BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
LÊ HÀ DIỄM CHI
ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG TIỀN,
RỦI RO HỆ THỐNG, RỦI RO PHI HỆ THỐNG
VÀ TÍNH THANH KHOẢN CHỨNG KHOÁN ĐẾN
ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 62340201
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TP. HỒ CHÍ MINH
----------
LÊ HÀ DIỄM CHI
ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG TIỀN,
RỦI RO HỆ THỐNG, RỦI RO PHI HỆ THỐNG
VÀ TÍNH THANH KHOẢN CHỨNG KHOÁN ĐẾN
ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Chuyên ngành: Tài chính – Ngân hàng
Mã số: 62340201
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KINH TẾ
Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. Nguyễn Thị Ngọc Trang
Tp. Hồ Chí Minh – Năm 2016
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu do chính tôi thực hiện.
Các số liệu nghiên cứu lấy từ báo cáo tài chính đã được kiểm toán của các
công ty niêm yết từ năm 2007 – 2013. Kết quả nghiên cứu trong luận án
chưa được ai công bố trong bất cứ công trình nghiên cứu nào khác.
Tác giả
Lê Hà Diễm Chi
MỤC LỤC
Trang phụ bìa
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục bảng biểu
Danh mục hình
PHẦN MỞ ĐẦU
Tiêu đề
Trang
1. Đặt vấn đề
1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án
6
3. Mục tiêu nghiên cứu
9
4. Phạm vi nghiên cứu
9
5. Phương pháp nghiên cứu
10
6. Tính mới và đóng góp của luận án
11
7. Kết cấu của luận án
13
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG
TIỀN, RỦI RO HỆ THỐNG, RỦI RO PHI HỆ THỐNG VÀ TÍNH
THANH KHOẢN CỦA CHỨNG KHOÁN ĐẾN ĐẦU TƯ.
1.1. Giới thiệu
19
1.2. Các lý thuyết liên quan đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp
19
1.2.1. Lý thuyết bất cân xứng thông tin (Asymmetric Information Theory)
19
1.2.2. Lý thuyết đại diện (Agency Theory)
21
1.2.3. Đầu tư quá mức (Onverinvestmnet) và đầu tư dưới mức (Underinvestment) 23
1.2.3.1. Đầu tư quá mức và vấn đề đại diện
23
1.2.3.2. Đầu tư dưới mức và thông tin bất cân xứng
24
1.2.3.3. Xác định đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức
24
1.2.4. Lý thuyết quyền chọn thực
26
1.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư
28
1.3.1. Doanh nghiệp hạn chế tài chính và ảnh hưởng của nguồn vốn nội bộ đến quyết
định đầu tư của doanh nghiệp.
28
1.3.2. Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp doanh
nghiệp hạn chế tài chính.
30
1.3.3. Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư: Nghiên cứu trong trường hợp doanh
nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước.
34
1.4. Các nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng của rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống
đến đầu tư.
37
1.4.1. Ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư là thuận chiều hay nghịch chiều?
37
1.4.2. Ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư trong lý thuyết quyền chọn thực
39
1.4.3. Ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp doanh nghiệp
hạn chế tài chính
41
1.4.4. Ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp doanh nghiệp có
sự kiểm soát Nhà nước
42
1.5. Các nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng tính thanh khoản của chứng khoán đến
đầu tư.
44
1.5.1. Ảnh hưởng tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư: Nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp hạn chế tài chính.
46
1.5.2. Ảnh hưởng tính thanh khoản đến đầu tư: Nghiên cứu trong trường hợp doanh
nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước
47
1.6. Tóm tắt kết quả các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro
hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư
doanh nghiệp.
49
1.7. Khoảng trống trong nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi
ro phi hệ thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư doanh nghiệp. 50
CHƯƠNG 2:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1. Xây dựng biến cho mô hình nghiên cứu
52
2.2. Xác định doanh nghiệp hạn chế tài chính
58
2.2.1. Lựa chọn đại lượng để xác định doanh nghiệp hạn chế tài chính
58
2.2.2. Xác định doanh nghiệp hạn chế tài chính.
61
2.3. Xác định doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước
62
2.4. Mô hình nghiên cứu
64
2.5. Dữ liệu nghiên cứu
64
2.6. Phương pháp nghiên cứu
65
2.6.1. Phương pháp hồi quy theo mô hình phương sai sai số thay đổi tự hồi quy tổng
quát GARCH
65
2.6.2. Dữ liệu bảng và phương pháp moment tổng quát - GMM (Generalized method
of moments)
67
2.6.2.1. Dữ liệu bảng (Panel data)
67
2.6.2.2. Cơ sở lý thuyết của phương pháp moment tổng quát - GMM (Generalized
method of moments)
68
2.7. Kết luận chương 2
72
CHƯƠNG 3:
TỔNG QUAN VỀ ĐẦU TƯ, DÒNG TIỀN, RỦI RO HỆ THỐNG, RỦI
RO PHI HỆ THỐNG VÀ TÍNH THANH KHOẢN CỦA CHỨNG
KHOÁN CỦA CÁC DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
GIAI ĐOẠN 2008 -2013
3.1. Đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam là đầu tư quá mức (Overinvestment) hay
đầu tư dưới mức (Underinvestment)?
74
3.1.1. Mô hình xác định đầu tư quá mức (Overinvestment) hay đầu tư dưới mức
(Underinvestment)
74
3.1.2. Đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam là đầu tư quá mức hay đầu tư dưới mức? 75
3.2. Đặc điểm tài chính của các doanh nghiệp trong mẫu nghiên cứu
76
3.3. Đặc điểm của doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính.
