BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
---------------
ĐOÀN VĨNH
ẢNH HƯỞNG CỦA HAI ĐỘC TỐ NẤM MỐC DEOXYNIVALENOL VÀ FUMONISIN TRONG THỨC ĂN CHĂN NUÔI ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN THỊT
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ NÔNG NGHIỆP VÀ PTNT
VIỆN KHOA HỌC NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
---------------
ĐOÀN VĨNH
ẢNH HƯỞNG CỦA HAI ĐỘC TỐ NẤM MỐC DEOXYNIVALENOL VÀ FUMONISIN TRONG THỨC ĂN CHĂN NUÔI ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN THỊT
Chuyên ngành: Chăn nuôi Động vật
Mã số: 9620105
LUẬN ÁN TIẾN SĨ NÔNG NGHIỆP
Người hướng dẫn khoa học:
PGS. TS. LÃ VĂN KÍNH
Thành phố Hồ Chí Minh – 2018
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu khoa học của riêng tôi, được thực hiện
dưới sự hướng dẫn khoa học của PGS. TS. Lã Văn Kính. Các số liệu, kết quả nêu
trong luận án này là trung thực, chính xác và chưa từng được ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.
Thành phố Hồ Chí Minh, ngày 30 tháng 11 năm 2017
ii
LỜI CẢM ƠN
Sau quá trình học tập và nghiên cứu, nay tôi đã hoàn thành Luận án tiến sĩ
Nông nghiệp, chuyên ngành Chăn nuôi động vật.
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến:
- Ban Giám đốc Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam;
- Ban Đào tạo sau đại học, Viện Khoa học Nông nghiệp Việt Nam;
- Ban Giám đốc Viện và các Phòng, Ban thuộc Viện Khoa học Kỹ thuật Nông
nghiệp Miền Nam đã tạo điều kiện giúp đỡ về mọi mặt để tôi tham gia khóa nghiên
cứu sinh;
- Thầy PGS. TS. Lã Văn Kính, là người Thầy đã tận tình hướng dẫn, giúp đỡ
tôi trong suốt thời gian nghiên cứu và thực hiện đề tài;
- Ban Giám đốc và các Phòng ban, Bộ môn Nghiên cứu Dinh dưỡng và Thức
ăn Chăn nuôi thuộc Phân Viện Chăn nuôi Nam Bộ đã giúp đỡ, gánh vác bớt phần
việc, động viên, giúp đỡ và tạo mọi điều kiện để tôi tham gia học tập nghiên cứu và
thực hiện đề tài;
- Trại Chăn nuôi heo Chí Trung thuộc Hợp tác xã Chăn nuôi heo An toàn Tiên
Phong, Củ Chi, Tp. Hồ Chí Minh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi về cơ sở vật chất,
con giống, thức ăn để tôi thực hiện đề tài này.
Xin chân thành cảm ơn.
Đoàn Vĩnh
iii
MỤC LỤC
Nội dung Trang
LỜI CAM ĐOAN i
LỜI CẢM ƠN ii
MỤC LỤC iii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT vii
DANH MỤC CÁC BẢNG viii
DANH MỤC CÁC HÌNH x
MỞ ĐẦU 1
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI 1
2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI 3
3. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN 3
3.1 Tính mới của đề tài 3
3.2 Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn 4
Chương 1 5
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN ÁN 5
1.1. KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ PHÁT HIỆN CÁC ĐỘC TỐ CỦA NẤM MỐC 5
1.1.1 Khái niệm về độc tố của nấm mốc 5
1.1.2 Lịch sử phát hiện mycotoxin 5
1.2. CÁC LOÀI NẤM MỐC VÀ ĐỘC TỐ NẤM MỐC QUAN TRỌNG 7
1.2.1. Điều kiện phát triển của nấm mốc 7
1.2.1.1 Ẩm độ 7
1.2.1.2 Nhiệt độ 8
1.2.1.3 Bản chất của cơ chất 9
1.2.2. Sinh tổng hợp các mycotoxin 9
1.2.3 Các loài nấm và độc tố nấm trên lương thực - thực phẩm 11
1.3. SỰ CHUYỂN HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA MYCOTOXIN TRONG CƠ THỂ ĐỘNG VẬT 13
1.3.1. Chuyển hóa mycotoxin trong cơ thể động vật 13
1.3.2. Tác động sinh hóa học của mycotoxin 19
1.3.3. Tác động sinh học của độc tố nấm mốc fumonisin và deoxynivalenol 24
iv
1.3.4 Bệnh nhiễm độc do mycotoxin 28
1.3.5 Phương pháp phân tích độc tố fumonisin và deoxynivalenol 30
1.3.6 Quy định mức cho phép mycotoxin 30
1.4. ẢNH HƯỞNG CỦA DON VÀ FUM ĐẾN GIA SÚC 32
1.4.1 Ảnh hưởng của DON 32
1.4.2 Ảnh hưởng của FUM đến gia súc 34
1.5. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘC TỐ MYCOTOXIN ĐẾN GIA SÚC VÀ GIA CẦM 37
1.5.1 Phòng nấm mốc xâm nhập và phát triển trên nông sản 38
1.5.2 Các phương pháp làm giảm độc tố mycotoxin trong thực liệu 39
Chương 2 44
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 44
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU 44
2.1.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu 44
2.1.2 Đối tượng nghiên cứu 44
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU 45
2.2.1 Đánh giá hiện trạng nhiễm độc tố deoxynivalenol và fumonisin trong nguyên liệu là ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt 45
2.2.2 Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố DON khác nhau và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt 45
2.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố FUM khác nhau và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt 45
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 45
2.3.1. Đánh giá hiện trạng nhiễm độc tố deoxynivalenol và fumonisin trong nguyên liệu là ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt 45
2.3.1.1 Chọn đối tượng nhà máy 45
2.3.1.2 Phương pháp khảo sát, lấy mẫu và chỉ tiêu phân tích 46
2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố DON khác nhau và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt 46
2.3.2.1 Nguyên vật liệu 46
2.3.2.2 Thiết kế thí nghiệm 47
2.3.2.3 Phương pháp nuôi cấy nấm mốc Fusarium nivale 47
2.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố FUM khác nhau và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt 48
v
2.3.3.1 Nguyên vật liệu 48
2.3.3.2 Thiết kế thí nghiệm 49
2.3.3.3 Phương pháp nuôi cấy nấm mốc Fusarium moniliforme 49
2.3.4 Nuôi dưỡng và thức ăn cho lợn thí nghiệm 51
2.3.5 Các chỉ tiêu theo dõi 52
2.3.6 Xử lý số liệu 54
Chương 3 56
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN 56
3.1.ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NHIỄM ĐỘC TỐ DEOXYNIVALENOL VÀ FUNONISIN TRONG NGÔ VÀ THỨC ĂN HỖN HỢP CHO LỢN 56
3.1.1 Sản lượng thức ăn hỗn hợp của các nhà máy điều tra 56
3.1.2 Hiện trạng về việc vệ sinh, kiểm tra chất lượng thức ăn và nguyên liệu 57
3.1.3 Hiện trạng bảo quản, sử dụng các chất bổ sung để xử lý nấm mốc và độc tố nấm mốc 58
3.1.4. Hàm lượng độc tố DON và FUM trong ngô và thức ăn cho lợn thịt 59
3.1.4.1 Hàm lượng độc tố DON trong mẫu ngô 60
3.1.4.2 Hàm lượng độc tố FUM trong mẫu ngô 61
3.1.4.3 Hàm lượng độc tố DON trong mẫu thức ăn hỗn hợp cho lợn 63
3.1.4.4 Hàm lượng độc tố FUM trong mẫu thức ăn hỗn hợp cho lợn 65
3.2.NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG KHẨU PHẦN CHỨA CÁC MỨC ĐỘC TỐ DON KHÁC NHAU VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHẤT HẤP THỤ ĐỘC TỐ ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN THỊT 68
3.2.1 Hàm lượng độc tố deoxinivalenol trong khẩu phần thức ăn thí nghiệm 68
3.2.2 Khối lượng lợn thí nghiệm ở các lứa tuổi sinh trưởng 69
3.2.3 Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn sinh trưởng 72
3.2.4 Khả năng thu nhận thức ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn thí nghiệm 77
3.2.5 Khảo sát chất lượng thịt xẻ của lợn thí nghiệm 81
3.2.6 Đánh giá ảnh hưởng của thức ăn nhiễm DON lên nhung mao ruột non của lợn thí nghiệm 84
3.3.NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG KHẨU PHẦN CHỨA CÁC MỨC ĐỘC TỐ FUM KHÁC NHAU VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHẤT HẤP THỤ ĐỘC TỐ ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN THỊT 87
3.3.1. Hàm lượng độc tố fumonisin trong khẩu phần thức ăn thí nghiệm 87
3.3.2 Khối lượng lợn ở các lứa tuổi thí nghiệm 88
vi
3.3.3 Tăng khối lượng tuyệt đối của lợn thí nghiệm qua các giai đoạn sinh trưởng 90
3.3.4 Khả năng thu nhận thức ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn 94
3.3.5. Khảo sát chất lượng thịt xẻ của lợn thí nghiệm 98
3.3.6. Đánh giá ảnh hưởng của thức ăn nhiễm FUM lên nhung mao ruột non của lợn thí nghiệm 101
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 105
1. KẾT LUẬN 105
2. ĐỀ NGHỊ 106
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ 107
TÀI LIỆU THAM KHẢO 108
vii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
AOAC : Association of Official Analytical Chemists
BNN : Bộ Nông Nghiệp và Phát triển nông thôn
BYT : Bộ Y Tế
CRD : Chronic Respiratory Disease
ĐC : Đối chứng
DON : Deoxynivalenol
FDA : Food and Drug Administration
FUM : Fumonisin
HPLC : High Performance Liquid Chromatography
HSCHTĂ : Hệ số chuyển hóa thức ăn
KL : Khối lượng
NN&PTNT : Nông nghiệp và Phát triển Nông Thôn
NT : Nghiệm thức
ppb : Parts per billion
ppm : Parts per million
RSD : Residual Standard Deviation (Độ lệch tiêu chuẩn của hiệu dư)
SS : So sánh
TĂ : Thức ăn
TCVN : Tiêu chuẩn Việt Nam
TKL : Tăng khối lượng
viii
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1. Các con đường sinh tổng hợp Mycotoxin chủ yếu ................................. 11
Bảng 1.2. Các độc tố từ những loài Fusarium .......................................................... 12
Bảng 1.3. Dược động học của mycotoxin trên lợn và chuột ..................................... 16
Bảng 1.4. Tác động của mycotoxin trên các hệ thống của cơ thể động vật .............. 23
Bảng 1.5. Quy định mức tối đa của mycotoxin áp dụng cho các thức ăn dùng cho
người ......................................................................................................................... 31
Bảng 1.6. Quy định mức tối đa của các mycotoxin trong thức ăn gia súc ở Mỹ ...... 31
Bảng 1.7. Giới hạn nhiễm độc tố vi nấm trong thực phẩm của Việt Nam ................ 32
Bảng 2.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm DON .................................................................... 47
Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm FUM ................................................................... 49
Bảng 3.1. Sản lượng sản xuất thức ăn và sản lượng thức ăn sản xuất cho lợn ......... 56
Bảng 3.2. Kết quả vệ sinh thiết bị, kiểm tra chất lượng và độc tố nấm mốc ............ 57
Bảng 3.3. Sử dụng chất xử lý nấm mốc và độc tố nấm mốc ..................................... 59
Bảng 3.4. Kết quả phân tích độc tố DON trong mẫu ngô ......................................... 60
Bảng 3.5. Mức DON trong mẫu ngô phân bố theo hàm lượng ................................. 61
Bảng 3.6. Kết quả phân tích độc tố FUM trong mẫu ngô ......................................... 61
Bảng 3.7. Mức nhiễm FUM trong mẫu ngô phân bố theo hàm lượng ...................... 63
Bảng 3.8. Mật độ độc tố DON trong thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt .......................... 63
Bảng 3.9. Mức độc tố DON trong thức ăn hỗn hợp phân bố theo hàm lượng .......... 64
Bảng 3.10. Hàm lượng độc tố FUM trong thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt .................. 65
Bảng 3.11. Mức độc tố FUM trong thức ăn hỗn hợp phân bố theo hàm lượng ........ 66
Bảng 3.12. Hàm lượng deoxynivalenol trong khẩu phần ......................................... 68
Bảng 3.13. Khối lượng lợn thí nghiệm ở các lứa tuổi sinh trưởng ........................... 69
Bảng 3.14. Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn sinh trưởng .......... 73
Bảng 3.15. Khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn sinh
trưởng ........................................................................................................................ 78
Bảng 3.16. Hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn ở các giai đoạn sinh trưởng ............. 80
ix
Bảng 3.17. Khối lượng các phần khảo sát lợn thí nghiệm ........................................ 82
Bảng 3.18. Tỷ lệ các phần khảo sát lợn thí nghiệm và độ dày mỡ lưng ................... 83
Bảng 3.19. Hàm lượng fumonisin trong khẩu phần ở các nghiệm thức ................... 87
Bảng 3.20. Khối lượng lợn ở các lứa tuổi thí nghiệm ............................................... 89
Bảng 3.21.Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm qua các giai đoạn sinh trưởng ....... 91
Bảng 3.22. Thức ăn ăn vào hàng ngày của lợn qua các giai đoạn thí nghiệm .......... 95
Bảng 3.23. Hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn qua các giai đoạn thí nghiệm ........... 97
Bảng 3.24. Khối lượng các phần khảo sát lợn thí nghiệm ........................................ 99
Bảng 3.25. Tỷ lệ các phần khảo sát lợn thí nghiệm ................................................ 100
x
DANH MỤC CÁC HÌNH
Hình 2.1. Cấu trúc phân tử fumonisin B1 và B2 ...................................................... 25
Hình 2. Cấu trúc phân tử của DON . ......................................................................... 27
Hình 3.1. Nhung mao ruột non đã bị bào mòn .......................................................... 85
Hình 3.2. Nhung mao ruột non của lợn bị bào mòn tận gốc ..................................... 85
Hình 3.3. Nhung mao ruột non đã bị bào mòn tổn thương khi lợn ăn thức ăn nhiễm
FUM ........................................................................................................................ 102
Hình 3.4. Nhung mao ruột non của lợn bị bào mòn và bị hoại tử và xâm nhập
bạch cầu khi lợn ăn thức ăn nhiễm FUM ................................................................ 102
1
MỞ ĐẦU
1. TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI
Hiện nay ngành chăn nuôi nói chung và chăn nuôi lợn nói riêng ở nước ta gặp
nhiều khó khăn do dịch bệnh phức tạp, bên cạnh đó thức ăn cho chăn nuôi không đảm
bảo an toàn là một trong những tác nhân ảnh hưởng đến sức khỏe gia súc làm giảm
sức đề kháng và sức sản xuất. Thức ăn đảm bảo chất lượng an toàn là không chứa
nấm mốc, độc tố, vi sinh gây bệnh từ đó gia súc sử dụng thức ăn an toàn sẽ có sức đề
kháng tốt ít bị nhiễm bệnh. Ngày nay sản phẩm nông nghiệp được sản xuất ra nhiều
nhờ ứng dụng công nghệ cao, chính vì thế việc bảo quản để giao lưu mua bán, sản
xuất chế biến thức ăn chăn nuôi cũng rất lớn trên phạm vi toàn cầu. Mặc dù trên thế
giới đã cải thiện sản xuất nông nghiệp và công nghiệp sau thu hoạch, nhưng nhiễm
độc tố nấm mốc (mycotoxin) không thể tránh khỏi và việc nhiễm độc tố nấm mốc hầu
như phổ biến ở một số nồng độ trong thức ăn của con người và động vật [25]. Theo
Tổ chức Lương thực và Nông nghiệp của Liên hợp quốc (FAO), ước tính có tới 25%
cây lương thực trên thế giới bị ô nhiễm độc tố nấm mốc [52]. Nghiên cứu độc tố nấm
mốc là một lĩnh vực khoa học khá mới mẻ, mới hình thành từ khoảng hơn 40 năm
nay cùng với sự phát triển của chăn nuôi công nghiệp. Sau phát hiện Aflatoxin, nhiều
độc tố nấm mốc đã được phát hiện và hiện có hơn 300 loại độc tố do nấm sản sinh
(CAST, 2003). Quan trọng nhất hiện nay là các loại: Aflatoxin, Deoxynivalenol,
Zearalenon, Ochratoxin, Fumonisin. Hiện nay ngoài Aflatoxin ra, các loại độc tố
chính do nấm Fusarium sản sinh ra như Zearalenone, Fumonisin và nhóm
Trichothecenes trong đó đặc biệt Deoxynivalenol và Nivalenol, những độc tố này
thường được tìm thấy trong hạt ngũ cốc bị nhiễm khuẩn. Khí hậu nóng ẩm của Việt
Nam là môi trường lí tưởng cho sự phát triển và sản sinh mycotoxin [13, 27 ]. Nhiễm
độc tố mycotoxin là một trong những vấn đề quan trọng bởi vì sản phẩm nông nghiệp
thường được thu hoạch vào mùa ẩm ướt, cùng với việc thiếu kỹ thuật chế biến và xử
lý sau khi thu hoạch tạo điều kiện thuận lợi để nấm mốc sản sinh mycotoxin [154,
141]. Những nghiên cứu gần đây ở các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nguyên cho thấy:
aflatoxins, fumonisins và zearalenone nhiễm vào thức ăn chăn nuôi với mật độ cao
2
và phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt là fumonisin (có đến 70% số mẫu xét nghiệm bị
nhiễm fumonisin và loại fumonisin B1 thường có nồng độ cao nhất (khoảng 10,8ppm)
[114, 139]. Một khảo sát của Lee and Tan (2006) [84] ở một số nước Đông Nam Á
gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam cho thấy có 92/203
(45%) số mẫu thức ăn chăn nuôi nhiễm fumonisin ở mức trung bình 0,68 ppm (cao
nhất là 2 ppm), có 42/220 (19%) số mẫu thức ăn chăn nuôi nhiễm deoxynivalenol ở
mức trung bình 0,66ppm (cao nhất là 3,9ppm). Mycotoxin được sản sinh ra từ trên
đồng ruộng, và gia tăng khi thu hoạch, sấy khô, bảo quản, hoặc khi vận chuyển và
chế biến [95, 132]. Độc tố fumonisin (FUM) được tạo ra chủ yếu do nấm Fusarium
moniliforme, có 6 loại fumonisins B1; B2; B3; B4; A1 và A2, phổ biến nhất là B1 và
B2, gây nhiễm tự nhiên ở các loại ngũ cốc (Marasas, 1995) [89]. Đây là một loại nấm
phổ biến phát triển trên các loại hạt ở vùng Bắc Mỹ, được tiết ra bởi sợi nấm, là những
hóa chất có ảnh hưởng đến con người và sức khỏe vật nuôi (Miller, 2008) [94]. Những
bệnh sinh ra do nhiễm độc tố fumonisin gồm có: Viêm bạch cầu não tủy
(Leucoencephalomalacia) trên loài ngựa, viêm phổi (pulmonary edema) trên loài lợn.
Tác động sinh hóa học của fumonisin là ức chế sự sinh tổng hợp Sphingolipid trong
não (Dương Thanh Liêm và ctv, 2010). Theo như Haschek và ctv (2001) [70] lợn rất
nhạy cảm với nhiễm độc cấp tính bởi fumonisin gây nên bệnh viêm phổi (pulmonary
edema). Deoxynivalenol (DON) là một loại của mycotoxin trichothecene thường gây
ói mửa, làm giảm lượng thức ăn tiêu thụ, bỏ ăn (Pestka, 2007) [109]. Ngoài ra DON
còn làm giảm tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn và nồng độ protein huyết thanh
(Bergsjö et al., 1993) [18]. Đã có những khảo sát tình trạng nhiễm độc tố nấm mốc
trong đó có DON trong thức ăn chăn nuôi. Trên thế giới cũng đã có nhiều nước đưa
ra mức giới hạn cho phép của độc tố FUM và DON trong thực phẩm và thức ăn chăn
nuôi. Theo tiêu chuẩn châu Âu (EU) và Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (Food
and Drug Administration-FDA, 2011) của Mỹ quy định mức giới hạn cho phép hàm
lượng FUM trong thức ăn chăn nuôi là từ 5-10 ppm và DON là từ 1-4ppm. Tuy nhiên
ở Việt Nam chỉ mới có quy định mức giới hạn cho phép đối với aflatoxin, chưa có
3
quy định nào đối với FUM và DON. Nghiên cứu về DON và FUM ở Việt Nam chưa
nhiều nên việc nghiên cứu này là cần thiết.
Trên thực tế nguyên liệu thức ăn chăn nuôi thường bị nấm mốc xâm nhập và
sinh độc tố. Điều này có nghĩa là các thực liệu có mức độc tố vượt quá mức cho phép
sẽ không được sử dụng, gây tổn thất lớn về kinh tế. Từ đó xuất hiện yêu cầu là làm
thế nào để có thể sử dụng những nông sản đã bị nhiễm độc tố để tránh sự lãng phí.
Đã có nhiều biện pháp làm giảm độc hoặc phá hủy độc tố do nấm mốc sinh ra được
nghiên cứu như biện pháp vật lý (dùng nhiệt, phơi nắng, chiếu xạ), biện pháp hóa học
(trích ly bằng dung môi, dùng ammonia,...) hay biện pháp sinh vật học (dùng vi sinh
vật đối kháng hoặc cạnh tranh hay có khả năng phá hủy độc tố). Các phương pháp
trên thường khó áp dụng trong thực tiễn vì làm tăng chi phí nhân công và cần năng
lượng để làm khô lại nông sản sau khi xử lý. Một hướng mới hiện nay là dùng các
chất có tính hấp phụ hay kết dính độc tố đã được chú ý. Các chất có hoạt tính bề mặt
tự nhiên như chất sét zeolit, bentonit hoặc alumino-silicat hoặc chất tổng hợp như
polyplasdone đã được thử nghiệm ở nước ngoài [39]. Các chất hấp phụ được sử dụng
một cách thuận lợi là trộn trực tiếp vào thức ăn của gia súc. Vì vậy chúng tôi thực
hiện đề tài: “Ảnh hưởng của hai độc tố nấm mốc deoxynivalenol và fumonisin
trong thức ăn chăn nuôi đến sinh trưởng của lợn thịt”.
2. MỤC TIÊU ĐỀ TÀI
- Đánh giá hiện trạng và mức nhiễm độc tố nấm mốc fumonisin và
deoxynivalenol trong nguyên liệu là ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt ở một số
tỉnh phía Nam.
- Nghiên cứu ảnh hưởng của khẩu phần thức ăn chứa các mức khác nhau của
độc tố fumonisin và deoxynivalenol do nấm mốc sản sinh ra đến sinh trưởng của lợn
thịt và hiệu quả của việc xử lý độc tố bằng chất hấp phụ độc tố.
3. NHỮNG ĐÓNG GÓP MỚI CỦA ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
3.1 Tính mới của đề tài
4
Lần đầu tiên nghiên cứu một cách có hệ thống từ đánh giá hiện trạng nhiễm
độc tố DON và FUM trên nhiều mẫu ngô và thức ăn hỗn hợp đến ảnh hưởng của hai
độc tố này lên sinh trưởng của lợn thịt, cũng như hiệu quả sử dụng của chất hấp phụ
độc tố nấm mốc.
3.2 Ý nghĩa khoa học và giá trị thực tiễn
Cung cấp thông tin khoa học về ảnh hưởng của độc tố DON, FUM đến sinh
trưởng của lợn thịt và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố nấm mốc. Các thông tin này
là tư liệu tốt cho giảng dạy, nghiên cứu và thực hành trong chăn nuôi lợn.
5
Chương 1
TỔNG QUAN NGHIÊN CỨU LUẬN ÁN
1.1. KHÁI NIỆM VÀ LỊCH SỬ PHÁT HIỆN CÁC ĐỘC TỐ CỦA NẤM MỐC
1.1.1 Khái niệm về độc tố của nấm mốc
Nghiên cứu độc tố nấm mốc là một lĩnh vực khoa học còn khá mới mẻ, mới
hình thành từ khoảng 40 năm nay cùng với sự phát triển của chăn nuôi công nghiệp.
Trước đây, nhận thức của con người về tác hại của nấm mốc đối với lương thực và
thực phẩm chủ yếu là các thiệt hại về kinh tế, sự giảm sút giá trị dinh dưỡng, tạo các
mùi vị khó chịu ảnh hưởng đến khâu chế biến và tiêu dùng các nông sản. Người ta ít
hoặc không chú ý đến các độc tố của nấm mốc cho đến khi có những thiệt hại nghiêm
trọng xảy ra vào những năm 1960, khi hàng trăm nghìn gà tây bị chết trong vòng vài
tháng ở vùng phía đông và nam nước Anh.
Theo FAO (1990) [50], mycotoxin được định nghĩa là một sản phẩm trao đổi
chất của nấm mốc có khối lượng phân tử thấp, có khả năng gây biến đổi bệnh lý trên
người và động vật. Mycotoxin có nguồn gốc từ Mykes (tiếng Hy Lạp) có nghĩa là
nấm mốc (fungus) và toksikon có nghĩa là chất độc (poison). Bệnh do độc tố nấm
(mycotoxicoses) được định nghĩa là hội chứng nhiễm độc do người và động vật tiếp
xúc với mycotoxin thường là qua đường tiêu hóa. Độc tố do nấm mốc sinh ra là chất
chuyển hóa thứ cấp của nấm có trọng lượng phân tử thấp mà không được phát hiện
bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể và là những chất độc ngầm . Hơn nữa, nhiều loại
nấm sản xuất độc tố cũng là tác nhân gây bệnh, dẫn đến thiệt hại kinh tế cây trồng,
những độc tố này có thể được hình thành trong nhiều giai đoạn của cây trồng, từ trồng
đến khi thu hoạch, sấy và bảo quản [25].
1.1.2 Lịch sử phát hiện mycotoxin
Bệnh do mycotoxin đã được biết từ rất lâu. Bệnh đầu tiên được phát hiện có
lẽ là Ergotism có đặc điểm gây hoại tử và hoại thư xảy ra vào thời kỳ trung cổ ở Châu
Âu. Bệnh nhiễm độc này thường nổ ra, lưu hành rộng, giết chết nhiều người và gia
6
súc khiến người dân sợ hãi đã ví nó như ngọn lửa thiêng (Holy fire) [96]. Nguyên
nhân do ăn lúa mì bị nhiễm loài nấm Claviceps purpurea, còn gọi là nấm cựa tím [12]
sản sinh trong lương thực các alkaloid rất độc gọi là Ergotin và các chất gây ảo giác
LSD (Lysergic acid diethylamid). Tác hại của các bệnh độc tố nấm khác đã được báo
cáo ở nhiều nước như bệnh ở lợn và ngựa do ăn yến mạch bị nhiễm nấm Fusarium
graminearum tại Mỹ, bệnh Stachybotryotoxicosis ở ngựa tại Nga phát hiện đầu tiên
vào những năm 1930 được coi như hậu quả của nhiễm nấm mốc Stachybotrys atra
mọc trên rơm bị ẩm.
Một bệnh khác gọi là ATA (Alimentary Toxic Aleukia) làm giảm bạch cầu do
thức ăn nhiễm loại nấm mốc thuộc giống Fusarium và Cladosporium phát triển được
ở trên các hạt cốc để qua mùa đông (nhiệt độ từ 4-10C)[63]. Bệnh xảy ra ở nhiều vùng
của nước Nga, đặc biệt trong thời gian thế chiến thứ II.
Ở Nhật, nhiễm độc xảy ra do ăn gạo bị mốc với các triệu chứng nôn mửa, co
giật, sau đó tê liệt. Bệnh nhân có thể chết trong vòng 1-3 ngày sau khi có triệu chứng
trúng độc. Loài nấm sinh độc tố thuộc giống Penicillium (P. citreoviridae).
Danh sách các bệnh nhiễm độc tố nấm đã xảy ra còn nhiều nhưng trước đây ít
có các nghiên cứu về chúng. Cho đến năm 1960, hàng trăm nghìn gà tây bị chết trong
vòng vài tháng ở vùng phía Đông và phía Nam nước Anh. Nguyên nhân gây bệnh
khó xác định nên gọi là bệnh X ở gà tây (Turkey X disease). Ngoài ra hàng nghìn vịt
con và gà lôi con cũng bị chết vì bệnh X. Sự xuất hiện của bệnh X đã thúc đẩy các
nghiên cứu để tìm căn bệnh. Người ta đã phát hiện một chất có độc tính trong bánh
dầu lạc nhập khẩu từ Brazil dùng làm nguồn cung cấp protein trong khẩu phần của
các gia cầm bệnh. Chất này sau đó được chứng minh do loài nấm Aspergillus flavus
tạo ra nên có tên là Aflatoxin. Sau phát hiện Aflatoxin, nhiều độc tố nấm đã được
phát hiện và hiện có hơn 300 loại độc tố nấm [152] và có khoảng 150 loài nấm có thể
sinh độc tố [50]. Quan trọng nhất hiện nay là các loại độc tố: Aflatoxin,
Deoxynivalenol, Zearalenon, Ochratoxin, Fumonisin. Nhìn chung các phản ứng sinh
học sau khi người và động vật ăn phải độc tố nấm mốc với các loại khác nhau sẽ bị
7
nhiễm độc cấp tính và tử vong cao đến các triệu chứng rối loạn các chức năng thần
kinh, hệ miễn dịch, tiêu hóa dẫn đến năng suất sản xuất của động vật giảm. Độc tố
nấm mốc khác nhau nhắm mục tiêu các cơ quan khác nhau gây ra độc hại khác nhau,
ở liều lượng cao tiếp xúc với chất độc nấm mốc dẫn đến sự nhiễm độc tế bào nói
chung dẫn đến ức chế tổng hợp đại phân tử (macromolecule).
1.2. CÁC LOÀI NẤM MỐC VÀ ĐỘC TỐ NẤM MỐC QUAN TRỌNG
1.2.1. Điều kiện phát triển của nấm mốc
Nấm mốc (vi nấm) là một nhóm các loài vi sinh vật đơn bào và đa bào, phân
bố rộng rãi khắp nơi trong thiên nhiên. Nấm mốc không chứa diệp lục tố
(Chlorophyl), cơ thể dạng sợi có vách ngăn hoặc không có vách ngăn. Những sợi nấm
này phân nhánh, hình thành từng đám chằng chịt gọi là hệ sợi nấm. Có 2 loại sợi:
- Sợi nấm dinh dưỡng: nằm trong lớp môi trường, làm nhiệm vụ hấp thu chất
dinh dưỡng cho toàn bộ hệ sợi.
- Sợi nấm khí sinh: thường nhô lên trên môi trường, giữ vai trò sinh sản (tạo bào
tử). Nấm mốc trao đổi chất với môi trường bên ngoài thông qua vách sợi nấm. Chúng
vừa giữ vai trò hấp thu chất dinh dưỡng, vừa làm nhiệm vụ thải các chất bã, các sản
phẩm trao đổi chất thứ cấp ra môi trường xung quanh.
Nấm mốc có thể xâm nhiễm các nông sản ngay khi còn ở ngoài đồng, trong
giai đoạn thu hoạch và sau thu hoạch (bảo quản, chế biến). Sự có mặt của các bào tử
nấm mốc trên nông sản cho thấy sự phát tán rộng rãi ở ngoại cảnh. Nhưng nấm mốc
muốn phát triển cũng cần một số điều kiện thuận lợi như ẩm độ, nhiệt độ, oxy và loại
cơ chất thích hợp:
1.2.1.1 Ẩm độ
Ẩm độ là một trong những yếu tố quan trọng nhất cho nấm mốc phát triển, đặc
biệt là sự nẩy mầm của bào tử, theo Scott [131] độ hoạt động của nước aw (activity of
8
water) thể hiện nhu cầu về nước để nấm mốc phát triển và mối quan hệ giữa độ ẩm
trong nguyên liệu với khả năng phát triển của vi sinh vật trên chúng:
aw = P / P0
Trong đó: P là áp suất riêng phần của nguyên liệu kiểm nghiệm
P0 là áp suất hơi bão hòa của nước trong cùng điều kiện
Độ ẩm tương đối RH (Relative Humidity) được dùng cho bầu không khí, trong
khi aw chỉ áp lực của hơi nước trong một không gian nhất định, nơi áp lực hơi nước
cân bằng với độ ẩm của nông sản. Theo Codex Alimentarius, mức aw được đề nghị <
0,70 để bảo quản tốt các nông sản. Hàm lượng nước tương ứng với trị số trên ở một
số nông sản là ngô: 13%, đậu lạc: 7%. Tuy nhiên việc đo lường aw khá phức tạp và
tốn kém, vì phải dùng dụng cụ đo lường đặc biệt. Northolt (1980) [101] đề xuất một
phương pháp đơn giản để thử nghiệm độ hoạt động của nước ngay trên hiện trường
và gọi là “thử nghiệm làm tan chảy các tinh thể muối”. Phương pháp này dựa trên đặc
điểm của các tinh thể muối có thể hấp thụ hơi nước và chảy lỏng ra nếu áp lực hơi
nước của không khí vượt quá áp lực hơi nước của dung dịch bão hòa muối đó. Thử
nghiệm khá đơn giản: thí dụ để khảo sát aw của đậu lạc, người ta cho một ít tinh thể
muối CuCl2 (có aw = 0,70) vào mặt dưới của nắp lọ trong có chứa mẫu đậu lạc cần
khảo sát và đậy kín lại. Nấm mốc thường có mức aw thấp hơn so với vi khuẩn nên
nông sản ít bị hỏng do vi khuẩn mà lại dễ bị hỏng do nấm mốc. Người ta có thể ngăn
sự phát triển của nấm trên nông sản bằng cách làm khô nông sản đến aw< 0,65 [50].
1.2.1.2 Nhiệt độ
Thông thường đi cùng với độ ẩm, nhiệt độ tối thiểu, tối đa và tối thích hợp cho
sự phát triển thay đổi tùy loài nấm mốc. Một số loài nấm có thể phát triển ở dưới 00C,
một số khác có nhiệt độ tối thiểu là 100C, nhiệt độ tối thích từ 25-300C cho đa số các
loài Penicillium và từ 30-400C cho đa số các loài Aspergillus vì vậy loài Aspergillus
thường có ảnh hưởng nhiều trong nông sản thuộc các nước nhiệt đới. Các loài
9
Fusarium có nhiệt độ thích hợp ở 8-150C nên thường xảy ra ở các vùng khí hậu ôn
đới [89].
1.2.1.3 Bản chất của cơ chất
Nấm mốc cần nhiều loại chất dinh dưỡng cho nhu cầu năng lượng và tổng hợp
các đại phân tử như protein và DNA, vì nấm mốc không tự tổng hợp được
carbonhydrat nên cơ chất cần có chứa thành phần này, mặc dù nấm mốc có thể phát
triển trên một cơ chất giàu protein và dùng axit amin làm nguồn cung cấp carbon.
Nitơ hữu cơ thường dễ được nấm mốc sử dụng hơn nitơ vô cơ, một số nấm mốc lại
cần cung cấp vitamin trong khi một số khác có thể tự tổng hợp, do đó các loại hạt có
thể là đích của một số nấm mốc vì có sẵn các carbonhydrat dễ sử dụng. Sự tổn thương
lớp ngoài của hạt do côn trùng xâm nhập hoặc do kỹ thuật thu hoạch không thích hợp
có thể mở đường cho nấm mốc xâm nhập gây nhiễm cho hạt. Một số lớn chất biến
dưỡng được tạo thành trong quá trình phân giải carbohydrat, một số có tính độc đối
với người và động vật (mycotoxin), một số khác lại độc đối với vi sinh vật
(antibiotics) [139].
1.2.2. Sinh tổng hợp các mycotoxin
Mycotoxin là chất biến dưỡng thứ cấp (secondary metabolite) tương tự như
các sản phẩm khác do nấm tạo ra như chất kháng sinh, gibberellin và alkaloid, trong
khi đó các sản phẩm biến dưỡng sơ cấp (primary metabolite) như các axit amin, axit
béo, saccharide, axit nucleic và protein là rất cần thiết cho mọi cơ thể sống. Các vi
sinh vật tổng hợp chất biến dưỡng thứ cấp có thể dùng cả các enzym của quá trình
biến dưỡng sơ cấp hoặc nhờ các synthetase đặc hiệu. Nhưng do sự tổng hợp được xúc
tác bởi enzym nên thường sản xuất ra các nhóm chất hóa học có cấu tạo tương tự
nhau, như các Aflatoxin hoặc các penitrem. Mặc dù có nhiều loại độc tố nấm nhưng
chúng được hình thành qua một số ít con đường chuyển hóa. Các con đường chuyển
hóa này có liên quan đến chuyển hóa sơ cấp và sử dụng chung các chất trung gian
như acetyl CoA, mevalonic axit và axit amin (xem sơ đồ).
