hoạch định chính sách và<br />
<br />
hoặc là các yếu tố khác,… hoặc cần ra quyết<br />
<br />
nhu cầu ở thời kỳ trước và các biến giả theo<br />
<br />
định trong những tình huống với mức tin cậy<br />
nhất định, thì mô hình kinh tế lượng tỏ ra có ưu<br />
<br />
mùa là biến ngoại sinh.<br />
<br />
thế. Xuất phát từ bối cảnh đó, việc nghiên cứu<br />
và: “Xây dựng mô hình hàm cầu sản phẩm<br />
<br />
ln(Qt ) = β1 + β 2ln( Pt ) + β 3 ln( I t ) + β 4ln(Qt −1 ) + β5 D1t + β 6 D2t + β 7 D3t + β8 D4t + β 9 D5t + β10 D6t +<br />
+ β11 D7 t + β12 D8t + β13 D9t + β14 D10t + β15 D11t + U t<br />
Trong đó:<br />
<br />
Qt : Nhu cầu cá hồi trong tháng thứ t.<br />
Trong nghiên cứu này nhu cầu cá hồi được định<br />
nghĩa là số lượng cá hồi của Na-Uy nhập vào<br />
Việt Nam trong tháng thứ t (đơn vị tính:<br />
tấn/tháng),<br />
<br />
Pt : Giá cá hồi của Na-Uy trong tháng thứ t<br />
(đơn vị tính: đồng/kg),<br />
<br />
Qt<br />
<br />
– 1:<br />
<br />
(1)<br />
<br />
Nhu cầu cá hồi trong tháng thứ t-1.<br />
<br />
Nó chính là số lượng cá hồi được nhập vào Việt<br />
Nam ở tháng thứ t-1(đơn vị tính: tấn/tháng),<br />
Dt: Biến giả theo mùa. Biến này đo lường<br />
tác động của yếu tố mùa theo tháng lên nhu cầu<br />
cá hồi. Tháng 12 được chọn làm thời điểm để<br />
tham chiếu.<br />
Ut : Sai số ngẫu nhiên.<br />
<br />
It : Thu nhập thực tế bình quân đầu người<br />
<br />
Dữ liệu cho nghiên cứu này chủ yếu là<br />
nguồn dữ liệu thứ cấp, loại dữ liệu là dữ liệu<br />
<br />
trong tháng thứ t. Trong nghiên cứu này GDP<br />
bình quân đầu người theo quý ở thành phố Hà<br />
<br />
theo thời gian được thu thập từ một số nguồn<br />
sau:<br />
<br />
Nội và thành phố Hồ Chí Minh được sử dụng<br />
làm biến đại diện cho biến thu nhập (đơn vị<br />
<br />
- Dữ liệu theo tháng về số lượng và giá trị<br />
<br />
tính: ngàn đồng/người/tháng),<br />
<br />
(tính theo giá FOB) cá hồi của Na Uy được<br />
nhập vào Việt Nam Từ tháng 1 năm 1998 đến<br />
<br />
71<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br />
tháng 12 năm 2006 được cung cấp bởi<br />
<br />
dương (+) giữa nhu cầu hiện tại và nhu cầu ở<br />
<br />
Norwegian Seafood Export Council. Giá bình<br />
<br />
thời kỳ trước nó.<br />
<br />
quân mỗi kilogram được tính bằng cách lấy tổng<br />
giá trị chia cho số lượng. Tất cả giá được<br />
<br />
- H4: Tiêu dùng cá hồi cũng sẽ tăng lên<br />
trong các tháng cuối năm (năm dương lịch). Một<br />
<br />
chuyển đổi từ đồng kroner của Na Uy (NOK)<br />
sang tiền đồng của Việt Nam (VND) bằng cách<br />
<br />
mối quan hệ dương (+) giữa mức tiêu dùng cá<br />
hồi với biến giả theo mùa trong giai đoạn này.<br />
<br />
sử dụng tỷ giá chuyển đổi bình quân hàng tháng<br />
giữa đồng NOK và VND (VND/NOK). Tỷ giá này<br />
<br />
- H5: Cá hồi là một mặt hàng xa xỉ ở thị<br />
trường Việt Nam. Do vậy, hệ số co dãn của cầu<br />
<br />
được lấy từ trang web http://www.oanda.com/.<br />
<br />
cá hồi theo thu nhập được kỳ vọng sẽ lớn hơn 1.<br />
<br />
- Giá thực bình quân mỗi kilogram cá hồi<br />
cũng được tính toán dựa trên chỉ số giá tiêu<br />
<br />
- H6: Hệ số co dãn của cầu cá hồi theo giá<br />
ở thị trường Việt Nam sẽ nhỏ hơn so với hệ số<br />
<br />
dùng (CPI) hàng tháng của Việt Nam. Chỉ số giá<br />