78
3.4. Đặc điểm của doanh nghiệp có sự kiểm soát của Nhà nước
81
3.5. Biến động của đầu tư, dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản của chứng khoán.83
3.6. Kết luận chương 3
85
CHƯƠNG 4:
KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG TIỀN,
RỦI RO HỆ THỐNG, RỦI RO PHI HỆ THỐNG VÀ
TÍNH THANH KHOẢN CHỨNG KHOÁN
ĐẾN ĐẦU TƯ CỦA DOANH NGHIỆP
4.1. Ma trận tương quan giữa các biến số trong mô hình
87
4.2. Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống
và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam 90
4.2.1. Kiểm định tính phù hợp của kết quả ước lượng
91
4.2.2. Phân tích kết quả ước lượng
91
4.3. Ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống , rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản
của chứng khoán: Nghiên cứu trường hợp doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính
so với doanh nghiệp ít hạn chế tài chính.
98
4.3.1. Kiểm định tính phù hợp của kết quả ước lượng
98
4.3.2. Phân tích kết quả ước lượng
99
4.3.2.1. Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp doanh
nghiệp nhiều hạn chế tài chính so với doanh nghiệp ít hạn chế tài chính
99
4.3.2.2. Ảnh hưởng rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính so với doanh nghiệp ít hạn chế
tài chính
104
4.3.2.3. Ảnh hưởng của tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính so với doanh nghiệp ít hạn chế
tài chính.
104
4.3.3. Tóm tắt kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro
phi hệ thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính so với doanh nghiệp ít hạn chế
tài chính.
105
4.4. Ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản
của chứng khoán đến đầu tư: Nghiên cứu cho trường hợp doanh nghiệp có sự
kiểm soát Nhà nước so với doanh nghiệp không có kiểm soát Nhà nước
109
4.4.1. Kiểm định tính phù hợp của kết quả ước lượng
109
4.4.2. Phân tích kết quả ước lượng
110
4.4.2.1. Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư: nghiên cứu cho trường hợp doanh
nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước so với doanh nghiệp không có sự kiểm soát
Nhà nước
110
4.4.2.2. Ảnh hưởng rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước so với doanh nghiệp không có
kiểm soát Nhà nước
113
4.4.2.3. Ảnh hưởng tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước sơ với các doanh nghiệp không
có kiểm soát Nhà nước
115
4.4.3. Kết quả nghiên cứu theo tỷ lệ cổ phần 42,25% và 51%
116
4.4.4. Tóm tắt kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro
phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước so với doanh nghiệp không có
kiểm soát Nhà nước
118
4.4.5. Kiểm chứng tăng cường cho ảnh hưởng dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu cho trường
hợp doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước (sử dụng biến tương tác với biến tỷ lệ
cổ phần RateGov).
120
4.5. Kết luận chương 4
124
CHƯƠNG 5: KHUYẾN NGHỊ GIẢI PHÁP
5.1. Thúc đẩy các doanh nghiệp quan tâm và thực hiện tốt quản trị rủi ro
127
5.2. Xây dựng cơ chế giám sát quyết định đầu tư ở doanh nghiệp nhằm hạn chế tình
trạng đầu tư quá mức
129
5.3. Khơi thông nguồn vốn, tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiếp cận vốn tín dụng, đặc
biệt là các doanh nghiêp nhỏ
129
5.4. Tăng tính minh bạch, cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho thị trường chứng khoán nhằm
làm tăng tính thanh khoản
131
PHẦN KẾT LUẬN
135
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Từ viết tắt
Diễn giải
BCTC
Báo cáo tài chính
DN
Doanh nghiệp
DNNN
Doanh nghiệp Nhà nước
NHNN
Ngân hàng Nhà nước
NHTM
Ngân hàng thương mại
NN
Nhà nước
TSCĐ
Tài sản cố định
DANH MỤC BẢNG BIỂU
Tiêu đề
Trang
Bảng 3.1: Mô tả thống kê phân tích phần dư .............................................................. 75
Bảng 3.2: Trị số thống kê cho toàn mẫu nghiên cứu ................................................... 77
Bảng 3.3.: Giá trị trung bình các biến theo yếu tố hạn chế tài chính ........................... 80
Bảng 3.3.: Giá trị trung bình các biến theo yếu tố kiểm soát Nhà nước ...................... 81
Bảng 4.1: Ma trận tương quan các biến số cho toàn mẫu nghiên cứu ......................... 88
Bảng 4.2: Ma trận tương quan các biến số cho các nhóm doanh nghiệp trong hạn chế
tài chính .................................................................................................... 89
Bảng 4.3: Kết quả hồi quy ảnh hưởng của dòng tiền - rủi ro hệ thống – rủi ro phi hệ
thống – tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư .................................... 92
Bảng 4.4: Đầu tư tài chính ngắn hạn năm 2012 – 2013 của một số doanh nghiệp ....... 97
Bảng 4.5: Kết quả ước lượng ảnh hưởng của dòng tiền – rủi ro hệ thống – rủi ro phi hệ
thống – tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: doanh nghiệp nhiều hạn
chế tài chính so với doanh nghiệp ít hạn chế tài chính ............................. 100
Bảng 4.6: Thực tế tăng trưởng đầu tư, tăng trưởng dòng tiền và cổ tức chi trả một vài
doanh nghiệp ít hạn chế tài chính ............................................................ 103
Bảng 4.7: Tóm tắt kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro
phi hệ thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: doanh nghiệp nhiều hạn
chế tài chính so với doanh nghiệp ít hạn chế tài chính ............................. 108
Bảng 4.8: Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà (tương tác với biến giả
DumGov theo tỷ lệ 33,15%) ................................................................... 111
Bảng 4.9: Tỷ lệ cổ tức trên EPS một số cổ phiếu của một số doanh nghiệp .............. 112
Bảng 4.10: Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu trong
trường hợp doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà (tương tác với biến giả
DumGov) ................................................................................................ 117
Bảng 4.11: Tóm tắt kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi
ro phi hệ thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: nghiên cứu
trong trường hợp doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà Nước so với doanh
nghiệp không có sự kiểm soát Nhà nước (tương tác với biến DumGov) .. 118
Bảng 4.12: Kỳ vọng dấu của biến dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống, tính
thanh khoản chứng khoán và biến tương tác giữa các biến độc lập này với
biến tỷ lệ cổ phần Nhà nước. ................................................................... 121
Bảng 4.13: Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư: doanh nghiệp không có
sự kiểm soát Nhà Nước so với doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước
(trường hợp tương tác với tỷ lệ cổ phần NN-RateGov)............................ 123
DANH MỤC HÌNH
Tiêu đề
Trang
Hình 1.1: Giá trị quyền chọn đầu tư .......................................................................... 28
Hình 1.2: Tác động thay đổi nguồn vốn nội bộ ở những doanh nghiệp hạn chế tài chính
.................................................................................................................................. 30
Hình 3.1:Đầu tư quá mức và đầu tư dưới mưc theo từng năm của các doanh nghiệp
Việt Nam .................................................................................................... 76
Hình 3.2: ROE và EPS của các nhóm theo yếu tố hạn chế tài chính ........................... 80
Hình 3.3: ROE và EPS của các doanh nghiệp theo yếu tố kiểm soát NN .................... 82
Hình 3.4:Biến động đầu tư, dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản ........................ 84
Hình 3.5: Tỷ suất sinh lời của các doanh nghiệp Việt Nam 2008 – 2013 .................... 85
Hình 4.1: Tỷ suất sinh lời bình quân của chứng khoán và tỷ lệ tăng trưởng của khoản
mục đầu tư tài chính ngắn hạn ..................................................................... 95
Hình 4.2: Tỷ lệ đầu tư và dòng tiền .......................................................................... 101
Hình 4.3: Tỷ lệ đầu tư trên GDP và tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản (ROA) ............ 113
DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ
1. Một số khuyến nghị phát triển thị trường nợ Việt Nam, 2011. Tạp chí Tài chính
Doanh nghiệp, số 11, trang 23-25.
2. Để thị trường mua bán nợ phát triển, 2011. Tạp chí Tài chính – Tiền tệ, số 7, trang
34-37.
3. Quản trị tốt khoản phải thu – Giải pháp sử dụng vốn hiệu quả trong doanh nghiệp,
2012. Tạp chí Thuế Nhà nước, số 37, trang 7-9.
4. Thực trạng và giải pháp để phát triển bền vững thị trường bất động sản, 2013.Tạp
chí Tài chính – Tiền tệ, số 16, trang 26-28.
5. Vốn tín dụng ngân hàng và thị trường bất động sản Việt Nam, 2014. Tạp chí Thị
trường Tài chính, số 9, trang 14-17.
6. Đánh giá mức độ cạnh tranh của thị trường ngân hàng việt nam bằng mô hình
Panzar – Rosse, 2015. Tạp chí Công nghệ Ngân hang, số 112, trang 28-38.
7. Quan hệ giữa đầu tư với dòng tiền và yếu tố hạn chế tài chính - Nhìn từ các nghiên
cứu thực nghiệm, 2015. Tạp chí Phát triển và Hội nhập số 24, trang 31-39.
8. Ảnh hưởng dòng tiền đến đầu tư: Nghiên cứu trong trường hợp hạn chế tài chính,
2016. Tạp chí Công nghệ Ngân hàng số 118-119, trang 27-37.
9. Tổng quan nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư: nghiên
cứu trong trường hợp doanh nghiệp có sự kiểm soát nhà nước, 2016. Tạp chí
nghiên cứu Tài chính – Kế toán, số 8.
--1--
PHẦN MỞ ĐẦU
1. Đặt vấn đề nghiên cứu
Phân tích các quyết định đầu tư từ lâu đã là mối quan tâm của các nhà nghiên
cứu trong lĩnh vực tài chính doanh nghiệp (DN). Từ năm 1958, Modigliani và
Miller đã chứng minh rằng, trong một thị trường vốn hoàn hảo, quyết định đầu tư
không liên quan đến các nguồn tài chính của DN, nhưng trong một thị trường vốn
không hoàn hảo, nơi tồn tại bất cân xứng thông tin, đã làm cho chi phí nguồn vốn
bên ngoài cao hơn chi phí nguồn vốn bên trong, lúc đó DN ưu tiên sử dụng nguồn
vốn nội bộ để tài trợ đầu tư, nguồn vốn bên ngoài là lựa chọn sau đó, thì quyết định
đầu tư có liên quan khá mật thiết đến cấu trúc các nguồn vốn của DN (Greenwald,
Stiglitz và Weiss, 1984; Myers và Majluf, l984; Myers, 1984).
Các lý thuyết giữa quyết định đầu tư và các yếu tố tài chính mở ra một hướng
nghiên cứu thực nghiệm giữa thị trường vốn không hoàn hảo và các quyết định đầu
tư của DN. Nghiên cứu của Fazzari, Hubbard và Petersen (1988) được xem là một
trong những nghiên cứu đầu tiên, tập trung vào yếu tố hạn chế tài chính khi phân
tích quyết định đầu tư của DN trong thị trường vốn không hoàn hảo. Fazzari và
cộng sự (1988) xác định doanh nghiệp hạn chế tài chính dựa vào cổ tức chi trả, theo
đó, một DN chi trả cổ tức thấp, đồng nghĩa với việc các DN này có nguồn vốn nội
bộ không đáp ứng được nhu cầu đầu tư, vì thế họ giảm cổ tức chi trả, để tích lũy
nguồn vốn nội bộ. Vì thế, những DN chi trả cổ tức thấp trong một vài năm được
xem là những DN có hạn chế tài chính. Kết quả nghiên cứu của Fazzari và cộng sự
(1988) kết luận rằng những doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính có quyết định đầu
tư nhạy cảm với dòng tiền nội bộ hơn những DN ít/không hạn chế tài chính. Mối
quan hệ giữa đầu tư và các yếu tố tài chính được hỗ trợ mạnh mẽ từ kết quả nghiên
cứu thực nghiệm của Kaplan và Zingales (1997). Kaplan và Zingales (1997) xác
định hạn chế tài chính của DN theo chỉ số KZ, kết quả nghiên cứu trái ngược với
kết luận của Fazzari và cộng sự (1988) là DN ít/không hạn chế tài chính đầu tư nhạy
cảm với dòng tiền hơn. Tuy rằng nghiên cứu của Fazzari và cộng sự (1988) và
Kaplan và Zingales (1997), đã đưa ra kết luận độ nhạy cảm của đầu tư với nguồn
--2--
vốn nội bộ theo mức độ hạn chế tài chính là trái ngược nhau, nhưng cả hai nghiên
cứu đều cho thấy có một mối quan hệ giữa quyết định đầu tư và nguồn vốn DN
trong thị trường vốn không hoàn hảo, cụ thể là đầu tư khá nhạy cảm với dòng tiền
nội bộ.