10
Sơ đồ chuyển hóa sơ cấp và chuyển hóa thứ cấp
CHẤT BIẾN DƯỠNG CHẤT BIẾN DƯỠNG CHẤT TRUNG GIAN THỨ CẤP SƠ CẤP
Acetyl coenzym A
Acid béo Polyketide
Acid mevalonic
Sterols Terpene
Acid amin
Protein Cyclic polypeptid
Acid shikimic
Acid phenolic Acid amin thơm Diphenylbenzoquinone
Mối quan hệ giữa chuyển hóa sơ cấp và chuyển hóa thứ cấp [90]
Hai hoạt động sinh trưởng và tổng hợp các chất biến dưỡng thứ cấp thường bổ
sung cho nhau, liên tiếp nhau mà không loại trừ nhau. Điều đó có nghĩa là các chất
biến dưỡng thứ cấp trong đó có mycotoxin được sản xuất ra là điều tự nhiên và là yếu
tố sống còn của vi sinh vật [19]. Ở nấm mốc các con đường chuyển hóa quan trọng
nhất là con đường polyketide, con đường terpenoid và quá trình chuyển hóa các acid
amin thiết yếu có thể tóm tắt trong bảng sau:
11
Bảng 1.1. Các con đường sinh tổng hợp Mycotoxin chủ yếu
Chất biến dưỡng thứ cấp Loại độc tố tiêu biểu
Polyketide:
Di- Moniliformin
Tetra- Patulin, penicillic acid
Penta- Citrinin, diplosporin, ochratoxin
Hexa- Maltorisin
Hepta- Rugulosin,viomellein, viriditoxin, xanthomegnin
Octa- Ergochromes, luteoskyrin
Aurovertin B, citreoviridin, cytochalasin, fumonisin, Nona- viridicatumtoxin, Zearalenon
Deca- Aflatoxin, austocystin, erythroskyrin, norsolorinic acid
Diketopiperazine (Dẫn xuất từ acid amin) Đơn giản Aspergillic acid, echinulin
Brevianamide, fumitremorgen, oxalin, roquefortine, Có biến đổi sporidesmin, verruculotoxin
Cyclopiazonic acid, tenuazonic acid Tetramic acid (acid amin +mevalonat)
phomopsin, rhizonin, tentoxin, Peptide
Ergotamine, tryptoquivaline Terpene
Mono- Viridicatumtoxin
Sesqui- Trichothecene
Aflatrem, janthitrem, lolitrem, paspaline, paxilline, Di- penitrem
Nguồn [137]
1.2.3 Các loài nấm và độc tố nấm trên lương thực - thực phẩm
Theo Moreau (1974) [96]: Đa số các nấm mốc thường gặp trên lương thực
thực phẩm và có vai trò sinh độc tố quan trọng thuộc về các giống (genus) sau:
12
- Aspergillus
- Penicillium
-Fusarium
Vì các nấm mốc sinh mycotoxin rất nhiều trong tự nhiên và các điều kiện thuận
lợi cho sự sản sinh độc tố thường dễ xảy ra, nên ít có loại thực liệu nào không bị
nhiễm mycotoxin.
Sau đây là danh sách các loài nấm mốc và độc tố nấm mốc quan trọng:
Bảng 1.2. Các độc tố từ những loài Fusarium
Loại độc tố
Loài nấm mốc Fumonisin Fusarin Butenolide Trichothe- cenes Zearale- none
F. monoliforme - + + - +
F. oxysporum + + - - +
F. culmorum + - - - +
F. avenaceum + - - - +
F. equiseti + + - - +
F. graminearum + - - - +
F. lateritium + - - - +
F. solani + - - - -
F. nivale + - - + -
Nguồn : Paterson, 1996
13
1.3. SỰ CHUYỂN HÓA VÀ TÁC ĐỘNG CỦA MYCOTOXIN TRONG CƠ THỂ ĐỘNG VẬT
1.3.1. Chuyển hóa mycotoxin trong cơ thể động vật
Trong khoảng 20 năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về chuyển hóa
của mycotoxin trong cơ thể động vật, số phận của một độc tố trong cơ thể động vật
phụ thuộc vào số độc tố được hấp thu phân bố trong các mô bào, sự chuyển hóa sinh
học và sự bài thải qua các sản phẩm động vật như thịt, trứng, sữa [53].
1.3.1.1 Sự hấp thụ mycotoxin
Hấp thụ qua đường tiêu hóa là giai đoạn đầu tiên của sự xâm nhập độc tố vào
cơ thể để đi vào dòng máu và sau đó được phân bố vào các mô bào của cơ thể. Có 3
kiểu hấp thụ qua niêm mạc ruột: (1) Khuếch tán (diffusion); (2) Hòa tan trong lipid
(lipid diffusion); (3) Vận chuyển nhờ protein mang (carrier transport).
Các chất có phân tử nhỏ và có ái lực với lipid như aflatoxin và zearalenon
thường xâm nhập theo cơ chế khuếch tán thụ động. Các thí nghiệm dùng chất phóng
xạ đánh dấu cho thấy aflatoxin được hấp thụ hoàn toàn ở tá tràng trên khỉ [157, 35,
32] . Đối với ochratoxin A có các nhóm chức phenol và carboxyl đều mang tính acid
cùng các độc tố khác như citrinin, cyclopiazonic acid và penicillic acid: sự hấp thụ
xảy ra ở phần trên của đường tiêu hóa [57]. Khả năng hấp thụ ochratoxin cao nhất ở
đoạn đầu tá tràng [82].
Để đánh giá mức hấp thụ qua đường tiêu hóa người ta đo lường giá trị sinh
học của độc tố (tỷ lệ giữa nồng độ độc tố trong huyết tương với thời gian từ lúc cho
uống hoặc tiêm vào tĩnh mạch). Ở bảng giá trị sinh học của deoxynivalenol và
ochratoxin A trên lợn, gà, thỏ khoảng 50-65% [120]. Ngược lại fumonisin được hấp
thụ rất kém vì giá trị sinh học chỉ có 0-6% trên bò sữa, gà, lợn [120]. Các dữ kiện
khác như thời gian cần thiết để đạt nồng độ tối đa trong huyết tương (tmax) hoặc số
lượng độc tố được bài xuất qua nước tiểu sau khi cho uống cũng là các bằng chứng
cho thấy có sự hấp thụ qua ruột.
14
1.3.1.2 Sự liên kết với protein huyết tương và phân bố độc tố trong máu
Sau khi được hấp thụ qua đường tiêu hóa, độc tố được vận chuyển trong hệ
tuần hoàn nhờ liên kết với các tế bào máu hoặc protein huyết tương. Cần phải làm rõ
hiện tượng này vì quá trình đó sẽ ảnh hưởng đến sự phân bố và loại thải độc tố ra
khỏi cơ thể.
Đối với aflatoxin B1, người ta nhận thấy huyết tương chứa hơn 90% độc tố ở
dạng liên kết với albumin, là thành phần quan trọng của protein huyết tương [159].
Các nghiên cứu sâu hơn trên chuột cho biết aflatoxin cạnh tranh với phenylbutazon ở
vị trí gắn với albumin nhưng không cạnh tranh với các vị trí gắn của cholate hoặc
warfarin trên albumin [42]. Ngoài liên kết có tính thuận nghịch trên, aflatoxin còn
liên kết với thành phần lysin của albumin huyết tương tạo thành dạng Shiff base [129].
Các loại mycotoxin khác cũng có khả năng liên kết thuận nghịch in vivo hoặc
in vitro như citrinin [36], ochratoxin A [57] hoặc rubratoxin B [144]. Trong trường
hợp ochratoxin A, các chất có khả năng ngăn cản sự liên kết giữa ochratoxin A và
protein gồm phenylbutazon, ethylbiscoumacetat và sulfa-methoxypyridazin (trên
lợn), chứng tỏ sự cạnh tranh về vị trí gắn với protein. Các chất trên đã được ứng dụng
trong điều trị nhiễm độc ochratoxin A. Zearalenon có thể liên kết với các thành phần
của tế bào hồng cầu đã được chứng minh trên gà đẻ [34].
1.3.1.3 Chuyển hóa độc tố nấm mốc trong cơ thể động vật
Dược động học của mycotoxin
Dựa trên sự đo lường biến thiên nồng độ của độc tố trong huyết tương theo
thời gian. Sau khi cấp qua đường miệng, đường biểu diễn của mức độc tố trong huyết
tương có liên hệ với giai đoạn hấp thụ và sau đó là giai đoạn đào thải. So sánh với
các thí nghiệm tiêm tĩnh mạch cho phép xác nhận thời gian đạt mức cao nhất trong
huyết tương (tmax), bán thời gian sinh học của độc tố (t1/2), thể tích phân bố (Vd) và
giá trị sinh học tương đối của độc tố được hấp thụ (F) được trình bày trong bảng. Dựa
trên bảng này ta nhận thấy một số mycotoxin bị chuyển hóa rất nhanh hoặc bài thải
15
nhanh (t1/2 thấp): aflatoxin B1, fumonisin, penicillic acid. Ngược lại citrinin,
cyclopiazonic acid, rubratoxin hoặc ochratoxin được lưu giữ lâu [58]. Về phân bố
trong cơ thể, các độc tố của nấm Fusarium và độc tố penicillic acid phân bố rộng rãi
trong khi ochratoxin A, aflatoxin B1 hoặc citrinin phân bố hạn chế trên mô bào, có lẽ
do tính ái lực với protein huyết tương.
Chuyển hóa độc tố thành các chất trung gian
Chuyển hóa sinh học của mycotoxin là giai đoạn quan trọng ảnh hưởng đến số
phận của độc tố này trong cơ thể động vật. Nói chung các biến đổi sinh học được coi
như là con đường chuyển hóa bởi enzym tạo thành các sản phẩm dễ hòa tan hơn và
kém độc tính hơn qua các phản ứng thủy phân (hydroxyl hóa), phản ứng khử hoặc
tạo thành dạng liên kết. Thí dụ như deepoxytrichothecene, ochratoxin , aflatoxicol,
glucuronid, …
Các quá trình giảm độc xảy ra trong gan nhưng cũng thấy ở trong dạ cỏ hoặc
các chất chứa trong ruột do hoạt động phân giải của vi sinh vật dạ cỏ hoặc hệ vi sinh
vật và các enzym trong đường ruột. Cần chú ý phản ứng oxy hóa trong cytochrom P
450 thường tạo ra các chất có độc tính cao hơn như các hydroxyl hóa hoặc các dẫn
xuất epoxy (aflatoxin, fusarin C).
16
Bảng 1.3. Dược động học của mycotoxin trên lợn và chuột
tmax t1/2 Vd Tác giả Độc tố Loài thú Liều (mg/kg) Đường cấp F (%) (giờ) (giờ) (l/kg)
1,5 I/V 0,48 0,42 Wong, 1980 Aflatoxin B1 Chuột đồng
Citrinin 35 S/C 39,7 Reddy, 1982 Chuột đồng
5 Uống 1 33,0 Norred, 1985 Cyclopiazo nic acid Chuột đồng
DON Lợn 0,5 I.V. 2,1- 3,6 1,24- 1,46 Coppock, 1985
DON Lợn 0,6 Uống 8,5 1,34 0,2- 0,5 48- 65 Prelusky, 1988
Lợn 0,5 Uống 3,0 2,40 3-6 Fumonisin B1 Prelusky, 1994
7,5 I/P 0,33 0,3 0,87 Fumonisin B1 Chuột đồng Shephard, 1992
7,5 I/P 0,17 0,43 0,87 Fumonisin B2 Chuột đồng Shephard, 1995
2,5 Uống 1 57,7 0,12 67 Galtier, 1979 Ochratoxin A Chuột đồng
Lợn 0,5 Uống 10 88,8 0,04 65,7 Galtier, 1981 Ochratoxin A
90 Uống 0,5 1,9 1,93 Chan, 1984 Penicillic acid Chuột bạch
0,2 I/P 0,2 68 0,23 Unger, 1979 Rubratoxin B Chuột đồng
17
1.3.1.4 Phân bố mycotoxin trong mô bào động vật
Aflatoxin
Sau khi vào gan qua hệ thống tĩnh mạch cửa, aflatoxin B1 tập trung chủ yếu ở
gan. Điều này có lẽ do tính thấm cao của màng tế bào gan, hoạt động chuyển hóa cao
và các liên kết cộng hóa trị với các đại phân tử [157]. Ở loài nhai lại, thận có thể chứa
hàm lượng aflatoxin cao nhất và cả dạng hydroxyl hóa của độc tố là aflatoxin M1
được phát hiện trong sữa [53]. Trên loài gia cầm, mức aflatoxin cao nhất ở mề, gan,
thận của gà thịt, gà đẻ và gà tây được cho ăn khẩu phần có 0,5-3,3 ppm aflatoxin B1
trong 18-35 ngày [66]. Thông thường aflatoxin M1 cũng xuất hiện trong các loại mô
trên ở dạng tự do hoặc liên kết. Ở cá không thấy aflatoxin B1 và các chất biến dưỡng
của nó trong phần thịt của cá khi cho ăn thức ăn nhiễm aflatoxin B1[119].
Ochratoxin A
Lợn được cho ăn khẩu phần có ochratoxin A trong 2-8 tuần sẽ có dư lượng cao
nhất trong thận, kế đó là cơ, gan và mỡ [87]. Khi ngưng cho lợn ăn độc tố, nồng độ
ochratoxin A trong các mô trên giảm xuống rất nhanh. Gà thịt và gà đẻ được cho ăn
khẩu phần có ochratoxin A sẽ có sự tích lũy độc tố trong thận, gan, cơ nhưng không
thấy trong mỡ và da [81].
Trichothecene
Nhiều nghiên cứu chứng minh là không có sự tích lũy dư lượng độc tố khi cho
lợn ăn khẩu phần có DON. Khi cho lợn ăn khẩu phần có 6-7,6 ppm DON trong 3-7
tuần, chỉ phát hiện khoảng dưới 10 ppb trong mô bào. T 2-toxin ít được nghiên cứu
vì nó hấp thụ rất kém và bị loại ra nhanh chóng qua nước tiểu, trường hợp của DAS
cũng tương tự. Ở gia cầm, hầu như không phát hiện trichothecene trong thịt gà [86].
Fumonisin B1
18
Các nghiên cứu trên lợn gần đây với độc tố được đánh dấu cho biết nó có giá
trị sinh học thấp, như nghiên cứu cho lợn ăn khẩu phần có 2-3 ppm độc tố này trong
24 ngày, người ta phát hiện mức tích tụ cao nhất ở gan và thận (160 ppb và 65 ppb
theo thứ tự). Sau khi ngưng cho ăn độc tố, hàm lượng độc tố trong các mô này giảm
xuống nhanh chóng trong 9 ngày sau đó [120]. Cho gà đẻ ăn một liều duy nhất 2
mg/kg thể trọng, người ta chỉ phát hiện các vết của độc tố trong gan, thận và ống tiêu
hóa. Do đó, fumonisin không ảnh hưởng đến sức khỏe người tiêu dùng sản phẩm thịt
gia súc gia cầm.
1.3.1.5 Bài thải mycotoxin
Bài thải qua phân và nước tiểu: Sau khi hấp thụ qua đường tiêu hóa, đường
tiểu là đường bài thải thích hợp cho các loại độc tố như aflatoxin B1, citrinin,
ochratoxin A, fusarin C, patulin hoặc zearalenon, đặc biệt có ái lực với thận là
ochratoxin và citrinin. Bài thải qua phân được coi như hậu quả của sự kém hấp thụ
qua niêm mạc tiêu hóa hoặc do tác động của mật giúp loại thải độc tố và các chất
chuyển hóa của chúng. DON, fumonisin B1 và T 2-toxin thường ít được hấp thụ trong
khi aflatoxin B1, cyclopiazonic acid, ochratoxin A hoặc zearalenon được loại thải qua
mật ở dạng các hợp chất liên kết. Ngoài ra sự tái hấp thụ qua tuần hoàn gan – ruột ở
trường hợp ochratoxin A [125] và zearalenon [20] đã được chứng minh.
Bài thải qua sữa: Trên phương diện an toàn thực phẩm, sự bài xuất aflatoxin
B1 và ochratoxin A qua sữa được coi là các trường hợp có thể ảnh hưởng đến sức
khỏe người tiêu thụ.
Bài thải qua trứng: Đã có nghiên cứu cho thấy, khả năng chuyển hóa của độc
tố vào trong trứng, hiện nay người ta chỉ thấy Zearalenon có thể chuyển hóa vào trứng
(lòng đỏ) với số lượng đáng kể.
19
1.3.2. Tác động sinh hóa học của mycotoxin
Mycotoxin là chất biến dưỡng thứ cấp được nhiều loài nấm mốc sản sinh ra,
tác động của nó ảnh hưởng đến hoạt động của tế bào động vật, trong phần này chúng
tôi giới thiệu về các tác động của mycotoxin lên trao đổi chất của tế bào.
1.3.2.1 Hoạt hóa mycotoxin
Một số lớn mycotoxin không cần được hoạt hóa mà chúng có thể gây độc trực
tiếp cho tế bào như trường hợp của PR-toxin, patulin, cirinin, trichothecene,
zearalenon, ochratoxin A. Trái lại aflatoxin chỉ có độc tính sau khi được chuyển hóa
trong cơ thể động vật [26, 60]. Chất tạo thành là aflatoxin B1 8, 9-epoxide nó được
coi như một chất biến dưỡng, có hoạt tính rất cao có thể gắn với các đại phân tử
(DNA, RNA và protein) làm rối loạn hoạt động bình thường của tế bào [138]. Hiện
nay, người ta biết hệ enzym monooxygenase trong cytochrom P450 rất phong phú ở
tế bào gan, sự tương tự về cấu trúc giữa aflatoxin B1 và sterigmatocystin khiến người
ta nghĩ là chất sau này có kiểu hoạt hóa tương tự (ở vị trí nối đôi giữa C8 và C9 ở
vòng furan ngoài cùng), các kết quả thực nghiệm đã xác nhận giả thiết này.
1.3.2.2 Tác động của mycotoxin lên trao đổi chất của tế bào
(1) Tác động trên tổng hợp acid nucleic
Đa số các mycotoxin đều có ảnh hưởng đến sinh tổng hợp axit nucleic, các
khảo sát về sinh hóa đều nhằm vào các biến đổi chuyển hóa của DNA và RNA. Sự
nhân lên của DNA bị ngăn cản bởi aflatoxin B1 [115] hay bởi T 2-toxin [142-143]
và hoạt tính ngăn cản DNA phụ thuộc vào lượng độc tố và tính mẫn cảm của loài
động vật [83].
Sự ngăn cản tổng hợp RNA xảy ra sau khi bị tác động bởi actinomycin D [60]
và bởi một số mycotoxin: aflatoxin B1 [83], các chất trên tác động vào khâu sao chép
(transcription). Các thí nghiệm in vitro đã giúp làm rõ cơ chế phân tử của sự ngăn trở
cũng như ở từng khâu của chuỗi phản ứng: actinomycin D và furocumarin tác động
20
lên hoạt động của chuỗi DNA template [69] trong khi PR-toxin, -amanitin và patulin
lại tác động đến bản thân RNA polymerase, còn aflatoxin B1 [45] và luteoskyrin tác
động ở cả hai khâu trên.
Sự khởi đầu của sao chép RNA bị cản trở bởi aflatoxin B1 và patulin trong khi
đó -amanitin lại ngăn cản sự kéo dài của chuỗi polynucleotide [97]. Sự tổng hợp
RNA trong nhân tế bào gan chuột cống rất nhạy cảm với aflatoxin B1. Sự tổng hợp
chuỗi 45 S và quá trình tạo thành RNA ribosom bị độc tố này cản trở rất nhanh và
mạnh [162].
(2) Tác động trên tổng hợp protein
Sự cản trở tổng hợp protein bởi mycotoxin thường xảy ra trên nhiều loại mô
bào của nhiều loài động vật, đó là do sự biến đổi ở ribosom: không liên kết được hoặc
do biến đổi về cấu trúc [71]. Cơ chế của hiện tượng này khó làm sáng tỏ vì cần phải
phân biệt giữa tác động cản trở sự tổng hợp RNA và sự tác động lên quá trình sao
chép. Trên thực tế hai loại tác động trên có thể xảy ra đồng thời hoặc liên tiếp nhau
do 1 mycotoxin.
Nhiều nghiên cứu mang lại thông tin về các tác động độc hại của DON ở động
vật có vú, đặc biệt là các loài gặm nhấm [90, 155]. Ở cấp độ phân tử, DON nhắm đến
ribosome. Nó liên kết với vị trí A của peptidyl transferase trung tâm (PTC) của cơ
quan này [67]. Liên kết này được liên kết đến nhóm epoxy và nhóm C3 của phân tử
DON [115]. Tương tác với ribosome dẫn đến sự ức chế sự kéo dài của bước kéo dài
chuỗi tổng hợp protein dẫn đến sự ức chế RNA, DNA và protein tổng hợp [112]. Hoạt
động gắn kết ribosome này một số protein kích hoạt mitogen liên kết với ribosome
kinase (MAPKs) bao gồm p38, c-Jun N-terminal Kinase (JNK), và kinase điều chỉnh
tín hiệu ngoài tế bào 1 và 2 (ERK1 / 2), một hiệu ứng được gọi là "stress ribotoxic"
đáp ứng [10].
21
Độc tố fumonisin B1 gây độc cho gan và gây độc cho thận trong tất cả các loài
động vật, thay đổi mô học đầu tiên xuất hiện trong gan hoặc thận động vật fumonisin
xử lý được tăng apoptosis tiếp theo là phát triển tế bào tái sinh. Hai bệnh xảy ra ở
động vật nuôi với khởi phát nhanh: ngựa leukoencephalomalacia, lợn phù phổi. Cả
hai bệnh liên quan đến rối loạn quá trình trao đổi chất sphingolipid và rối loạn chức
năng tim mạch. Wang et al. (1991)[153] đã chứng minh rằng FB1 phá vỡ sphingolipid
(quá trình trao đổi chất bằng cách ức chế sphingosine N-acyltransferase (ceramide
synthase) microsomes trong gan chuột, (sphingolipid là 1 nhóm lipid màng lớn, đóng
vai trò quan trọng trong việc truyền tín hiệu và nhận biết tế bào) sphingolipidoses,
hoặc rối loạn trao đổi chất sphingolipid, có tác động lớn đến mô thần kinh). Mặt khác
cũng đã được chứng minh là FB1 ức chế các enzym trong tế bào bao gồm
phosphatases protein và synthetase arginosuccinate, những emzym này tham gia quá
trình chuyển hóa protein và chu kỳ urê (urea cycle) [79]. Vì vậy, FB1 gây độc bằng
cách ức chế quá trình trao đổi chất sphingolipid, chuyển hóa protein, và chu kỳ urê.
Một ý kiến khác cũng khẳng định điều này, fumonisin có chứa nhóm amino tại vị trí
C2 làm ức chế quá trình tổng hợp ceramide bằng cách làm ngăn cản quá trình sinh
tổng hợp ceramide và chuyển hóa sphingolipid (ceramide là một sphingolipid với
nhóm R chỉ bao gồm một nguyên tử hydro) [146]. Đầu tiên chúng làm ức chế
sphinganine (Sa) và làm giảm mức độ sphingosine (So) trong các mô, huyết thanh,
và nước tiểu; tác động đến cấu trúc sphingoid, làm tăng tỷ lệ Sa:So trong các mô bào.
Fumonisin B1 chiếm tương tác không gian và điện của cả hai sphinganine (hoặc
sphingosine) và acyl-CoA trong quá trình tổng hợp ceramide. Các thành phần của
FB1 có cấu trúc tương tự với các cấu trúc cơ bản của Sphingoid (phần aminopentol)
nên có thể có tương tác với bên liên kết của sphinganine, trong khi các nhóm axit tích
điện âm tricarbyllic có thể tương tác với bên liên kết nhóm acyl-CoA, bởi vì FB1
chiếm chỗ của acyl-CoA béo, nó không phải là acyl hóa, mà acyl-CoA là cần thiết
cho acyl hóa, cho nên FB1 chỉ ức chế enzym tổng hợp ceramide. Tuy nhiên, khi các
nhóm axit tricarbillic được loại bỏ từ FB1 do thủy phân, kết quả sản phẩm
(aminopentol, AP1) không chỉ hoạt động như một chất ức chế, mà còn là một chất
22
nền cho synthase ceramide, aminopentol được acyl hóa bởi synthase ceramide để hình
thành N-palmitoyl-AP1. N-palmitoyl-AP1 là một chất ức chế rất mạnh của quá trình
tổng hợp ceramide và do đó có thể đóng một vai trò quan trọng trong độc tính của
Fumonisins nixtamalized. Fumonisins có thể ức chế hoạt động của các mạch phổi đại
thực bào trong việc loại bỏ các hạt vật chất và các mầm bệnh từ việc lưu thông, động
vật do đó có thể trở nên dễ bị nhiễm bệnh [134].
Cơ chế chung của trichothecenes là ức chế quá trình sinh tổng hợp protein, đây
là biểu hiện sớm nhất trong quá trình nhiễm độc, độc tố này ảnh hưởng đến nhiều
bước của quá trình dịch mã. Trichothecenes là chất ức chế mạnh mẽ đến sự tổng hợp
protein bằng cách phản ứng với các thành phần của ribosome (cấu trúc bên trong tế
bào), phong tỏa quá trình kéo dài chuỗi polypeptid ở vị trí peptidyl transferase của
thành phần 60 S của ribosom nên không tạo thành polysom được [156].
Trichothecenes khác với hầu hết các độc tố khác vì nó có thể tác động qua da,
sau khi tác động trực tiếp với da hoặc uống bằng miệng, độc tố nấm mốc trichothecene
có thể gây kích ứng nhanh chóng đối với da hoặc niêm mạc ruột, độc tố nấm mốc gây
ra sự ức chế nhanh chóng sự tổng hợp protein và phân tách polyribosomal. Như vậy,
chúng ta có thể khẳng định rằng các độc tố nấm mốc trichothecene có khả năng phản
ứng trực tiếp với các thành phần của tế bào, DON hay còn gọi là độc tố ói mửa do nó
gây nôn ói sau khi ăn, chất độc này truyền lên não gây kích ứng các receptors.
Tác động cản trở tổng hợp protein (in vivo) bởi aflatoxin B1 trên tế bào gan
chuột cống cho thấy 2 giai đoạn: trong giai đoạn đầu tiên (chủ yếu là 5 giờ đầu), tác
động cản trở là do aflatoxin tác động trực tiếp lên polysom làm ngăn cản sự kéo dài
ra của chuỗi polypeptid hoặc làm kết thúc quá trình sao chép. Sau 7 giờ, tác động cản
trở chủ yếu là do hậu quả của sao chép bị trục trặc, dẫn đến giảm RNA ribosom và
RNA thông tin [130]. Người ta cho rằng sự xuất hiện các polysom hình xoắn ốc (do
các ribosom xếp quá gần nhau trên sợi RNA thông tin) có thể được phát hiện 1 giờ
sau khi có tác động của aflatoxin. PR-toxin và patulin cũng trực tiếp làm giảm tổng
23
hợp protein do ngăn cản sự gắn các acid amin vào chuỗi polypeptid. Nguyên nhân là
do làm thay đổi pH của các thành phần enzym hơn làm biến đổi polysom [71].
(3) Tác động lên chuỗi phosphoryl-oxy hóa
Một số mycotoxin can thiệp vào các giai đoạn trong chuỗi hô hấp ở ty thể, tác
động của aflatoxin B1, G1 và M1 xảy ra ở đoạn giữa cytochrom b và c [43].
Luteoskyrin ngăn cản hoạt động của nhiều enzym trong chu trình Kreb tạo sự không
phối hợp giữa chuỗi hô hấp và chuỗi phosphoryl hóa [130]. Ochratoxin cũng ngăn
cản chuỗi vận chuyển điện tử [91], các độc tố khác như rubratoxin và patulin can
thiệp vào các phản ứng oxy hóa theo cơ chế chưa rõ. Đối với phương diện hình thái
thì mycotoxin thường gây tác động làm cho ty thể bị phình to [97].
(4) Các tác động khác
Bảng 1.4. Tác động của mycotoxin trên các hệ thống của cơ thể động vật
Hệ thống Mycotoxin
Hệ thống trao đổi chất
Trao đổi carbohydrat Aflatoxin, ochratoxin A, phomopsin A
Trao đổi lipid Aflatoxin,ochratoxin A, T 2-toxin, citrinin, rubratoxin B
Tổng hợp vitamin Aflatoxin, dicoumarol
Tổng hợp protein Aflatoxin, trichothecene
Hô hấp của ty thể Aflatoxin, ochratoxin A, rubratoxin B, patulin
Aflatoxin, zearalenon, ergot alkaloid Hệ thống nội tiết
Aflatoxin, ochratoxin A. Hệ thống xương
Nguồn Shull và Cheeke, 1983
1.3.2.3 Tác động của mycotoxin lên DNA
Tác động giữa mycotoxin và protein in vivo và in vitro làm giảm hoạt động
của các enzym, làm thay đổi tính thấm của màng tế bào và làm biến đổi các thành
phần siêu cấu trúc của tế bào đã được biết [15]. Quan trọng hơn là sự tương tác giữa
24
mycotoxin và DNA có thể dẫn đến các hiện tượng đột biến (mutagenic), sinh quái
thai (teratogenic) và gây ung thư (carcinogenic).
Các kết quả nghiên cứu ở nhiều phòng thí nghiệm đã chứng tỏ nối cộng hóa
trị giữa phân tử aflatoxin B1 (đã hoạt hóa) với nguyên tử N7 của nhóm guanin trên
chuỗi DNA (DNA adduct) đã đóng vai trò quan trọng trong việc tạo ra các biến đổi
về chức năng của DNA [85]. Một số mycotoxin khác cũng liên kết với DNA. Thí dụ
liên kết giữa DNA và luteoskyrin làm xuất hiện nhiều kiểu liên kết, trong đó có phức
hợp gồm 3 thành phần: DNA – Mg2+ - toxin [102]. Một kiểu liên kết đặc biệt của PR-
toxin: tạo thành cầu nối methyl giữa độc tố này với cả DNA và protein [96]. Các biến
đổi trên các trình tự thông tin ở DNA là hậu quả của sự tương tác giữa mycotoxin và
DNA. Trong số nhiều loại mycotoxin có thể gây đột biến thì aflatoxin B1 được xếp
vào hàng đầu [98]. Trên tế bào vi khuẩn E.coli cũng như trên tế bào eukaryotic: do
có sự sai lệch trong khâu sao chép dẫn đến đột biến trên DNA [130].
Khả năng gây ung thư gan của aflatoxin B1 trên nhiều loại động vật đã được
biết đến từ lâu. Hiện nay độc tố này được coi như có vai trò trong bệnh ung thư gan
nguyên phát trên người khi ăn phải độc tố aflatoxin B1 trong thức ăn. Ngoài ra còn
phối hợp với virus viêm gan B gây ung thư gan đã được xác nhận tại Taiwan [154].
Do tác động của aflatoxin khi gắn vào vị trí của guanin đã làm biến đổi G thành T,
thí dụ: AGG thành AGT ( arginin chuyển thành serin) ở vị trí số 3 của codon 249
(gen p53) trên chuỗi DNA là gen ức chế ung thư do đó khởi phát hoạt động của gen
gây ung thư. Hiện nay đã phát hiện 14 loại mycotoxin có thể gây ung thư gan [136].
1.3.3. Tác động sinh học của độc tố nấm mốc fumonisin và deoxynivalenol
1.3.3.1 Fumonisin
Đặc điểm chung
Fumonisin là loại độc tố do loài nấm Fusarium monoliforme thường gặp trên
rễ lá thân và hạt ngô bị mốc, bệnh ở lợn (Porcine pulmonary edema) gây phù nề và
25
tràn dịch phổi, bệnh ở ngựa (Equine leucoencephalomalacia) là những bệnh rất nặng,
nhưng tác động trên loài gia cầm chưa rõ.
Hình 2.1. Cấu trúc phân tử fumonisin B1 và B2 [137]
Công thức hóa học gồm chuỗi dài polyhydroxyl alkylamin, chia làm 7 loại A1,
A2, B1, B2, B3, B4 và C1 [89]. Trong đó, fumonisin A1 và A2 là các dẫn xuất của
fumonisin B1 và B2 theo thứ tự, loại có độc tính cao nhất là fumonisin B1 (FB1).
Fumonisin có cấu trúc tương tự như sphingolipid, vì vậy tác động của nó là ức chế
sinh tổng hợp sphingolipid và đặc điểm của bệnh này thường gây ra các bệnh tích ở
phần chất trắng của não. FB1 là hợp chất diester tạo thành của propane-1,2,3-tricarb-
oxylic axit và 2-amino-12,16-dimethyl- 3,5,10,14,15- pentahydroxyeicosane
(Hình.1). Độc lực của nó được biết rộng rãi [148,46]. Chức năng cơ bản của amine
và sự hiện diện của axit tricarballylic bên trong chuỗi rất cần thiết cho các hoạt động
sinh học của FB1, ví dự như thay thế N trong fumonisin thì khi fumonisin thuỷ
26
phân sẽ không tác hại gì cả trong in vitro và trong in vivo [72, 67]. FB1 có một nhóm
amino chính không thể thay thế ở vị trí C2 và gây ức chế cạnh tranh tổng
hợp ceramide, dẫn đến sự gián đoạn giai đoạn đầu sinh tổng hợp ceramid và làm thay
đổi sự chuyển hóa sphingolipid. Hậu quả trực tiếp của sự ức chế tổng hợp ceramide
là sự tích tụ của các enzymes có cơ chất sphinganine (Sa) và, làm giảm nồng
độ sphingosine (So) trong mô, huyết thanh và nước tiểu. Trong thực tế sự gia tăng
tỷ lệ Sa: So trong mô và dịch sinh học được xem như một dấu hiệu bị phơi nhiễm với
fumonisin ở một vài loài mặc dù sự thay đổi của sphingoid trong dịch sinh học chỉ
mang tính tạm thời [147].
Tác động sinh học
Có 2 thể bệnh do độc tố ở ngựa: thể thần kinh thường là thể cấp tính và gây
chết; thể gan với đặc điểm hoàng đản, xuất huyết và phù thủng. Bệnh được phát hiện
ở Mỹ từ cuối thế kỷ thứ XIX và sau đó thấy ở nhiều nước khác như Nam Phi, Ai Cập,
Trung Quốc, Brazil và Arhentina. Các trường hợp nhiễm độc đều do ăn phải ngô bị
mốc nhất là trong mùa mưa. Triệu chứng đầu tiên của bệnh xuất hiện đột ngột, thú
khó chịu, thường lắc đầu về phía sau, rung cơ, rối loạn di chuyển và nằm liệt. Bệnh
tiến triển với các dấu hiệu thần kinh ngày càng rõ ràng, bại liệt môi dưới và không
nuốt được, ngựa thường chết sau 2-3 ngày. Trước khi chết, con vật thường nằm co
quắp và chân chòi đạp như bơi chèo, bệnh tích đặc trưng là một hoặc nhiều vùng hoại
tử hóa lỏng ở phần chất trắng của bán cầu não, xuất huyết quanh mạch và phù thủng
cũng có thể thấy. Bệnh tích của thể gan gồm có hoàng đản và xuất huyết rải rác trên
gan, trong khi bệnh tích vi thể cho thấy xơ hóa, thoái hóa mỡ và tăng sinh ống dẫn
mật.
1.3.3.2 Deoxynivalenol
Mặc dù deoxynivalenol gây ra nhiều loại hội chứng trên nhiều loài thú nhưng
các triệu chứng chung thường bao gồm nôn mửa, chán ăn, gây loét và viêm niêm mạc
27
đường tiêu hóa, gây độc cho cơ quan tạo huyết và rối loạn thần kinh. Các biến đổi
trên là do tác động ngăn trở sinh tổng hợp protein.
Hình 2.2. Cấu trúc hóa học của DON: 12,13-epoxy-3α,7α,15 trihydroxytrichothec-
9-en-8-on [92].
DON là loại phổ biến nhất nhưng độc tính xếp thấp nhất trong nhóm các
trichothecene. Chúng còn được gọi tên là vomitoxin do triệu chứng nôn mửa khi
nhiễm độc tố này [33]. Dạng B của trichothecene đây là một họ gồm nhiều chất có
cấu trúc tương tự với độc tố nấm mốc, nó bao gồm cả DON, nó tác động làm tăng
cường hay giảm chức năng miễn dịch bằng cách phá hủy các tín hiệu liên quan đến
việc sản sinh bạch cầu [103]. Tùy thuộc vào liều lượng và tính thường xuyên hay thời
gian tiếp xúc với DON mà có tác dụng tăng cường hay ức chế hệ miễn dịch của cơ
thể [110]. Deoxynivalenol có thể kích thích phản ứng chống viêm nhiễm cho cơ thể
động vật bằng cách tác động vào ribosome, bao gồm phản ứng gọi là Ribotoxic, nó
sẽ kích hoạt hệ thống chuyển đổi MAPK, nó sẽ kích thích sự hoạt hóa các gen tạo ra
các các protein miễn dịch [110-111].