tiêu dùng hàng tháng được lấy từ Tổng cục<br />
Thống kê Việt Nam.<br />
- Thu nhập bình quân đầu người hàng<br />
<br />
co dãn của cầu theo giá ở các thị trường lớn<br />
hơn.<br />
III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br />
3.1. Mô hình hàm cầu<br />
<br />
tháng được thu thập ở hai thành phố lớn là Hà<br />
<br />
Mô hình hàm cầu (1) được ước lượng<br />
<br />
Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Các số liệu này<br />
cũng được lấy từ Cục thống kê thành phố Hồ<br />
<br />
bằng phương pháp OLS, và sau đó đưa vào<br />
một số kiểm định chuẩn đoán. Cụ thể, tác giả đã<br />
<br />
Chí Minh và Hà Nội.<br />
Các giả thuyết nghiên cứu:<br />
<br />
thực hiện kiểm định BG (Breusch – Godfrey) để<br />
kiểm tra tính tự tương quan giữa các nhiễu, sau<br />
<br />
- H1: Khi giá của cá hồi tăng thì lượng cầu<br />
<br />
đó sử dụng thủ tục lặp Cochrane – Ocutt để<br />
<br />
cá hồi giảm và ngược lại, chúng ta kỳ vọng một<br />
mối quan hệ âm (-) giữa giá và nhu cầu cá hồi.<br />
<br />
khắc phục hiện tượng tự tương quan giữa các<br />
nhiễu. Các kiểm định về phương sai của sai số<br />
<br />
- H2: Khi thu nhập bình quân đầu người<br />
tăng thì lượng cầu cá hồi được nhập vào Việt<br />
<br />
thay đổi, phân phối chuẩn của sai số và hiện<br />
tượng đa cộng tuyến,...cũng được tiến hành và<br />
<br />
Nam từ Na Uy cũng tăng lên, chúng ta kỳ vọng<br />
một mối quan hệ dương (+) giữa thu nhập và<br />
<br />
cho kết quả phù hợp. Các biến giả D10, D11<br />
không có ý nghĩa thống kê đã bị loại ra khỏi mô<br />
<br />
nhu cầu cá hồi.<br />
<br />
hình.<br />
<br />
- H3: Tiêu dùng cá hồi ở thời kỳ hiện tại<br />
tăng lên nếu như tiêu dùng ở thời kỳ trước nó<br />
cũng tăng, chúng ta kỳ vọng một mối quan hệ<br />
<br />
72<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br />
Bảng 1. Kết quả ước lượng mô hình (1) sau cùng<br />
Dependent Variable: LOG(Qt)<br />
Method: Least Squares<br />
Date: 06/11/08 Time: 16:27<br />
Sample (adjusted): 1998M09 2006M12<br />
Included observations: 100 after adjustments<br />
Convergence achieved after 7 iterations<br />
Variable<br />
<br />
Coefficient<br />
<br />
Std. Error<br />
<br />
t-Statistic<br />
<br />
Prob.<br />
<br />
C<br />
<br />
-38.36958<br />
<br />
7.465461<br />
<br />
-5.139613<br />
<br />
0.0000<br />
<br />
LOG(Pt)<br />
<br />
-0.538384<br />
<br />
0.198874<br />
<br />
-2.707164<br />
<br />
0.0083<br />
<br />
LOG(It)<br />
<br />
5.691097<br />
<br />
0.864528<br />
<br />
6.582893<br />
<br />
0.0000<br />
<br />
LOG(Qt(-1))<br />
<br />
0.260248<br />
<br />
0.098041<br />
<br />
2.654492<br />
<br />
0.0096<br />
<br />
D1<br />
<br />
2.113782<br />
<br />
0.430111<br />
<br />
4.914499<br />
<br />
0.0000<br />
<br />
D2<br />
<br />
1.764204<br />
<br />
0.403720<br />
<br />
4.369873<br />
<br />
0.0000<br />
<br />
D3<br />
<br />
2.586671<br />
<br />
0.383166<br />
<br />
6.750776<br />
<br />
0.0000<br />
<br />
D4<br />
<br />
0.941385<br />
<br />
0.273264<br />
<br />
3.444960<br />
<br />
0.0009<br />
<br />
D5<br />
<br />
1.108734<br />
<br />
0.249126<br />
<br />
4.450495<br />
<br />
0.0000<br />
<br />
D6<br />
<br />
0.912366<br />
<br />
0.262729<br />