Từ rất lâu trong lịch sử trên khắp thế giới đã cho thấy có sự tham gia của
Chính phủ vào sản xuất và thương mại. Theo thời gian, sự tham gia của chính phủ
vào sản xuất và các hoạt động thương mại giảm dần và hoạt động tư đầu tư của tư
nhân được đẩy mạnh. Ở Trung Quốc, kinh tế thị trường đã phát triển sau khi thúc
đẩy các chính sách mở cửa và cổ phần các DN Nhà nước từ năm 1978. Tuy nhiên,
khu vực quốc doanh vẫn là trụ cột chính và phổ biến trong nền kinh tế của Trung
Quốc hiện nay. Đặc điểm này đã dẫn đến nhiều tranh luận về hoạt động và sự hiệu
quả của sở hữu Nhà nước và sở hữu tư nhân ở thị trường này.
Các tranh luận này tập trung vào điều kiện thuận lợi khi huy động vốn ngân
hàng của các DN sở hữu Nhà nước Cull và Xu (2003), hoặc những thành quả đạt
được từ các DN Nhà nước là không thể chối cãi (Chen và cộng sự, 2009).
Tuy nhiên, cũng có những nghiên cứu cho thấy yếu tố sở hữu Nhà nước trong
DN cổ phần là yếu tố bất lợi, bởi vì chi phí liên quan đến những người đại diện
phần vốn Nhà nước lớn hơn phần lợi ích nhận được từ họ (Calomiris và cộng sự,
2010). Cho dù kết quả yếu tố Nhà nước trong DN cổ phần là thuận lợi hay bất lợi,
vấn đề là các nghiên cứu đã cho thấy: có sự ảnh hưởng của yếu tố sở hữu NN đến
hoạt động DN. Mà hiệu quả hoạt động của DN là yếu tố quan trọng tạo nên độ lớn
của dòng tiền nội bộ.
Các tranh luận cũng làm rõ tác động của dòng tiền đến đầu tư ở các DN được
kiểm soát bởi NN và DN tư nhân khá khác biệt. cụ thể là ở các DN có sự kiểm soát
của Nhà nước, đầu tư nhạy cảm với dòng tiền hơn các DN được kiểm soát bởi tư
nhân (Firth và cộng sự, 2012)
Đối với các nguồn vốn từ bên ngoài, như vốn cổ phần mới và vốn vay, nghiên
cứu Butler và cộng sự (2005) và Lipson và Mortal (2009) cho thấy, những DN với
tính thanh khoản chứng khoán càng lớn, chi phí phát hành chứng khoán thấp, vì thế
--3--
sử dụng nhiều nguồn tài trợ cho đầu tư từ việc phát hành vốn cổ phần và quyết định
sử dụng ít nợ vay hơn. Mặt khác, khi DN sử dụng nhiều nợ vay, sẽ tăng chênh lệch
giữa giá chào mua và giá chào bán (bid-ask spread), nghĩa là làm giảm đi tính thanh
khoản của chứng khoán (Lesmond và cộng sự, 2008). Tương tự kết luận của
Lesmond và cộng sự (2008), Bharath và cộng sự (2008) chỉ ra rằng khi DN sử dụng
một tỷ lệ nợ cao sẽ khiến tính thanh khoản của chứng khoán giảm thấp.
Như vậy, các nghiên cứu trên cho thấy việc phát hành cổ phần mới để tài trợ
đầu tư phụ thuộc nhiều vào tính thanh khoản của chứng khoán. Cụ thể, tính thanh
khoản gia tăng có ảnh hưởng khuyến khích hay hạn chế đầu tư và mức độ ảnh
hưởng như thế nào được nêu ra trong nghiên cứu của Becker-Blease và Paul (2006),
Munoz (2013). Những tác giả này đã tìm thấy mối quan hệ thuận chiều giữa tính
thanh khoản và đầu tư. Kết quả này được giải thích phù hợp với nghiên cứu của
Amihud và Mendelson (1986) rằng, tính thanh khoản gia tăng làm giảm chi phí vốn
của DN, khiến cho nhiều dự án có NPV dương hơn và gia tăng cơ hội đầu tư.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa tính thanh khoản chứng khoán với đầu tư hiện
tại vẫn chưa phong phú, và do đó mối quan hệ giữa tính thanh khoản của chứng
khoán với đầu tư ở những DN hạn chế tài chính có rất ít nghiên cứu tìm hiểu.
Nghiên cứu của Munoz (2013) là một trong số ít nghiên cứu trực tiếp ảnh hưởng
tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư ở những DN hạn chế tài chính. Kết quả
nghiên cứu của Munoz (2013) cho thấy, những DN càng có nhiều hạn chế tài chính,
đầu tư càng nhạy cảm với tính thanh khoản. Bởi vì những DN nhiều hạn chế tài
chính, là những DN có dòng tiền nội bộ kém và khó tiếp cận vốn bên ngoài. Cải
thiện tính thanh khoản của chứng khoán có thể là giải pháp vốn bên ngoài cho các
DN hạn chế tài chính. Vì thế, những DN hạn chế tài chính khá nhạy cảm với tính
thanh khoản.