Ở cừu, cho ăn khẩu phần có bột mì nhiễm độc tố ở mức 16,5mg/kg thể trọng
trong 4 tuần lễ không thấy có ảnh hưởng đến lượng thức ăn tiêu thụ, tăng khối lượng,
hoặc hiệu quả chuyển biến thức ăn. Cho vào đường tiêu hóa, DON được nhanh chóng
loại ra không thay đổi (95%) là bài tiết qua nước tiểu. Các kết quả trên chứng tỏ tác
28
động DON trên thú nhai lại hầu như rất thấp và không có cơ quan nào bị biến đổi
bệnh lý. Cơ quan FDA (Mỹ) quy định mức thấp hơn 2 mg/kg lúa mì trước khi đưa
vào chế biến, 1 mg/kg trong bột mì dùng cho người, 4 mg/kg đối với bột mì hoặc sản
phẩm từ bột mì dùng cho gia súc ăn [160].
Tác động trên gia cầm tương đối nhẹ nhất so với các độc tố trichothecene khác,
ở thể cấp: xuất huyết vệt trên quầy thịt, phân có nhiều urat và rối loạn hệ thần kinh
[68] cho gà thịt ăn 0,02-4,8 ppm DON mà không thấy có ảnh hưởng. Gà mái đẻ được
cho ăn các nồng độ khác nhau: 0,7-83 ppm [68] không thấy ảnh hưởng đến tỷ lệ đẻ
trứng, khối lượng trứng, bề dày vỏ trứng, tăng khối lượng và chuyển biến thức ăn.
Trong cấu trúc hóa học của DON (hình 2) có chứa 3 nhóm hydroxy (-OH) tự
do, nhóm này liên quan đến tính độc của nó. DON có thể chịu đựng ở nhiệt độ cao
170 °C đến 350 °C, ở nhiệt độ 170°C sau 30 phút không làm giảm nồng độ của DON
[92], tuy nhiên, nấu trong môi trường nước dễ làm giảm nồng độ của DON [88,100].
1.3.4 Bệnh nhiễm độc do mycotoxin
Tác động sinh học của mycotoxin rất đa dạng tùy theo loại mycotoxin và loài
thú mẫn cảm. Ở đây chúng tôi tổng hợp một số tác động sinh học nói chung của
mycotoxin gồm có nhiễm độc là chủ yếu, ngoài ra còn một số tác động khác như gây
độc tế bào, gây ung thư, đột biến, sinh quái thai, ức chế miễn dịch, ức chế vi sinh vật
khác, tác động diệt côn trùng và gây độc cho thực vật. Trong thực tế, một loại thức
ăn bị mốc thường có nhiều hơn 1 loại độc tố nên tác hại có thể tăng lên. Sự phối hợp
thường thấy là trường hợp aflatoxin với ochratoxin hoặc aflatoxin với T 2-toxin [10].
Các bệnh do nấm không có tính truyền nhiễm mà thường là các bệnh nhiễm độc
cấp và mãn tính, các thú khác nhau về tính mẫn cảm với mycotoxin. Các thú non
thường mẫn cảm hơn thú trưởng thành cũng như sự khác biệt giữa các cá thể. Có thể
tóm tắt các đặc điểm của mycotoxin và bệnh mycotoxicosis như sau:
29
Các đặc điểm về lâm sàng ở bệnh nhiễm độc tố nấm mycotoxicoses: (1) Có
tính mùa vụ và xảy ra rải rác, thường liên quan đến phương thức tiêu thụ một loại
thực liệu dự trữ hoặc 1 loại cây trồng nhất định; (2) Bệnh do độc tố nấm mốc gây ra
không có tính truyền nhiễm; (3) Bắt đầu của bệnh thường là các triệu chứng không
rõ ràng: thú yếu ớt, giảm tăng trưởng hoặc giảm miễn dịch; (4) Đây là một bệnh
không do vi khuẩn gây nên vì vậy điều trị bằng kháng sinh không thấy hiệu quả; (5)
Sự bình phục tùy thuộc vào loại và số lượng mycotoxin ăn vào và thời gian đã ăn
thức ăn đó; (6) Chỉ có thể chứng minh bệnh qua phát hiện mycotoxin (trong phòng
thí nghiệm) trong thức ăn nghi ngờ hoặc trong mô, chất tiết hoặc chất bài tiết từ thú
bệnh; (7) Các biến đổi bệnh lý đặc trưng ở các cơ quan đích của động vật hỗ trợ cho
chẩn đoán.
1.3.4.1 Nhiễm độc cấp tính
Nhiễm độc cấp tính do ăn phải một lượng lớn độc tố nấm mycotoxin, bệnh
diễn biến trong thời gian ngắn và thú có thể chết. Người ta thường khảo sát liều gây
chết 50% (LD-50) và dùng nó để so sánh độc tính của các mycotoxin khác nhau trên
động vật. Ngoài tác động gây độc chung cho cơ thể, một số cơ quan bị tác động đặc
biệt bởi các mycotoxin. Thí dụ aflatoxin gây độc cho gan, citrinin gây độc cho thận,
acid penicillic gây độc cho tim [113], vomitoxin làm thú ít ăn và gây nôn mửa [145].
1.3.4.2 Nhiễm độc mãn tính
Nhiễm độc mãn tính thường xảy ra trong tự nhiên hơn là tình trạng nhiễm độc
cấp tính do thú tiếp xúc với một lượng độc tố thấp trong thời gian kéo dài. Lý do là
thường thú không chỉ ăn một loại thức ăn duy nhất, bệnh thường ít có triệu chứng
điển hình mà chỉ thể hiện qua sinh trưởng kém, giảm năng suất và một số độc tố còn
gây ức chế miễn dịch. Tiếp xúc với độc tố kéo dài còn có khả năng gây đột biến, ung
thư, sinh quái thai.
Các bệnh do độc tố nấm còn có thể được phân loại như sau: (1) Căn cứ vào
nguồn gốc của độc tố nấm, người ta có thể chia ra làm bệnh độc tố nấm nguyên phát
30
(Primary mycotoxicosis), bệnh độc tố nấm thứ phát (secondary mycotoxicosis). (2)
Căn cứ vào đối tượng bị bệnh do ăn phải độc tố nấm mycoyoxin, chia làm bệnh độc
tố nấm ở người và bệnh độc tố nấm ở thú.
1.3.5 Phương pháp phân tích độc tố fumonisin và deoxynivalenol
Hiện nay, phương pháp chính xác đáng tin cậy được biết với việc sử dụng các
sắc ký lớp mỏng (TLC) cũng như sắc ký lỏng cao (HPLC), với sự xuất hiện của HPLC
liên quan đến phát hiện của khối phổ (LCMS và LC / MSMS) bên cạnh sắc ký khí
khối phổ (GC / MS), các hệ thống chẩn đoán có xu hướng nhanh hơn và chính xác
hơn. Các xét nghiệm miễn dịch có thể được sử dụng để lựa chọn trong trường hợp
đặc biệt hay bán định lượng, việc sử dụng phương pháp dùng sắc ký (hóa chất) để
đánh giá chẩn đoán độc tố nấm mốc đã được quốc tế chấp nhận.
1.3.6 Quy định mức cho phép mycotoxin
Hiện có khoảng 60 nước trên thế giới đã có các quy định chính thức về mức
cho phép các mycotoxin trong lương thực và thực phẩm, nhưng chỉ mới liên quan đến
aflatoxin mà thôi. Một số mycotoxin khác như fumonisin B1, zearalenon và
trichothecene chưa có đủ căn cứ để đưa ra quy định chính thức, các nước thuộc khối
EC (European Commission) cũng chỉ mới quy định mức tối đa của một số ít loại
mycotoxin trong thực phẩm mà thôi, tổ chức GATT (Gerneral Agreement on Tariff
and Trade) kêu gọi có sự hợp tác giữa các nước để giúp bảo vệ sức khỏe người tiêu
dùng. Để thực hiện được điều này cần phải tiêu chuẩn hóa các kỹ thuật lấy mẫu, kỹ
thuật phân tích để giảm sự khác biệt về kết quả giữa các phòng thí nghiệm. Sau đây
là một số quy định về mức tối đa của mycotoxin áp dụng cho các thức ăn dùng cho
người:
31
Bảng 1.5. Quy định mức tối đa của mycotoxin áp dụng cho các thức ăn dùng cho người
Loại mycotoxin Loại thực liệu Cơ quan quy định Hàm lượng tối đa (g/kg = ppb)
10 Tổng số aflatoxin B1 + B2 + G1 + G2 Đậu lạc, trái cây sấy khô chưa qua chế biến EU
Aflatoxin B1 5
4 Tổng số aflatoxin B1 + B2 + G1 + G2 Đậu lạc, trái cây sấy khô dùng trực tiếp cho người EU
Aflatoxin B1 2
CCFAC, 15 Tổng số aflatoxin B1 + B2 + G1 + G2 Thực phẩm chưa qua chế biến 1998
JECFA, 10 Tổng số aflatoxin B1 + B2 + G1 + G2 Thực phẩm chưa qua chế biến 1997
EU Aflatoxin trong sữa 0,05
Ochratoxin A 5 EU Các loại hạt, sản phẩm từ các hạt
EU Patulin 25-50 Nước ép táo
(Ghi chú: CCFAC: Codex Alimentarius Committee on Food Additive and
Contaminans JACFA: Joint Expert Committee on Food Additive )
Bảng 1.6. Quy định mức tối đa của các mycotoxin trong thức ăn gia súc ở Mỹ
Loại mycotoxin Stt Mức tối đa (ppb) cho lợn
1 Aflatoxin 200
2 Deoxynivalenol (Vomitoxin) 1.000
3 Fumonisin 10.000
Nguồn: FDA 2011
32
Bảng 1.7. Giới hạn nhiễm độc tố vi nấm trong thực phẩm của Việt Nam
Giới hạn cho Stt Độc tố vi nấm Sản phẩm phép (ppb)
1 Aflatoxin tổng số hoặc B1 Ngô, gạo 10 (5 - FB1)
sơ chế
2 Aflatoxin M1 Sữa 0,5
3 Deoxynivalenol Thực phẩm 200 – 1.750
4 Fumonisin 200 – 4.000
Nguồn: QCVN 8-1:2011/BYT
Đối với thức ăn gia súc và gia cầm, ở Việt Nam chỉ mới có quy định mức cho phép
đối với aflatoxin theo Quy chuẩn QCVN 01-183:2016/BNNPTNT do Bộ Nông
nghiệp và Phát triển nông thôn ban hành, mức cho phép aflatoxin trong thức ăn cho
gia súc gia cầm giới hạn từ 30 – 100ppb, các loại độc tố khác không thấy quy định.
1.4. ẢNH HƯỞNG CỦA DON VÀ FUM ĐẾN GIA SÚC
1.4.1 Ảnh hưởng của DON
Deoxynivalenol gây ra chứng chán ăn và nôn mửa ở cả người và động vật, lợn
rất nhạy cảm khi ăn các thức ăn bị nhiễm DON, trong khi hầu hết các trichothecenes
khác gây suy giảm đáp ứng miễn dịch ngoài ra DON còn gây ra hiện tượng siêu cảm
ứng (hyperinducer) cytokine. Gây ói mửa cho động vật, ức chế tính thèm ăn, giảm
lượng thức ăn ăn vào hàng ngày [38], độc tố Vomitoxin; Deoxynivalenol, còn ảnh
hưởng đến não lợn [39]. Sự nhiễm độc tố DON ở các trang trại cũng thường xuyên
và nguy hiểm như ở các nước Canada, Mỹ và lục địa Châu Âu, tại Nhật Bản, một số
trường hợp nhiễm độc tố từ mycotoxin ở động vật là do nguyên nhân ăn ngũ cốc bị ô
nhiễm với DON và NIV [161]. Ngoài ra DON còn ảnh hưởng đến sinh trưởng của
33
gia súc nói chung và lợn nói riêng, ảnh hưởng trực tiếp đến sự sinh trưởng là làm
giảm tăng trọng và hiệu quả sử dụng thức ăn và nồng độ protein huyết thanh [18].
Ảnh hưởng độc tính của DON khi gia súc ăn phải hoặc bị nhiễm độc tố, mức
độ ảnh hưởng đối với cơ thể sẽ rất khác nhau tuỳ thuộc vào các thông số như liều
lượng nhiễm, thời gian bị phơi nhiễm dài hay ngắn, độ tuổi của gia súc, giới tính của
động vật và các yếu tố dinh dưỡng trong khẩu phần (Bryden 2007; Andretta 2012)
[21, 16]. Nghiên cứu về ảnh hưởng của độc tính DON trên lợn đã cho thấy, ảnh
hưởng của độc tố nặng hơn thường thấy trên lợn đực và lợn con (Andretta 2012) [16].
Biểu mô ruột là một lớp tế bào bao phủ bên trong lòng ống tiêu hoá, hoạt động như
một màng lọc có lựa chọn, giúp hấp thu dưỡng chất từ những khẩu phần hàng ngày,
nhất là chất điện giải, nước từ lòng ruột đưa vào hệ tuần hoàn (Prelusky 1994) [120].
Lớp biểu mô này tạo thành hàng rào quan trọng nhất và lớn nhất giúp ngăn chặn hấp
thu những chất có hại từ môi trường bên ngoài vào nội tạng bao gồm các tác nhân
gây bệnh, vi sinh vật và độc tố của chúng (Bouhet và cộng sự 2005; Oswald 2006)
[22, 103]. Khi gia súc tiếp xúc với độc tố qua đường thức ăn thì đường tiêu hoá là cơ
quan bị tấn công đầu tiên khi độc tố nấm theo thức ăn vào cơ thể thú. Sau khi tiêu hoá
thức ăn bị nhiễm độc tố nấm mốc, các tế bào biểu mô là nơi có nồng độ độc tố cao
nhất, dẫn tới khả năng làm ảnh hưởng xấu đến chức năng của ruột (Alassane và cộng
sự 2015 – Ghareeb và cộng sự 2015) [14, 62]. Khi ăn thức ăn nhiễm độc tố nấm, mô
ruột bị tổn hại và để lại những biến đổi về mặt hình thái của mô. Bệnh tích trên biểu
mô ruột của lợn cho ăn khẩu phần nhiễm DON tự nhiên được quan sát [24, 47] nhiều
điểm bề mặt bị thoái hoá, nhung mao bị dung hợp, đỉnh nhung mao bị hoại tử, tạo
thành các túi rỗng ở tế bào biểu mô phủ và phù nề lớp tế bào tạo dịch nhày, không
tổn thương nào được quan sát thấy ở các lớp tế bào sâu hơn. Bệnh tích ở không tràng:
lớp nhung mao bề mặt bị bong tróc và bào mòn, phân giải phù nề các tế bào lót được
quan sát ở những mô hình của ruột sau khi nhiễm DON [115, 80]. Một số nghiên cứu
sâu hơn về tác động của DON đến hệ vi sinh vật đường ruột cho thấy nó tác động làm
giảm vi khuẩn đường ruột [149]. Ngoài ra khi thức ăn nhiễm DON với nồng độ lên
đến 5,26 mg/kg thức ăn ở lợn con có khối lượng từ 16-18kg kết quả khi tăng DON
34
ăn vào thì tăng khối lượng gan, thận, tử cung [54]. Với liều 15,1 mg DON/ kgTA cho
lợn 33kg, kết quả cho thấy khối lượng các cơ quan không ổn định, lớp mucosa thành
ruột mỏng hơn, ảnh hưởng hoặc rất ít đến chỉ số máu [140].
Pinton và cs (2008) [117], lợn cai sữa ăn thức ăn có nhiễm DON không ảnh
hưởng đến số lượng bạch cầu, hồng cầu và tiểu cầu, hematocrit, hemoglobin, làm
giảm kali trong máu ở ngày 28 và làm tăng glucose ở ngày 56, làm tăng IgA tổng số.
Từ thí nghiệm này tác giả rút ra kết luận thức ăn có nhiễm DON (2,2-2,5mg/kg thức
ăn) làm ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể.
Trên lợn nái mang thai DON không những ảnh hưởng đến cơ thể của nái mà
còn ảnh hưởng đến bào thai, các chỉ số máu không ảnh hưởng ngoại trừ nó làm giảm
hoạt động của men glutamate dehydrogenase huyết thanh. Ngoài ra lượng DON và
dẫn xuất depoxy-DON tồn dư trong nước tiểu, mật, huyết thanh, gan, thận và lách
của lợn nái ăn thức ăn nhiễm DON [65].
Trong số các động vật nuôi, lợn được xem là nhạy cảm nhất với DON; nồng
độ thực phẩm từ 2 đến 5 mg/kg thường liên quan đến từ chối thức ăn và nồng độ trên
20 mg/kg gây ra nôn mửa [25]. Bạch cầu là một trong những tế bào nhạy cảm với các
hiệu ứng của DON, với nồng độ thấp của độc tố làm tăng miễn dịch các gen gây viêm
và nồng độ cao gây ra chết tế bào, thường là do apoptosis dẫn đến ức chế miễn dịch,
giảm sự đề kháng với bệnh truyền nhiễm [111].
1.4.2 Ảnh hưởng của FUM đến gia súc
Leukoencephalomalacia (ELEM) ở ngựa khi ăn ngô bị nhiễm F. moniliforme
hoặc độc tố có nguồn gốc từ nấm. Các trường hợp ELEM đã được xác nhận ở
Hungary, Brazil, Nam Phi và Mỹ [97] và đã được coi là trường hợp đặc trưng của
fumonisin. ELEM là một rối loạn thần kinh cấp tính gây tử vong của ngựa và lừa với
các dấu hiệu lâm sàng như mất điều hòa, liệt, quá mẫn cảm và loạn vận động, các tổn
thương ở não bao gồm hoại tử liquefactive trong một hoặc cả hai bán cầu, phù cả hai
não và phổi cũng có thể xảy ra [146].
35
Các biểu hiện lợn nhiễm độc tố fumonisin đặc trưng là phù phổi (PPE) cũng
như tuyến tụy và các tổn thương gan, với nhiều trường hợp được tìm thấy ở Hungary,
Brazil và Mỹ. Tuy nhiên mức độ biểu hiện phụ thuộc vào liều lượng [164]. Tăng nồng
độ cholesterol trong huyết thanh xuất hiện để phù hợp tính năng của enzym gan. Tăng
huyết áp phổi gây ra bởi co mạch thiếu oxy cũng có liên quan đến PPE. Lợn ăn
Fumonisins cho thấy tăng cường áp lực động mạch phổi, giảm nhịp tim, cung lượng
tim và Oxy tĩnh mạch [133]. Trong các nghiên cứu về độc tính mãn tính của FB1
(fumonisin B1), lợn cai sữa cho ăn một chế độ ăn uống có chứa các mycotoxin ở 100
mg/kg thức ăn trong 7 ngày tiếp theo một chế độ ăn uống có chứa 190 mg/kg thức ăn
trong 83 ngày, làm phát triển các nốt ở gan, các nốt có đường kính khác nhau [28].
Fumonisins gây độc tế bào và gây ung thư với động vật, tuy nhiên không rõ
ràng. Vai trò gây ung thư FB1 liên quan đến sự tích tụ của các Sphingoid gây ra tổng
hợp DNA đột biến, thay đổi của tín hiệu bởi cAMP [73] và sự gián đoạn tổng hợp tế
bào bình thường [132]. Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC) đã đánh giá
nguy cơ ung thư của fumonisin cho con người và nhóm 2B (có thể gây ung thư).
Fumonisin là độc hại đối với động vật, gây ung thư cho động vật gặm nhấm. Tác
động của chúng đến sức khỏe con người là không rõ ràng. Các cơ chế của FB1-gây
ra chất sinh ung thư là không chắc chắn và các thông tin về FB1 gây đột biến là hạn
chế và còn tranh cãi.
Độc chất học và các hội chứng độc tố nấm Fusarium có khả năng gây hiệu
ứng cả cấp tính và mãn tính, các hiệu ứng quan sát thường liên quan đến mức độ liều
lượng và thời gian tiếp xúc. Zomborszky và cs. (2002) [163] nghiên cứu trên 20 lợn
đực cai sữa thiến (10 kg thể trọng ) ăn 4 mức FB1 bổ sung khác nhau và chia 3 giai
đoạn tuổi khác nhau: 4 tuần, 8 tuần và 20 tuần để bổ sung các mức FB tương ứng
như sau: 0, 10, 20 và 40 ppm giai đoạn 4 tuần; 0, 1, 5 và 10 ppm trong 8 tuần; 0, 1,
5, và 10 ppm trong 20 tuần. Kết quả cho thấy tăng khối lượng, lượng ăn vào và FCR
không bị ảnh hưởng bởi FB1 ở mức độ trên.
36
Tuy nhiên khi gia súc tiếp xúc với độc tố qua đường thức ăn thì đường tiêu
hoá là cơ quan bị tấn công đầu tiên khi độc tố nấm theo thức ăn vào cơ thể thú. Độc
tính của FB1 rất khác nhau tuỳ thuộc vào các thông số như liều lượng, thời gian bị
phơi nhiễm dài hay ngắn, độ tuổi, giới tính của động vật và các yếu tố dinh dưỡng
[25, 16]. Đường tiêu hoá là cơ quan bị tấn công đầu tiên khi độc tố nấm theo thức ăn
vào cơ thể thú. Biểu mô ruột là một lớp tế bào bao phủ bên trong lòng ống tiếu hoá,
hoạt động như một màng lọc có lựa chọn, giúp hấp thu dưỡng chất từ những khẩu
phần hàng ngày, nhất là chất điện giải, nước từ lòng ruột đưa vào hệ tuần hoàn [120].
Lớp biểu mô này tạo thành hàng rào quan trọng nhất và lớn nhất giúp ngăn chặn hấp
thu những chất có hại từ môi trường bên ngoài vào nội tạng bao gồm các tác nhân
gây bệnh, vi sinh vật và độc tố của chúng [22, 103]. Sự phơi nhiễm với FUM gây nên
những thay đổi về hình thái nhung mao của ruột như: làm giảm chiều cao của nhung
mao, dung hợp và thoái hoá nhung mao [24]. Jean-Paul Lalle`s và cs. (2010) [77],
tiến hành nghiên cứu trên lợn 28 ngày tuổi. Cho lợn uống hằng ngày FB1 chiết xuất
(1,5mg FB1/kg khối lượng cơ thể) pha với 20% dung dịch glucose uống trong 9 ngày
tương đương 25–30 ppm trong thức ăn. Kết quả cho thấy khối lượng lợn sau thí
nghiệm không khác nhau, lượng thức ăn ăn vào không ảnh hưởng bởi FB1 được bổ
sung, khối lượng gan cao hơn, khối lượng của phổi, lá lách và tế bào của dạ dày, ruột;
chiều dài nhung mao ruột không ảnh hưởng. Nguyen Hieu Phuong và cs., (2008)
[100] tiến hành nghiên cứu ảnh hưởng của fumonisin và khẩu phần có bổ sung chất
hấp thụ độc tố trên lợn cai sữa lai (Landrace × Yorkshire × Duroc), sau 37 ngày kết
quả mức fumonisin, chất giải độc và sự kết hợp của chúng không ảnh hưởng đến tăng
khối lượng, lượng ăn vào và hiệu quả sử dụng thức ăn.
Isabelle (2003) [68] thí nghiệm trên lợn đực lai cai sữa (3 tuần tuổi), bơm FB
chiết xuất hoặc FB tinh khiết với liều 0,5 mg/kg khối lượng cơ thể cho một ngày, cân
trong vòng 6 ngày. Ngày cuối cùng cho uống chủng E. coli. Kết quả lợn dùng FB1
tăng khối lượng thấp hơn lợn không dùng, không thay đổi thành phần plasma, lượng
khuẩn lạc Colonization extraintestinal pathogenic E. coli strain trong ruột tăng điều
đó cho thấy FB1 là yếu tố tạo điều kiện thuận lợi gây bệnh trên lợn. Một nghiên cứu
37
khác, lại cho thấy FB1 làm thay đổi chỉ số sinh hóa của huyết thanh gây ra bệnh
đường ruột mãn tính hoặc bệnh về gan trên lợn [61], khi tác giả nghiên cứu cho lợn
ăn trong 6 tháng, kết quả cho thấy lượng protein, albumin and globulin trong huyết
thanh, serum alanine aminotransferase (ALT) và serum cholesterol cao hơn. Ngoài
ra, FB1 ảnh hưởng đến thần kinh của các loài chuột, thỏ và cừu hoặc bệnh về phổi
trên tất cả các loài động vật dùng thí nghiệm. Cơ chế tác động của nó cũng liên quan
chủ yếu đến nhiều vị trí của tế bào cơ bản là tác động làm kìm hãm enzyme tổng hợp
ceremide [93].
Trên một số loài FB1 ảnh hưởng đến khối lượng và chức năng gan, giảm sức
đề kháng và giảm chức năng của macrophage và lymphocyte, FB1 ảnh hưởng đến
khả năng miễn dịch của tế bào, Bouhet và ctv (2006) [23] thí nghiệm trên 9 con lợn
cai sữa cho sử dụng 0,5mg FB1/kg khối lượng cơ thể trong 7 ngày, sau đó lấy mẫu
ruột hồi tràng phân tích 5 pro-inflammatory cytokines mRNA expression by RT-PCR.
Cho thấy không có sự khác nhau giữa IL-1b, IL-6, IL-12 and TNF-b mRNA, giữa đối
chứng và nghiệm thức có FB, ngược lại, FB1 làm giảm biểu hiện IL8 mRNA của
mẫu kiểm tra. Từ kết quả của thí nghiệm cho thấy FB1 làm giảm biểu hiện IL-8, cả
về mức độ mRNA và protein, điều đó có nghĩa là nó làm tăng mật độ vi khuẩn
Escherichia coli trong ruột, tăng cơ hội gây bệnh cho lợn.
1.5. BIỆN PHÁP KHẮC PHỤC ẢNH HƯỞNG CỦA ĐỘC TỐ MYCOTOXIN
ĐẾN GIA SÚC VÀ GIA CẦM
Độc tố nấm mốc phải được làm bất hoạt bằng cách chuyển đổi nó thành các
hợp chất không có độc hại, bào tử nấm và sợi nấm cũng bị phá hủy, để ngăn chặn sự
hình thành của các độc tố mới, nguyên liệu thực phẩm hoặc thức ăn chăn nuôi phải
đảm bảo giá trị dinh dưỡng của nó, vẫn còn tính ngon miệng hơn, các tính chất vật lý
của nguyên liệu không nên thay đổi đáng kể, và quá trình bảo quản phải có khả thi về
mặt kinh tế. Về cơ bản, có ba khả năng để tránh tác hại của ô nhiễm thực phẩm và
thức ăn chăn nuôi gây ra độc tố mycotoxin: (1) ngăn ngừa ô nhiễm; (2) khử nhiễm
độc tố mycotoxin có chứa thực phẩm và thức ăn chăn nuôi; (3) ức chế sự hấp thụ độc
38
tố mycotoxin từ đường tiêu hóa về mặt lý thuyết của công tác phòng chống lây nhiễm
nấm mốc nên nhân giống các loại ngũ cốc và các cây trồng cho sức đề kháng nhiễm
nấm mốc [150], đặc biệt các nghiên cứu thành công trên các giống lúa mì và ngô.
1.5.1 Phòng nấm mốc xâm nhập và phát triển trên nông sản
Qua các nghiên cứu tình hình nhiễm độc mycotoxin trong thức ăn cho người
cũng như của gia súc, việc giải quyết vấn đề này cần tiến hành một cách đồng bộ từ
khâu trước khi thu hoạch, thu hoạch, bảo quản nông sản trong kho và vận chuyển đến
các nhà chăn nuôi.
Trước thu hoạch
Nấm mốc có thể xâm nhập vào các cây trồng ngay trong giai đoạn còn ở ngoài
đồng do điều kiện khí hậu không thuận lợi như nóng kết hợp mưa bất thường cũng
như do sâu hại tấn công vào hạt cốc. Vì vậy có nhiều ý kiến đề nghị sử dụng các biện
pháp canh tác thích hợp (mùa vụ thu hoạch nên tránh vào mùa mưa) hoặc chọn giống
cây trồng có khả năng chống nấm xâm nhiễm hoặc phun thuốc trừ nấm bệnh trước
khi thu hoạch. Hàm lượng mycotoxin ở nông sản nói chung trong giai đoạn trước thu
hoạch thường rất thấp không đủ sức làm hại thú, trừ trường hợp các loài nấm
Fusarium có thể phát triển trong điều kiện độ ẩm cao.
Sau thu hoạch
Muốn đề phòng tác hại của độc tố nấm đối với thức ăn thì phải có kỹ thuật dự
trữ khoa học. Nguyên tắc bảo quản nông sản tương đối đơn giản gồm 3 nội dung sau:
(1) Nông sản phải đạt độ ẩm qui định trước khi cho bảo quản để sự hô hấp của hạt và
vi sinh vật trên đó giảm đến mức tối thiểu; (2) Nơi bảo quản phải được kiểm soát về
nhiệt độ và ẩm độ tương đối (dưới 200C, 70% RH là tốt nhất), không để côn trùng
gậm nhấm xâm nhập; (3) Nông sản có thể được xử lý thêm trong quá trình bảo quản
như phơi lại nếu cần. Để bảo quản tốt, ẩm tối đa của thực liệu như sau : 9% đối với
đậu lạc nhân - 13,5% đối với ngô - 13,5% đối với sorghum - 15% đối với lúa và 15%
đối với các loại đậu ăn [46].
39
Ở Việt Nam đã có một số qui định về ẩm độ của một số nông sản như sau :
thóc mùa (19,5%), ngô hạt (12,5%), bột các loại (12%) ..., riêng bánh dầu lạc hàm
lượng ẩm cho phép là 7% [32]. Theo Diemer và cs (1969) [40], thì hàm lượng O2
tăng cũng ảnh hưởng đến việc gia tăng nấm mốc trong thức ăn. Việc đóng gói thức
ăn gia súc vào các bao nylon thật kín sau khi đã sấy khô là 1 giải pháp hữu hiệu ít tốn
kém. Một cách khác là thêm vào những chất chống mốc như Sodium hay calcium
propionate hoặc 8 hydroxy quinoline, chúng có tác dụng ngăn chặn sự tăng trưởng
thêm của nấm mốc nhưng không có tác dụng đối với những chất độc đã được hình
thành, một bất lợi khác là có thể có vấn đề tồn dư chất hóa học độc hại còn lại.
1.5.2 Các phương pháp làm giảm độc tố mycotoxin trong thực liệu
Mặc dù phòng nấm mốc xâm nhập là mục tiêu hàng đầu trong việc chống lại
tác hại của mycotoxin, nhưng trong điều kiện tự nhiên thường ít có loại nông sản nào
là không bị nấm mốc xâm nhiễm. Để thực hiện việc giảm độc hoặc khử độc
mycotoxin, cần thực hiện các yêu cầu [51] như sau: (1) Phá hủy, bất hoạt hoặc loại
trừ mycotoxin; (2) Không tạo ra hoặc còn dư lượng các chất có khả năng gây độc
trong sản phẩm. (3) Giữ nguyên hoặc đạt yêu cầu về giá trị dinh dưỡng của sản phẩm;
(4) Không làm thay đổi dạng của sản phẩm; (5) Phá hủy bào tử và hệ sợi nấm để tránh
tái phát triển về sau và phải bảo vệ môi trường. Có 3 nhóm phương pháp làm giảm
độc mycotoxin: phương pháp vật lý, phương pháp hóa học và phương pháp sinh vật
học.
1.5.2.1 Phương pháp vật lý
Loại bỏ phần bị nhiễm mốc: Bao gồm dần, sàng, tách cát bụi, các hạt nhỏ,
các hạt vỡ và phân tách các hạt bị nhiễm với các hạt không bị nhiễm. Trong một số
trường hợp các hạt bị nhiễm có sự thay đổi về màu sắc có thể được lựa ra hoặc có sự
khác biệt về mặt vật lý với các hạt bình thường và có thể bằng phân biệt tỷ trọng trong
dung dịch hoặc dùng trọng lực, áp dụng phương pháp này có thể loại bỏ các hạt đậu
lạc nhiễm Aflatoxin. Sự mất mát có thể tương đối cao do có khi các hạt không nhiễm
cũng có thể có tỷ trọng thấp vì thế có khả năng bị thất thoát một số hạt lành.
40
Rửa bằng nước: các hạt ngô có nhiễm các loài nấm sinh fumonisin rửa ngô
bằng dung dịch sodium carbonat có thể giảm bớt nồng độ của một số độc tố do các
loài Fusarium sinh ra như DON, zearalenon, fumonisin [29], tuy nhiên có bất tiện là
cần chi phí để làm khô hạt sau khi xử lý.
Xử lý nhiệt: Đa số các mycotoxin tương đối đề kháng với nhiệt do đó cần
nhiệt độ 150-2200 C mới phá hủy được 80-100% fumonisin trên ngô [44]. Các thử
nghiệm phá hủy Aflatoxin ở bột đậu lạc bằng cách sấy nóng, nấu, thanh trùng đã
không đạt được kết quả mong muốn nguyên nhân do Aflatoxin tinh khiết có nhiệt độ
nóng chảy khoảng 2500C. Các phương pháp chiếu xạ (tia X, tia , tia UV, ánh sáng
mặt trời, tia hồng ngoại) đã được nghiên cứu rộng rãi nhằm tìm biện pháp giảm độc
mau chóng các mycotoxin, đặc biệt là aflatoxin. Các kết quả có khi mâu thuẫn nhau
do kỹ thuật khác nhau. Tuy nhiên phơi nắng là một biện pháp rẻ tiền để phá hủy
aflatoxin trong đậu lạc đã được áp dụng ở các xứ nhiệt đới cũng như trong các sản
phẩm khác như cơm dừa, ngô, hạt mè… Chiếu tia UV cho thấy giảm lượng aflatoxin
trên quả sung khô và thoái hóa aflatoxin M1 ở sữa nhưng phải trải một lớp thật mỏng
mới có kết quả. Xử lý bằng tia hồng ngoại ở mức cao phá hủy được aflatoxin trong
đậu lạc và trichothecene trong ngô[31].
Trích ly bằng dung môi: Tách độc tố bằng dung môi hữu cơ đã được nghiên
cứu trên các loại bánh dầu [7]. Tuy nhiên, do chi phí khá cao và có thể còn dư lượng
dung môi nên kỹ thuật này không phát triển được.
Dùng các chất hấp phụ: Một số chất có khả năng hấp phụ được độc tố khi
được bổ sung vào thức ăn và tác động trong đường tiêu hóa của động vật. Pemberton
(1991)[108] đã tổng kết các nghiên cứu về các chất có khả năng hấp thụ độc tố gồm:
than hoạt tính, bentonite, zeolite, HSCAS (Hydrated calcium sodium alumino
silicate), một số chất sét (kaolin, sepiolite), nhựa trao đổi ion (synthetic ion exchange
resin), alfalfa, PVPP (polyvinyl polypyrrolidone). Tốt nhất hiện nay là HSCAS có
nguồn gốc từ zeolite hiện còn được dùng như chất chống đóng bánh trong thức ăn
41
[113], cơ chế hấp phụ trong trường hợp aflatoxin B1 và aflatoxin G1 có lẽ do sự liên
kết giữa gốc -dicarbonyl với ion Al3+ và các ion kim loại khác. Nhưng HSCAS
không có hiệu quả trên các loại độc tố khác như fumonisin, deoxynivalenol, T 2-toxin
và ochratoxin A [59,123]. Ngoài ra nó còn có thể ảnh hưởng đến giá trị dinh dưỡng
của thức ăn.
Than hoạt tính liên kết mạnh với fumonisin nhưng cho đến nay chưa xác định
được liều sử dụng thích hợp [59], than hoạt tính cũng có hiệu quả với aflatoxin nhưng
có thể hấp thụ cả một số chất dinh dưỡng [5,7]. Bentonite: thường được bổ sung vào
thức ăn dập viên để giúp kết dính, cũng có khả năng hấp thụ aflatoxin B1 trong thức
ăn [123]
Mycofix plus: do công ty Biomin (Ao) sản xuất. Bổ sung vào thức ăn hỗn hợp
có thể hấp thụ aflatoxin hoặc phá hủy các độc tố trichothecene như DON và T 2-toxin
(bằng cách mở vòng 12, 13 epoxide) và zearalenon (bằng cách mở vòng lacton) [119].