<br />
3.472648<br />
<br />
0.0008<br />
<br />
D7<br />
<br />
0.840268<br />
<br />
0.227346<br />
<br />
3.695988<br />
<br />
0.0004<br />
<br />
D8<br />
<br />
0.820068<br />
<br />
0.242235<br />
<br />
3.385417<br />
<br />
0.0011<br />
<br />
D9<br />
<br />
0.940181<br />
<br />
0.234440<br />
<br />
4.010332<br />
<br />
0.0001<br />
<br />
AR(2)<br />
<br />
0.188915<br />
<br />
0.114445<br />
<br />
1.650700<br />
<br />
0.1027<br />
<br />
AR(3)<br />
<br />
-0.061433<br />
<br />
0.115224<br />
<br />
-0.533162<br />
<br />
0.5954<br />
<br />
AR(4)<br />
<br />
-0.131468<br />
<br />
0.113876<br />
<br />
-1.154484<br />
<br />
0.2517<br />
<br />
AR(5)<br />
<br />
0.141862<br />
<br />
0.111518<br />
<br />
1.272102<br />
<br />
0.2070<br />
<br />
AR(6)<br />
<br />
0.016825<br />
<br />
0.107754<br />
<br />
0.156141<br />
<br />
0.8763<br />
<br />
AR(7)<br />
<br />
0.004938<br />
<br />
0.101511<br />
<br />
0.048649<br />
<br />
0.9613<br />
<br />
R-squared<br />
<br />
0.919190<br />
<br />
Adjusted R-squared<br />
<br />
0.901232<br />
<br />
S.D. dependent var<br />
<br />
1.423906<br />
<br />
S.E. of regression<br />
<br />
0.447497<br />
<br />
Akaike info criterion<br />
<br />
1.398984<br />
<br />
Sum squared resid<br />
<br />
16.22053<br />
<br />
Schwarz criterion<br />
<br />
1.893967<br />
<br />
Log likelihood<br />
<br />
-50.94922<br />
<br />
F-statistic<br />
<br />
51.18589<br />
<br />
Durbin-Watson stat<br />
<br />
2.207534<br />
<br />
Prob(F-statistic)<br />
<br />
0.000000<br />
<br />
Mean dependent var<br />
<br />
2.748128<br />
<br />
Mô hình hàm cầu cá hồi của Na-Uy ở Việt Nam như sau:<br />
<br />
) = -38.37 - 0.54ln ( P ) + 5.69ln ( I ) +0.26ln ( Q ) + 2.11D +1.76D +2.59D +<br />
ln(Q<br />
t<br />
t<br />
t<br />
t-1<br />
1t<br />
2t<br />
3t<br />
+ 0.94D 4t + 1.11D 5t + 0.91D 6t + 0.84D 7t + 0.82D 8t +0.94D 9t +<br />
<br />
(2)<br />
<br />
+[AR ( 2 ) =0.19,AR ( 3 ) = - 0.06,AR ( 4 ) = - 0.13,AR ( 5 ) =0.14,AR ( 6 ) =0.01,AR ( 7 ) =0.005]<br />
<br />
73<br />
<br />
Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản số 1/2009<br />
Kết quả ước lượng ở bảng 1 cho thấy, hệ<br />
<br />
3.2. Độ co dãn ngắn và dài hạn<br />
<br />
1<br />
<br />
số hồi quy của các biến giá cả, thu nhập và nhu<br />
<br />
Các hệ số co dãn thể hiện đặc trưng cho<br />
<br />
cầu ở thời kỳ trước đều có dấu phù hợp với kỳ<br />
vọng ban đầu và đều có ý nghĩa thống kê. Một<br />
<br />
cấu trúc cầu cá hồi của Na-Uy ở Việt Nam được<br />
thể hiện trong bảng 2 sau:<br />
<br />
hệ số dương về mức tiêu dùng trong giai đoạn<br />
trước cho thấy rằng tiêu dùng có khả năng sẽ<br />
<br />
Bảng 2. Độ co dãn ngắn hạn và dài hạn của<br />
cầu cá hồi Na-Uy ở Việt Nam<br />
<br />
tăng (giảm) nếu nó đã tăng (giảm) trong giai<br />
đoạn trước đó. Nói cách khác, chúng ta có lý do<br />
<br />
Biến độc lập<br />
<br />
để tin rằng, sự hình thành nên thói quen của<br />
người tiêu dùng là một yếu tố quan trọng khi giải<br />
thích lượng cầu hàng tháng. Hệ số hồi quy của<br />
biến giá cả mang dấu âm thể hiện mối quan hệ<br />
tỷ lệ nghịch giữa nhu cầu và giá. Điều này là<br />
<br />
Giá (Pt)<br />
Thu nhập (It)<br />
<br />
Độ co dãn<br />
ngắn hạn<br />
-0,538<br />