Nghiên cứu trực tiếp mối quan hệ giữa tính thanh khoản chứng khoán và đầu
tư ở những DN kiểm soát NN và DN không kiểm soát NN dường như chưa được
các nghiên cứu đề cập đến. Chỉ có những nghiên cứu cho thấy sự liên kết giữa tính
thanh khoản, đầu tư và yếu tố kiểm soát NN trong DN cổ phần. Cụ thể, nghiên cứu
--4--
của Lipson và Mortal (2009) cho thấy, những DN có tính thanh khoản chứng khoán
cao, thường sử dụng vốn cổ phần mới để đáp ứng nhu cầu đầu tư và do đó, có một
tỷ lệ nợ thấp. Và ngược lại, như Lesmond và cộng sự (2008) kết luận, các DN càng
gia tăng mức độ đòn bẩy tài chính, càng làm gia tăng độ rộng giữa giá chào mua và
giá chào bán, đồng nghĩa với việc giảm tính thanh khoản của chứng khoán. Nghiên
cứu của Muñoz (2013), thì lại cho thấy tính thanh khoản có ảnh hưởng thuận chiều
đến đầu tư. Firth, Lin và Wong (2008), tìm thấy rằng, khi gia tăng đòn bẩy tài
chính, đầu tư càng giảm và mức độ ảnh hưởng ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính
với đầu tư giảm đi, theo sự gia tăng tỷ lệ sở hữu NN trong DN cổ phần.
Ngoài ra, trong một thị trường không hoàn hảo, DN còn phải đối mặt với
những biến động không chắc chắn trong tương lai, vậy độ bất ổn hay rủi ro, có ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư của DN?. Từ rất sớm câu hỏi này đã được trả lời trong
nghiên cứu của Hartman Richard (1972) và Abel Andrew B. (1983) rằng, độ bất ổn
gia tăng có thể làm tăng đầu tư trong điều kiện chi phí vốn sản xuất là một hàm lồi
theo giá. Nghiên cứu của McDonald và Siegel (1986), Dixit (1989), Pindyck
(1988), Dixit và Pindyck (1994), mở ra một hướng nghiên cứu mối quan hệ giữa bất
ổn với đầu tư trong mô hình quyền chọn. Theo hướng tiếp cận của lý thuyết quyền
chọn đã làm suy yếu quyết định đầu tư chỉ dựa trên NPV lớn hơn hoặc bằng không
truyền thống. Bởi vì quyết định đầu tư truyền thống dựa trên NPV hàm ý rằng đầu
tư hôm nay, hay sẽ không có cơ hội đầu tư khác trong ngày mai. Trong khi đó, đa số
chi phí đầu tư là không thể đảo ngược và quyết định đầu tư có thể trì hoãn. Vì thế,
quyết định đầu tư bỏ qua hai tính chất này xem như đã “giết chết” đi quyền lựa chọn
của mình (Dixit và Pindyck, 1994). Các nghiên cứu thực nghiệm độ bất ổn đến đầu
tư theo lý thuyết quyền chọn cho rằng, độ bất ổn càng gia tăng, giá trị quyền chờ
đợi gia tăng theo và đầu tư sẽ giảm. Kết quả ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư,
theo mô hình quyền chọn, có ảnh hưởng ngược chiều được nhiều nghiên cứu ủng hộ
hơn ảnh hưởng thuận chiều của nó đến đầu tư.
Nghiên cứu độ bất ổn đến đầu tư với yếu tố hạn chế tài chính cũng đã được
đề cập khá sớm trong các nghiên cứu. Chẳng hạn nghiên cứu của Stulz (1999) cho
--5--
thấy rằng, DN đối mặt với độ bất ổn càng lớn, càng gia tăng khả năng hạn chế tài
chính của DN, từ đó càng khiến chi phí huy động vốn bên ngoài của DN cao hơn,
kết quả giảm đầu tư là tất yếu. Ngoài ra, nghiên cứu của Koetse, Vlist và Groot
(2006) cũng có kết luận về mức độ ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư khác nhau
theo quy mô DN. Các tác giả này đã sử dụng 3 thước đo để đo lường độ bất ổn và
nhận được kết quả nghiên cứu về dấu hiệu cũng như mức độ ảnh hưởng của độ bất
ổn đến đầu tư ở những DN quy mô nhỏ và DN có quy mô lớn, hoàn toàn khác nhau.
Như các nghiên cứu về hạn chế tài chính đã xác định, những DN có quy mô nhỏ, là
những DN được biết là nhiều hạn chế tài chính hơn những DN có quy mô lớn. Liên
kết những nghiên cứu này, cho thấy rằng yếu tố hạn chế tài chính có tác động đến
mối quan hệ giữa bất ổn và đầu tư.
Độ bất ổn ảnh hưởng đến đầu tư cũng khác nhau ở những DN kiểm soát bởi
Nhà nước so với kiểm soát tư nhân. Độ bất ổn được đo lường bởi rủi ro phi hệ thống
ảnh hưởng ngược chiều đến đầu tư khá mạnh ở những DN kiểm soát bởi tư nhân, và
yếu hơn ở những DN kiểm soát bởi Nhà nước do các DN kiểm soát bởi Nhà nước
không e ngại rủi ro phi hệ thống bằng các DN kiểm soát bởi tư nhân. Ngoài ra, rủi
ro hệ thống có ảnh hưởng dương đến đầu tư ở DN kiểm soát bởi Nhà nước, thể hiện
cho việc Chính phủ để cho các DN kiểm soát bởi Nhà nước gia tăng đầu tư, nhằm
kích thích sự phát triển của nền kinh tế, khi rủi ro về các yếu tố vĩ mô gia tăng Xu
và cộng sự (2010). Như vậy, có một sự khác nhau về dấu hiệu và mức độ ảnh hưởng
của độ bất ổn đến đầu tư ở những DN kiểm soát bởi NN và kiểm soát bởi tư nhân.