Ngoài ra một số nghiên cứu sử dụng các chất chiết xuất từ cây như Phyllanthus
amarus và sản phẩm thương mại khác như Mycosorb, Novasil và Mycofixplus hiện
đang có mặt ở Việt Nam, [138].
Dänicke và cs, 2004 [37] đã nghiên cứu trên lợn đang vỗ béo cho ăn khẩu
phần nhiễm DON với nồng độ 6,6mg/kg thức ăn có bổ sung và không bổ sung chất
hấp phụ độc tố (Mycofix®Plus, Biomin, Herzogenburg, Austria) (MP). Kết quả cho
thấy tăng khối lượng của lợn giảm đến 10%, lượng ăn vào giảm trên lợn ăn khẩu phần
nhiễm DON nhưng không bổ sung chất khử độc MP và ngược lại không thay đổi với
khẩu phần có MP, năng lượng tiêu hóa và trao đổi cao hơn ngược lại khả năng tiêu
hóa xơ thô thấp hơn ở khẩu phần không bổ sung MP so với có bổ sung MP.
Dänicke và cs (2012) [38], nghiên cứu khả năng ảnh hưởng của khẩu phần có
nhiễm 4,49 mg DON/kg thức ăn có và không có bổ sung đất bùn (HS) trên lợn con
trong thời gian 5 tuần cho thấy lượng ăn vào giảm 21% ở khẩu phần 4,49mg DON/kg
so với khẩu phần 0,25mg DON có bổ sung đất bùn. Cho lợn ăn khẩu phần bị nhiễm
42
DON có nồng độ khác nhau phản ánh rõ nét bởi mức độ DON trong máu. Tuy nhiên
trong nghiên cứu này tác giả không khuyến cáo dùng đất bùn này như là chất bổ sung
làm bất hoạt DON cho lợn.
1.5.2.2 Phương pháp hóa học
Một số hóa chất đã được thử nghiệm: acid, kiềm (ammonia, xút), các chất có
tính oxy hóa (peroxyd hydrogen, ozon), các chất khử (bisunfit), các chất có chlor
(chlorin), các muối và nhiều chất khác (như formol) [17]. Peroxyd hydrogen đã được
dùng trong phạm vi thương mại ở Ấn Độ để khử độc đậu lạc bị nhiễm aflatoxin [26,
64]. Etcheverry et al., 2002[45] đã nghiên cứu việc sử dụng antioxidants (butylated
hydroxyanisole (BHA), butylated hydroxytoluene (BHT), trihydroxybutyrophenone
(THBP) và propylpara-ben (PP) trong điều kiện ẩm độ và nhiệt độ khác nhau đối với
khả năng sản sinh độc tố fumonisin từ F. Verticillioides và F. proliferatum isolated
của ngô Argentina trong thí nghiệm in vitro, kết quả đã làm giảm sự phát triển của
hai loài nấm này đến 45-50%.
Theo Park, 1988[104] và Prevot, 1986 [121] chỉ có phương pháp xử lý bằng
ammonia được áp dụng trên diện rộng. Phương pháp dùng nhiệt độ cao và áp lực cao
(80-1200C / 35-50 psi) để khử aflatoxin trên hạt bông vải ở bang Arizona, Texas và
California. Ở Mexico và Nam Phi đã áp dụng kỹ thuật này xử lý ngô trong khi ở
Senegal, Anh và Pháp dùng kỹ thuật này để xử lý đậu lạc, cho thêm formaldehyd sẽ
làm tăng hiệu quả khử độc [121]. Kỹ thuật khác dùng nhiệt độ và áp suất thường cần
thời gian 14-42 ngày được dùng xử lý hạt bông vải ở Arizona và ngô ở một số bang
miền Nam nước Mỹ [92] và ở Phillipin trên cơm dừa khô [92]. Theo FDA của Mỹ
(Food and Drug Administration), chưa cho phép xuất khẩu hạt bông vải đã xử lý
ammonia tuy nhiên có nhiều nước trong khối EC đã nhập khẩu đậu lạc đã được xử lý
bằng ammonia. Cơ chế của phương pháp khử độc bằng ammonia gồm quá trình thủy
phân vòng lacton và kế đó là khử carboxyl để tạo thành aflatoxin D1 và mất vòng
cyclopentanon để tạo thành chất có khối lượng phân tử là 206. Aflatoxin GD1 cũng
được tạo thành từ aflatoxin G1 theo cách tương tự [108].
43
Thí nghiệm cho gia súc ăn bánh dầu lạc đã xử lý ammonia không thấy tác động
gây độc nhưng có một số thay đổi về giá trị dinh dưỡng như giảm hàm lượng lysin
và các acid amin có lưu huỳnh [104, 8]. Kết quả xử lý bằng ammonia còn làm giảm
được khoảng 80% fumonisin B1 trong ngô [96]. Các biện pháp xử lý bằng chất kiềm
với hệ thống peroxide hydrogen / sodium bicarbonat phá hủy 100% fumonisin B1
trên ngô [105].
1.5.2.3 Phương pháp xử lý bằng vi sinh vật
Các kết quả thí nghiệm về khả năng phá hủy aflatoxin do vi sinh vật như
Flavobacterium aurantiacum rất hứa hẹn nhưng chưa được ứng dụng trong thực tiễn.
Quá trình lên men do Saccharomyces cerevisiae đã phá hủy được một số độc tố như
patulin. Trenholm và ctv (1994) [140] nhận thấy rằng thành phần Mannan trong
Mannan-oligosaccharid ở thành tế bào nấm men Saccharomyces cerevisae có khả
năng kết hợp với Aflatoxin và làm giảm tác động của độc tố khi cho vào thức ăn gia
cầm (sản phẩm có tên Mycosorb do hãng Alltech sản xuất). Stanley và ctv
(1993)[135] dùng canh nấm men (Yea-Sacc) ở lượng 0,1% khẩu phần có hiệu quả
làm giảm nhẹ, một số tác động xấu của khẩu phần có 500ppb Aflatoxin ở gà con. Để
giải thích, người ta cho rằng nấm men đã chelate hóa Aflatoxin tách khỏi đường dạ
dày ruột và do nấm men đã bổ sung cho khẩu phần một số enzym có khả năng làm
tăng hiệu quả sử dụng thức ăn.
Một biện pháp khác là làm giảm tối thiểu các tác động của độc tố trên cơ thể
thú nhờ các cải tiến khẩu phần, tăng cường thành phần dưỡng chất để có thể sử dụng
phối hợp các hạt nhiễm với các hạt lành sao cho lượng độc tố đưa vào có thể ở mức
thấp hơn mức tối thiểu có thể gây độc cho thú [21]. Feuerstein và ctv (1988) đã thử
dùng kháng thể đơn dòng (Monoclonal antibody) bảo vệ được chuột chống liều gây
chết của độc tố T2 toxin và hy vọng sẽ thử nghiệm trên các độc tố khác. Theo Stanley
và cộng sự (1993) [135], nghiên cứu sử dụng saccharomyces cerevisiae rất hữu ích
khi thực liệu bị nhiễm aflatoxin.
44
Chương 2
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU
2.1.1 Địa điểm và thời gian nghiên cứu
- Khảo sát hiện trạng nhiễm độc tố nấm mốc, lấy mẫu ngô và thức ăn hỗn hợp
hoàn chỉnh cho lợn thịt đã được tiến hành tại 20 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi
nội địa gồm: 2 nhà máy ở TP. Hồ Chí Minh, 6 nhà máy ở Đồng Nai, 6 nhà máy ở
Bình Dương, 3 nhà máy ở Long An và 3 nhà máy ở Tiền Giang. Thời gian khảo sát
và thu thập mẫu từ tháng 07/2011 đến tháng 12/2011.
- Các nghiên cứu về nuôi cấy nấm mốc, phân tích độc tố đã được triển khai tại
Phòng Phân tích Thức ăn chăn nuôi – Phân Viện Chăn nuôi Nam Bộ, từ tháng 06 năm
2011 đến tháng 12 năm 2015.
- Các nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố DON và FUM
khác nhau, hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt đã được
triển khai và thực hiện tại trại chăn nuôi lợn Chí Trung thuộc Hợp tác xã Chăn nuôi
lợn An Toàn Tiên Phong – Củ Chi – Tp. Hồ Chí Minh. Thời gian thực hiện từ tháng
01/2012 đến tháng 12/ 2014.
2.1.2 Đối tượng nghiên cứu
- Các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi.
- Mẫu ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt được thu thập từ các nhà máy.
- Lợn ngoại lai 3 máu Duroc x (Yorkshire x Landrace) 60 ngày tuổi, khối lượng
trung bình 20kg.
45
2.2. NỘI DUNG NGHIÊN CỨU
2.2.1 Đánh giá hiện trạng nhiễm độc tố deoxynivalenol và fumonisin trong
nguyên liệu là ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt
Đánh giá hiện trạng sản xuất thức ăn chăn nuôi, kiểm tra kiểm soát tình hình
độc tố nấm mốc, lấy mẫu ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt, kiểm tra hiện trạng
nhiễm độc tố DON và FUM.
2.2.2 Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố DON khác nhau
và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt
Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của độc tố DON và hiệu quả của việc
sử dụng chất hấp phụ độc tố để làm giảm tác hại của độc tố DON đến sinh trưởng của
lợn thịt.
2.2.3 Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố FUM khác nhau
và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt
Nghiên cứu nhằm đánh giá ảnh hưởng của độc tố FUM và hiệu quả của việc sử dụng chất hấp phụ độc tố để làm giảm tác hại của độc tố FUM đến sinh trưởng của lợn thịt.
2.3. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.3.1. Đánh giá hiện trạng nhiễm độc tố deoxynivalenol và fumonisin trong
nguyên liệu là ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt
2.3.1.1 Chọn đối tượng nhà máy
Chọn các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi nội địa trong đó có sản xuất thức
ăn cho lợn, việc chọn lựa nhà máy được thông qua Sở Nông nghiệp các tỉnh với tiêu
chí là các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi nội địa và phải có sản xuất thức ăn cho
lợn.
46
2.3.1.2 Phương pháp khảo sát, lấy mẫu và chỉ tiêu phân tích
Khảo sát bằng phương pháp phỏng vấn trực tiếp giám đốc, chủ nhà máy về
tình hình sản xuất thức ăn, bảo quản, các biện pháp kiểm tra kiểm soát độc tố nấm
mốc trong nguyên liệu và thức ăn hỗn hợp.
Lấy mẫu: Mỗi nhà máy lấy 3 mẫu thức ăn lợn thịt (theo ba giai đoạn sinh
trưởng: 15-30kg, 30-60kg và 60-100kg), 3 mẫu nguyên liệu đơn là ngô. Lấy mẫu theo
tiêu chuẩn Việt Nam (TCVN 4325-2007), cứ 01 tấn với khối lượng mẫu được lấy
lấy 4,0 kg, trong đó khối lượng mẫu rút gọn để phân tích 2kg và 0,5kg cho phòng thử
nghiệm mẫu được lấy từ lô thức ăn và nguyên liệu, mẫu được lấy tại nhiều vị trí đảm
bảo phía trên, bên dưới, giữa của mỗi lô hàng. Mẫu sau đó được trộn đều đưa về
Phòng phân tích bảo quản ở nhiệt độ phòng và tiến hành phân tích.
Chỉ tiêu phân tích: Xác định hàm lượng độc tố deoxynivalenol và fumonisin
bằng phương pháp sắc ký lỏng (HPLC) theo tiêu chuẩn AOAC 986.17 đối với DON
và 995.15 đối với FUM.
2.3.2. Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố DON khác nhau
và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt
2.3.2.1 Nguyên vật liệu
- Chủng nấm mốc Fusarium nivale (Nguồn gốc Nhật), chủng nấm mốc
F.nivale được đặt hàng thông qua Viện Vi sinh vật và Công nghệ sinh học (IMBT)
thuộc Đại học Quốc Gia Hà Nội.
- Nguyên liệu phối trộn khẩu phần thí nghiệm: Tấm gạo loại tốt, cám gạo, khô
dầu đậu tương, bột cá, axit amin, premix khoáng, DCP,…
- Chất hấp phụ độc tố thành phần gồm: Diatom earth 300.000 mg; Argila
caolinitica: 250,000 mg; free Asbestos. Mức sử dụng: 1,5kg/tấn.
47
- Lợn ngoại lai 3 máu Duroc x (Landrace x Yorkshire) 60 ngày tuổi, khối lượng
trung bình 20kg.
2.3.2.2 Thiết kế thí nghiệm
Trên cơ sở kết quả đánh giá thực trạng nhiễm độc tố DON trong thức ăn hỗn hợp cho
lợn thịt của đề tài, các khuyến cáo mức cho phép của tiêu chuẩn châu Âu (EU) và
Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (Food and Drug Administration-FDA, 2011)
của Mỹ chúng tôi quyết định thử các mức nhiễm độc tố DON trong thức ăn cho lợn
thí nghiệm. Thí nghiệm được thiết kế ngẫu nhiên hoàn toàn (Completely Randomized
Design-CRD) hai nhân tố gồm: 2 mức chất hấp phụ độc tố (không bổ sung 0% và có
bổ sung 0,15%) và 4 mức nhiễm DON (không nhiễm 0ppm; 3,4ppm; 7,7ppm và
17,7ppm). Như vậy, thí nghiệm gồm 8 nghiệm thức với 20 lợn/đơn vị thí nghiệm (ô
chuồng), thí nghiệm với 4 lần lặp lại. Tổng số lợn thí nghiệm là:
20 con/ô chuồng x 8 nghiệm thức x 4 lần lặp lại = 640 lợn.
Bảng 2.1 Sơ đồ bố trí thí nghiệm DON
CHPĐT Không bổ sung CHPĐT (0%) Có bổ sung CHPĐT (0,15%)
DON (ppm) 3,4 7,7 17,7 3,4 7,7 17,7 0 0
2 3 4 6 7 8 5 1 Nghiệm thức
* CHPĐT: chất hấp phụ độc tố; DON: deoxynivalenol
Mức sử dụng chất hấp phụ độc tố theo khuyến cáo của nhà sản xuất.
2.3.2.3 Phương pháp nuôi cấy nấm mốc Fusarium nivale
- Tên giống: Fusarium nivale, nhiệt độ nuôi cấy: 250C, bảo quản: Glycerol
- Môi trường nuôi cấy: Môi trường Potato sucrose agar (PSA)
Potato : 200g
Sucrose : 20g
48
Nước cất : 1000 ml
pH : 5,6
- Môi trường và điều kiện lên men để giống có khả năng sinh deoxynivalenol cao
nhất trên môi trường bột bắp.
Phương pháp nuôi cấy và lên men
Bước 1: Giống sẽ được cấy lên đĩa thạch môi trường PSA để kiểm tra chất
lượng và độ thuần của giống.
Bước 2: Tăng sinh giống trên môi trường PSB lỏng (Potato sucrose broth)
bằng cách cho một lượng bào tử nấm vào trong môi trường PSB, đem ủ lắc trong
vòng 24 - 48 giờ sau đó thu dịch tăng sinh để kiểm tra mật độ tế bào.
Bước 3: Giống sau khi tăng sinh được cấy vào môi trường lên men, trộn đều,
nuôi ủ ở điều kiện môi trường, ẩm độ, nhiệt độ, thời gian thích hợp. Sau khi lên men
sẽ thu mẫu kiểm tra.
Xác định hàm lượng độc tố bằng phương pháp sắc ký lỏng (HPLC) theo tiêu chuẩn
AOAC 986.17. Với nguyên lý, DON được chiết tách từ mẫu thử với dung môi là
nước. Dịch chiết sau đó được cho qua cột ái lực miễn dịch để loại bỏ các chất bẩn.
DON sau đó được định lượng bằng hệ thống HPLC với đầu dò UV.
2.3.3. Nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố FUM khác nhau
và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt
2.3.3.1 Nguyên vật liệu
- Chủng nấm mốc Fusarium moniliforme (Nguồn gốc Nhật)
- Nguyên liệu phối trộn khẩu phần thí nghiệm: Tấm gạo loại tốt, cám gạo, khô
dầu đậu tương, bột cá, axit amin, premix khoáng, DCP,…
49
- Chất hấp phụ độc tố thành phần gồm: Diatom earth 300.000 mg; Argila
caolinitica 250,000 mg; free Asbestos. Mức sử dụng: 1,5kg/tấn.
- Lợn ngoại lai 3 máu Duroc x (Landrace x Yorkshire) 60 ngày tuổi, khối lượng
trung bình 20kg.
2.3.3.2 Thiết kế thí nghiệm
Trên cơ sở kết quả đánh giá thực trạng nhiễm độc tố DON trong thức ăn hỗn hợp cho
lợn thịt của đề tài, các khuyến cáo mức cho phép của tiêu chuẩn châu Âu (EU) và
Cục quản lý Dược phẩm và Thực phẩm (Food and Drug Administration-FDA, 2011)
của Mỹ chúng tôi quyết định thử các mức nhiễm độc tố FUM trong thức ăn cho lợn
thí nghiệm. Thí nghiệm được thiết kế ngẫu nhiên hoàn toàn (Completely Randomized
Design-CRD) hai nhân tố gồm: 2 mức chất hấp phụ độc tố (không bổ sung 0% và có
bổ sung 0,15%) và 4 mức nhiễm FUM (không nhiễm 0ppm; 4,8ppm; 9,8ppm và
20ppm. Như vậy, thí nghiệm gồm 8 nghiệm thức với 20 lợn/đơn vị thí nghiệm (ô
chuồng), thí nghiệm với 4 lần lặp lại. Tổng số lợn thí nghiệm là:
20 con/ô chuồng x 8 nghiệm thức x 4 lần lặp lại = 640 lợn.
Bảng 2.2. Sơ đồ bố trí thí nghiệm FUM
CHPĐT Không bổ sung CHPĐT (0%) Có bổ sung CHPĐT (0,15%)
FUM (ppm) 4,8 9,8 0 20 0 4,8 9,8 20
1 2 3 4 5 6 7 8 Nghiệm thức
* CHPĐT: chất hấp phụ độc tố; FUM: fumonisin
Tỷ lệ sử dụng chất hấp phụ độc tố theo mức khuyến cáo nhà sản xuất.
2.3.3.3 Phương pháp nuôi cấy nấm mốc Fusarium moniliforme
- Tên giống: Fusarium moniliforme, nhiệt độ nuôi cấy: 250C, bảo quản:
Glycerol
50
- Môi trường nuôi cấy: Môi trường Potato sucrose agar
Potato : 200g
Sucrose : 20g
Nước cất : 1000 ml
pH : 5,6
- Môi trường và điều kiện lên men để giống có khả năng sinh fumonisin cao
nhất trên môi trường bột bắp.
Phương pháp nuôi cấy và lên men
Bước 1: Giống sẽ được cấy lên đĩa thạch môi trường PSA để kiểm tra chất
lượng và độ thuần của giống.
Bước 2: Tăng sinh giống trên môi trường PSB lỏng (Potato sucrose broth)
bằng cách cho một lượng bào tử nấm vào trong môi trường PSB, đem ủ lắc trong
vòng 24 - 48 giờ sau đó thu dịch tăng sinh để kiểm tra mật độ tế bào.
Bước 3: Giống sau khi tăng sinh được cấy vào môi trường lên men, trộn đều,
nuôi ủ ở điều kiện môi trường, ẩm độ, nhiệt độ, thời gian thích hợp. Sau khi lên men
sẽ thu mẫu kiểm tra.
Sản phẩm sau khi thu hồi sẽ được sấy khô ở nhiệt độ 400C đến lúc nguyên liệu
đạt ẩm độ 14%.
Xác định hàm lượng độc tố bằng phương pháp sắc ký lỏng cao áp (HPLC) theo tiêu
chuẩn AOAC 995.15, tại Phòng Phân tích thức ăn gia súc – Phân viện Chăn nuôi
Nam Bộ - Viện Chăn nuôi quốc gia. Với nguyên lý, funomisin được chiết tách bằng
dung dịch methanol/ nước. Dịch chiết được làm sạch bằng cột chiết pha rắn ASX và
funomisin được giải hấp bằng dung dịch axit acetic và methanol. Phần cặn được hòa
tan trong methanol và sau đó đem cho phản ứng dẫn xuất với o-phthaldiahdehyde
OPA/2-mercaptoetanol. Sau phản ứng tạo dẫn xuất trước cột, funomisin được phát
51
hiện trên hệ thống HPLC với đầu dò huỳnh quang.
2.3.4 Nuôi dưỡng và thức ăn cho lợn thí nghiệm
Thực hiện cho cả 02 nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố
DON, FUM khác nhau và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn
thịt.
Lợn thí nghiệm được nuôi trong hệ thống chuồng hở, thông thoáng tự nhiên,
được cho ăn tự do bằng thức ăn hỗn hợp dạng bột hoàn chỉnh đã được phối trộn theo
khẩu phần thiết kế thí nghiệm cho hai giai đoạn 60 - 116 ngày tuổi và từ 117 – 172
ngày tuổi.
Lợn thí nghiệm được cho uống nước tự do bằng hệ thống vòi uống tự động. Lợn
trước khi thí nghiệm đã được tiêm phòng đầy đủ vacxin theo quy trình của trại và Chi
cục Thú y.
Giá trị dinh dưỡng đã được cân đối theo giai đoạn thí nghiệm có giá trị như nhau
cho tất cả các nghiệm thức thí nghiệm. Giá trị dinh dưỡng áp dụng cho cả 02 nghiên
cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố DON và FUM khác nhau và hiệu quả
của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt (bảng 2.3).
52
Bảng 2.3. Giá trị dinh dưỡng khẩu phần thức ăn thí nghiệm
Thành phần Giai đoạn sinh trưởng Giai đoạn vỗ béo
Vật chất khô (%) 87 87
Năng lượng trao đổi (Kcal/kg) 3.265 3.265
Protein thô (%) 17 16
Béo Thô (%) 6,1 7,09
Xơ Thô (%) 1,6 2,45
Ca (%) 0,91 0,91
P tổng số (%) 0,7 0,71
Lysine (%) 0,89 0,83
Met+Cystine (%) 0,55 0,48
Threonine (%) 0,6 0,56
Tryptophan (%) 0,22 0,18
Muối ăn (%) 0,49 0,53
P hữu dụng (%) 0,64 0,52
Methionine (%) 0,27 0,24
2.3.5 Các chỉ tiêu theo dõi
Thực hiện cho cả 02 nghiên cứu ảnh hưởng khẩu phần chứa các mức độc tố
DON, FUM khác nhau và hiệu quả của chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn
thịt.
+ Chỉ tiêu sinh trưởng
Khối lượng lợn thí nghiệm ở các giai đoạn thí nghiệm (kg). Lợn được cân
từng cá thể vào buổi sáng trước lúc cho ăn tại các thời điểm 60 ngày tuổi, 116
ngày tuổi và 172 ngày tuổi.
Tăng khối lượng trung bình của lợn qua các giai đoạn thí nghiệm
(g/con/ngày)
53
Trên cơ sở ghi chép số liệu khối lượng của lợn tại các thời điểm thí nghiệm,
để xác định tăng khối lượng trung bình của lợn qua các giai đoạn thí nghiệm như sau:
Khối lượng sau (kg) – Khối lượng trước (kg) Tăng khối lượng = ------------------------------------------------------- x 1000
(g/con/ngày) Thời gian nuôi giữa hai lần cân (ngày)
Thu nhận thức ăn trung bình hàng ngày (TĂĂV) của lợn qua các giai đoạn
thí nghiệm (g/con/ngày), được tính theo công thức:
Tổng lượng thức ăn lợn ăn vào trong giai đoạn (kg) TĂĂV = ------------------------------------------------------------- x 1000 (g/con/ngày) Thời gian nuôi giữa hai lần cân (ngày)
Hiệu quả sử dụng thức ăn (Tiêu tốn thức ăn cho một kg tăng khối lượng -
FCR) cho từng giai đoạn thí nghiệm (kg/kg tăng khối lượng (TKL)), được
tính theo công thức:
Tổng lượng thức ăn ăn vào trong giai đoạn (kg) Hiệu quả sử dụng thức ăn (FCR) = ----------------------------------------------------------- (kg/kg TKL) Khối lượng của lợn tăng trong giai đoạn (kg)
Tỷ lệ lợn chết (TLC) được tính cho suốt thời gian thí nghiệm (%), tính theo
công thức sau:
Số lợn chết trong thời gian thí nghiệm (con) TLC (%) = ------------------------------------------------------ x 100 Số lợn đầu kỳ thí nghiệm (con)
+ Các chỉ tiêu theo dõi về năng suất và chất lượng thịt xẻ
Kết thúc thí nghiệm lúc 172 ngày tuổi, mỗi nghiệm thức chọn 2 con cho một
lần lặp lại (01 con cái và 01 con đực), 4 lần lặp lại mỗi nghiệm thức chọn 8 lợn (4
đực và 4 cái) để mổ khảo sát đánh giá chất lượng thịt xẻ theo TCVN 3899 - 84. Lợn
mổ khảo sát được chọn có khối lượng tương đương với khối lượng trung bình của các
lô thí nghiệm.
Tỷ lệ móc hàm (%): Là tỷ lệ giữa khối lượng thịt móc hàm so với khối lượng
lợn giết thịt. Tỷ lệ móc hàm được xác định theo công thức sau:
54
Khối lượng móc hàm (kg) Tỷ lệ móc hàm (%) = ----------------------------------- x 100 Khối lượng giết thịt (kg)
Trong đó:
Khối lượng móc hàm (kg) là khối lượng của lợn sau khi chọc tiết, cạo lông, bỏ
nội tạng (trừ hai lá mỡ).
Khối lượng lợn giết thịt (kg) là sau khi bỏ đói 24 giờ cho uống nước đầy đủ.
Tỷ lệ thịt xẻ (%): là tỷ lệ giữa khối lượng thân thịt xẻ so với khối lượng giết
thịt của lợn. Tỷ lệ thịt xẻ được xác định bởi công thức sau:
Khối lượng thân thịt xẻ (kg)
Tỷ lệ thịt xẻ (%) = ----------------------------------- x 100 Khối lượng giết thịt (kg)
Trong đó:
Khối lượng thân thịt xẻ (kg) là khối lượng móc hàm sau khi cắt bỏ đầu, 4 chân
(từ móng đến khoeo), đuôi, bóc bỏ hai lá mở.
Khối lượng lợn giết thịt (kg) là sau khi bỏ đói 24 giờ cho uống nước đầy đủ.
Tỷ lệ nạc (%): Là tỷ lệ giữa khối lượng thịt nạc trong thân thịt xẻ so với khối
lượng thân thịt xẻ. Được tính theo công thức sau:
Khối lượng thịt nạc trong thịt xẻ (kg)
Tỷ lệ nạc (%) = ---------------------------------------------- x 100 Khối lượng thân thịt xẻ (kg)
Trong đó:
Khối lượng thịt nạc (kg) được lóc tách phần thịt nạc (bỏ da, mỡ và xương) của
thân thịt xẻ.
Độ dày mỡ lưng trên thân thịt xẻ được đo trực tiếp tại vị trí xương sườn số
10 cách sống lưng 6,5 cm.
2.3.6 Xử lý số liệu
Toàn bộ số liệu thí nghiệm đã được xử lý phân tích ANOVA bằng chương
trình phần mềm thống kê Minitab 16.0. Tukey-Test được sử dụng để so sánh các giá
55
trị trung bình với độ tin cậy 95%. Các giá trị trung bình được coi là khác nhau có ý
nghĩa thống kê khi giá trị P nhỏ hơn 0,05.
Mô hình thống kê
Yijk = μ + Ai + Bj + ABij + eijk
Yijk = Giá trị của biến phụ thuộc của quan sát k trong yếu tố A mức i và yếu tố
B mức j (i=1,2; j=1,..,4; k= 4)
μ = trung bình tổng quát
Ai = ảnh hưởng cố định hoặc ngẫu nhiên của yếu tố chất hấp phụ độc tố
Bj = ảnh hưởng cố định hoặc ngẫu nhiên của yếu tố độc tố
ABij:ảnh hưởng cố định hoặc ngẫu nhiên của tương tác giữa i và j
eijk : Sai số ngẫu nhiên (hiệu dư)
k: chỉ số lần lặp
56
Chương 3
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN
3.1. ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG NHIỄM ĐỘC TỐ DEOXYNIVALENOL
VÀ FUNONISIN TRONG NGÔ VÀ THỨC ĂN HỖN HỢP CHO LỢN
Đánh giá thực trạng nhiễm độc tố deoxynivalenol và fumonisin trong ngô và
thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh ở các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi thuộc một số
tỉnh ven Tp. Hồ Chí Minh nhằm mục đích đánh giá sự quan tâm đến độc tố nấm mốc
DON và FUM, phương pháp xử lý và tình hình nhiễm độc tố trong ngô và thức ăn
cho lợn. Hiện nay, hầu như tất cả các nhà máy đều có sử dụng ngô trong khẩu phần
thức ăn cho lợn với tỷ lệ sử dụng từ 40 – 60% trong khẩu phần, hơn nữa ngô là một
trong những nguyên liệu dễ nhiễm loại nấm mốc thuộc giống Fusarium [93]. Chính
vì vậy ngoài việc đánh giá thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh cho lợn, việc đánh giá nguyên
liệu chính sử dụng trong khẩu phần thức ăn cho lợn là ngô về mức độ nhiễm độc tố
nấm mốc thuộc giống Fusarium sản sinh ra gồm DON và FUM là rất cần thiết.
3.1.1 Sản lượng thức ăn hỗn hợp của các nhà máy điều tra
Bảng 3.1. Tổng sản lượng sản xuất thức ăn và sản lượng thức ăn sản xuất cho lợn
Tham số Tổng sản lượng Thức ăn cho lợn Tỷ lệ thức ăn cho
(tấn/tháng) (tấn/tháng) lợn/tổng sản lượng (%)
Số nhà máy khảo 20 20
sát
Sản lượng bình 7.306,25 4.788,45 69,34
quân/nhà máy
Thấp nhất 190 130 41,18
Cao nhất 30.688 21.052 95,41
57
Đã tiến hành điều tra 20 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi đại diện cho các
khu vực TP. Hồ Chí Minh, Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Cửu Long (bảng 3.1),
trong đó, có 2 nhà máy ở TP. Hồ Chí Minh, 6 nhà máy ở Đồng Nai, 6 nhà máy ở Bình
Dương, 3 nhà máy ở Long An và 3 nhà máy ở Tiền Giang. Tuy số lượng nhà máy
điều tra khảo sát chỉ chiếm khoảng 20% tổng số các nhà máy sản xuất thức ăn chăn
nuôi trong khu vực (ước tính theo số lượng thống kê của Cục Chăn nuôi 2013). Thời
gian điều tra khảo sát được triển khai từ tháng 07, đây là thời gian đang mùa mưa của
Nam Bộ. Kết quả điều tra sản lượng của các nhà máy nhằm mục đích làm cơ sở để
đánh giá cho việc quan tâm đến độc tố nấm mốc cũng như hướng xử lý và cuối cùng
là thực trạng nhiễm độc tố nấm mốc trong thức ăn cho lợn.
Trung bình sản lượng mỗi tháng của các cơ sở điều tra đạt 7.306,25 tấn, cơ sở
thấp nhất là 190 tấn và cao nhất là 30.688 tấn. Điều nàyy một phần nói lên rằng cách
chọn mẫu mặc dù không phân theo tỉnh thành cố định và theo công suất của nhà máy
nhưng trong quá trình điều tra ngẫu nhiên dựa trên sản phẩm chính là có sản xuất thức
ăn cho lợn cũng đã bao gồm đủ các công suất nhỏ, vừa và lớn, làm cơ sở trong việc
đánh giá chất lượng thức ăn nhiễm độc tố. Trong đó, sản lượng thức ăn cho lợn bình
quân đạt 4.788,45 tấn/tháng tỷ lệ 69,34%, thấp nhất đạt 130 tấn/tháng tỷ lệ 41,18%
và cao nhất đạt 21.052 tấn/tháng tỷ lệ 95,4. Như vậy trong tất cả các cơ sở điều tra
đều có sản xuất thức ăn cho lợn.
3.1.2 Hiện trạng về việc vệ sinh, kiểm tra chất lượng thức ăn và nguyên liệu
Bảng 3.2. Vệ sinh thiết bị, kiểm tra chất lượng và độc tố nấm mốc Tham số Vệ sinh thiết bị (tần suất ngày/lần) Số chỉ tiêu kiểm tra chất lượng Kiểm tra độc tố nấm mốc
Số nhà máy 20 0 20
Trung bình 3,25 0 9,15
Thấp nhất 1 0 3
Cao nhất 4 0 21
58
Khi chúng tôi điều tra đã chú ý đến vấn đề kiểm tra chất lượng thức ăn và
nguyên liệu thức ăn, tất cả các nhà máy đều có kiểm tra chất lượng thức ăn, số chỉ
tiêu của các nhà máy kiểm tra nhiều nhất là 4 chỉ tiêu và ít nhất là 1 chỉ tiêu. Các chỉ
tiêu có tần suất kiểm tra từ nhiều nhất đến ít nhất theo thứ tự là: ẩm độ, protein thô,
Ca, P, xơ thô, béo thô. Ngoài thức ăn hỗn hợp và đậm đặc, các nhà máy còn kiểm tra
các nguyên liệu như ngô, cám, bột cá, khô đậu tương. Tuy nhiên, khi được hỏi tình
trạng kiểm tra độc tố nấm mốc thì hầu hết các nhà máy trả lời là không kiểm tra, đặc
biệt là DON và FUM. Khi nhà máy nghi ngời có vấn đề thức ăn nhiễm mốc mới kiểm
tra và cũng chỉ kiểm tra aflatoxin. Hầu hết tất cả 20 nhà máy điều tra đều không quan
tâm nhiều đến độc tố nấm mốc. Chính vì vậy việc nghiên cứu độc tố nấm mốc của
chúng ta hiện nay vẫn còn là điều khá mới mẻ và ít được quan tâm.
3.1.3 Hiện trạng bảo quản, sử dụng các chất bổ sung để xử lý nấm mốc và độc tố nấm mốc
Thực trạng ở các nhà máy khảo sát cho biết nguồn ngô chủ yếu được nhập
khẩu từ nước ngoài như Mỹ, Argentina, Ấn độ, Braxin. Ngô được nhập về theo đường
biển và được bảo quản trong kho của các nhà máy, tất cả các kho lưu trữ ngô của các
nhà máy khảo sát đều thuộc loại nhà kho bình thường, ngô không được bảo quản bằng
silo. Thời gian lưu trữ từ 10 ngày đến 06 tháng tùy thuộc vào tình hình sản xuất, giá
cả nhập khẩu,… Đối với thức ăn hỗn hợp sau khi sản xuất, thức ăn được đóng bao bì,
thời gian lưu kho không quá 15 ngày.
Tất cả 20 nhà máy điều tra, đều sử dụng chất chống mốc và chống oxy hóa khi
sản xuất thức ăn, vì các nhà máy cho rằng sử dụng chất chống mốc nhằm chống nhiễm
nấm mốc với mục đích bảo quản thức ăn được lâu và không bị nhiễm mốc. Cụ thể
kết quả điều tra cho thấy 100% nhà máy điều tra sử dụng chất chống mốc, 85% sử
dụng chất chống oxy hóa với mục đích là ngừa thức ăn bị nhiễm mốc và bị ôi hóa.
Đây cũng là nhằm mục đích kinh doanh bởi vì lý do khi thức ăn đến người chăn nuôi
thông thường trải qua thời gian vận chuyển dự trữ của cửa hàng và đại lý. Khi đến
người chăn nuôi thông thường người chăn nuôi sẽ chỉ kiểm tra thức ăn bằng cảm quan
59
như quan sát bằng mắt xem thức ăn có bị mốc, mùi ôi thiu hay không. Ngoài ra, các
kiểm tra về định tính và định lượng về độc tố nấm mốc không được chú trọng và kiểm
tra. Chỉ có 11 trên 20 nhà máy khảo sát (chiếm 55%) có sử dụng chất hấp phụ độc tố.
Điều này cho thấy, sử dụng chất hấp phụ độc tố nhằm mục đích xử lý thức ăn đã bị
nhiễm độc tố nấm mốc chưa được các nhà máy quan tâm đúng mức. Mặt khác đối
với các nhà máy, vấn đề sử dụng chất bổ sung phụ gia rất được cân nhắc vì liên quan
đến vấn đề giá cả và làm tăng giá thành sản xuất, vì vậy người sản xuất chỉ quan tâm
đến những điều mà khách hàng thấy được, chẳng hạn như thức ăn bị vón, kết dính và
bị mốc.