5,691<br />
<br />
Độ co dãn<br />
dài hạn<br />
-0,727<br />
7,691<br />
<br />
Độ co dãn trong ngắn hạn và dài hạn đối<br />
với biến giá cả lần lượt là -0,538 và -0,727.<br />
Trong dài hạn, khi tính đến cả đặc tính động của<br />
<br />
hoàn toàn phù hợp với lý thuyết kinh tế. Còn hệ<br />
số hồi quy của biến thu nhập mang dấu dương,<br />
<br />
mô hình thì độ co dãn của giá lại cao hơn vì sự<br />
tăng lên thường xuyên trong mức giá sẽ làm<br />
<br />
cho thấy khi thu nhập của người tiêu dùng tăng<br />
<br />
giảm các tác động lên tiêu dùng. Hay nói cách<br />
khác là người tiêu dùng cần thời gian để thay<br />
<br />
thì chi tiêu cho cá hồi cũng tăng. Như vậy, các<br />
kết quả này cho thấy các giả thuyết H1, H2, và<br />
H3 là hoàn toàn phù hợp cho dữ liệu nghiên<br />
cứu của Việt Nam.<br />
2<br />
<br />
Hệ số xác định R hiệu chỉnh bằng 0,9012<br />
là khá cao sau khi thỏa mãn điều kiện nhiễu<br />
trắng, điều này có nghĩa là 90,12% biến thiên<br />
trong logarit của nhu cầu cá hồi được giải thích<br />
bởi các biến giả theo mùa và logarit của các<br />
nhân tố như giá cả, thu nhập, tiêu dùng ở thời<br />
kỳ trước. Giá trị của thống kê F = 51.1859, với<br />
Prob(F-statistic) = 0.0000 < 1%, cho thấy mô<br />
hình phù hợp tốt với dữ liệu.<br />
Các hệ số hồi quy của các biến giả theo<br />
<br />
đổi những thói quen tiêu dùng của họ.<br />
Cá hồi thường được nghĩ đến như một mặt<br />
hàng xa xỉ và hệ số co dãn của cầu theo thu<br />
nhập được kỳ vọng là sẽ lớn hơn 1 (được phát<br />
biểu ở giả thuyết H5). Kết quả ước lượng thể<br />
hiện ở bảng 2 cho thấy, trong ngắn hạn và thậm<br />
chí cả trong dài hạn hệ số co dãn của cầu theo<br />
thu nhập lần lượt là 5,691 và 7,691 đều lớn hơn<br />
1. Mặc dù những giá trị này là phù hợp với một<br />
mặt hàng xa xỉ nhưng cũng cần nói thêm rằng,<br />
biến đại diện được sử dụng để đo lường cho<br />
thu nhập trong nghiên cứu này chính là GDP<br />
bình quân đầu người ở hai thành phố lớn là Hà<br />
<br />
mùa từ D1 cho đến D9 đều mang dấu dương và<br />
có ý nghĩa thống kê. Kết quả này cho thấy nhu<br />
cầu cá hồi ở các tháng từ tháng 1 cho đến<br />
tháng 9 đều cao hơn so với tháng 12 (vì tháng<br />
12 là thời điểm tham chiếu). Ở trên ta đã nói,<br />
biến giả D10 và D11 đều mang dấu âm và không<br />
có ý nghĩa thống kê và đã bị loại bỏ ra khỏi mô<br />
hình hàm cầu, điều này chỉ ra rằng nhu cầu cá<br />
hồi ở tháng 10 và tháng 11 không có sự khác<br />
biệt có ý nghĩa so với nhu cầu cá hồi ở tháng<br />
12. Kết quả này cho thấy lượng tiêu dùng cá hồi<br />
trong các tháng cuối năm là thấp hơn so với các<br />
tháng còn lại trong năm.<br />
<br />
74<br />
<br />
1<br />
<br />
Độ co dãn ngắn hạn của cầu cá hồi<br />
<br />
theo giá và theo thu nhập chính là hệ số độ dốc<br />
ước lượng được của biến ln(Pt) và biến ln(It)<br />
trong hàm hồi quy mẫu (2). Nó được tính theo<br />
công<br />
<br />
thức:<br />
<br />
EQ 2 = β2 = ∂ ln Qt / ∂ ln Pt<br />
<br />
và<br />
<br />
= ∂ ln Q / ∂ ln I . Độ co dãn dài hạn<br />
EQ 3 = β<br />
3<br />
t<br />
t<br />
(1 − C ) .<br />
được tính theo công thức: ηQk = β<br />
k<br />
k<br />
−1<br />
<br />
Trong đó, Ck chính là hệ số hồi quy ước lượng<br />
được của biến ln(Qt-1).<br />
<br />