Sự khác biệt này liên quan đến thước đo độ bất ổn sử dụng và mục tiêu hoạt động
của DN.
Tóm lại, từ lý thuyết cho đến nghiên cứu thực nghiệm ở thị trường các nước
đã tìm thấy bằng chứng rằng, trong một thị trường vốn không hoàn hảo, quyết định
đầu tư có mối quan hệ với các nguồn tài trợ (nguồn vốn nội bộ, nguồn vốn bên
ngoài), tính thanh khoản của chứng khoán và tính không chắc chắn trong tương lai.
Theo hướng nghiên cứu này, tác giả muốn tìm hiểu ở thị trường Việt Nam, dòng
tiền nội bộ, độ bất ổn (đại diện là rủi ro ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống) và tính
--6--
thanh khoản của chứng khoán, ảnh hưởng như thế nào đến quyết định đầu tư của
DN. Với đặc điểm Nhà nước còn nắm giữ cổ phần khá lớn trong các DN niêm yết
trên thị trường chứng khoán Việt Nam, và các DN đa phần là bị hạn chế tài chính
nên luận án sẽ phân tích ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư ở các DN có kiểm soát NN
có khác biệt so với các DN không có sự kiểm soát NN hay không? Cũng như trường
hợp DN hạn chế tài chính có khác biệt như thế nào với DN ít/không hạn chế tài
chính trong mối quan hệ giữa dòng tiền, rủi ro ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và
tính thanh khoản của chứng khoán với đầu tư?. Các câu hỏi trên chính là lý do tác
giả đã lựa chọn thực hiện đề tài luận án tiến sĩ của mình là “Ảnh hưởng của dòng
tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán
đến đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam” và tác giả sẽ nghiên cứu sâu hơn mối
quan hệ này trong trường hợp DN hạn chế tài chính và DN có sự kiểm soát Nhà
nước.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến nội dung luận án
Các nghiên cứu liên quan đến dòng tiền và đầu tư:
- Khi xem xét chung cho toàn thể, dòng tiền có ảnh hưởng dương đến đầu tư
tư (Fazzari và cộng sự, 1988; Kaplan và Zingales, 1997; Bhagat và cộng sự,
2005; Bloom và cộng sự, 2007; Firth và cộng sự, 2012…). Tuy nhiên, đối
với các DN hạn chế tài chính, dòng tiền ảnh hưởng đến đầu tư chưa có kết
quả thống nhất: có nghiên cứu cho thấy dòng tiền ảnh hưởng dương đến đầu
tư, nhưng cũng có nghiên cứu cho kết quả ngược lại (Bhagat và cộng sự,
2005; Almeida và Campello, 2007; Cleary và cộng sự, 2007).
- Về mức độ ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư theo yếu tố hạn chế tài chính,
hiện cũng có hai trường phái có kết luận trái ngược nhau: Một trường phái
cho rằng, đầu tư những DN nhiều hạn chế tài chính nhạy cảm với dòng tiền
hơn những DN ít hạn chế tài chính (Fazzari và cộng sự 1988; Hoshi và cộng
sự, 1991; Alti, 2003; Bhagat và cộng sự, 2005…). Trường phái còn lại cho
kết luận ngược lại là, đầu tư những DN ít hạn chế tài chính nhạy cảm với
--7--
dòng tiền hơn những DN nhiều hạn chế tài chính (Kaplan và Zingales, 1997;
Cleary, 1999; Moyen, 2004; Hovakimian và Titman, 2006; Cleary và cộng
sự, 2007… ). Kết luận khác nhau về độ nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền
theo yếu tố hạn chế tài chính, theo nhận xét của nhiều nghiên cứu, đó là do
việc sử dụng các đại lượng đại diện cho hạn chế tài chính khác nhau.
- Kết quả sự ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư ở những DN có kiểm soát
NN so với những DN được kiểm soát bởi tư nhân, đã tìm thấy nhiều trong
các nghiên cứu ở thị trường Trung Quốc. Theo kết quả nghiên cứu cho thấy,
DN niêm yết có sự kiểm soát của Nhà nước, đầu tư nhạy cảm với dòng tiền
hơn các DN được kiểm soát bởi tư nhân (Firth và cộng sự, 2012). Bởi vì, các
DN kiểm soát bởi NN ngoài mục tiêu lợi nhuận, họ còn phải thực hiện mục
tiêu điều hành kinh tế xã hội của Chính phủ. Và với chi phí đại diện ở những
DN kiểm soát bởi NN cao hơn những DN kiểm soát bởi tư nhân, các DN
kiểm soát bởi NN không ngần ngại trong việc thực hiện mục tiêu của Chính
Các nghiên cứu liên quan đến độ bất ổn và đầu tư:
phủ (Wang và cộng sự, 2014)
- Độ bất ổn ảnh hưởng đến đầu tư là thuận chiều hay ngược chiều tùy thuộc
vào đại lượng đại diện cho độ bất ổn. Tuy nhiên ảnh hưởng ngược chiều của
độ bất ổn đến đầu tư được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu hơn, nhất là khi
xem xét trong lý thuyết quyền chọn (Leahy và Whited, 1996; Catherine
Pattillo, 1998; Guiso và Parigi, 1999; Bond và Cummins, 2004; Bulan, 2005;
Bloom và cộng sự, 2007; Panousi và Papanikolaou, 2012…).
- Các nghiên cứu Stulz (1999), Ghosal và Loungani (2000), Panousi và
Papanikolaou (2012), Koetse và cộng sự (2006) cho thấy, có một sự khác
nhau về dấu hiệu và mức độ ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư theo yếu tố
hạn chế tài chính. Sự khác biệt này có thể xuất phát từ việc lựa chọn đại
lượng đại diện cho hạn chế tài chính, hoặc từ việc lựa chọn đại lượng đại
diện độ bất ổn, hay bởi cả hai yếu tố này và đặc điểm tài chính của DN.