Bảng 3.3. Sử dụng chất xử lý nấm mốc và độc tố nấm mốc
Chất bổ sung Nhà máy điều tra Số nhà máy sử Tỷ lệ (%)
dụng
Chống oxy hóa 20 17 85
Chống mốc 20 20 100
Chất hấp phụ độc tố 20 11 55
Hiện tại các nhà máy chủ yếu sử dụng các loại sản phẩm chống oxy hóa chủ
yếu như Oxy-Nil Dry với liều lượng sử dụng 300g/tấn, sản phẩm chất chống mốc
Mold-Nil; Myco Curb dry, sản phẩm chất hấp phụ độc tố như Myco Plus; Toxy-nil
với liều lượng sử dụng 1-1,5kg/tấn.
Như vậy qua kết quả điều tra cho thấy hiện nay các nhà máy sản xuất thức ăn
chưa quan tâm nhiều đến các độc tố nấm mốc ngoại trừ aflatoxin.
3.1.4. Hàm lượng độc tố DON và FUM trong ngô và thức ăn cho lợn thịt
Mẫu thức ăn hỗn hợp hoàn chỉnh của lợn thịt và nguyên liệu ngô được thu thập
từ các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi lúc điều tra. Mỗi nhà máy lấy 3 mẫu thức
ăn hỗn hợp cho lợn thịt đại diện cho 03 giai đoạn sinh trưởng (giai đoạn 15 – 30kg,
30 – 60kg và 60 – 100kg) và 3 mẫu ngô. Tổng số mẫu thu thập được của thức ăn hỗn
60
hợp cho lợn thịt là 03 mẫu/nhà máy x 20 nhà máy = 60 mẫu. Mẫu ngô là 03 mẫu/nhà
máy x 20 nhà máy = 60 mẫu.
3.1.4.1 Hàm lượng độc tố DON trong mẫu ngô
Tất cả mẫu ngô thu thập từ các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi đã được
phân tích định lượng hàm lượng độc tố DON bằng phương pháp phân tích sắc ký lỏng
HPLC theo tiêu chuẩn AOAC 986.17.
Kết quả kiểm tra thực trạng ngô từ các nhà máy điều tra nhiễm độc tố DON
được thể hiện qua bảng 3.4 cho thấy, số mẫu ngô nhiễm DON với 31 mẫu chiếm 52%.
So với kết quả khảo sát của Lee-Jiuan và cs, 2006 [84] ở một số nước Đông Nam Á
gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam tỷ lệ nhiễm DON là
72%, nhóm tác giả thu thập số mẫu đến 177 mẫu. Hàm lượng độc tố DON trong ngô
bình quân với 6.844ppb, mức nhiễm cao nhất là 15.103ppb và thấp nhất là 390ppb.
Trong khi đó kết quả của nhóm tác giả Lee-Jiuan và ctv 2006 [84] mức nhiễm với
DON là 862 ppb cao nhất là 5.270 ppb. So với kết quả của nhóm tác giả về tỷ lệ nhiễm
của nghiên cứu này thấp hơn, tuy nhiên hàm lượng độc tố trung bình cao hơn rất
nhiều.
Bảng 3.4. Hàm lượng độc tố DON trong mẫu ngô
Tham số Deoxynivalenol
Số mẫu thu thập (mẫu) 60
Số mẫu nhiễm độc tố (mẫu) 31
Tỷ lệ nhiễm (%) 52
Giá trị trung bình (ppb) 6.844 ± 4.167
Giá trị nhỏ nhất (ppb) 390
Giá trị lớn nhất (ppb) 15.103
61
Trong nghiên cứu của Inês Rodrigues and Karin Naehrer, 2012 [75] khi khảo
sát nguyên liệu thức ăn chăn nuôi trong đó có ngô trên thế giới ở khu vực Châu Á
gồm Bắc Á, Nam Á và Đông Nam Á cho thấy, mức độ nhiễm độc tố DON trong ngô
khá cao, tỷ lệ mẫu nhiễm lên đến 92% ở Bắc Á với hàm lượng trung bình 1.154ppb
cao nhất 15.073ppb, ở Đông Nam Á 45% với hàm lượng trung bình 307ppb cao nhất
4.805ppb, nhưng ở Nam Á chỉ 22% với hàm lượng trung bình 278ppb và cao nhất
1.150ppb.
Bảng 3.5. Mức nhiễm DON trong mẫu ngô
Hàm lượng Số mẫu % của mẫu nhiễm
n = 31
< 5.000 ppb 9 29,03
5.000 – 10.000 ppb 13 41,94
>10.000 ppb 9 29,03
Đối với độc tố DON được phân theo các mức, ở mức dưới 5.000 ppb chiếm
với 9 mẫu trong 31 mẫu nhiễm chiếm tỷ lệ 29,03%; từ 5.000ppb đến 10.000ppb chiếm
đa số với 13 mẫu chiếm 41,94% và trên 10.000ppb có 9 mẫu chiếm 29,03%. Như vậy
trong số mẫu kiểm tra hàm lượng DON nhiễm trong ngô ở mức trên 5.000ppb cũng
chiếm tỷ lệ khá lớn đến 70% đây là ngưỡng vượt quy định theo FDA (2011) và EU
(2006) 5.000ppb.
3.1.4.2 Hàm lượng độc tố FUM trong mẫu ngô
Kết quả kiểm tra thực trạng ngô từ các nhà máy điều tra nhiễm độc tố FUM
được thể hiện qua bảng 3.6 cho thấy, số mẫu ngô nhiễm fumonisin là 42 mẫu chiếm
70% tổng số mẫu điều tra. Kết quả tỷ lệ ngô được thu thập từ các nhà máy thức ăn
chăn nuôi nhiễm độc tố so với kết quả khảo sát của Lee-Jiuan và ctv 2006 [84] ở một
số nước Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam
62
tỷ lệ nhiễm fumonisin của ngô đến 81%, nhóm tác giả thu thập số mẫu đến 177 mẫu
và trên nhiều quốc gia vì vậy tỷ lệ nhiễm độc tố sẽ đa dạng hơn.
Bảng 3.6. Hàm lượng độc tố FUM trong mẫu ngô
Fumonisin Tham số
Số mẫu thu thập (mẫu) 60
Số mẫu nhiễm độc tố (mẫu) 42
Tỷ lệ nhiễm (%) 70
Giá trị trung bình (ppb) 8.901 ± 6.104
Giá trị nhỏ nhất (ppb) 750
Giá trị lớn nhất (ppb) 18.514
Kết quả xác định hàm lượng độc tố FUM trong ngô cho thấy mức nhiễm trung
bình với 8.901ppb và mức nhiễm cao nhất lên đến 18.514ppb và thấp nhất 750ppb.
Những nghiên cứu gần đây ở các tỉnh Đông Nam Bộ và Tây Nguyên đã cho thấy:
aflatoxins, fumonisins và zearalenone nhiễm vào nguyên liệu thức ăn chăn nuôi với
mật độ cao và phổ biến ở nhiều nơi, đặc biệt là fumonisin (có đến 70% số mẫu xét
nghiệm bị nhiễm FUM có hàm lượng trung bình 1.757ppb và cao nhất lên đến
10.800ppb [139, 114]. Nhóm tác giả đã thu thập mẫu ngô sau khi thu hoạch tại hai
vùng Đông Nam Bộ và Tây Nguyên, ngô chưa qua thời gian lưu trữ ở các kho của
các nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi. Như vậy, so với kết quả của nhóm tác giả,
hàm lượng trung bình FUM trong ngô ở các nhà máy sản xuất thức ăn cao hơn gấp 5
lần. Trong khi đó kết quả của nhóm tác giả Lee-Jiuan và ctv 2006 [84] mức nhiễm
trung bình với 1.716ppb và cao nhất lên đến 14.714ppb, so với kết quả nghiên cứu
của tác giả mức nhiễm FUM trong nghiên cứu này cao hơn 5,2 lần. Trong nghiên cứu
của Inês Rodrigues and Karin Naehrer, 2012 [75] khi khảo sát nguyên liệu thức ăn
chăn nuôi trong đó có ngô trên thế giới ở khu vực Châu Á gồm Bắc Á, Nam Á và
Đông Nam Á cho thấy, mức độ nhiễm FUM trong ngô khá cao, ở Nam Á 74% với
63
hàm lượng trung bình 845 ppb. Tỷ lệ mẫu nhiễm lên đến 75% ở Bắc Á với hàm lượng
trung bình 2.816ppb, kết quả trong nghiên cứu cao hơn 3,16 lần. Đông Nam Á là 83%
cao hơn kết quả nghiên cứu 13% và với hàm lượng trung bình 1.568ppb kết quả của
nghiên cứu cao hơn 5,6 lần.
Kết quả bảng 3.7, với độc tố FUM thực trạng số mẫu nhiễm được phân theo
các mức cho thấy dưới 5.000ppb với 14 mẫu trong 42 mẫu nhiễm chiếm tỷ lệ 33,33%,
từ 5.001 – 10.000ppb với 13 mẫu chiếm 30,95% và trên 10.000ppb có 15 mẫu chiếm
35,72%.
Bảng 3.7. Mức nhiễm FUM trong ngô
FUM Số mẫu % của mẫu nhiễm
n = 42
< 5.000 ppb 14 33,33
5.000 – 10.000ppb 13 30,95
> 10.000 ppb 15 35,72
3.1.4.3 Hàm lượng độc tố DON trong mẫu thức ăn hỗn hợp cho lợn
Bảng 3.8. Hàm lượng DON trong thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt
Tham số Deoxynivalenol
Số mẫu thu thập (mẫu) 60
Số mẫu nhiễm độc tố (mẫu) 23
Tỷ lệ nhiễm (%) 38,33
Giá trị trung bình (ppb) 3.483 ± 2.435
Giá trị nhỏ nhất (ppb) 435
Giá trị lớn nhất (ppb) 7.891
64
Kết quả bảng 3.8 cho thấy, với 60 mẫu thức ăn hỗn hợp của lợn được thu thập
từ 20 nhà máy kiểm tra nhiễm độc tố kết quả gồm số mẫu thức ăn nhiễm DON với
23 mẫu chiếm 38,33%. Trước đây đã có một khảo sát về nhiễm độc tố nấm mốc với
quy mô lớn trong thức ăn chăn nuôi của Lee-Jiuan và ctv (2006) [84] ở một số nước
Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines, Thái Lan và Việt Nam với số
lượng mẫu lên đến 220 mẫu. Kết quả cho thấy, tỷ lệ mẫu thức ăn hỗn hợp nhiễm độc
tố DON là 19% thấp hơn so với nghiên cứu chúng tôi 18,7%. Kết quả xác định hàm
lượng độc tố cho thấy, mức nhiễm DON trung bình với 3.483ppb mức nhiễm cao nhất
với 7.891ppb và thấp nhất 435ppb. So với kết quả của nhóm tác giả [84] mức nhiễm
trung bình cao hơn gấp 5,2 lần với mức nhiễm DON là 661ppb, mẫu nhiễm cao nhất
của DON lên đến 3.908ppb. Một nghiên cứu khác khi kiểm tra 414 mẫu về chỉ tiêu
nhiễm DON ở các nước vùng Bắc Á (Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc)
[84], cho thấy tỷ lệ mẫu thức ăn nhiễm DON lên đến 75% cao hơn gấp 2 lần so với
kết quả nghiên cứu này, với hàm lượng trung bình là 731ppb và cao nhất là
10.374ppb. Theo Inês Rodrigues và Karin Naehrer, 2012 [75] khi khảo sát thức ăn
chăn nuôi trên thế giới trong đó có khu vực Châu Á gồm Bắc Á, Nam Á và Đông
Nam Á cho thấy, mức độ nhiễm độc tố DON trong thức ăn hỗn hợp khá cao, tỷ lệ
mẫu nhiễm lên đến 89% ở Bắc Á với hàm lượng trung bình 829 ppb, ở Đông Nam Á
35% với hàm lượng trung bình 287 ppb, nhưng ở Nam Á chỉ 22% với hàm lượng
trung bình 156 ppb. Như vậy thức ăn hỗn hợp cho chăn nuôi trên thế giới và trong
khu vực bị nhiễm độc tố nấm mốc nói chung trong đó có DON là khá cao, cũng như
hàm lượng độc tố cũng tương đối cao.
Bảng 3.9. Mức nhiễm DON trong thức ăn hỗn hợp
DON Số mẫu % của mẫu nhiễm
n = 23
< 4.000 ppb 14 60,87
4.001 – 7.000ppb 6 26,09
> 7.000ppb 3 13,04
65
Kết quả bảng 3.9 cho thấy, hàm lượng độc tố DON ở mức dưới 4.000ppb
chiếm đa số mẫu (với 14 mẫu trong 23 mẫu nhiễm) chiếm tỷ lệ 60,87%; từ 4.000 –
7.000ppb (với 6 mẫu) chiếm 26,09%; trên 7.000ppb (với 3 mẫu) chiếm 13,04%.
3.1.4.4 Hàm lượng độc tố FUM trong mẫu thức ăn hỗn hợp cho lợn
Bảng 3.10. Hàm lượng độc tố FUM trong thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt
Tham số Fumonisin
Số mẫu thu thập (mẫu) 60
Số mẫu nhiễm độc tố (mẫu) 27
Tỷ lệ nhiễm (%) 45
Giá trị trung bình (ppb) 4.922 ± 3.736
Giá trị nhỏ nhất (ppb) 675
Giá trị lớn nhất (ppb) 10.255
Kết quả bảng 3.10 cho thấy, với 60 mẫu thức ăn hỗn hợp của lợn được thu
thập từ 20 nhà máy kiểm tra nhiễm độc tố kết quả gồm số mẫu thức ăn nhiễm
fumonisin là 27 mẫu chiếm 45% tổng số mẫu điều tra. Trước đây đã có một khảo sát
về nhiễm độc tố nấm mốc với quy mô lớn trong thức ăn chăn nuôi của Lee-Jiuan và
ctv (2006) [84] ở một số nước Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Philippines,
Thái Lan và Việt Nam với số lượng mẫu lên đến 220 mẫu. Kết quả cho thấy, tỷ lệ
mẫu thức ăn hỗn hợp nhiễm độc tố fumonisin đến 75%. So với kết quả nghiên cứu
của nhóm tác giả, trong nghiên cứu này số lượng mẫu nhỏ hơn rất nhiều, mặc khác
vùng thu thập cũng rất hạn chế vì vậy kết quả có thể cho thấy có sự khác nhau. Tuy
nhiên thì kết quả của nhóm tác giả cũng đã cho thấy tỷ lệ nhiễm độc tố fumonisin là
khá phổ biến.
66
Kết quả xác định hàm lượng độc tố cho thấy, mức nhiễm fumonisin trung bình
với 4.922ppb, mức nhiễm cao nhất là 10.255ppb và thấp nhất là 675ppb. Trong khi
đó kết quả của nhóm tác giả Lee-Jiuan và ctv (2006) [84] mức nhiễm fumonisin trong
thức ăn hỗn hợp của gia súc và gia cầm là 683ppb, mẫu cao nhất lên đến 2.038ppb.
Cùng trong nghiên cứu của nhóm tác giả nhưng mẫu được thu thập ở vùng Bắc Á
gồm Trung Quốc, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc với tổng số mẫu lên đến 414
kiểm tra. Kết quả cho thấy ở vùng Bắc Á tỷ lệ mẫu thức ăn fumonisin là 58%, nhưng
hàm lượng fumonisin rất cao trung bình trên số mẫu nhiễm với 1.579 ppb và có mẫu
đã lên đến 14.714 ppb. Một nghiên cứu của Inês Rodrigues và Karin Naehrer, 2012
[75] khi khảo sát trên thức ăn chăn nuôi trên thế giới trong đó có khu vực châu Á gồm
Bắc Á, Nam Á và Đông Nam Á cho thấy, mức độ nhiễm FUM trong thức ăn hỗn hợp
khá cao, tỷ lệ mẫu nhiễm lên đến 67% ở Bắc Á với hàm lượng trung bình 1.542 ppb
cao nhất lên đến 77.502ppb, Đông Nam Á là 71% với hàm lượng trung bình 800 ppb
cao nhất 22.693ppb và ở Nam Á 71% với hàm lượng trung bình 438 ppb cao nhất
1.507ppb. So với các kết quả nghiên cứu trên, tỷ lệ nhiễm FUM trong mẫu thức ăn
hỗn hợp trong nghiên này thấp hơn ở các vùng Đông Nam Á và Bắc Á từ 18% đến
25%. Nhưng hàm lượng trung bình FUM trong thức ăn cao hơn gấp 6,1 lần đối với
khu vực Đông Nam Á và gấp 3,1 lần so với vùng Bắc Á. Như vậy thức ăn hỗn hợp
cho chăn nuôi trên thế giới và trong khu vực bị nhiễm độc tố nấm mốc nói chung
trong đó có FUM là khá cao, cũng như hàm lượng độc tố cũng tương đối cao.
Bảng 3.11. Hàm lượng FUM trong thức ăn hỗn hợp
FUM Số mẫu % của mẫu nhiễm
n = 27
48,15 < 5.000 ppb 13
40,74 5.001 – 10.000ppb 11
11,11 > 10.000ppb 3
Kết quả bảng 3.11, với độc tố FUM thực trạng số mẫu nhiễm được phân theo
các mức cho thấy dưới 5.000 ppb chiếm đa số với 13 mẫu trong 27 mẫu nhiễm chiếm
67
tỷ lệ 48,15%; từ 5.000 – 10.000ppb với 11 mẫu chiếm 40,74%; trên 10.000ppb với 3
mẫu chiếm 11,11%.
Như vậy kết quả khảo sát cho thấy hàm lượng độc tố DON và FUM trong các
mẫu ngô và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt là rất cao. Điều này theo nhận định của
chúng tôi khi khảo sát thực tế cho thấy, nguồn nguyên liệu ngô nhập khẩu của Việt
Nam rất lớn, từ nhiều quốc gia, do thời gian vận chuyển bằng đường thủy khá lâu, về
Việt Nam được dự trữ lâu với điều kiện kho bãi không đảm bảo chưa có silo bảo
quản, điều kiện ẩm độ và nhiệt độ là yếu tố tác động cho nấm mốc phát triển và sản
sinh độc tố cao.
Nhận xét chung:
Kết quả khảo sát hiện trạng sản xuất thức ăn chăn nuôi nói chung và cho lợn
nói riêng ở 20 nhà máy sản xuất thức ăn tập trung ở một số tỉnh thành phía Nam cho
thấy thực trạng năng suất, sản lượng, bảo quản và tình trạng nhiễm độc tố nấm mốc
của DON và FUM hiện nay.
Kết quả kiểm tra nhiễm độc tố DON và fumonisin trong ngô là nguyên liệu
chính sử dụng trong khẩu phần cho thấy, thực trạng nhiễm DON là 52% với mức
trung bình là 6.844 ppb và 70% số mẫu nhiễm fumonisin với mức trung bình
8.901ppb.
Kết quả kiểm tra nhiễm độc tố DON và fumonisin trong thức ăn hỗn hợp hoàn
chỉnh cho lợn thịt cho thấy, có đến 45% số mẫu nhiễm fumonisin với mức trung bình
4.922ppb và DON là 38,33% với mức trung bình 3.483ppb.
68
3.2. NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG KHẨU PHẦN CHỨA CÁC MỨC ĐỘC
TỐ DON KHÁC NHAU VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHẤT HẤP THỤ ĐỘC TỐ
ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN THỊT
3.2.1 Hàm lượng độc tố deoxinivalenol trong khẩu phần thức ăn thí nghiệm
Khẩu phần cơ sở với các nguyên liệu chính là tấm gạo, khô dầu đậu tương,
dầu đậu nành, lysine, threonine, DCP, bột sò, muối ăn, premix khoáng. Các nguyên
liệu đã được kiểm tra DON trước khi phối hợp khẩu phần và đảm bảo không chứa
DON. Sau khi phối trộn khẩu phần đã được kiểm tra và đảm bảo không chứa DON.
Ngô sau khi được cấy nấm mốc F.nivale theo quy trình, sau đó được sấy khô
ở nhiệt độ 600C. Kết quả phân tích hàm lượng độc tố trong ngô gây nhiễm nấm mốc
có hàm lượng DON là: 590 ppm.
Bảng 3.12. Hàm lượng deoxynivalenol trong khẩu phần
Khẩu phần Hàm lượng DON Mức bổ sung ngô
(ppm) nhiễm DON (%)
Không nhiễm DON 0 -
Nhiễm DON thấp 0,6 3,4
Nhiễm DON trung bình 1,3 7,7
Nhiễm DON cao 3 17,7
Sau khi thức ăn được trộn đều, mẫu đã được lấy và kiểm tra hàm lượng DON
thực tế có trong khẩu phần thức ăn thí nghiệm. Mức nhiễm DON ở các nghiệm thức
lần lượt là: 0; 3,4ppm; 7,7ppm và 17,7ppm.
69
3.2.2 Khối lượng lợn thí nghiệm ở các lứa tuổi sinh trưởng
Lợn đưa vào thí nghiệm lúc 60 ngày tuổi được phân lô hoàn toàn ngẫu nhiên
cho mỗi lần lặp lại đảm bảo đồng đều về khối lượng và có khối lượng bình quân từ
20,2 – 20,4kg/con. Kết quả khối lượng của lợn thí nghiệm được thể hiện ở bảng 3.13.
Bảng 3.13. Khối lượng lợn thí nghiệm ở các lứa tuổi sinh trưởng (kg)
Chỉ tiêu 60 ngày tuổi 116 ngày tuổi 172 ngày tuổi Tỷ lệ chết (%) CHP DON
0 ppm 20,4 98,1ab 3,75b 53,8ab
3,4 ppm 20,4 95,9bc 6,25ab 52,8bcd 0% 7,7 ppm 20,3 91,8d 8,75ab 51,0e
17,7ppm 20,2 86,6e 11,25a 48,7f
0 ppm 20,3 98,8a 3,75b 53,9a
3,4 ppm 20,2 53,0abc 97,1abc 5,00ab 0,15% 7,7 ppm 20,3 95,7bc 6,25ab 52,2cd
17,7ppm 20,4 95,0c 7,50ab 51,9de
RSD 0,235 1,237 2,795 0,431
0,673 0,001 0,070 0,001 PCHP
0,954 0,001 0,003 0,001 PDON
0,560 0,001 0,581 0,001 PCHP*DON
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05) * CHP: Chất hấp phụ; DON: Deoxynivalenol; RSD= Residual Standard Deviation (Độ lệch tiêu chuẩn của hiệu dư)
Khối lượng lợn thí nghiệm lúc 116 ngày tuổi dao động từ 48,7kg đến 53,9kg,
và có sai khác có nghĩa thống kê đối với yếu tố các mức DON, chất hấp phụ độc tố
và tương tác giữa hai yếu tố (P<0,05). Với yếu tố thí nghiệm là các mức nhiễm DON
trong khẩu phần thức ăn kết quả cho thấy sự khác biệt rất rõ rệt giữa các nghiệm thức
khi không sử dụng chất hấp phụ. Khối lượng lợn thí nghiệm tại thời điểm 116 ngày
70
tuổi có xu hướng giảm dần theo các mức nhiễm DON theo hướng tăng dần, cụ thể
với khối lượng 53,8kg, 52,8kg, 51kg và 48,7kg tương ứng với các mức nhiễm DON
là 0, 3,4, 7,7 và 17,7 ppm. Ở 02 nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm DON với mức
tương ứng 7,7 và 17,7 ppm có khối lượng lúc 116 ngày tuổi đều sai khác có ý nghĩa
thống kê so với nghiệm thức nhiễm DON với mức 3,4 và 0 ppm, với mức nhiễm 3,4
ppm không có sai khác ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức không nhiễm DON.
Khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố kết quả cho thấy sự sai khác giữa các
nghiệm thức có sự khác biệt so với không bổ sung chất hấp phụ độc tố. Chất hấp phụ
độc tố đã ảnh hưởng rất rõ rệt đối với khẩu phần nhiễm DON ở mức 7,7 ppm và
17,7ppm (P<0,05). Như vậy chỉ có sự tương tác giữa hai yếu tố đối với khẩu phần
nhiễm DON ở mức 7,7ppm và 17,7ppm. Khi xét trên các nghiệm thức nhiễm DON
có bổ sung chất hấp phụ độc tố, khối lượng lợn thí nghiệm đã được cải thiện và sự
cải thiện càng rõ nét khi thức ăn nhiễm DON càng cao cụ thể với mức 7,7 ppm và
đặc biệt 17,7ppm. Tuy nhiên, yếu tố chất hấp phụ độc tố không có ý nghĩa cải thiện
khối lượng lợn thí nghiệm lúc 116 ngày tuổi với khẩu phần không nhiễm DON và
mức nhiễm 3,4 ppm (P>0,05). Cụ thể, khi khẩu phần nhiễm DON ở các mức khác
nhau 3,4ppm, 7,7ppm và 17,7ppm có sử dụng chất hấp phụ độc tố đã cải thiện khối
lượng lợn lúc 116 ngày tuổi tương ứng 0,4%, 2,2% và 6%.
Khối lượng lợn thí nghiệm lúc kết thúc thí nghiệm ở 172 ngày tuổi đạt từ 86,6
đến 98,1 kg/con. Do thức ăn của lợn ở những nghiệm thức nhiễm DON đã làm ảnh
hưởng rất lớn đến khối lượng của lợn lúc kết thúc thí nghiệm. Tương tự như giai đoạn
sinh trưởng, ở giai đoạn vỗ béo khối lượng lợn lúc kết thúc thí nghiệm có cùng xu
hướng giảm rõ rệt ở các mức nhiễm DON theo mức tăng dần. Xét yếu tố nhiễm DON
trong thức ăn, sự khác biệt rõ rệt nhất đối với 02 mức nhiễm 7,7 và 17,7 ppm so với
mức 0 và 3,4 ppm (P<0,05), so với nghiệm thức không nhiễm DON khối lượng lúc
kết thúc với 98,1 kg, ở nghiệm thức nhiễm DON 17,7ppm chỉ với 86,6kg/con thấp
hơn 14,5% và ở nghiệm thức nhiễm 7,7ppm với 91,8kg thấp hơn 8%. Xét yếu tố chất
hấp phụ độc tố cho thấy sự khác biệt và cải thiện khối lượng giữa có bổ sung và không
71
có bổ sung chất hấp phụ độc tố. Sự khác biệt rõ ràng nhất chỉ với 02 mức nhiễm DON
7,7 và 17,7 ppm (P<0,05). Khi bổ sung chất hấp phụ độc tố với nghiệm thức không
nhiễm DON và nhiễm mức 3,4 ppm cho thấy sự cải thiện không đáng kể. Kết quả
cũng cho thấy có sự tương tác giữa 02 yếu tố chất hấp phụ độc tố và yếu tố nhiễm
độc tố DON trong khẩu phần thức ăn, sự tương tác rõ ràng nhất với 02 mức nhiễm
DON 7,7, 17,7 ppm. Khi được bổ sung chất hấp phụ độc tố tất cả các nghiệm thức có
thức ăn nhiễm DON đều đã cải thiện khối lượng lúc kết thúc ở 172 ngày tuổi, mức
cải thiện lần lượt theo các mức nhiễm DON 3,4 ppm với 1,9%, mức nhiễm 7,7 ppm
với 5% và mức nhiễm DON 17,7 ppm cải thiện lên đến 10,5%.
Thức ăn thí nghiệm khi nhiễm độc tố DON ngoài việc làm ảnh hưởng đến khối
lượng của lợn ở các giai đoạn sinh trưởng, còn làm giảm sức đề kháng của lợn điều
này thể hiện khá rõ ở kết quả tỷ lệ chết lợn thí nghiệm. Khẩu phần có hàm lượng
DON càng cao thì có tỷ lệ chết càng cao, tỷ lệ chết cao nhất là 11,25% ở khẩu phần
có chứa DON với mức 17,7 ppm, và thấp nhất là 3,75% ở khẩu phần không có chứa
DON. Lợn rất nhạy cảm khi ăn các thức ăn bị nhiễm DON, ngoài việc gây ói mửa,
giảm ăn, giảm tăng khối lượng còn gây suy giảm đáp ứng miễn dịch [33, 139]. Tuy
nhiên khi xét đến yếu tố chất hấp phụ độc tố, khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố vào
khẩu phần nhiễm DON đã làm giảm tỷ lệ chết của lợn thí nghiệm so với không bổ
sung. Tỷ lệ chết ở các nghiệm thức có nhiễm DON nhưng được bổ sung chất hấp phụ
độc tố lần lượt là: 5,0%, 6,25% và 7,5%. Như vậy độc tố DON có thể gây nên một số
bệnh như gây tổn thương các cơ quan, làm giảm sức đề kháng của lợn ở giai đoạn
sinh trưởng, sức đề kháng yếu đã làm lợn dễ mẫn cảm với các mầm bệnh cũng như
các độc tố là rất lớn. Đã có nhiều nghiên cứu chuyên sâu về các loại bệnh do độc tố
DON gây ra với lợn ở tuổi sinh trưởng, một nghiên cứu thức ăn nhiễm DON cho thấy
với nồng độ lên đến 5,26 mg/ kg thức ăn ở lợn con có khối lượng từ 16-18kg kết quả
khi mổ khám bệnh tích của lợn cho thấy DON đã ảnh hưởng làm tăng khối lượng
gan, thận, tử cung [54].
72
3.2.3 Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn sinh trưởng
Tăng khối lượng tuyệt đối của lợn thí nghiệm trong giai đoạn 60 – 116 ngày
tuổi đạt được từ 474 g/con/ngày đến 560 g/con/ngày. Xét yếu tố thức ăn nhiễm độc
tố DON và không bổ sung chất hấp phụ độc tố, khẩu phần nhiễm DON ở mức
17,7ppm tăng khối lượng thấp nhất chỉ với 474g/con/ngày kế đến mức nhiễm 7,7 ppm
có tăng khối lượng với 512 g/con/ngày. So với nghiệm thức không nhiễm DON tăng
khối lượng thấp hơn tương ứng là 14,9%, 8% và có sai khác thống kê (P<0,05). Xét
yếu tố chất hấp phụ độc tố, kết quả cho thấy sự sai khác giữa thức ăn nhiễm DON có
bổ sung chất hấp phụ và không bổ sung chất hấp phụ độc tố là rất khác biệt, sự sai
khác rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01). Các nghiệm thức có lợn ăn khẩu phần nhiễm
DON có bổ sung chất hấp phụ độc tố đều đã được cải thiện tăng khối lượng rất rõ rệt
với 1,25% ở mức nhiễm 3,4ppm, 3,77% ở mức nhiễm 7,7ppm và đến 9,33% ở mức
nhiễm 17,7ppm, kết quả này cho thấy hiệu quả của chất hấp phụ độc tố cho thấy rất
rõ khi khẩu phần nhiễm DON ở mức càng cao. Sự tương tác hai yếu tố chỉ thấy rõ nét
ở hai mức nhiễm DON 7,7 và 17,7ppm trong khẩu phần (P<0,05). Như vậy, bổ sung
chất hấp phụ độc tố đã không ảnh hưởng đến khả năng tăng khối lượng của lợn đối
với khẩu phần không nhiễm DON. Ảnh hưởng của DON đến khả năng tăng khối
lượng của lợn đã được Rotter et al. 1995 [128] nghiên cứu trên lợn giai đoạn sinh
trưởng, cho biết khi cho lợn ăn khẩu phần nhiễm DON bằng cách gây nhiễm tự nhiên
ở mức 4 ppm làm giảm tăng khối lượng đến 13%. Tuy nhiên với mức nhiễm 4ppm
nhưng tăng khối lượng của lợn giảm đến 13%, theo nhận xét của chúng tôi với nghiên
cứu của tác giả DON đã được gây nhiễm tự nhiên vì vậy có khả năng thức ăn sẽ bị
nhiễm chéo bởi độc tố khác ngoài DON vì vậy sẽ gây ảnh hưởng đến sinh trưởng của
lợn và giảm tăng khối lượng. Trong lúc đó nghiên cứu của chúng tôi DON đã được
gây nhiễm từ chủng nấm F.nivale do đó chỉ chịu tác động mỗi độc tố DON trong thức
ăn vì vậy sẽ gây ảnh hưởng đến tăng khối lượng của lợn ít hơn.
73
Bảng 3.14. Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn sinh trưởng (g/con/ngày)
Chỉ tiêu 60 - 116 ngày tuổi 60-172 ngày tuổi 116 - 172 ngày tuổi CHP DON
0 ppm 557ab 739a 648ab
3,4 ppm 540bcd 718ab 629bc 0% 7,7 ppm 512e 680bc 596d
17,7ppm 474f 633c 553e
0 ppm 560a 749a 655a
3,4 ppm 547ab 735a 641abc 0,15% 7,7 ppm 533cd 724ab 628bc
17,7ppm 526de 718ab 622c
RSD 7,899 21,698 10,677
0,001 0,001 0,001 PCHP
0,001 0,001 0,001 PDON
0,001 0,008 0,001 PCHP*DON
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05); CHP: Chất hấp phụ; DON: Deoxynivalenol;
Cũng như giai đoạn sinh trưởng ở giai đoạn vỗ béo, khi xét yếu tố thức ăn
nhiễm độc tố DON và không bổ sung chất hấp phụ độc tố, khẩu phần nhiễm DON ở
mức 17,7ppm tăng khối lượng thấp nhất chỉ với 633g/con/ngày kế đến mức nhiễm
7,7ppm có tăng khối lượng với 680g/con/ngày và có sai khác thống kê so với nghiệm
thức nhiễm DON ở mức 0ppm và 3,4ppm (P<0,05). Xét yếu tố chất hấp phụ độc tố,
kết quả cho thấy sự sai khác giữa thức ăn nhiễm DON ở mức 7,7 và 17,7ppm có bổ
sung chất hấp phụ và không bổ sung chất hấp phụ độc tố là rất khác biệt, sự sai khác
rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01). Lợn ăn khẩu phần nhiễm DON khi có bổ sung chất
hấp phụ độc tố đã cải thiện tăng khối lượng rất đáng kể, đặc biệt với nghiệm thức
nhiễm DON cao. Cụ thể kết quả ở bảng 3.14 cho thấy, tăng khối lượng của lợn tăng
74
lên khi được ăn thức ăn nhiễm DON có bổ sung chất hấp phụ độc tố lần lượt 2,3%
với mức nhiễm 3,4 ppm; 5,95% với mức nhiễm 7,7 ppm và 11,5% với mức nhiễm
17,7 ppm. Sự tương tác giữa hai yếu tố chỉ thấy có sai khác thống kê ở 02 mức nhiễm
DON trong khẩu phần là 7,7 và 17,7ppm (P<0,05), không thấy sự sai khác ở mức
0ppm và 3,4ppm. Như vậy, độc tố DON vẫn gây ảnh hưởng đến tăng khối lượng của
lợn ở giai đoạn vỗ béo, chứ không chỉ mẫn cảm với lợn ở giai đoạn sinh trưởng.
Tính chung cả kì thí nghiệm (60-172 ngày tuổi) tăng khối lượng của lợn thí
nghiệm bị ảnh hưởng bởi yếu tố thức ăn nhiễm DON, cụ thể tăng khối lượng của lợn
thấp hơn so với lợn ăn thức ăn không nhiễm DON lần lượt là 2,8%, 8% và 14,5%
tương ứng các mức nhiễm DON 3,4 ppm, 7,7 ppm và 17,7ppm. Tuy nhiên, chỉ có 02
nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm DON ở mức 7,7ppm và 17,7 ppm có sai khác có
ý nghĩa thống kê so với 02 nghiệm thức có mức nhiễm 0ppm và 3,4ppm, với mức
nhiễm 17,7ppm cũng có sai khác thống kê so với cả mức 7,7ppm. Như vậy, khi thức
ăn nhiễm độc tố DON với mức từ 7,7ppm và với mức nhiễm 17,7ppm đã làm ảnh
hưởng đến tăng khối lượng của lợn suốt thời gian thí nghiệm từ 60 ngày tuổi đến 172
ngày tuổi rất lớn, sai khác rất có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức còn lại
(P<0,01). Sự tương tác giữa hai yếu tố chất hấp phụ độc tố và các mức nhiễm độc tố
DON của thức ăn của lợn thí nghiệm rất rõ rệt (P<0,05). Sự tương tác giữa hai yếu tố
cho thấy ảnh hưởng của chất hấp phụ độc tố lên thức ăn nhiễm DON đã cải thiện tăng
khối lượng của lợn thí nghiệm, sự ảnh hưởng này thấy rõ nhất đối với mức nhiễm
DON 7,7ppm và 17,7ppm.
Ảnh hưởng của thức ăn nhiễm độc tố DON đối với lợn thịt đã được nhiều
nghiên cứu trên thế giới đề cập đến, kết quả trong nghiên cứu này cũng đã cho thấy
phù hợp với một số nghiên cứu trước đây. Kết quả nghiên cứu của Rotter (1995)
[128] cho biết khi cho lợn ăn khẩu phần nhiễm DON tự nhiên ở mức 4 ppm làm giảm
tăng khối lượng đến 13%, tuy nhiên với kết quả của tác giả là thức ăn nhiễm DON tự
nhiên vì vậy khả năng ảnh hưởng của một vài độc tố khác cộng hưởng cho nên có thể
làm ảnh hưởng đến tăng khối lượng của lợn giảm đến 13%. So với kết quả của tác
75
giả trong nghiên cứu này thức ăn nhiễm DON 17 ppm cũng đã làm giảm tăng khối
lượng của lợn đến 14,5%. Theo Dänick và các cộng sự (2004) [37] lợn ăn khẩu phần
nhiễm DON ở mức 6,6 ppm làm giảm tăng khối lượng 10% so với thức ăn không
nhiễm DON, kết quả nghiên cứu của tác giả cũng có xu hướng ảnh hưởng rất rõ của
DON đến tăng khối lượng của lợn như kết quả trong nghiên cứu này.
Khi khẩu phần được bổ sung chất hấp phụ độc tố thì tăng khối lượng của lợn
đã tăng lên lần lượt là 1,8%, 4,9% và 10,7% so với lợn ăn thức ăn nhiễm DON không
có bổ sung chất hấp phụ độc tố ở các mức 3,4, 7,7 và 17,7ppm. Như vậy chất hấp phụ
độc tố đã có tác dụng hấp thụ độc tố và cải thiện tăng khối lượng của lợn thí nghiệm,
với mức nhiễm độc tố càng cao thì tác dụng của chất hấp phụ độc tố càng cao. Dänicke
và cs 2004 [37] cho biết, khi cho lợn ăn khẩu phần nhiễm DON ở mức 6,6 ppm nhưng
có bổ sung chất hấp phụ độc tố là sản phẩm Mycofix®Plus có thành phần bao gồm
Diatom earth và Argila caolinitica đã cải thiện tăng khối lượng của lợn tương đương
với khẩu phần đối chứng không nhiễm DON. Lợn khá nhạy cảm khi ăn các thức ăn
bị nhiễm DON. Các triệu chứng thấy rõ là ói mửa, giảm ăn, giảm tăng khối lượng còn
gây suy giảm đáp ứng miễn dịch [37, 149].
Kết quả nghiên cứu cho thấy khi thức ăn của lợn ở giai đoạn sinh trưởng nhiễm
DON đã làm ảnh hưởng đến khả năng sinh trưởng của lợn. Đặc biệt với lợn ở giai
đoạn sinh trưởng là khá mẫn cảm với độc tố nấm mốc nói chung và độc tố DON nói
riêng. Lý giải về ảnh hưởng của độc tố DON với lợn là ảnh hưởng trước tiên và trực
tiếp đến hệ vi sinh vật đường ruột trong đó có rất nhiều vi sinh vật có lợi giúp tăng
khả năng tiêu hóa của lợn trong giai đoạn sinh trưởng. Điều này đã được Wache et al
2009 [150], nghiên cứu tác động của DON đến hệ vi sinh vật đường ruột cho thấy nó
tác động làm giảm vi khuẩn đường ruột, khi tác giả nghiên cứu trên 9 tuần tuổi với
liều lượng DON 2,8mg/kg thức ăn trong 4 tuần. Một nghiên cứu với liều 15,1 mg
DON/kg thức ăn cho lợn 33kg, ảnh hưởng đến các cơ quan, trong đó lớp màng nhầy
thành ruột mỏng hơn [140], chính điều này làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu
dưỡng chất của lợn trong giai đoạn sinh trưởng và sẽ làm giảm tăng khối lượng ở giai
76
đoạn này. Ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn tức làm giảm tăng khối lượng của lợn,
là do lợn bị bệnh và do khả năng hấp thu dinh dưỡng của lợn. Để lợn có khả năng hấp
thu dinh dưỡng một cách hiệu quả ngoài việc thành phần và giá trị dinh dưỡng khẩu
phần, chất lượng thức ăn giúp tăng hiệu quả hấp thu dưỡng chất của lợn. Đường tiêu
hóa của lợn nếu bị tổn thương sẽ ảnh hưởng rất lớn đến khả năng tiêu hóa hấp thu
dưỡng chất, chính vì vậy làm giảm khả năng tăng trưởng của lợn. Biểu mô ruột là
một lớp tế bào bao phủ bên trong lòng ống tiếu hoá, hoạt động như một màng lọc có
lựa chọn, giúp hấp thu dưỡng chất từ những khẩu phần hàng ngày, nhất là chất điện
giải, nước từ lòng ruột đưa vào hệ tuần hoàn (Prelusky 1996) [120]. Lớp biểu mô này
tạo thành hàng rào quan trọng nhất và lớn nhất giúp ngăn chặn hấp thu những chất có
hại từ môi trường bên ngoài vào nội tạng bao gồm các tác nhân gây bệnh, vi sinh vật
và độc tố của chúng (Bouhet và cộng sự 2005; Oswald 2006) [22,103]. Khi gia súc
tiếp xúc với độc tố qua đường thức ăn thì đường tiêu hoá là cơ quan bị tấn công đầu
tiên do độc tố nấm theo thức ăn vào cơ thể thú. Sau khi thức ăn chứa độc tố được tiêu
hóa thì các tế bào biểu mô là nơi có nồng độ độc tố cao nhất, dẫn tới khả năng làm
ảnh hưởng xấu đến chức năng của ruột (Alassane và cộng sự 2015 – Ghareeb và cộng
sự 2015) [16,62]. Khi ăn thức ăn nhiễm độc tố nấm, mô ruột bị tổn hại và để lại những
biến đổi về mặt hình thái của mô. Bệnh tích trên biểu mô ruột của lợn cho ăn khẩu
phần nhiễm DON tự nhiên được quan sát thấy nhiều điểm bề mặt bị thoái hoá, nhung
mao bị dung hợp, đỉnh nhung mao bị hoại tử, tạo thành các túi rỗng ở tế bào biểu mô
phủ và phù nề lớp tế bào tạo dịch nhầy, không tổn thương nào được quan sát thấy ở
các lớp tế bào sâu hơn (Bracarense 2012, Eriksen 2004) [24,47]. Bệnh tích ở không
tràng: lớp nhung mao bề mặt bị bong tróc và bào mòn, phân giải phù nề các tế bào lót
được quan sát ở những mô hình của ruột sau khi nhiễm DON (Pinton 2014, Kolf-
Clauw 2009) [116,80]. Chính vì vậy, khi lợn ăn thức ăn nhiễm độc tố DON với mức
có thể gây tổn thương trực tiếp đến đường tiêu hóa và chính đã làm giảm thậm chí
mất chức năng của thành ruột, điều này đã làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu
dưỡng chất và không ngăn chặn các vi sinh có hại trực tiếp làm ảnh hưởng đến sinh
trưởng của lợn.
77
Như vậy, độc tố DON đã gây nên một số bệnh như gây tổn thương các cơ
quan, làm giảm sức đề kháng của lợn ở giai đoạn sinh trưởng. Đã có nhiều nghiên
cứu chuyên sâu về các loại bệnh do độc tố DON gây ra với lợn ở tuổi sinh trưởng.
Một nghiên cứu thức ăn nhiễm DON cho thấy với nồng độ lên đến 5,26 mg/ kg ở lợn
con có khối lượng từ 16-18kg cho thấy DON đã ảnh hưởng làm tăng khối lượng gan,
thận, tử cung. Nhóm tác giả cũng đã nghiên cứu sự hiện diện của DON ở đường tiết
niệu và trao đổi DON, cho thấy lợn hấp thu ít nhất 67% lượng DON ăn vào, điều này
giải thích vì sao lợn rất mẫn cảm với DON. Pinton và ctv (2008) [117] nghiên cứu
trên 2 nhóm lợn, 4 - 8 tuần tuổi và lợn 9 tuần tuổi cho ăn thức ăn nhiễm 2,5 mg
DON/kg thức ăn. Cuối giai đoạn thí nghiệm 28 ngày và 56 ngày, lấy máu để phân
tích thành phần hóa học và kháng thể. Kết quả cho thấy, thức ăn có nhiễm DON làm
giảm kali trong máu ở ngày 28 và làm tăng glucose ở ngày 56, làm tăng IgA tổng số.
Từ thí nghiệm này tác giả rút ra kết luận thức ăn có nhiễm DON (2,2-2,5mg/kg) có
làm ảnh hưởng đến sức đề kháng của cơ thể.
3.2.4 Khả năng thu nhận thức ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn của lợn thí nghiệm
Khả năng thu nhận thức ăn ở giai đoạn sinh trưởng của lợn từ 60 ngày tuổi đến
116 ngày tuổi, giữa các nghiệm thức sai khác nhau không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05). Xét yếu tố thức ăn nhiễm độc tố DON và không bổ sung chất hấp phụ độc
tố, khẩu phần nhiễm DON ở mức 7,7ppm và 17,7ppm thức ăn ăn vào hàng ngày của
lợn có giảm hơn so với không nhiễm DON 3%. Tuy nhiên, nhiều tác giả cho rằng
DON rất nhạy cảm với lợn, nhất là lợn sinh trưởng và làm giảm tính ngon miệng,
giảm lượng thức ăn ăn vào. Nhiều nghiên cứu cũng cho rằng DON gây ức chế tính
thèm ăn, giảm lượng thức ăn ăn vào hàng ngày [ 38,140, 150]. Ở nghiên cứu này của
chúng tôi mặc dù thức ăn ăn vào hàng ngày của lợn đối với nghiệm thức nhiễm DON
có giảm đi nhưng chưa cho thấy sai khác nhiều như một số nghiên cứu khác. Bổ sung
chất hấp phụ độc tố vào các nghiệm thức nhiễm DON đã cải thiện đáng kể lượng thức
ăn ăn vào hàng ngày của lợn thí nghiệm, thức ăn ăn vào giữa các nghiệm thức là
tương đương nhau. Ở giai đoạn 116-172 ngày tuổi thức ăn ăn vào thấp nhất ở nghiệm
78
thức ăn khẩu phần nhiễm DON ở mức trung bình và mức cao với 2256 và
2276g/con/ngày. Như vậy, ở giai đoạn vỗ béo DON cũng làm ảnh hưởng đáng kể đến
thức ăn ăn vào hàng ngày của lợn thí nghiệm đặc biệt với mức nhiễm 7,7 và 17,7ppm.
Bảng 3.15. Khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm ở các giai đoạn sinh trưởng (g/con/ngày)
Chỉ tiêu 60 - 116 ngày 116 - 172 ngày 60-172 ngày CHP DON
0 ppm 1.524 2.325 1.924
3,4 ppm 1.523 2.364 1.943 0% 7,7 ppm 1.477 2.256 1.866
17,7ppm 1.502 2.276 1.889
0 ppm 1.556 2.375 1.966
3,4 ppm 1.512 2.297 1.904 0,15% 7,7 ppm 1.523 2.363 1.943
17,7ppm 1.557 2.406 1.982
RSD 38,523 87,527 60,647
0,035 0,088 0,055 PCHP
0,218 0,813 0,584 PDON
0,348 0,138 0,159 PCHP*DON
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05); CHP: Chất hấp phụ; DON: Deoxynivalenol;
Tính chung cho cả kỳ thí nghiệm, lượng thức ăn ăn vào của lợn thí nghiệm đã
bị ảnh hưởng bởi yếu tố độc tố DON trong thức ăn, đã làm giảm lượng thức ăn ăn
vào từ 3 – 4%. Chất hấp phụ độc tố đã có tác động đến lượng thức ăn ăn vào hàng
ngày của lợn thí nghiệm, chỉ có tác dụng với mức nhiễm DON cao đã cải thiện đáng
kể khả năng thu nhận thức ăn của lợn lên 4%. Theo một số tác giả cho rằng thức ăn
nhiễm DON gây ói mửa cho động vật, ức chế tính thèm ăn, giảm lượng thức ăn ăn
79
vào hàng ngày [150, 38]. Có tác giả lý giải rằng lợn rất nhạy cảm với độc tố DON,
làm giảm tính ngon miệng và giảm tăng khối lượng [18, 100].
Độc tố DON đã có làm giảm không đáng kể lượng thức ăn ăn vào, nhưng hệ
số chuyển hóa thức ăn giữa các nghiệm thức lại có sự sai khác nhau có ý nghĩa thống
kê (P<0,05). Ở giai đoạn sinh trưởng, các mức nhiễm DON trong thức ăn đã ảnh
hưởng rất lớn đến hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn. Hệ số chuyển hóa thức ăn thấp
nhất là 2,74 ở nghiệm thức thức ăn không nhiễm DON và cao nhất là 3,17 kg thức
ăn/kg tăng khối lượng ở nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm DON 17,7 ppm và sai
khác này có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức khác.
Khẩu phần nhiễm 17,7 ppm ảnh hưởng rất rõ rệt đến hiệu quả sử dụng thức ăn
của lợn. Hệ số chuyển hóa thức ăn cao hơn so với nghiệm thức không nhiễm DON
15,7% và sự sai khác này rất có ý nghĩa thống kê (P<0,01). Hệ số chuyển hóa thức
ăn ở các nghiệm thức nhiễm DON 3,4ppm cao hơn nghiệm thức không nhiễm DON
2,8% và ở mức nhiễm 7,7 ppm cao hơn 5,5% sai khác không có ý nghĩa thống kê
(P>0,05). Bổ sung chất hấp phụ độc tố đã cải thiện đáng kể hệ số chuyển hóa thức ăn
so với không bổ sung chất hấp phụ đặc biệt với mức nhiễm DON cao 17,7ppm
(P<0,05). Theo Dänicke và cs. (2004) [37] nghiên cứu trên lợn ở giai đoạn sinh trưởng
ăn thức ăn nhiễm DON ở mức 4,6 ppm cho thấy hệ số chuyển hóa thức ăn cao hơn
nghiệm thức không nhiễm DON đến 22%. Tuy nhiên một nghiên cứu của Goyarts và
cs. (2007) [64] trên lợn ở giai đoạn sinh trưởng cho ăn thức ăn nhiễm DON ở mức
6,4ppm cho tăng khối lượng thấp hơn 13,7%, thức ăn ăn vào thấp hơn 14,8% nhưng
hệ số chuyển hóa thức ăn lại thấp hơn lợn ăn thức ăn không nhiễm DON. Trong khi
đó một nghiên cứu khác của Foster và cs. (1986) [56] trên lợn giai đoạn sinh trưởng
(có khối lượng 27,5kg nuôi trong thời gian 49 ngày), khi cho lợn ăn thức ăn nhiễm
DON tinh khiết (purified) với liều 4,7 ppm kết quả so với thức ăn không nhiễm DON
tăng khối lượng thấp hơn 20% và hệ số chuyển hóa thức ăn cao hơn 2,6%. Tuy nhiên,
trong nghiên cứu của tác giả với thức ăn được nhiễm DON từ ngô nuôi cấy bởi nấm
F.graminearum với mức nhiễm trong khẩu phần 5,1 ppm làm tăng hệ số chuyển hóa
80
thức ăn 3,2% so với đối chứng. Với nghiên cứu của Bergsjø và cs. (1993) [18] khi
cho lợn thịt ăn khẩu phần nhiễm DON 3,5ppm hệ số chuyển hóa thức ăn cao hơn đối
chứng không nhiễm DON 3,5%.
Bảng 3.16. Hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn ở các giai đoạn sinh trưởng (kg/kg TT)
Chỉ tiêu 60 - 116 ngày 116 - 172 ngày 60-172 ngày CHP DON
0 ppm 2,74c 3,15c 2,96b
3,4 ppm 2,82bc 3,29bc 3,05b 0% 7,7 ppm 2,88bc 3,31bc 3,11ab
17,7ppm 3,17a 3,60a 3,28a
0 ppm 2,78bc 3,17bc 2,93b
3,4 ppm 2,76c 3,12c 3,05b 0,15% 7,7 ppm 2,86bc 3,27bc 3,08ab
17,7ppm 2,96b 3,35b 3,10ab
RSD 0,080 0,084 0,086
0,030 0,001 0,057 PCHP
0,001 0,001 0,001 PDON
0,031 0,014 0,178 PCHP*DON
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Ở giai đoạn vỗ béo, hệ số chuyển hóa thức ăn của nghiệm thức nhiễm DON
17,7ppm khi không có bổ sung chất hấp phụ độc tố là cao nhất và sai khác có ý nghĩa
thống kê so với các nghiệm thức còn lại (P<0,05). Yếu tố chất hấp phụ độc tố đã ảnh
hưởng đến hệ số chuyển hóa thức ăn, tác động chủ yếu vào các nghiệm thức nhiễm
DON, đặc biệt mức nhiễm 17,7ppm.
81
Tính chung cho cả kỳ thí nghiệm, hệ số chuyển hóa thức ăn chịu ảnh hưởng
của cả hai yếu tố chất hấp phụ độc tố và DON. Khi thức ăn nhiễm độc tố càng cao thì
hệ số chuyển hóa thức ăn càng cao. Sự sai khác có ý nghĩa thống kê so với nghiệm
thức không nhiễm DON chỉ có ở nghiệm thức nhiễm DON mức 17,7ppm (P<0,05).
Yếu tố chất hấp phụ độc tố cũng đã ảnh hưởng rất lớn đến hệ số chuyển hóa thức ăn,
khi bổ sung chất hấp phụ độc tố vào thức ăn đã cải thiện hệ số chuyển hóa thức ăn rất
lớn đối với thức ăn nhiễm DON và không có ảnh hưởng đến nghiệm thức không
nhiễm DON. Đặc biệt đối với nghiệm thức nhiễm DON cao khi bổ sung chất hấp phụ
độc tố đã cải thiện hệ số chuyển hóa thức ăn tương đương với nghiệm thức còn lại,
sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Ảnh hưởng đến hệ số chuyển hóa thức
ăn một phần chính vì DON làm ảnh hưởng đến hệ vi sinh vật của đường ruột làm tổn
thương các niêm mạc ruột làm giảm khả năng hấp thu dinh dưỡng của lợn, điều này
đã làm giảm hiệu quả sử dụng thức ăn.
Khi các khẩu phần nhiễm DON có bổ sung chất hấp phụ độc tố đều cải thiện
hiệu quả sử dụng thức ăn, đối với khẩu phần nhiễm DON ở mức thấp (nghiệm thức
2) khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố cho kết quả về hệ số chuyển hóa thức ăn tương
đương với khẩu phần không nhiễm DON. Nhưng, nếu hàm lượng DON ở mức trung
bình (7,7 ppm) và cao (17,7 ppm) có bổ sung chất hấp phụ độc tố thì hệ số chuyển
hóa thức ăn đã được cải thiện lần lượt là 1% và 6,7%.
3.2.5 Khảo sát chất lượng thịt xẻ của lợn thí nghiệm
Khi kết thúc thí nghiệm lúc 172 ngày tuổi, mỗi nghiệm thức chọn 2 lợn cho
một lần lặp lại (01 con cái và 01 con đực) và với 4 lần lặp lại mỗi nghiệm thức đã
chọn 8 lợn (4 đực và 4 cái) để mổ khảo sát chất lượng thịt xẻ. Lợn được chọn có khối
lượng tương đương với khối lượng trung bình của nghiệm thức. Các chỉ tiêu khảo sát
chất lượng thịt xẻ thể hiện ở bảng 3.17. Kết quả cho thấy khối lượng lợn chọn mổ
khảo sát giữa các nghiệm thức là tương đương với khối lượng bình quân của nghiệm
thức dao động từ 93,67kg đến 94,92 kg.
82
Bảng 3.17. Khối lượng các phần khảo sát lợn thí nghiệm (kg)
Chỉ tiêu Giết thịt Móc hàm Thịt xẻ Thịt nạc CHP DON
0 ppm 95,45 71,70 39,16ab 80,43
3,4 ppm 94,85 72,08 38,93ab 79,70 0% 7,7 ppm 94,50 70,24 37,29b 76,56
17,7ppm 93,67 69,28 36,73b 77,56
0 ppm 94,82 72,86 39,92a 79,95
3,4 ppm 94,87 71,89 38,74ab 79,73 0,15% 7,7 ppm 94,65 71,01 38,00ab 78,81
17,7ppm 94,92 70,57 37,78ab 78,89
RSD 1,277 1,604 1,054 1,831
0,662 0,194 0,132 0,663 PCHP
0,596 0,022 0,001 0,148 PDON
0,537 0,791 0,674 0,791 PCHP*DON
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Khối lượng các phần khảo sát như khối lượng móc hàm đạt từ 76,5 đến 80,4kg,
thấp nhất ở nghiệm thức nhiễm DON 7,7ppm và 17,7ppm. Tuy nhiên, khi có bổ sung
chất hấp phụ độc tố khối lượng móc hàm đã cải thiện đáng kể với các nghiệm thức
thức ăn nhiễm DON, giữa các nghiệm thức không có sai khác thống kê (P>0,05).
Tương tự, khối lượng thịt xẻ giữa các nghiệm thức không có sai khác thống kê, mặc
dù lợn ăn thức ăn nhiễm DON ở mức cao 7,7 và 17,7ppm có khối lượng thịt xẻ thấp
hơn. Tuy nhiên, khối lượng thịt nạc có ảnh hưởng khá rõ khi lợn ăn thức ăn nhiễm
DON ở mức cao 17,7ppm với khối lượng thịt nạc thấp nhất và có sai khác ý nghĩa
thống kê so với lợn ăn thức ăn không nhiễm DON và có bổ sung chất hấp phụ độc tố.
83
Tỷ lệ móc hàm ở các nghiệm thức thí nghiệm dao động từ 82,8% đến 84,32%,
ở nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm DON 17,7 ppm có tỷ lệ móc hàm thấp nhất
82,8%, sự khác biệt giữa các nghiệm thức không có sai khác thống kê (P>0,05). Tỷ
lệ thịt xẻ giữa các nghiệm thức cũng không có sai khác có ý nghĩa thống kê, dao động
từ 74% đến 76%, nghiệm thức nhiễm DON 17,7 ppm có tỷ lệ thịt xẻ thấp nhất 74%.
Tỷ lệ thịt nạc dao động từ 53 đến 54,8%, yếu tố DON cũng ảnh hưởng đến tỷ lệ thịt
nạc của lợn thí nghiệm đối với mức nhiễm 7,7 và 17,7ppm, tuy nhiên sự sai khác
không có ý nghĩa thống kê.
Bảng 3.18. Tỷ lệ các phần khảo sát lợn thí nghiệm (%)
Chỉ tiêu Tỷ lệ thịt xẻ Tỷ lệ nạc Dày mỡ lưng Tỷ lệ móc hàm (mm) CHP DON
0 ppm 84,27 16,25 54,61 75,15
3,4 ppm 84,01 17,00 54,01 75,99 0% 7,7 ppm 83,13 17,38 53,09 74,34
17,7ppm 82,81 17,42 53,02 73,96
0 ppm 84,32 16,05 54,81 76,84
3,4 ppm 84,04 16,50 53,88 75,78 0,15% 7,7 ppm 83,27 16,75 53,51 75,02
17,7ppm 83,11 17,38 53,53 74,35
RSD 1,801 0,910 1,004 1,570
0,841 0,296 0,488 0,262 PCHP
0,404 0,066 0,026 0,071 PDON
0,999 0,916 0,923 0,679 PCHP*DON
Khi bổ sung chất hấp phụ độc tố vào thức ăn của lợn thí nghiệm đã cải thiện
tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ và tỷ lệ thịt nạc của lợn thí nghiệm ở các nghiệm thức lợn
ăn thức ăn nhiễm DON. Các chỉ tiêu tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ của lợn trong nghiên
84
cứu này là giống lai giữa Duroc với nái lai (Landrace x Yorkshire) là tương đương
với các nghiên cứu về tổ hợp lai Duroc với nái lai (Landrace x Yorkshire) hiện nay,
như Nguyễn Văn Thắng và Vũ Đình Tôn (2010) [9] tỷ lệ móc hàm 80% và tỷ lệ thịt
xẻ 70%.
Độ dày mỡ lưng của lợn thí nghiệm được đo ở vị trí P2 xương sườn số 10 của
lợn mổ khảo sát, kết quả cho thấy không có sai khác thống kê giữa các nghiệm thức
(P>0,05). Dày mỡ lưng của lợn thí nghiệm mổ khảo sát lúc 172 ngày tuổi dao động
từ 16mm đến 17,4mm, cao nhất ở nghiệm thức 4 nhiễm DON 17,7 ppm với 17,4mm.
Như vậy, qua kết quả mổ khảo sát lợn thí nghiệm lúc kết thúc 172 ngày tuổi
cho thấy các chỉ tiêu khảo sát tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ nạc và dày mỡ lưng
giữa các nghiệm thức không có sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tuy nhiên ở
nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm DON với mức 7,7 ppm và đặc biệt là 17,7 ppm
cho kết quả khảo sát các chỉ tiêu nêu trên đều thấp hơn nghiệm thức lợn ăn thức ăn
không nhiễm DON từ 2 đến 3%. Khi bổ sung chất hấp phụ độc tố các chỉ tiêu khảo
sát thịt xẻ của lợn tăng lên 1 đến 2%.
3.2.6 Đánh giá ảnh hưởng của thức ăn nhiễm DON lên nhung mao ruột non của lợn thí nghiệm
Trong số lợn bị chết trong thời gian thí nghiệm ở các nghiệm thức thức ăn
nhiễm độc tố, phần ruột non được cắt để làm tiêu bản và đọc kết quả. Qua hình ảnh
chụp từ tiêu bản cho thấy đối với lợn ăn thức ăn nhiễm DON ở mức 7,7 và 17,7 ppm
đã ảnh hưởng lớn đến thành ruột non của lợn bị chết. Khi thức ăn nhiễm độc tố do
nấm mốc sản sinh ra cụ thể DON đã ảnh hưởng rất lớn đến đường tiêu hóa, gây tổn
thương thành ruột non của lợn. Điều này cho thấy, đường tiêu hoá của lợn là cơ quan
bị tấn công đầu tiên và trực tiếp khi độc tố DON theo thức ăn vào cơ thể của lợn. Biểu
mô ruột là một lớp tế bào bao phủ bên trong lòng ống tiếu hoá, hoạt động như một
màng lọc có lựa chọn, giúp hấp thu dưỡng chất từ những khẩu phần hàng ngày, nhất
là chất điện giải, nước từ lòng ruột đưa vào hệ tuần hoàn (Prelusky 1996) [120].
85
Hình 3.1. Nhung mao ruột non đã bị bào mòn
Hình 3.2. Nhung mao ruột non của lợn bị bào mòn tận gốc Ngoài chức năng hấp thu dưỡng chất, lớp biểu mô này tạo thành hàng rào quan trọng
nhất và lớn nhất giúp ngăn chặn hấp thu những chất có hại từ môi trường bên ngoài
vào cơ thể bao gồm các tác nhân gây bệnh, vi sinh vật và độc tố của chúng sản sinh
ra (Bouhet và cộng sự 2005; Oswald 2006) [22, 103]. Chính vì vậy, khi bị tổn thương
lớp biểu mô của thành ruột do độc tố DON gây ra ngoài việc ảnh hưởng trực tiếp độc
tố DON sẽ bị hấp thu vào cơ thể, thì chức năng ngăn chặn hấp thu những chất có hại
86
khác và các độc tố khác vào cơ thể cũng bị ảnh hưởng, đồng thời làm giảm khả năng
hấp thu dưỡng chất trong thức ăn.
Nhìn vào hình ảnh chụp trên tiêu bản cho thấy khi tiếp xúc với độc tố DON
các tế bào biểu mô bị hư tổn. Và như vậy, khi ăn thức ăn nhiễm độc tố nấm, mô ruột
bị tổn hại và để lại những biến đổi về mặt hình thái của mô. Điều này đã được một
nghiên cứu về bệnh tích trên biểu mô ruột của lợn cho ăn khẩu phần nhiễm DON tự
nhiên được quan sát đã cho thấy nhiều điểm trên bề mặt bị thoái hoá, nhung mao bị
dung hợp, đỉnh nhung mao bị hoại tử, tạo thành các túi rỗng ở tế bào biểu mô phủ và
gây phù nề lớp tế bào tạo dịch nhày (Bracarense 2012, Eriksen 2004) [24, 47]. Trong
một nghiên cứu khác cũng trên bệnh tích ở không tràng cho thấy, lớp nhung mao bề
mặt bị bong tróc và bào mòn, phân giải phù nề các tế bào lót được quan sát ở những
mô hình của ruột sau khi nhiễm DON (Pinton 2014 , Kolf-Clauw 2009) [116, 80].
Sau khi tiếp xúc thức ăn bị nhiễm độc tố nấm, các tế bào biểu mô là nơi tiếp xúc trực
tiếp thức ăn có nồng độ độc tố cao nhất, dẫn tới khả năng làm ảnh hưởng xấu đến
chức năng của ruột (Alassane và cs. 2015 – Ghareeb và cs. 2015) [14, 62]. Như vậy,
với kết quả khảo sát trên mẫu tiêu bản ruột non đoạn không tràng của nghiên cứu này
cho thấy sự tổn thương trên bề mặt biểu mô thành ruột non là rất rõ, đã làm bào mòn
nhung mao, đỉnh nhung mao ruột bị hoại tử, bong tróc.
Nhận xét chung
- Ảnh hưởng độc tố DON ở các mức 3,4 ppm, 7,7ppm và 17,7ppm trong khẩu
phần thức ăn của lợn thí nghiệm đã làm giảm tăng khối lượng của lợn tương ứng là
2,8%, 8% và 14,5% so với nghiệm thức không nhiễm DON. Tăng hệ số chuyển hóa
thức ăn tương ứng 3,0%, 5,1% và 10,8% so với khẩu phần không nhiễm DON và tỷ
lệ chết của lợn tương ứng 6,25%, 8,75% và 11,25%.
- Chất hấp phụ độc tố cải thiện tăng khối lượng 2%, 5% và 11% so với không
bổ sung chất hấp phụ độc tố lần lượt đối với các mức nhiễm DON ở mức 3,4, 7,7 và
17,7ppm. Hệ số chuyển hóa thức ăn đã được cải thiện 1% và 6,7%, lần lượt đối với
87
khẩu phần nhiễm DON ở mức 7,7 ppm và 17,7 ppm. Giảm tỷ lệ chết của lợn thí
nghiệm lần lượt là 1,25%, 2,5% và 3,75% so với không bổ sung.
- Các chỉ tiêu khảo sát tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ nạc và dày mỡ lưng
giữa các nghiệm thức không có sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Nghiệm thức
lợn ăn thức ăn nhiễm DON với mức 7,7 ppm và đặc biệt là 17,7 ppm không có bổ
sung chất hấp phụ độc tố cho kết quả thấp hơn nghiệm thức không nhiễm DON từ 2
đến 3%. Khi bổ sung chất hấp phụ độc tố các chỉ tiêu khảo sát thịt xẻ của lợn tăng
lên 1 đến 2%.
3.3. NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG KHẨU PHẦN CHỨA CÁC MỨC ĐỘC
TỐ FUM KHÁC NHAU VÀ HIỆU QUẢ CỦA CHẤT HẤP THỤ ĐỘC TỐ
ĐẾN SINH TRƯỞNG CỦA LỢN THỊT
3.3.1. Hàm lượng độc tố fumonisin trong khẩu phần thức ăn thí nghiệm
Bảng 3.19. Hàm lượng fumonisin trong khẩu phần ở các nghiệm thức
Khẩu phần Hàm lượng fumonisin Mức bổ sung bắp
(ppm) nhiễm fumonisin (%)
Không nhiễm Fumonisin 0 -
Nhiễm Fumonisin thấp 0,7 4,8
Nhiễm Fumonisin trung bình 1,4 9,8
Nhiễm Fumonisin cao 3 20
Ngô sau khi được cấy nấm mốc F.moniliform theo quy trình sau đó được sấy khô ở
nhiệt độ 600C, trước khi phối trộn vào khẩu phần thức ăn cho lợn thí nghiệm được
phân tích xác định hàm lượng độc tố fumonisin trong hỗn hợp ngô đã gây nhiễm nấm
mốc F.moniliform. Kết quả phân tích hàm lượng độc tố trong ngô gây nhiễm nấm
mốc có hàm lượng fumonisin trung bình là 680 ppm.
88
Sau khi thức ăn được trộn đều với ngô nhiễm fumonisin, mẫu đã được lấy và
kiểm tra hàm lượng fumonisin thực tế có trong khẩu phần thức ăn thí nghiệm. Mức
nhiễm FUM ở các nghiệm thức lần lượt là 0, 4,8, 9,8 và 20 ppm.
3.3.2 Khối lượng lợn ở các lứa tuổi thí nghiệm
Lợn đưa vào thí nghiệm lúc 60 ngày tuổi được phân lô và bố trí hoàn toàn ngẫu
nhiên cho mỗi lần lặp lại đảm bảo đồng đều và có khối lượng bình quân từ 20,1 –
20,4kg/con. Ảnh hưởng của hàm lượng độc tố FUM trong khẩu phần đến khả năng
tăng trưởng của lợn ở giai đoạn sinh trưởng (60 – 116 ngày tuổi) được thể hiện ở bảng
3.20. Khẩu phần có hàm lượng FUM càng cao càng làm ảnh hưởng đến khối lượng
của lợn thí nghiệm ở 116 ngày tuổi. Khối lượng lợn thí nghiệm lúc 116 ngày tuổi dao
động từ 45,1kg đến 53,8kg, có sai khác có nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức theo
phân bố ở cả hai yếu tố là chất hấp phụ và các mức nhiễm độc tố FUM (P<0,05). Với
yếu tố thí nghiệm là các mức nhiễm FUM trong khẩu phần thức ăn kết quả cho thấy
sự khác biệt rất rõ rệt giữa các nghiệm thức khi không sử dụng chất hấp phụ. Khối
lượng lợn thí nghiệm tại thời điểm 116 ngày tuổi có xu hướng giảm dần theo các mức
nhiễm FUM theo hướng tăng dần, cụ thể với khối lượng 53,5kg, 51,6kg, 49,8kg và
45,1kg tương ứng với các mức nhiễm FUM là 0, 4,8, 9,8 và 20ppm. Ở hai nghiệm
thức lợn ăn thức ăn nhiễm FUM với mức tương ứng 9,8 và 20ppm có khối lượng lúc
116 ngày tuổi đều sai khác có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức không nhiễm
FUM, với mức nhiễm 20ppm sai khác ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức nhiễm
FUM ở mức 4,8ppm. Khối lượng lợn thí nghiệm lúc kết thúc thí nghiệm ở 172 ngày
tuổi đạt từ 84,2 kg đến 98 kg/con. Do thức ăn của lợn ở những nghiệm thức nhiễm
độc tố nấm mốc FUM đã làm ảnh hưởng rất lớn đến khối lượng của lợn lúc kết thúc
thí nghiệm. Khi không có bổ sung chất hấp phụ độc tố khối lượng lợn lúc 172 ngày
tuổi sai khác có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (P<0,01). So với nghiệm thức
không nhiễm FUM khối lượng lúc kết thúc thí nghiệm ở nghiệm thức nhiễm FUM ở
các mức 20ppm, 9,8ppm và 4,8ppm lần lược thấp hơn 17,8%, 9,7% và 4,9%. Khi
được bổ sung chất hấp phụ độc tố đã cải thiện khối lượng ở 172 ngày tuổi lần lượt là
89
ở mức 4,8 ppm với 1%, 9,8ppm với 3,9% và 20ppm là 12,8%. Tuy nhiên so với
nghiệm thức thức ăn không nhiễm FUM cả 3 nghiệm thức đều có sai khác thống kê
(P<0,05) và giữa 3 nghiệm thức thức ăn nhiễm FUM không có sai khác thống kê.