--8--
- Kết quả này thể hiện trong nghiên cứu của Xu và cộng sự (2010), Wang và
cộng sự (2014), cho thấy độ bất ổn ảnh hưởng đến đầu tư ở các DN kiểm
soát bởi NN và ở các DN kiểm soát bởi tư nhân cũng khác nhau về dấu hiệu
Các nghiên cứu liên quan đến tính thanh khoản chứng khoán và đầu tư:
và mức độ ảnh hưởng.
- Nghiên cứu của Becker-Blease và Paul (2006), Muñoz (2013) cho kết luận,
tính thanh khoản có ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư, vì rằng tính thanh
khoản cao như là một chất xúc tác khiến DN huy động vốn cổ phần mới
thuận lợi hơn. Khi nguồn vốn đầu tư có điều kiện gia tăng, đầu tư theo đó sẽ
gia tăng.
- Muñoz (2013) tìm ra kết quả các DN nhiều hạn chế tài chính, đầu tư nhạy
cảm với tính thanh khoản của chứng khoán hơn các DN ít hạn chế tài chính.
Bởi vì, tính thanh khoản của chứng khoán được cải thiện, các ràng buộc về
việc huy động vốn bên ngoài giảm đi, nghĩa là giảm đi hạn chế tài chính của
DN. Vì thế, đầu tư của các DN hạn chế tài chính khá nhạy cảm với tính thanh
khoản.
- Ảnh hưởng của tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư ở những DN
kiểm soát bởi NN, hay theo hình thức sở hữu, nghiên cứu của luận án chưa
tìm thấy được bằng chứng thực nghiệm. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên quan
như Firth, Lin và Wong (2008), Lesmond và cộng sự (2008), Lipson và
Mortal (2009), Muñoz (2013) cho tác giả một kỳ vọng rằng mức độ ảnh
hưởng của tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư ở các DN kiểm soát
Nhận xét chung về tình hình nghiên cứu liên quan đến luận án:
NN yếu hơn mức độ ảnh hưởng ở những DN kiểm soát bởi tư nhân.
Các nghiên cứu thực nghiệm đã cho thấy có sự ảnh hưởng của dòng tiền, độ
bất ổn và tính thanh khoản đến đầu tư. Tuy nhiên, chưa có nghiên cứu chính thức
nào sử dụng sự kiểm soát giữa các biến dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản với
nhau trong mô hình nghiên cứu. Hơn nữa, nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền,
độ bất ổn và tính thanh khoản đến đầu tư, có sự kiểm soát giữa các biến này với
--9--
nhau, ở những doanh nghiệp hạn chế tài chính và ở những doanh nghiệp có sự kiểm
soát của Nhà nước, hiện nay vẫn là một khoảng trống, nhất là ở thị trường Việt
Nam.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu của luận án là xác định ảnh hưởng của dòng tiền, độ bất ổn (với đại
diện là rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống) và tính thanh khoản của chứng khoán
đến đầu tư của doanh nghiệp Việt Nam. Và mục tiêu kế tiếp là xem xét ảnh hưởng
của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng
khoán đến đầu tư của doanh nghiệp hạn chế tài chính, cũng như đến đầu tư của các
doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước. Cụ thể, nghiên cứu của luận án sẽ tập
trung trả lời ba câu hỏi chính sau:
(1) Câu hỏi thứ nhất, ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp
Việt Nam như thế nào?.
(2) Câu hỏi thứ hai, ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của doanh nghiệp ít
hạn chế tài chính có khác với doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính hay
không?.
(3) Câu hỏi thứ ba, ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống
và tính thanh khoản đến đầu tư của doanh nghiệp không có kiểm soát Nhà
nước có khác với những doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước hay không?.
4. Phạm vi nghiên cứu
Tác giả sử dụng số liệu nghiên cứu thu thập từ các báo cáo tài chính đã được
kiểm toán, tỷ lệ chi trả cổ tức, giá trị thị trường vốn cổ phần, của các doanh nghiệp
niêm yết trên sàn chứng khoán Việt Nam từ năm 2007 đến năm 2013, với tiêu chí
tối đa số quan sát. Tác giả đã thu thập được báo cáo tài chính của 211 doanh nghiệp
và đã tính toán các chỉ số sau từ báo cáo tài chính thu thập từ năm 2007 - 2013:
(1) Các chỉ tiêu để tính chỉ số KZ (1997) nhằm xác định doanh nghiệp hạn chế
tài chính: Tài sản cố định thuần (TSCĐ thuần); tỷ lệ dòng tiền nội bộ trên
--10--
TSCĐ thuần; Tobin’ Q, tỷ lệ nợ; tỷ lệ cổ tức chi trả trên TSCĐ thuần; tiền
mặt; tỷ lệ tiền mặt trên TSCĐ thuần.
(2) Các chỉ tiêu dùng trong mô hình hồi quy để tính rủi ro hệ thống và rủi ro
phi hệ thống: giá chứng khoán đóng cửa, mở cửa theo từng ngày từ năm
2008 đến 2013 của 211 doanh nghiệp; chỉ số VN-index từng ngày của thị
trường từ năm 2008 – 2013; lãi suất kỳ hạn 90 ngày của tín phiếu kho bạc
từ năm 2008 – 2013.