Bảng 3.20. Khối lượng lợn ở các lứa tuổi thí nghiệm (kg)
Chỉ tiêu 60 ngày tuổi 116 ngày tuổi 172 ngày tuổi Tỷ lệ chết (%) CHP FUM
0 ppm 20,1 53,5a 97,7a 3,75ab
4,8 ppm 20,2 51,6ab 94,1b 7,50ab 0% 9,8 ppm 20,2 49,8b 90,3c 8,75ab
20 ppm 20,4 45,1c 84,2d 10,00a
0 ppm 20,3 53,8a 98,0a 2,50b
4,8 ppm 20,3 52,1ab 95,0b 5,00ab 0,15% 9,8 ppm 20,3 51,2ab 93,4b 3,75ab
20 ppm 20,2 51,4ab 93,9b 6,25ab
RSD 0,165 1,200 1,025 3,062
0,334 0,001 0,001 0,008 PCHP
0,810 0,001 0,001 0,026 PFUM
0,192 0,001 0,001 0,649 PCHP*FUM
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05); CHP: Chất hấp phụ; FUM: Fumonisin;
Như vậy yếu tố chất hấp phụ độc tố chỉ có ảnh hưởng đến các nghiệm thức
thức ăn nhiễm FUM trong khi không có ảnh hưởng đến nghiệm thức thức ăn không
nhiễm FUM. Độc tố FUM ảnh hưởng đến sức đề kháng của lợn, làm tăng tỷ lệ chết
ở lợn thí nghiệm, khẩu phần có hàm lượng FUM càng cao thì tỷ lệ chết càng cao. Khi
không bổ sung chất hấp phụ độc tố, tỷ lệ chết ở các nghiệm thức có hàm lượng
4,8ppm, 9,8 ppm và 20 ppm FUM lần lượt là: 7,5%, 8,75% và 10%. Tỷ lệ chết thấp
ở nghiệm thức không nhiễm độc tố chỉ 3,75%. Các nghiệm thức nhiễm FUM khi có
90
bổ sung chất hấp phụ độc tố tỷ lệ chết đã giảm xuống lần lượt là: 2,5%, 5% và 3,75%
so với những nghiệm thức không bổ sung chất hấp phụ độc tố. Điều này cho thấy
FUM không những làm giảm khả năng tiêu hóa và hấp thu thức ăn của lợn mà còn
làm ảnh hưởng đến các chức năng khác của lợn liên quan đến việc giảm sức đề kháng
của lợn. Nghiên cứu của Fodor và các cộng sự (2008) [55] trên lợn con cai sữa cho
ăn trong vòng 10 ngày với liều FUM B1 45mg/kg thức ăn, cho thấy FUM B1 làm
giảm lượng glutathione trong plasma và tế bào hồng cầu hemolysate, dẫn đến sự
peroxide hóa lipid tế bào nhanh hơn, làm cho tế bào chết đi, khả năng tiêu hóa dinh
dưỡng kém đi. Một nghiên cứu khác của nhóm tác giả trên lợn con cai sữa 12-14kg
với liều 50mg FUM B1+20mg FUM B2 + 5mgFUM B3/con/ ngày, trong 22 ngày
cho thấy lợn không biểu hiện bệnh tuy nhiên các chỉ số máu có sự thay đổi, đặc biệt
là alanine amino-transferase (ALT) tăng so với đối chứng. Các cơ quan khác như gan,
phổi, tim có biểu hiện lâm sàng của bệnh và có sự chênh lệch về khối lượng giữa
nghiệm thức thí nghiệm và đối chứng. Nghiên cứu của Smith và các cộng sự (1996)
[133] cho thấy sự tổn thương cả hệ thống miễn dịch, fumonisins có thể ức chế hoạt
động của các mạch phổi đại thực bào trong việc loại bỏ các hạt vật chất và các mầm
bệnh từ việc lưu thông, động vật do đó có thể trở nên dễ bị nhiễm bệnh.
3.3.3 Tăng khối lượng tuyệt đối của lợn thí nghiệm qua các giai đoạn sinh trưởng
Tăng khối lượng tuyệt đối của lợn thí nghiệm trong giai đoạn 60 – 116 ngày
tuổi đạt được từ 411 g/con/ngày đến 558 g/con/ngày (kết quả ở bảng 3.21). Khi xét
yếu tố thí nghiệm thức ăn nhiễm FUM ở các mức khác nhau và không bổ sung chất
hấp phụ độc tố cho thấy, các nghiệm thức nhiễm FUM ở mức 4,8 ppm; 7,8 ppm và
20 ppm có tăng khối lượng thấp hơn nghiệm thức không nhiễm FUM lần lượt là 6,1%
11,3% và 26,21% (P<0,05). Khẩu phần nhiễm FUM ở mức 9,8 ppm và 20 ppm có sai
khác có ý nghĩa thống kê với nghiệm thức lợn ăn thức ăn không nhiễm FUM (P<0,05).
Ở nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm FUM ở mức 20ppm còn có sai khác có ý nghĩa
thống kê so với nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm FUM ở mức 4,8ppm (P<0,05).
91
Bảng 3.21.Tăng khối lượng của lợn thí nghiệm qua các giai đoạn sinh trưởng (g/con/ngày)
Chỉ tiêu 60 - 116 ngày 116 - 172 ngày 60-172 ngày CHP FUM
0 ppm 557a 736a 647a
4,8 ppm 523ab 708ab 615b 0% 9,8 ppm 494b 674bc 584c
20 ppm 411c 652c 532d
0 ppm 558a 736a 647a
4,8 ppm 529ab 715a 622b 0,15% 9,8 ppm 516ab 702ab 609b
20 ppm 520ab 708ab 614b
RSD 7,836 18,001 14,960
0,001 0,001 0,001 PCHP
0,001 0,001 0,001 PFUM
0,001 0,004 0,001 PCHP*FUM
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Bổ sung chất hấp phụ độc tố vào khẩu phần thức ăn nhiễm FUM cho lợn đã
cải thiện tăng khối lượng rất rõ rệt với 1,1% ở mức nhiễm 4,8ppm, 4,2% ở mức nhiễm
9,8ppm và đến 18% ở mức nhiễm 20 ppm. Kết quả này cho thấy hiệu quả của chất
hấp phụ độc tố cho thấy rất rõ khi khẩu phần nhiễm FUM ở mức càng cao. Tuy nhiên
yếu tố chất hấp phụ độc tố chỉ ảnh hưởng rõ nét đối với 2 nghiệm thức lợn ăn thức ăn
nhiễm FUM ở mức 9,8 và 20ppm, ở hai mức nhiễm này khi bổ sung chất hấp phụ độc
tố tăng khối lượng của lợn thí nghiệm đã cải thiện rất đáng kể so với không bổ sung
chất hấp phụ độc tố có sai khác thống kê (P<0,05). Khi có bổ sung chất hấp phụ độc
tố giữa các nghiệm thức không có sai khác thống kê (P>0,05). Khả năng sinh trưởng
của lợn ở giai đoạn sinh trưởng chịu ảnh hưởng của độc tố FUM, vì ở giai đoạn này
92
lợn rất nhạy cảm với độc tố FUM. Điều này cũng đã được một tác giả nghiên cứu trên
lợn sinh trưởng, kết quả nghiên cứu của Rotter và cộng tác viên (1996) [117] khi lợn
được cho ăn khẩu phần chứa 10 ppm fumonisin B1 trong 8 tuần tăng khối lượng hàng
ngày giảm từ 8 đến 11% so với khẩu phần có 0,002 ppm fumonisin.
Ở giai đoạn vỗ béo (116-172 ngày tuổi), yếu tố thức ăn nhiễm FUM ở các mức
khác nhau vẫn ảnh hưởng đến sinh trưởng của lợn. Tăng khối lượng hàng ngày của
lợn dao động từ 652 g/con/ngày đến 736 g/con/ngày. Tương tự như giai đoạn sinh
trưởng, ở giai đoạn vỗ béo lợn tăng khối lượng thấp nhất với 652 g/con/ngày ở lợn
ăn khẩu phần nhiễm FUM cao kế đến là mức nhiễm 9,8ppm với 674 g/con/ngày và
sai khác rất có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm thức không nhiễm FUM (P<0,01).
Bổ sung chất hấp phụ độc tố thức ăn nhiễm FUM đã cải thiện khả năng tăng khối
lượng của lợn thí nghiệm, lần lượt là 1%, 3,9% và 7,9% ở các mức 4,8 ppm, 7,8 ppm
và 20 ppm. Tuy nhiên, yếu tố chất hấp phụ độc tố chỉ ảnh hưởng rõ nét đối với 2
nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm FUM ở mức 9,8 và 20ppm. Ở hai mức nhiễm này
khi bổ sung chất hấp phụ độc tố tăng khối lượng của lợn thí nghiệm đã cải thiện rất
đáng kể so với không bổ sung chất hấp phụ độc tố có sai khác thống kê (P<0,05).
Tăng khối lượng của lợn ở các nghiệm thức có mức độc tố khác nhau nhưng được bổ
sung chất hấp phụ độc tố là như nhau. Điều đó cho thấy lợi ích của việc sử dụng chất
hấp phụ độc tố.
Tính chung cho cả kỳ thí nghiệm (60-172 ngày tuổi), yếu tố thức ăn nhiễm
FUM ở các mức khác nhau đã cho thấy sự khác biệt rất rõ rệt giữa các nghiệm thức
khi không có bổ sung chất hấp phụ độc tố, tăng khối lượng dao động từ 532
g/con/ngày đến 647 g/con/ngày. Lợn ăn khẩu phần có chứa 4,8ppm, 9,8ppm và
20ppm FUM tăng khối lượng thấp hơn so với lợn được ăn khẩu phần không nhiễm
FUM lần lượt 4,9%, 9,7% và 17,8%, sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Giữa
các nghiệm thức lợn ăn thức ăn có mức nhiễm FUM 4,8ppm, 9,8ppm và 20ppm tăng
khối lượng cũng có sai khác có ý nghĩa thống kê với nhau (P<0,05). Kết quả thí
nghiệm cũng cho thấy tăng khối lượng lợn thí nghiệm hàng ngày suốt giai đoạn thí
93
nghiệm đã ảnh hưởng yếu tố có bổ sung chất hấp phụ độc tố khi lợn ăn thức ăn nhiễm
FUM ở các mức khác nhau. Khi khẩu phần được bổ sung chất hấp phụ độc tố thì tăng
khối lượng của lợn cả kỳ thí nghiệm từ lúc 60 ngày tuổi đến 172 ngày tuổi đã tăng
lên lần lượt là: 1%, 3,8% và 13,4% tương ứng với các mức thức ăn nhiễm FUM
4,8ppm, 9,8ppm và 20ppm. Yếu tố có bổ sung chất hấp phụ độc tố chỉ cho thấy ảnh
hưởng đến tăng khối lượng của lợn thí nghiệm với nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm
FUM ở các mức 9,8 và 20ppm, so với không bổ sung chất hấp phụ độc tố sự sai khác
có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Như vậy chất hấp phụ độc tố đã cải thiện tăng khối
lượng của lợn thí nghiệm rất rõ rệt khi thức ăn nhiễm FUM ở các mức cao.
Kết quả nghiên cứu của chúng tôi phù hợp với kết quả nghiên cứu của Rotter
và cộng tác viên (1996) [127] khi lợn được cho ăn khẩu phần chứa 10 ppm fumonisin
B1 trong tăng khối lượng hàng ngày giảm từ 8 đến 11% so với khẩu phần có
0,002ppm fumonisin. Tuy nhiên, theo nghiên cứu của Nguyễn Hiếu Phương
(2010)[115] lợn ăn khẩu phần chứa 3.980 ppb FUM/kg thức ăn và khẩu phần chứa
1.132 ppb FUM/kg thức ăn không có khác biệt về lượng thức ăn tiêu thụ, tăng khối
lượng và hệ số chuyển hóa thức ăn. Một nghiên cứu khác của Dilkina và các cộng sự
(2003) [41] nghiên cứu trên lợn cai sữa (5 tuần tuổi, 11-12kg) 2 mức fumonisin B1
(FB1) 10ppm và 30ppm, sau 28 ngày thí nghiệm cho thấy làm giảm ăn vào và giảm
tăng khối lượng so với thức ăn không nhiễm fumonisin B1. Tuy nhiên khi gia súc tiếp
xúc với độc tố qua đường thức ăn thì đường tiêu hoá là cơ quan bị tấn công đầu tiên
khi độc tố nấm theo thức ăn vào cơ thể thú. Độc tính của FUM rất khác nhau tuỳ
thuộc vào các thông số như liều lượng, thời gian bị phơi nhiễm dài hay ngắn, độ tuổi,
giới tính của động vật và các yếu tố dinh dưỡng (Bryden 2007; Andretta 2012)
[25,16]. Như vậy với mức độ nhiễm khá cao trong thí nghiệm của chúng tôi và thời
gian phơi nhiễm suốt thời kỳ nuôi thịt khá dài nên độc tố FUM cũng đã ảnh hưởng
nhiều đến đường tiêu hóa, khả năng làm tổn thương mô bào làm ảnh hưởng khả năng
hấp thu dưỡng chất làm giảm tăng khối lượng của lợn thí nghiệm. Ngoài việc làm
giảm khả năng hấp thu dưỡng chất, khi bị tổn thương các biểu mô sẽ bị mất chức
năng bảo vệ và ngăn chặn các tác nhân gây bệnh và có hại khác xâm nhập cơ thể.
94
Theo nhận định của Bouhet và cộng sự 2005 và Oswald 2006[22, 103], lớp biểu mô
này tạo thành hàng rào quan trọng nhất và lớn nhất giúp ngăn chặn hấp thu những
chất có hại từ môi trường bên ngoài vào nội tạng bao gồm các tác nhân gây bệnh, vi
sinh vật và độc tố của chúng. Một nghiên cứu khác nhận định rằng, sự phơi nhiễm
với FUM gây nên những thay đổi về hình thái nhung mao của ruột như: làm giảm
chiều cao của nhung mao, dung hợp và thoái hoá nhung mao (Bracarense 2012) [24].
Jean-Paul Lalle`s và ctv (2010) [77], tiến hành nghiên cứu trên lợn 28 ngày tuổi. Cho
lợn uống hằng ngày FB1 chiết xuất (1,5mg FB1/kg BW) pha với 20% dd glucose
uống trong 9 ngày tương đương 25–30 ppm. Kết quả cho thấy khối lượng lợn sau thí
nghiệm không khác nhau, lượng thức ăn ăn vào không ảnh hưởng bởi FB1 bổ sung,
khối lượng gan cao hơn, khối lượng của phổi, lá lách và tế bào của dạ dày, ruột, chiều
dài nhung mao ruột không ảnh hưởng.
3.3.4 Khả năng thu nhận thức ăn và hiệu quả sử dụng thức ăn
Khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm được trình bày ở bảng 3.22. Khi
xét yếu tố thí nghiệm là các mức nhiễm độc tố fumonisin trong thức ăn với các mức
khác nhau kết quả cho thấy, ảnh hưởng của FUM đã làm giảm khả năng thu nhận
thức ăn của lợn thí nghiệm ở giai đoạn sinh trưởng. Hàm lượng độc tố FUM có trong
khẩu phần càng cao thì càng làm giảm lượng thức ăn thu nhận. Nghiệm thức nhiễm
FUM mức cao 20ppm có lượng thức ăn ăn vào thấp nhất chỉ với 1295 g/con/ngày ở
giai đoạn sinh trưởng thấp hơn nghiệm thức không nhiễm FUM 14,6% và có sai khác
có ý nghĩa thống kê so với tất cả các nghiệm thức thí nghiệm khác (P<0,05). Các
nghiệm thức nhiễm FUM ở mức trung bình 9,8ppm và thấp 4,8ppm có lượng thức ăn
ăn vào thấp hơn so với nghiệm thức không nhiễm FUM lần lượt là 4,7% và 3,5%,
nhưng sai khác không có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Bổ sung chất hấp phụ độc tố đã
có ảnh hưởng đến việc cải thiện khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm ở giai
đoạn sinh trưởng. Khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố các nghiệm thức nhiễm FUM
ở mức 9,8ppm và 20ppm đã cải thiện khả năng thu nhận thức ăn, lần lượt là 1,5% và
13,5%. Như vậy chất hấp phụ độc tố đã cải thiện khả năng thu nhận thức ăn của lợn
95
ở giai đoạn sinh trưởng là rất lớn và thấy rõ nét đối với thức ăn nhiễm FUM ở mức
cao 20ppm, so với không bổ sung chất hấp phụ độc tố.
Bảng 3.22. Thức ăn ăn vào hàng ngày của lợn qua các giai đoạn sinh trưởng (g/con/ngày)
Chỉ tiêu 60 - 116 ngày 116 - 172 ngày 60-172 ngày CHP FUM
0 ppm 1516a 2316a 1916a
4,8 ppm 1479a 2278ab 1878a 0% 9,8 ppm 1446a 2182b 1814b
20 ppm 1295b 2194b 1745c
0 ppm 1501a 2289ab 1895a
4,8 ppm 1480a 2312a 1896a 0,15% 9,8 ppm 1468a 2283ab 1876a
20 ppm 1496a 2309a 1902a
RSD 30,180 45,760 24,718
0,001 0,002 0,001 PCHP
0,001 0,014 0,001 PFUM
0,001 0,018 0,001 PCHP*FUM
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Ở giai đoạn vỗ béo khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm có sự sai
khác thống kê giữa 02 nghiệm thức có mức nhiễm FUM 9,8ppm và 20ppm với
nghiệm thức không nhiễm FUM khi không có bổ sung chất hấp phụ độc tố (P<0,05).
Ở giai đoạn này, lượng thức ăn ăn vào hàng ngày bình quân của lợn từ 2.182 đến
2.316 g/con/ngày, thấp nhất là nghiệm thức thức ăn có mức nhiễm FUM 9,8 và 20ppm
tương ứng với 2.182 và 2.194 g/con/ngày. Bổ sung chất hấp phụ độc tố giữa các
nghiệm thức không có sai khác thống kê, thức ăn ăn vào của lợn đã được cải thiện rất
đáng kể và chủ yếu đối với các nghiệm thức thức ăn nhiễm FUM ở mức tăng dần.
96
Tính chung cho cả kỳ thí nghiệm, thức ăn ăn vào hàng ngày bình quân của lợn
thí nghiệm dao động từ 1745 đến 1916 g/con/ngày. Thấp nhất là nghiệm thức nhiễm
FUM mức 20 ppm với 1745 g/con/ngày và cao nhất là nghiệm thức không nhiễm
FUM với 1916 g/con/ngày khi thức ăn không bổ sung chất hấp phụ độc tố. So với
nghiệm thức thức ăn không nhiễm FUM, khẩu phần nhiễm FUM ở các mức 4,8, 9,8
và 20 ppm FUM đã làm giảm lượng thức ăn ăn vào lần lượt là 2%, 5,3% và 8,9%.
Khi thức ăn không có bổ sung chất hấp phụ độc tố các nghiệm thức thức ăn nhiễm
FUM ở các mức 9,8 và 20ppm có sai khác thống kê so với nghiệm thức thức ăn không
nhiễm FUM. Khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố đã cải thiện khả năng thu nhận thức
ăn của lợn, đặc biệt là với nghiệm thức nhiễm FUM ở mức 9,8ppm và 20ppm. Lượng
thức ăn thu nhận của các khẩu phần nhiễm FUM ở mức 9,8 ppm và 20 ppm có bổ
sung chất hấp phụ độc tố được cải thiện 1% và 3,9% so với không bổ sung.. Như vậy
qua các giai đoạn thí nghiệm khả năng thu nhận thức ăn của lợn thí nghiệm có sự
tương tác giữa 02 yếu tố thí nghiệm là chất hấp phụ độc tố và các mức nhiễm độc tố
FUM trong thức ăn, sự tương tác chỉ rõ rệt đối với mức nhiễm FUM vừa và cao
(P<0,05).
Hệ số chuyển hóa thức ăn ở giai đoạn sinh trưởng thể hiện ở bảng 3.23 dao
động từ 2,69 đến 3,15 kg/kgTKL, sự chênh lệch rất lớn. Hệ số chuyển hóa thức ăn
cao nhất ở nghiệm thức nhiễm FUM 20ppm với 3,15 kg/kgTKL và không có bổ sung
chất hấp phụ độc tố. Khẩu phần nhiễm FUM 20ppm ảnh hưởng đến hiệu quả sử dụng
thức ăn của lợn rất rõ rệt, và có sai khác rất có ý nghĩa thống kê so với các nghiệm
thức khác (P<0,01), ngoại trừ nghiệm thức nhiễm FUM ở mức 4,8ppm. Yếu tố chất
hấp phụ độc tố đã ảnh hưởng đến hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn ở giai đoạn sinh
trưởng. Tuy nhiên ảnh hưởng của yếu tố chất hấp phụ độc tố chỉ thấy rõ ở nghiệm
thức thức ăn nhiễm FUM mức 20ppm, có sai khác thống kê giữa có bổ sung và không
có bổ sung chất phụ độc tố (P<0,05). Giữa 2 yếu tố là chất phụ độc tố và yếu tố nhiễm
FUM trong thức ăn không có sự tương tác (P>0,05).
97
Bảng 3.23. Hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn qua các giai đoạn sinh trưởng
Chỉ tiêu 60 - 116 ngày 116 - 172 ngày 60-172 ngày CHP FUM
0 ppm 2,72bc 3,15b 2,96cd
4,8 ppm 2,83bc 3,22ab 3,05bcd 0% 9,8 ppm 2,93ab 3,24ab 3,11b
20 ppm 3,15a 3,37a 3,28a
0 ppm 2,69c 3,11b 2,93d
4,8 ppm 2,80bc 3,23ab 3,05bcd 0,15% 9,8 ppm 2,85bc 3,25ab 3,08bc
20 ppm 2,87bc 3,26ab 3,10b
RSD 0,099 0,070 0,058
0,007 0,219 0,008 PCHP
0,001 0,001 0,001 PFUM
0,065 0,276 0,021 PCHP*FUM
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Ở giai đoạn vỗ béo hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn thí nghiệm dao động từ
3,11 đến 3,37 kg/kgTKL, so với giai đoạn sinh trưởng sự chênh lệch ở giai đoạn vỗ
béo không đáng kể, ở mức 20 ppm có hệ số cao nhất 3,37kg/kgTKL. Không có bổ
sung chất hấp phụ độc tố, chỉ có nghiệm thức nhiễm FUM ở mức 20ppm có sai khác
thống kê so với nghiệm thức không nhiễm FUM (P<0,05). Yếu tố chất hấp phụ độc
tố không ảnh hưởng đến hệ số chuyển hóa thức ăn, không có sai khác thống kê giữa
các nghiệm thức thức ăn nhiễm FUM khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố và không
có bổ sung chất hấp phụ độc tố (P>0,05). Không có sự tương tác giữa hai yếu tố thí
nghiệm chất hấp phụ độc tố và các mức nhiễm FUM trong thức ăn của lợn ở giai đoạn
vỗ béo (P>0,05).
98
Tính chung cho cả kỳ thí nghiệm, hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn thí nghiệm
có ảnh hưởng bởi cả hai yếu tố thí nghiệm là chất hấp phụ độc tố và các mức nhiễm
FUM trong thức ăn, đồng thời có sự tương tác giữa hai yếu tố này (P<0,05). Khi
không bổ sung chất hấp phụ độc tố, hệ số chuyển hóa thức ăn cao nhất là 3,28
kgTĂ/kgTKL ở nghiệm thức nhiễm FUM 20 ppm kế đến 3,11 kgTĂ/kgTKL ở
nghiệm thức nhiễm FUM 9,8ppm và có sai khác thống kê so với nghiệm thức thức
ăn không nhiễm FUM. So với nghiệm thức nhiễm FUM ở mức 4,8ppm chỉ có nghiệm
thức nhiễm FUM ở mức 20ppm có sai khác thống kê. Yếu tố chất phụ độc tố chỉ có
ảnh hưởng rõ nhất đối với thức ăn nhiễm FUM ở mức 20ppm, khi được bổ sung chất
hấp phụ độc tố thì hệ số chuyển hóa thức ăn đã được cải thiện 6,1% so với không bổ
sung chất hấp phụ độc tố và sự sai khác này có ý nghĩa thống kê (P<0,05). Sự sai
khác rõ ràng nhất là giữa nghiệm thức nhiễm FUM mật độ cao (20 ppm) so với
nghiệm thức đối chứng. Theo Piva và các cộng sự (2005) [118] khi lợn ăn thức ăn
nhiễm 30ppm fumonisin B1 làm tăng hệ số chuyển hóa thức ăn so với thức ăn không
nhiễm FUM.
Như vậy hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn thí nghiệm qua các giai đoạn sinh
trưởng đã ảnh hưởng bởi cả hai yếu tố thí nghiệm là độc tố FUM và chất hấp phụ độc
tố. Cũng đã có một số kết quả nghiên cứu cho thấy ảnh hưởng của độc tố FUM đến
hệ số chuyển hóa thức ăn của lợn. Theo René Neftali Márquez Márquez, cho lợn ăn
với liều fumonisin B1 cao (43 ppm FB1) trong 6 tuần làm ảnh hưởng đến năng suất
và chỉ tiêu về sức khỏe. Tuy nhiên, sử dụng chất hấp thụ mycotoxin FIXAT® (T-3,
T-4), tất cả các chỉ tiêu ổn định, tránh được sự hủy hoại cơ tim, phổi và các tổ chức
bên trong, vì vậy tác giả nhận định mycotoxin absorber FIXAT® bảo vệ lợn tránh
được tác hại của độc tố fumonisin B1.
3.3.5. Khảo sát chất lượng thịt xẻ của lợn thí nghiệm
Kết thúc thí nghiệm lúc 172 ngày tuổi, mỗi nghiệm thức chọn 2 lợn cho một
lần lặp lại (01 con cái và 01 con đực), 4 lần lặp lại mỗi nghiệm thức chọn 8 lợn (4
99
đực và 4 cái) để mổ khảo sát chất lượng thịt xẻ. Các chỉ tiêu khảo sát về khối lượng
lợn giết thịt và các phần khảo sát thể hiện ở bảng 3.24.
Bảng 3.24. Khối lượng các phần khảo sát lợn thí nghiệm (kg) Chỉ tiêu Giết thịt Móc hàm Thịt xẻ Thịt nạc CHP FUM
0 ppm 94,48 79,57 70,99 38,77ab
4,8 ppm 93,85 78,69 71,36 38,55ab 0% 9,8 ppm 93,55 77,77 69,54 36,92bc
20 ppm 92,79 76,75 68,47 36,00c
0 ppm 93,90 79,20 72,13 39,52a
4,8 ppm 94,04 79,01 71,17 38,36abc 0,15% 9,8 ppm 93,73 78,02 70,30 37,62abc
20 ppm 93,98 78,10 69,87 37,40abc
RSD 1,250 1,745 1,594 1,054
0,590 0,539 0,179 0,086 PCHP
0,599 0,129 0,019 0,001 PFUM
0,576 0,801 0,766 0,521 PCHP*FUM
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Kết quả cho thấy khối lượng lợn chọn mổ khảo sát giữa các nghiệm thức là
tương đương với khối lượng bình quân và dao động từ 92,79kg đến 94,48 kg. Khối
lượng móc hàm, khối lượng thịt xẻ của lợn thí nghiệm không có sai khác thống kê
giữa các nghiệm thức (P>0,05). Mặc dù ở nghiệm thức thức ăn nhiễm FUM ở mức
20ppm khi không có bổ sung chất hấp phụ độc tố là thấp nhất, khi có bổ sung chất
hấp phụ độc tố đã cải thiện đáng kể. Tuy nhiên, khối lượng thịt nạc của lợn thí nghiệm
có sai khác thống kê ở yếu tố độc tố FUM (P<0,05) nhưng không có sai khác ở yếu
tố chất hấp phụ độc tố. Khi không có bổ sung chất hấp phụ độc tố khối lượng thịt nạc
100
của lợn khảo sát thấp nhất ở nghiệm thức nhiễm FUM mức 20ppm với 36kg và có sai
khác thống kê so với nghiệm thức không nhiễm FUM với 38,77kg. Khi có bổ sung
chất hấp phụ độc tố đã cải thiện khối lượng thịt nạc của lợn khảo sát nhưng không có
sai khác thống kê giữa có bổ sung và không có bổ sung chất hấp phụ độc tố ở các
mức nhiễm FUM.
Bảng 3.25. Tỷ lệ các phần khảo sát lợn thí nghiệm (%)
Chỉ tiêu Tỷ lệ thịt xẻ Tỷ lệ nạc Tỷ lệ móc hàm Dày mỡ lưng (mm) CHP FUM
0 ppm 84,23 54,61 16,38 75,16
4,8 ppm 83,85 54,01 17,25 76,04 0% 9,8 ppm 83,14 53,09 17,50 74,34
20 ppm 82,73 52,58 17,50 73,79
0 ppm 84,36 54,81 16,17 76,82
4,8 ppm 84,02 53,88 17,50 75,69 0,15% 9,8 ppm 83,25 53,51 16,75 75,01
20 ppm 83,11 53,53 17,30 74,35
RSD 1,782 1,062 0,698 1,622
0,755 0,347 0,093 0,278 PCHP
0,400 0,021 0,024 0,072 PFUM
0,999 0,780 0,816 0,680 PCHP*FUM
* Các số trong cùng một cột mang các chữ khác nhau là sai khác có ý nghĩa thống kê (P<0,05)
Tỷ lệ móc hàm ở các nghiệm thức thí nghiệm dao động từ 82,72% đến 84,36%,
ở nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm FUM 20 ppm có tỷ lệ móc hàm thấp nhất 82,72%,
sự khác biệt giữa các nghiệm thức không có sai khác thống kê (P>0,05). Tỷ lệ thịt xẻ
giữa các nghiệm thức cũng không có sai khác có ý nghĩa thống kê, dao động từ
73,79% đến 76,82%, nghiệm thức nhiễm FUM 20 ppm có tỷ lệ thịt xẻ thấp nhất
101
73,79%. Tỷ lệ nạc của lợn thí nghiệm ở các nghiệm thức dao động từ 53,42% đến
54,8%, thấp nhất nghiệm thức nhiễm FUM 20ppm với 53,42%. Các nghiệm thức
nhiễm FUM khi có bổ sung chất hấp phụ độc tố đều cải thiện tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt
xẻ và tỷ lệ nạc. Xét về yếu tố thí nghiệm là các mức nhiễm FUM và chất hấp phụ độc
tố trong thức ăn của lợn thí nghiệm không thấy sự sai khác thống kê (P>0,05). Các
chỉ tiêu tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ của lợn trong nghiên cứu này là giống lai giữa
Duroc với nái lai (Landrace x Yorkshire) là tương đương với các nghiên cứu về tổ
hợp lai Duroc với nái lai (Landrace x Yorkshire) hiện nay, như Nguyễn Văn Thắng
và Vũ Đình Tôn (2010) [9] tỷ lệ móc hàm 80% và tỷ lệ thịt xẻ 70%. Độ dày mỡ lưng
của lợn thí nghiệm được đo ở vị trí P2 xương sườn số 11 của lợn mổ khảo sát, kết quả
cho thấy không có sai khác thống kê giữa các nghiệm thức (P>0,05). Dày mỡ lưng
của lợn thí nghiệm mổ khảo sát lúc 172 ngày tuổi dao động từ 16,17mm đến 17,5mm,
không có sai khác thống kê giữa các nghiệm thức.
Như vậy, qua kết quả mổ khảo sát lợn thí nghiệm lúc kết thúc 172 ngày tuổi
cho thấy các chỉ tiêu khảo sát tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ nạc và dày mỡ lưng
giữa các nghiệm thức không có sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tuy nhiên ở
nghiệm thức lợn ăn thức ăn nhiễm FUM với mức 9,8 ppm và đặc biệt là 20 ppm cho
kết quả khảo sát các chỉ tiêu nêu trên đều thấp hơn nghiệm thức không nhiễm FUM
từ 2 đến 3%. Khi bổ sung chất hấp phụ độc tố các chỉ tiêu khảo sát thịt xẻ của lợn
tăng lên 2 đến 3%.
3.3.6. Đánh giá ảnh hưởng của thức ăn nhiễm FUM lên nhung mao ruột non của
lợn thí nghiệm
Trong số lợn bị chết trong thời gian thí nghiệm ở các nghiệm thức thức ăn
nhiễm độc tố FUM, phần ruột non được cắt để làm tiêu bản và đọc kết quả.
102
Hình 3.3. Nhung mao ruột non đã bị bào mòn tổn thương khi lợn ăn thức ăn nhiễm FUM
Hình 3.4. Nhung mao ruột non của lợn bị bào mòn và bị hoại tử và xâm nhập bạch cầu khi lợn ăn thức ăn nhiễm FUM
Qua hình ảnh chụp từ tiêu bản cho thấy đối với lợn ăn thức ăn nhiễm FUM ở
mức 9,8 và 20 ppm đã ảnh hưởng lớn đến thành ruột non của lợn bị chết. Điều này
cho thấy khi lợn ăn thức ăn nhiễm FUM ở mức cao 9,8 đến 20ppm đã ảnh hưởng đến
đường tiêu hóa của lợn. Một số nghiên cứu đã nhận định rằng sau khi tiếp xúc thức
ăn bị nhiễm độc tố nấm mốc trong đó bao gồm cả DON và FUM, các tế bào biểu mô
là nơi tiếp xúc trực tiếp thức ăn có nồng độ độc tố cao nhất, dẫn tới khả năng làm ảnh
hưởng xấu đến chức năng của ruột (Alassane và cộng sự 2015 – Ghareeb và cộng sự
103
2015) [14, 62]. Và như vậy, khi ăn thức ăn nhiễm độc tố nấm mốc, mô ruột bị tổn hại
và để lại những biến đổi về mặt hình thái của mô. Điều này đã được một nghiên cứu
cho thấy, sự phơi nhiễm với FUM đã gây nên những thay đổi về hình thái nhung mao
của ruột như: làm giảm chiều cao của nhung mao, dung hợp và thoái hoá nhung mao
(Bracarense 2012) [24]. So với nhiễm độc tố DON bệnh tích trên biểu mô ruột của
lợn cho ăn khẩu phần nhiễm DON tự nhiên được quan sát đã cho thấy nhiều điểm
trên bề mặt bị thoái hoá, nhung mao bị dung hợp, đỉnh nhung mao bị hoại tử, tạo
thành các túi rỗng ở tế bào biểu mô phủ và gây phù nề lớp tế bào tạo dịch nhày. Tuy
nhiên không tổn thương nào được quan sát thấy ở các lớp tế bào sâu hơn (Bracarense
2012, Eriksen 2004) [24, 47]. Như vậy, khi thức ăn nhiễm độc tố nấm mốc đã làm
ảnh hưởng trực tiếp đến biểu mô, thành ruột non và tổn thương nhung mao ruột và
làm ảnh hưởng đến khả năng hấp thu dưỡng chất, và khả năng ngăn chặn bảo vệ vi
sinh vật và mầm bệnh xâm nhập.
Nhận xét chung
- Ảnh hưởng độc tố FUM ở các mức 4,8 ppm; 9,8ppm và 20 ppm trong khẩu
phần thức ăn của lợn thí nghiệm đã làm giảm tăng khối lượng của lợn tương ứng là
4,9%, 9,7% và 17,8% và tăng hệ số chuyển hóa thức ăn 3,0%; 5,1% và 10,8% so với
khẩu phần không nhiễm FUM, có tỷ lệ chết 7,5%, 8,75% và 10% ở các nghiệm thức
nhiễm độc tố FUM ở các mức 4,8 ppm, 9,8 ppm và 20ppm.
- Chất hấp phụ độc tố cải thiện tăng trọng lần lượt 1,1%, 4,3% và 15,5% đối
với khẩu phần nhiễm FUM ở mức 4,8, 9,8 và 20 ppm và hệ số chuyển hóa thức ăn
1% và 6,1%, lần lượt đối với khẩu phần nhiễm FUM ở mức 9,8 ppm và 20 ppm. Đã
làm giảm tỷ lệ chết của lợn thí nghiệm lần lượt là 2,5%, 5% và 3,75% so với không
bổ sung.
- Kết quả mổ khảo sát lợn thí nghiệm lúc kết thúc 172 ngày tuổi cho thấy các
chỉ tiêu khảo sát tỷ lệ móc hàm, tỷ lệ thịt xẻ, tỷ lệ nạc và dày mỡ lưng giữa các nghiệm
thức không có sai khác có ý nghĩa thống kê (P>0,05). Tuy nhiên ở nghiệm thức lợn
104
ăn thức ăn nhiễm FUM với mức 9,8 ppm và đặc biệt là 20 ppm cho kết quả khảo sát
các chỉ tiêu nêu trên đều thấp hơn nghiệm thức không nhiễm FUM từ 2 đến 3%. Khi
bổ sung chất hấp phụ độc tố các chỉ tiêu khảo sát thịt xẻ của lợn tăng lên 2 đến 3%.
105
KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ
1. KẾT LUẬN
1. Kết quả khảo sát 20 nhà máy sản xuất thức ăn chăn nuôi ở khu vực lân cận và
Thành phố Hồ Chí Minh cho thấy, hiện trạng nhiễm độc tố DON và FUM trong ngô
và thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt là rất cao. Có tới 52% mẫu ngô nhiễm DON với hàm
lượng trung bình là 6.844 ppb, 70% mẫu ngô nhiễm FUM với hàm lượng trung bình
là 8.901 ppb. Có 38,33% mẫu thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt chứa độc tố DON với hàm
lượng trung bình là 3.483ppb và 45% mẫu thức ăn hỗn hợp cho lợn thịt chứa độc tố
FUM với hàm lượng trung bình 4.922ppb.
2. Độc tố DON trong thức ăn đã ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng của lợn thịt. Thức ăn
có mức nhiễm DON 3,4 ppm, 7,7ppm và 17,7ppm đã làm giảm tăng khối lượng của
lợn tương ứng là 2,8%, 8% và 14,5%, hệ số chuyển hóa thức ăn cao hơn tương ứng
3,0%, 5,1% và 10,8% so với khẩu phần không nhiễm DON và tỷ lệ chết của lợn tương
ứng 6,25%, 8,75% và 11,25%. Chất hấp phụ độc tố đã cải thiện tăng khối lượng 2%,
5% và 11%, Hệ số chuyển hóa thức ăn đã được cải thiện 1% đến 6,7%. Giảm tỷ lệ
chết của lợn thí nghiệm lần lượt là 1,25%, 2,5% và 3,75% so với không bổ sung.
3. Độc tố FUM trong thức ăn đã ảnh hưởng xấu đến sinh trưởng của lợn thịt. Thức ăn
chứa độc tố FUM với các mức 4,8 ppm, 9,8ppm và 20 ppm trong khẩu phần thức ăn
của lợn thí nghiệm đã làm giảm tăng khối lượng của lợn tương ứng là 4,9%, 9,7% và
17,8% và tăng hệ số chuyển hóa thức ăn 3,0%, 5,1% và 10,8% so với khẩu phần
không nhiễm FUM, có tỷ lệ chết 7,5%, 8,75% và 10%. Chất hấp phụ độc tố đã cải
thiện tăng khối lượng lợn lần lượt 1,1%, 4,3% và 15,5% đối với khẩu phần nhiễm
FUM ở mức 4,8; 9,8 và 20 ppm và hệ số chuyển hóa thức ăn 1% đến 6,1%. Việc bổ
sung chất hấp phụ độc tố đã làm giảm tỷ lệ chết của lợn thí nghiệm lần lượt là 2,5%,
5% và 3,75% so với không bổ sung.
106
2. ĐỀ NGHỊ
- Đây là kết quả nghiên cứu mới có hệ thống từ đánh giá hiện trạng nhiễm độc
tố DON, FUM trong ngô và thức ăn hỗn hợp đến ảnh hưởng độc tố và hiệu quả sử
dụng chất hấp phụ độc tố đến sinh trưởng của lợn thịt, rất có ý nghĩa trong nghiên
cứu và thực tiễn sản xuất. Đề nghị các cơ quan nghiên cứu tiếp tục nghiên cứu sâu
hơn nữa, các nhà sản xuất cần quan tâm đến 2 độc tố này. Bộ Nông nghiệp và Phát
triển Nông thôn ban hành giới hạn tối đa 2 độc tố này trong nguyên liệu và thức ăn
hỗn hợp.
107
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Đoàn Vĩnh và Lã Văn Kính, 2014. Ảnh hưởng độc tố deoxynivalenol đến năng
suất của lợn thịt, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Số 19/2014,
Trang 78-83.
2. Đoàn Vĩnh và Lã Văn Kính, 2014. Ảnh hưởng độc tố fumonisin đến năng suất
của lợn thịt, Tạp chí Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn, Số 22/2014, Trang
53-59.
108
TÀI LIỆU THAM KHẢO
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT
1. Trần Văn An (1997), Các vấn đề về độc tố nấm mốc trong lương thực thực phẩm
ở Việt Nam, Phân viện sau thu hoạch Tp. HCM.
2. Đậu Ngọc Hào (1986), “Nghiên cứu phát hiện độc tố nấm mốc bằng các phương
pháp sinh vật học”, Tạp chí Thú Y, số (6/1986), tr. 83-85
3. Dương Thanh Liêm (1991), Ảnh hưởng của bánh dầu phộng công nghiệp bị nhiễm aflatoxin đến sức sinh sản của gà công nghiệp, Báo cáo hội nghị Khoa Học Bộ Nông nghiệp năm 1991.
4. Dương Thanh Liêm (2000), Giáo trình độc chất học. ĐH Nông Lâm Tp. HCM.
5. Dương Thanh Liêm (2000), Mycotoxin trong thực phẩm và những phương pháp
loại trừ tác hại của chúng. Hội thảo Bayer Agritech Sài Gòn tháng 10/2000.
6. Đặng Hồng Miên, Nấm mốc độc trong thực phẩm. Bản dịch của tác giả Claude
Moreau (1980), Nhà xuất bản KHKT.
7. Lê Anh Phụng (1996), Anh hưởng của một số biện pháp làm giảm độc tính của
aflatoxin trong bánh dầu lạc trên nuôi dưỡng gia cầm. Luận án thạc sĩ
8. Lê Anh Phụng, Dương Thanh Liêm (1999), “Xử lý nấm mốc và độc tố nấm mốc
trong thức ăn cho gia cầm”, Tập san KHKT Nông Lâm Nghiệp, số (3/1999).
9. Nguyễn Văn Thắng và Vũ Dình Tôn (2010), “Năng suất sinh sản, sinh trưởng, thân thịt và chất lượng thịt của các tổ hợp lai giữa lợn nái F1(Landrace x Yorkshire) với đực giống Landrace, Duroc và (Pietrian x Duroc)”, Tạp chí Khoa học Kỹ thuật Nông nghiệp, Trường Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 8(1), tr.98-105.
10. Chu Văn Thanh (1997), Nghiên cứu ảnh hưởng của aflatoxin có trong thức ăn
chăn nuôi đối với sự phát triển và một số biến đổi sinh lý, sinh hóa, giải phẩu
bệnh lý của vịt siêu thịt CV super meat. Luận án PTS.
109
11. Nguyễn Thị Thuận (1994). Một số kết quả nghiên cứu thức ăn nhiễm mốc, độc tố aflatoxin và ảnh hưởng của nó đối với lợn, gà. Bản tóm tắt luận án PTS, ĐHNN I.
12. Nguyễn Như Viên (1990), Tình hình nhiễm aflatoxin B1 trong thức ăn và độc hại
của nó đối với gà công nghiệp. Luận án PTS.
TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG NƯỚC NGOÀI
13. Aidoo K.E. (1993). Post-harvest storage and preservation of tropical crops. International Biodeterioration & Biodegradation 32, 161-73.
14. Alassane-Kpembi I, Oswald IP (2015). Effects of feed contaminants on the intestinal health of monogastric farm animals. In: Nieworld T, editor. Intestinal health: key to optimise production. Wageningen: Wageningen Academic Publishers; 2015. p. 169–90.
15. Andraud J., Andraud G & C.R. B. (1970). Animal health, welfare and productivity. Anim feed Sci technol 80, 183-205.
16. Andretta I, Kipper M, Lehnen CR, Hauschild L, Vale MM, Lovatto PA (2012). Meta-analytical study of productive and nutritional interactions of mycotoxins in growing pigs. Animal. 2012;6:1476–82.
17. Basappa S.C. & Santha T. (1983). Methods for detoxification of aflatoxin in foods and feeds. Allied Press.
18. Bergsjø B., Langseth W., Nafsta I., Jansen J.H. & Larsen H.J.S. (1993). TheEffects of naturally deoxynivalenol-contaminated oats on the clinical condition, bloodparameters,performance and carcass composition of growing pigs. Veterinary Research Communications 17, 283-94.
19. Betina V. (1984). Mycotoxin; Production, Isolation, separation and
purification. Elsevier, Amsterdam.
20. Biehl M.L., Prelusky D.B., Koritz G.D., Hartin K.E., W.B. B. & H.L. T. (1993). Biliary excretion and entero-hepatic cycling of zearalenone in immature pigs. . Toxicol.Appl. Pharmacol. 121, 152-9.
21. Blaney B.J. & K.C W. (1991). Effective use in livestock feeds of mouldy and weather-damaged grain containing mycotoxins- case history and economic assessments pertaining to pig and poultry industries of Queenslan. Australian J. Agric. Res. 42, 993.
110
22. Bouhet S, Oswald IP (2005). The effects of mycotoxins, fungal food contaminants, on the intestinal epithelial cell-derived innate immune response. Vet Immunol Immunopathol. 2005;108:199–209.
23. Bouhet S., Emmanuelle L.D., Sylvie P., John M.F. & P.O I. (2006). Mycotoxin fumonisin B1 selectively down-regulates the basal IL-8 expression in pig intestine: in vivo and in vitro studies. Food and Chemical Toxicology 44, 1768-73.
24. Bracarense AP, Lucioli J, Grenier B, Drociunas Pacheco G, Moll WD, Schatzmayr G, et al (2012).Chronic ingestion of deoxynivalenol and fumonisin, alone or in interaction, induces morphological and immunological changes in the intestine of piglets. Br J Nutr. 2012;107:1776–86.
25. Bryden WL. Mycotoxins in the food chain: human health implications. Asia Pac J Clin Nutr. 2007;16 Suppl 1:95–101.
26. Campbell T.C. & J.R H. (1976) Toxicol. Appl. Pharmacol. 35, 199-222.
27. CAST (2003). Mycotoxin. Risks in plant, animal and human systems. In: Task Force Repor
28. Casteel S.W., Turk J.R., Cowart R.P. & Rottinghaus G.E. (1993). Chronic toxicity of fumonisin in weanling pigs. J Vet Diagn Invest 5, 413-7.
29. Charmley L.B. & Prelusky D.B. (1994). Decontamination of Fusarium mycotoxins. Eagan Press.,St Paul, Minnesota.
30. Chen C., Pearson A.M., Coleman T.H., Gray J.I., Pestka J.J. & Aust S.D. (1984). Tissue deposition and clearance of aflatoxins from broiler chickens fed a contaminated diet. Food and chemical toxicology : an international journal published for the British Industrial Biological Research Association 22, 447- 51.
31. Coker R.D., K J. & B.D J. (1986). The treatment of aflatoxin contaminated commodities. C.A.B. Internatyional, Slough, UK, 103-8.
32. Coulombe R.A. & Sharma R.P. (1985). Clearance and excretion of intratracheally and orally administered aflatoxin B1 in the rat. Food and Chemical Toxicology 23, 827-30.
33. D’Mello J.P.F., Placinta C.M. & Macdonald A.M.C. (1999). Fusarium mycotoxins: a review of global implications for animal health, welfare and productivity. Animal Feed Science and Technology 80, 183-205.
111
34. Dailey R.E., Blaschka A.M. & E.A B. (1977). Absorption, distribution and excretion of [14C]-patulin by rats. J. Toxicol. Env. Health 3, 479-89.
35. Dalezios J.I., D.P.H H. & G.N W. (1973). Excretion and metabolism of orally administered aflatoxin B1 by rhesus monkeys. Food Cosmet Toxicol 11, 605- 16.
36. Damodaran C. (1976). In vitro binding of citrinin to serum protein. Experientia 33, 598-9.
37. Danicke S., Valenta H. & Doll S. (2004). On the toxicokinetics and the metabolism of deoxynivalenol (DON) in the pig. Arch Anim Nutr 58, 169-80.
38. Dänicke S., Valenta H. & Kersten S. (2012). Humic substances failed to prevent the systemic absorption of deoxynivalenol (DON) and its adverse effects on piglets. Mycotoxin Research November 2012 28, 253-60.
39. Devegowda G., Aravind B.I.R., M.G M. & K R. (1995). A biotechnological approach to counteract aflatoxicosis in broiler chickens and ducklings by the use of Saccharomyces cerevisiae. Proc. Feed Ingredients Asia ‘95, Singapore, 161-167.
40. Diener U.L. & N.D D. (1969). Production of aflatoxin on peanuts under controlled environments. . J. Stored Prod. Res. 5, 251-8.
41. Dilkina P., P. Zorzetea C.A., Mallmannb J.D.F., Gomesc C.E., Utiyama L.L., Oettingc & Corre B. (2003). Toxicological effects of chronic low doses of aflatoxin B1 and fumonisin B1-containing Fusarium moniliforme culture material in weaned piglets. . Food and Chemical Toxicology 41, 1345-53.
42. Dirr H.W. & Schabort J.C. (1987). Characterization of the aflatoxin B1- binding site of rat albumin. Biochim Biophys Acta 913, 300-7.
43. Doherty W.P. & T.C C. (1973). Chem. Biol. Interact 7, 63-77.
44. Dupuy J., Le Bars P., Boudra H. & Le Bars J. (1993). Thermostability of Fumonisin B(1), a Mycotoxin from Fusarium moniliforme, in Corn. Applied and Environmental Microbiology 59, 2864-7.
45. Edwards G.S. & Wogan G.N. (1970). Biochim. Biophys. Acta 224, 597-607.
46. Enongene EN, Sharma RP, Bhandari N, Miller JD, Meredith FI, Voss KA, et al. Persistence and reversibility of the elevation in free sphingoid bases induced by fumonisin inhibition of ceramide synthase. Toxicol Sci. 2002;67:173–81
112
47. Eriksen GS, Pettersson H (2004). Toxicological evaluation of trichothecenes in animal feed. Anim Feed Sci Technol.;114:205–39.
48. Escriva L, Font G, Manyes L (2015). In vivo toxicity studies of fusarium mycotoxins in the last decade: a review. Food Chem Toxicol.;78:185–206.
49. Etcheverry M., Torres A., Ramirez M.L., Chulze S. & Magan N. (2002). In vitro control of growth and fumonisin production by Fusarium verticillioides and F. proliferatum using antioxidants under different water availability and temperature regimes. J Appl Microbiol 92, 624-32.
50. FAO (1979). Recommended practices for the prevention of mycotoxin in food, feed and their products, Rome.
51. FAO (1990). Manuals of food quanlity control 10. Training in mycotoxin analysis, Rome.
52. FAO, 203
53. Fernández A., Belío R., Ramos J.J., Sanz M.C. & Sáez T. (1997). Aflatoxins and their Metabolites in the Tissues, Faeces and Urine from Lambs Feeding on an Aflatoxin-Contaminated Diet. Journal of the Science of Food and Agriculture 74, 161-8.
54. FnreNo D.W., TneNHoLr I., H. L., , TnolvrpsoN B.K., PnEr-usrv D.B. & aNo HanrrN K.E. (1986). Effect of deoxynivalenol (DON)-contaminated diet fed to growing-finishing pigs on their performance at market weight, nitrogen retention and DON excretion. . J. Anim. Sci. 66, 1075-85.
55. Fodor J., K.Balogh, M.Weber, M.Mézes, L.Kametler, R.Pósa, R.Mamet, J.Bauer, P.Horn, F.Kovács & M.Kovács (2008). Absorption, distribution and elimination of fumonisin B1 metabolites in weaned piglets. . Food Additives & Contaminants 25, 88-96.
56. Foster B., Trenholm HL, Friend DW, Thompson BK & KE. H. (1996). Evaluation of different sources of deoxynivalenol (vomitoxin) fed to swine. . Can J Anim Sci 66, 1149-54.
57. Galtier P. (1974). Devenir de l’ ochratoxine A dans l’ organisme animal. I. Transport sanguin de la toxine chez le rat. Ann. Rech. Vét 5, 311-8.
58. Galtier P., Alvinerie M. & Charpenteau J.L. (1981). The pharmacokinetic profiles of ochratoxin A in pigs, rabbits and chickens. Food and Cosmetics Toxicology 19, 735-8.
113
59. Galvano F., Pietri A., Bertuzzi T., Piva A., Chies L. & Galvano M. (1998). Activated carbons: in vitro affinity for ochratoxin A and deoxynivalenol and relation of adsorption ability to physicochemical parameters. J Food Prot 61, 469-75.
60. Garner R.C. & Martin C.N. (1979). Chemical Carcinogens and DNA. CRC Press, Boca Raton, FL 1, 187.
61. Gbore F.A. & Egbunike G.N. (2009). Toxicological evaluation of dietary fumonisin B1 on serum biochemistry of growing pigs. Journal of Central European Agriculture 10 255-62.
62. Ghareeb K, Awad WA, Bohm J, Zebeli Q. Impacts of the feed contaminant deoxynivalenol on the intestine of monogastric animals: poultry and swine. J Appl Toxicol. 2015;35:327–37.
63. Goldblatt L.A. (1969). Aflatoxin, Academic Press, New York.
64. Goyarts T., Danicke S., Brussow K.P., Valenta H., Ueberschar K.H. & Tiemann U. (2007a). On the transfer of the Fusarium toxins deoxynivalenol (DON) and zearalenone (ZON) from sows to their fetuses during days 35-70 of gestation. Toxicol Lett 171, 38-49.
65. Goyarts T., Danicke S., Valenta H. & Ueberschar K.H. (2007b). Carry-over of from naturally (deoxynivalenol and zearalenone) toxins Fusarium contaminated wheat to pigs. Food Addit Contam 24, 369-80.
66. Gregory J.F., Goldstein S.L. & Edds G.T. (1983). Metabolite distribution and rate of residue clearance in turkeys fed a diet containing aflatoxin B1. Food and chemical toxicology : an international journal published for the British Industrial Biological Research Association 21, 463-7.
67. Grenier B, Bracarense AP, Schwartz HE, Trumel C, Cossalter AM, Schatzmayr G, et al. The low intestinal and hepatic toxicity of hydrolyzed fumonisin B1 correlates with its inability to alter the metabolism of sphingolipids. Biochem Pharmacol. 2012;83:1465–73.
68. Hamilton R.M., Thompson B.K., Trenholm H.L., Fiser P.S. & Greenhalgh R. that contain (1985). Effects of feeding white Leghorn hens diets deoxynivalenol (vomitoxin)-contaminated wheat. Poult Sci 64, 1840-52.
69. Hanson C.V., Shen J.C.K. & J.E. H. (1976). Science 193, 62-4.
70. Haschek, W.M., L.A. Gumprecht, G. Smith, M.E. Tumbleson, and P.D. Constable, 2001. Fumonisin toxicosis in swine: An overview of porcine
114
pulmonary edema and current perspectives. Environmental and Heath Perspectives. 109: 251-257.
71. Hatey F. & Moule Y. (1979). Protein synthesis inhibition in rat liver by the mycotoxin patulin. Toxicology 13, 223-31.
72. Howard PC, Couch LH, Patton RE, Eppley RM, Doerge DR, Churchwell MI, et al. Comparison of the toxicity of several fumonisin derivatives in a 28-day feeding study with female B6C3F(1) mice. Toxicol Appl Pharm. 2002;185:153–65
73. Huang C., Dickman M., Henderson G. & Jones C. (1995). Repression of protein kinase C and stimulation of cyclic AMP response elements by fumonisin, a fungal encoded toxin which is a carcinogen. Cancer Res 55, 1655-9.
74. Hughes D.M., Gahl M.J., Graham C.H. & Grieb S.L. (1999). Overt signs of toxicity to dogs and cats of dietary deoxynivalenol. J Anim Sci 77, 693-700.
75.
Inês Rodrigues 1,* and Karin Naehrer , 2012. A Three-Year Survey on the Worldwide Occurrence of Mycotoxins in Feedstuffs and Feed. Toxins 2012, 4, 663-675; doi:10.3390/toxins4090663
76.
Isabelle P.O., Clarisse Desautels, Joe¨lle Laffitte, Sylvie Fournout, Sylvie Y. Peres, Odin M., Pierrette Le Bars, Joseph Le Bars & Fairbrother J.M. (2003). Mycotoxin Fumonisin B1 Increases Intestinal Colonization by Pathogenic Escherichia coli in Pigs. Applied and Environmental Microbiology, 5870-4.
77.
Jean-Paul L.s., Martin Lessard , P. I., Oswald & David. J.-C. (2010). Consumption of fumonisin B1 for 9 days induces stress proteins along the gastrointestinal tract of pigs. Toxicon 55, 244-9.
78. Jemmali M. (1983). Decontamination of mycotoxins. NRC, Cairo, 143-50.
79.
Jenkins G.R., Tolleson W.H., Newkirk D.K., Roberts D.W., Rowland K.L., Saheki T., Kobayashi K., Howard P.C. & Melchior W.B., Jr. (2000) Identification of fumonisin B1 as an inhibitor of argininosuccinate synthetase using fumonisin affinity chromatography and in vitro kinetic studies. J Biochem Mol Toxicol 14, 320-8.
80. Kolf-Clauw M, Castellote J, Joly B, Bourges-Abella N, Raymond-Letron I, Pinton P, et al (2009). Development of a pig jejunal explant culture for studying the gastrointestinal toxicity of the mycotoxin deoxynivalenol: Histopathological analysis. Toxicol In Vitro. 2009;23:1580–4.
115
81. Krogh P., Elling F., Hald B., Jylling B., Petersen V.E., Skadhauge E. & Svendsen C.K. (1976). Experimental avian nephropathy. Changes of renal function and structure induced by ochratoxin A-contaminated feed. Acta Pathol Microbiol Scand A 84, 215-21.
82. Kumagai S. (1988). Effects of plasma ochratoxin A and luminal pH on the jejunal absorption of ochratoxin A in rats. Food and chemical toxicology : an international journal published for the British Industrial Biological Research Association 26, 753-8.
83. Lafarge C. & Frayssinet C. (1970) Int. J. Cancer 6.
84. Lee-Jiuan C., Tan L.M. & Wegleiner K. (2006). Occurrence of Mycotoxins in feed samples from ASIA. A continuation of Biomin Mycotoxin survey program. 15th Annual ASAIM Southeast Asian Feed Technology and Nutrition Workshop.
85. Lin J.K., Miller J.A. & Miller E.C. (1977). Cancer Res 37, 4430-8.
86. Lun A.K., Young L.G., Moran E.T., Jr., Hunter D.B. & Rodriguez J.P. (1986). Effects of feeding hens a high level of vomitoxin-contaminated corn on performance and tissue residues. Poult Sci 65, 1095-9.
87. Madsen A., Mortensen H.P. & Hald B. (1982). Feeding experiments with ochratoxin Manthey FA, Wolf-Hall CE, Yalla S, Vijayakumar C, Carlson D. 2004 Microbial loads, mycotoxins, and quality of durum wheat from the 2001 harvest of the Northern Plains region of the United States. J Food Prot 67, 772-80.
88. Manthey F., Wolf-Hall CE, Yalla S, Vijayakumar C & D C. (2004). Microbial loads, mycotoxins, and quality of durum wheat from the 2001 harvest of the Northern Plains region of the United States. J Food Prot 67, 772-80.
89. Marasas W.F. (1995). Fumonisins: their implications for human and animal
health. Nat Toxins 3, 193-8; discussion 221.
90. Maresca M. From the gut to the brain: journey and pathophysiological effects
of the food-associated mycotoxin Deoxynivalenol. Toxins. 2013;5:784–820
91. Meisner H. & Chan S. (1974). Biochemistry 13.
92. Mercado C.J., Real M.P.N. & Rosario R.R.D. (1991). Chemical Detoxification of Aflatoxin-containing Copra. Journal of Food Science 56, 733-5.
116
93. Merrill A.H., Sullards M.C., Wang E., Voss K.A. & Riley R.T. (2001) Sphingolipid metabolism: roles in signal transduction and disruption by fumonisins. Environmental Health Perspectives 109, 283-9.
94. Miller J.D. (2008). Mycotoxins in small grains and maize: Old problems, new challenges. Food Add. Contam. 25, 219-30.
95. Mirocha C.J. & Christensen C.M. (1974). Fungus Metabolites Toxic to Animals Annual Review of Phytopathology 12, 303-30.
96. Moreau C. (1974). Moisissures toxiques dans I’ alimen-tation. Masson, Paris
97. Moulé. I., Douce C., S. M. & N D. (1981). Chem. Biol. Interact 37, 155-64.
98. Nagao M., Sugimura T. & Matsushima T. (1978). Annual Rev. Genet. 12, 117-59.
99. Nagy C.M., Fejer S.N., Berek L., Molnar J. & Viskolcz B. (2005). Hydrogen bondings in deoxynivalenol (DON) conformations—a density functional study. Journal of Molecular Structure: THEOCHEM 726, 55-9.
100. Nguyen Hieu Phuong, Brian Ogle, Petterson H. & Thieu N.Q. (2012). Detoxifying effects of a commercial additive and Phyllanthus amarus extract in pigs fed fumonisins-contaminated feed. Livestock Research for Rural Development 24.
101. Northolt M.D., H.P. V.E., P. S. & J D. (1980). Ass. Offic. Anal. Chem 63, 113- 9.
102. Ohba Y. & Fromageot P. (1967). Eur. J. Biochem 1, 147-51.
103. Oswald IP (2006). Role of intestinal epithelial cells in the innate immune defence of the pig intestine. Vet Res. 2006;37:359–68.
104. Park D.L. (1993). Perspectives on Mycotoxin decontamination procedures.
Food Addit. Contamin. 10, 49-60.
105. Park D.L., Lee L.S., Price R.L. & Pohland A.E. (1988). Review of the decontamination of aflatoxins by ammoniation: current status and regulation. J Assoc Off Anal Chem 71, 685-703.
106. Pasteiner S. (1998). Mycotoxin in animal husbandry. Biomin, Austria.
107. Paterson R. (1996). Method of classification of fungi and ditermination of mycotoxins in food and agro-products.
117
108. Pemberton A.D. & Simpson T.J. (1991). The chemical degradation of mycotoxins. CRC Press, Boca Raton, Florida, 797-813.
109. Pestka J.J. (2007). Deoxynivalenol: Toxicity, mechanisms and animal health risks. Animal Feed Science and Technology 137, 283-98.
110. Pestka JJ, Zhou HR, Moon Y, Chung YJ. Cellular and molecular mechanisms for immune modulation by deoxynivalenol and other trichothecenes: unra veling a paradox. Toxicol Lett 2004; 153: 61-73.
111. Pestka JJ. Deoxynivalenol: mechanisms of action, human exposure, and
toxicological relevance. Arch Toxicol. 2010;84(9):663–79.
112. Pestka JJ. Deoxynivalenol: mechanisms of action, human exposure, and to
xicological relevance. Arch Toxicol 2010; 84:663 e 79.
113. Phillips T.D., B.A. C. & D.L P. (1994). Approaches to reduction of aflatoxin in foods and feeds. In: Academic Press, New York, pp. 383-406.
114. Phuong N.H. (2010). Mycotoxins contamination in maize kernels in Vietnam and effects of feed additives on reducing fumonisin impacts in pigs.
115. Pinton P, Oswald IP. Effect of deoxynivalenol and other Type B
trichothecenes on the intestine: a review. Toxins (Basel). 2014;6:1615–43.
116. Pinton P, Oswald IP (2015). Effect of deoxynivalenol and other Type B trichothecenes on the intestine: a review. Toxins (Basel). 2014;6:1615–43.
117. Pinton P., Accensi F., Beauchamp E., Cossalter A.M., Callu P., Grosjean F. & Oswald I.P. (2008). Ingestion of deoxynivalenol (DON) contaminated feed alters the pig vaccinal immune responses. Toxicol Lett 177, 215-22.
118. Piva A., G. , Casadei G., Pagliuca E., Cabassi F., Galvano M., Solfrizzo R.T., RileD & D. E. Diaz (2005). Activated carbon does not prevent the toxicity of culture material containing fumonisin B1 when fed to weanling piglets. Journal of Animal Science Vol. 83, 1939-47.
119. Plakas S.M., Loveland P.M., Bailey G.S., Blazer V.S. & Wilson G.L. (1991). Tissue disposition and excretion of 14C-labelled aflatoxin B1 after oral administration in channel catfish. Food and chemical toxicology : an international journal published for the British Industrial Biological Research Association 29, 805-8.
120. Prelusky D.B., Trenholm H.L. & Savard M.E. (1994). Pharmacokinetic fate of 14C-labelled fumonisin B1 in swine. Nat. Toxins 2, 73-80.
118
121. Prevot A. (1986). Chemical detoxification of aflatoxin contaminated peanut meal. Elsevier, Amsterdam, 341-51.
122. Ramljak D., Calvert R.J., Wiensenfeld P.W., Diwan B.A., Catipovic B., Marasas W.F., Victor T.C., Anderson L.M. & Gelderblom W.C. (2000). A potential mechanism for fumonisin B (1)-mediated hepatocarcinogenesis: cyclin D1 stabilization associated with activation of Akt and inhibition of GSK-3beta activity. Carcinogenesis21. 1537-46.
123. Ramos A.J., J. F. & E H. (1996). Prevention of toxic effect of mycotoxin by means of non-nutritive adsorbent compounds. J. Food Prot 59, 631-41.
124. Rogers A.E. & Newberne P.M. (1967). Cancer Res. 27, 855-64.
125. Roth A., Chakor K., Creppy E.E., Kane A., R. R. & Dirheimer G. (1998). Evidence for an enterohepatic circulation of ochratoxin A in mice. Toxicology and Applied Pharmacology 48, 293-308.
126. Rotter B.A., Prelusky D.B., Fortin A., Miller J.D. & Savard M.E. (1997a). Impact of pure fumonisin B1 on various metabolic parameters and carcass quality of growing-finishing swine — preliminary findings. Canadian Journal of Animal Science 77, 465-70.
127. Rotter B.A., Prelusky D.B., Fortin A., Miller J.D. & Savard M.E. (1997b). Impact of pure fumonisin B1 on various metabolic parameters and carcass quality of growing-finishing swine — preliminary findings. Can. J. Anim. Sci 77, 465-70.
128. Rotter B.K., Thompson & M e. (1995). Effects of deoxynivalenol- contaminated diet on performance and blood parameters in growing swine. . Centre for Food and Animal Research, Research Branch, Agriculture and Agri-Food Canada, K.W. Neatby Bldg, CEF,Oftawa, Ontario, Canada KIA 0C6. CFAR contribution no. 2263, received 7 October 1994, accepted 9 March 1995.
129. Sabbioni G., Skipper P.L., Buchi G. & Tannenbaum S.R. (1987). Isolation and characterization of the major serum albumin adduct formed by aflatoxin B1 in vivo in rats. Carcinogenesis 8, 819-24.
130. Sarasin A., A. G., R. D. & Y M. (1977). Mutat. Res 42, 205-14.
131. Scott P.M. (1981) In: Trace Analysis-1 (Ed. Lawrence J.F.), Academic Press, London, UK, p. 193.
132. Scudamore K. (1993). Mycotoxins in stored products: Myth or menace. International Biodeterioration & Biodegradation 32, 1-3.
119
133. Smith G.W., Constable P.D., Bacon C.W., Meredith F.I. & Haschek W.M. (1996). Cardiovascular effects of fumonisins in swine. Fundam Appl Toxicol 31, 169-72.
134. Smith J.S. & Thakur R.A. (1996). Occurrence and fate of fumonisins in beef. Adv Exp Med Biol 392, 39-55.
135. Stanley V.G., Ojo R., Woldesenbet S., Hutchinson D.H. & Kubena L.F. (1993). The use of Saccharomyces cerevisiae to suppress the effects of aflatoxicosis in broiler chicks. Poult Sci 72, 1867-72.
136. Stark A.A. (1980). Mutagenicity and carcinogenicity of mycotoxins: DNA binding as a possible mode of action. Annu Rev Microbiol 34, 235-62.
137. Steyn P.S. (1998). The biosynthesis of mycotoxins. Revuede medicine Veterinaire 149, 469-78.
138. Swenson D.H., Miller J.A. & Mille r.E.C. (1975). Cancer Res 35, 3811-23.
139. Thieu N.Q., Ogle B. & Pettersson H. (2008). Screening of Aflatoxins and Zearalenone in feedstuffs and complete feeds for pigs in Southern Vietnam. Trop Anim Health Prod 40, 77-83.
140. Trenholm H.L., Thompson B.K., Foster B.C., Charmley L.L., Hartin K.E., Coppock R.W. & Albassam M.A. (1994). Effects of feeding diets containing Fusarium (naturally) contaminated wheat or pure deoxynivalenol (DON) in growing pigs. Canadian Journal of Animal Science 74, 361-9.
141. Trung T.S., Bailly J.D., Querin A., Bars P.L. & Guerre P. (2001) Fungal contamination of rice from south Vietnam, mycotoxinogenesis of selected strains and residues in rice. Revue De Medicine Veterinaire 152, 555-60.
142. Ueno Y. (1985). The toxicology of mycotoxins. Crit Rev Toxicol 14, 99-132.
143. Ueno Y., Hosoya M., Morita Y., Ueno I. and Tatsumo T (1968). J. Biochem 64, 479-85.
144. Unger P.D. & Hayes A.W. (1979). Disposition of rubratoxin B in the rat. Toxicology and Applied Pharmacology 47, 585-91.
145. Vesonder R.F., Ciegler A. & Jensen A.H. (1973). Appl. Microbiol., 25, 1008- 10.
146. Voss K.A., Smith G.W. & Haschek W.M.
(2007). Fumonisins: Toxicokinetics, mechanism of action and toxicity. Animal Feed Science and Technology 137, 299-325.
120
147. Voss KA, Plattner RD, Riley RT, Meredith FI, Norred WP. In vivo effects of fumonisin B(1)-producing and fumonisin B(1)-nonproducing Fusarium moniliforme isolates are similar: Fumonisins B(2) and B(3) cause hepato- and nephrotoxicity in rats. Mycopathologia. 1998;141:45–58.
148. Voss KA, Smith GW, Haschek WM. Fumonisins: Toxicokinetics, mechanism
of action and toxicity. Anim Feed Sci Tech. 2007;137:299–325.
149. Wache Y.J., Valat C., Postollec G., Bougeard S., Burel C., Oswald I.P. & Fravalo P. (2009). Impact of deoxynivalenol on the intestinal microflora of pigs. Int J Mol Sci 10, 1-17.
150. Waché Y.J., Valat C., Postollec G., Bougeard S., Burel C., Oswald I.P. & Fravalo P. (2009). Impact of Deoxynivalenol on the Intestinal Microflora of Pigs. Int J Mol Sci 10, 1-17.
151. Wageha A.A., Khaled Ghareeb, Böhm J. & Zentek. J.
(2010). Decontamination and detoxification strategies for the Fusarium mycotoxin deoxynivalenol the effectiveness of microbial in animal feed and biodegradation. . Food Additives and Contaminants. 27.
152. Waldroup P.W. (1997). Managing molds and mycotoxins in poultry feeds.
Technical bulletin, American soybean Association, USA.
153. Wang E., Norred W.P., Bacon C.W., Riley R.T. & Merrill A.H., Jr. (1991). Inhibition of sphingolipid biosynthesis by fumonisins. Implications for diseases associated with Fusarium moniliforme. J Biol Chem 266, 14486-90.
154. Wang L.Y., Hatch M., Chen C.J., Levin B., You S.L., Lu S.N., Wu M.H., Wu W.P., Wang L.W., Wang Q., Huang G.T., Yang P.M., Lee H.S. & Santella R.M. (1996). Aflatoxin exposure and risk of hepatocellular carcinoma in Taiwan. Int J Cancer 67, 620-5.
155. Wang Z, Wu Q, Kuca K, Dohnal V, Tian Z. Deoxynivalenol: signalling pathways and human exposure risk assessment–an update. Arch Toxicol. 2014;88(11):1915–28.
156. Wei R.D., Still P.E., Smalley E.B., Schnoes H.K. & Strong F.M. (1973). Appl. Microbiol. 25, 111-4.
157. Wilson R., Ziprin R., Ragsdale S. & Busbee D. (1985). Uptake and vascular transport of ingested aflatoxin. Toxicol Lett 29, 169-76.
121
158. Wogan G.N., Edwards G.S. & Chank R.C. (1967). Excretion and tissue distribution of radioactivity from aflatoxin B1-14C in rats, . Cancar Res. 27, 1729-36.
159. Wong Z.A. & Hsieh D.P. (1980). The comparative metabolism and toxicokinetics of aflatoxin B1 in the monkey, rat, and mouse. Toxicol Appl Pharmacol 55, 115-25.
160. Wood G.E. (1992). Mycotoxins in foods and feeds in the United States. J Anim Sci 70, 3941-9.
161. Yoshizawa T. (1991). Natural occurrence of mycotoxins in small grain cereals (wheat, barley, rye, oats, sorghum, millet, rice). In: Mycotoxins and animal foods, pp. 301-24.
162. Yu F.L. (1977) J. Biol. Chem 252, 3245-51.
163. Zomborszky M.K., F.Vetesi, I.Repa, P.Horn & F.Kovacs (1997). Effects of toxins produced by Fusarium moniliforme on pigs. I. Definition of tolerance limit values in weaned piglets. Magy. Allatorv. Lap 119, 759-62.
164. Zomborszky-Kovacs M., F. Kovacs , P. Horn , F. Vetesi , I. Repa , G. Tornyos & Toth A. (2002). Investigations into the time- and dose-dependent effect of fumonisin B in order to determine tolerable limit values in pigs. Livestock Production Science 76, 251-6.
122
PHỤ LỤC MỘT SỐ HÌNH ẢNH TRONG NGHIÊN CỨU
Hình ảnh nuôi cấy nấm mốc