(3) Các chỉ tiêu dùng trong mô hình nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, độ
bất ổn và tính thanh khoản đến đầu tư: Tỷ lệ đầu tư trên TSCĐ thuần; dòng
tiền nội bộ trên TSCĐ thuần, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống, tỷ lệ cổ
phiếu giao dịch trên số lượng cổ phiếu đang lưu hành, Q, tỷ lệ nợ, tốc độ
tăng trưởng doanh thu; quy mô tổng tài sản; tỷ suất sinh lời của chứng
khoán; số năm thành lập doanh nghiệp cổ phần. Các chỉ tiêu này được lấy
số liệu từ năm 2008 đến 2013, ngoại trừ chỉ tiêu đầu tư phải sử dụng thêm
số liệu TSCĐ thuần năm 2007, để tính giá trị đầu tư năm 2008, tương tự
chỉ tiêu tốc độ tăng trưởng doanh cũng sử dụng doanh thu năm 2007 để
tính tốc độ tăng trưởng doanh thu năm 2008. Số năm thành lập doanh
nghiệp cổ phần có thời gian xa nhất là năm 1993, tương ứng với số tuổi
doanh nghiệp tính đến năm 2013 là 19 năm.
5. Phương pháp nghiên cứu
Do dữ liệu nghiên cứu của luận án là dữ liệu bảng động, các biến độc lập có
quan hệ nhân quả với biến phụ thuộc kỳ này và các kỳ sau đó, điều này cho thấy mô
hình tồn tại hiện tượng nội sinh. Ngoài ra, kiểm định Breusch-pagan cho thấy mô
hình tồn tại vi phạm phương sai thay đổi, không có tự tương quan bậc 1. Vì thế, với
các vi phạm này, phương pháp hồi quy phù hợp được lựa chọn là phương pháp
moment tổng quát (Generalized method of moments – GMM). Phương pháp GMM
có 2 dạng ước lượng thay thế lẫn nhau là ước lượng Dif-GMM và Sys-GMM. Ước
lượng GMM xử mô hình gốc thành 2 mô hình: Mô hình First differences và mô
hình Level. Ước lượng Dif-GMM chỉ sử dụng moment điều kiện cho mô hình First
--11--
differences. Còn ước lượng Sys-GMM kết hợp moment điều kiện trong mô hình
First differences với moment điều kiện trong mô hình Level. Nhiều nghiên cứu chỉ
ra rằng ước lượng Sys-GMM cho kết quả tốt hơn ước lượng Dif-GMM, bởi vì công
cụ trong mô hình Level có dự đoán tốt hơn biến cho biến nội sinh trong mô hình,
thậm chí khi chuỗi dữ liệu có tác động dai dẳng. Vì thế, ước lượng Sys-GMM được
lựa chọn trong nhiều nghiên cứu sử dụng dữ liệu bảng như nghiên cứu của
Levinsohn và Petrin(2003), Griffith và cộng sự (2006), Picone và cộng sự (2004),
Levine và cộng sự (2000), Bond và cộng sự (2001). Với sự chỉ ra của các nghiên
cứu trước, tác giả đã lựa chọn phương pháp Sys-GMM cho ước lượng mô hình. Để
kiểm định tính phù hợp kết quả ước lượng theo phương pháp GMM, có các kiểm
định Sargan (hay còn được biết đến là kiểm định Hansen hoặc kiểm định J) dùng để
kiểm định tính phù hợp của các biến công cụ và kiểm định Arellano - Bond (AR2)
để kiểm định tự tương quan bậc 2 của phương sai sai số. Giá trị P-value của các
kiểm định này càng lớn càng tốt.
6. Tính mới và đóng góp của luận án
Luận án có những tính mới sau:
- Luận án xem xét ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của các doanh nghiệp Việt Nam giai đoạn 2008-20131 và đã tìm thấy kết quả rằng, dòng
tiền, tính thanh khoản và rủi ro phi hệ thống có ảnh hưởng thuận chiều đến
đầu tư, riêng rủi ro hệ thống có ảnh hưởng ngược chiều đến đầu tư.
- Về mức độ ảnh hưởng, dòng tiền có ảnh hưởng mạnh nhất đến đầu tư, kế
đến là tính thanh khoản, thứ ba là ảnh hưởng của rủi ro phi hệ thống và
cuối cùng là sự ảnh hưởng của rủi ro hệ thống. Như vậy, nhìn chung các
nguồn tài trợ đầu tư gia tăng, có tác động khuyến khích gia tăng đầu tư
mạnh nhất. Ảnh hưởng của rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống đến đầu
tư trái chiều nhau và mức độ ảnh hưởng của rủi ro hệ thống đến đầu tư yếu
1 Do phương pháp Sys-GMM có sử dụng biến trễ của biến phụ thuộc nên dữ liệu thu thập là từ năm 2007 đến 2013, nhưng kết quả ước lượng từ năm 2008-2013.
hơn mức độ ảnh hưởng của rủi ro phi hệ thống đến đầu tư. Kết quả này cho
--12--
thấy, các doanh nghiệp Việt Nam quyết định gia tăng đầu tư nắm bắt cơ
hội tăng trưởng, mạnh hơn sự e ngại rủi ro.
- Kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh
khoản đến đầu tư của những doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính, có
khác biệt so với những doanh nghiệp ít hạn chế tài chính:
Ảnh hưởng của dòng tiền, tính thanh khoản đến đầu tư ở những doanh
nghiệp nhiều hạn chế tài chính, mạnh hơn so với những doanh nghiệp ít
hạn chế tài chính. Điều này chứng tỏ rằng, các doanh nghiệp nhiều hạn
chế tài chính, đầu tư nhạy cảm với các nguồn tài trợ hơn các doanh
nghiệp ít hạn chế tài chính.
Các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính, rủi ro hệ thống có ảnh
hưởng ngược chiều đến đầu tư, trong khi đó, rủi ro phi hệ thống có ảnh
hưởng thuận chiều đến đầu tư và mức độ ảnh hưởng của hai loại rủi ro
này đến đầu tư là tương đương nhau. Các doanh nghiệp nhiều hạn chế
tài chính gia tăng đầu tư khi rủi ro phi hệ thống tăng, bởi vì các doanh
nghiệp này có hiệu quả hoạt động thấp, nợ được sử dụng để tài trợ đầu
tư và đặc biệt các doanh nghiệp nhiều hạn chế đang đầu tư quá mức,
chính vì thế, họ sẵn sàng chấp nhận đánh đổi giữa đầu tư tăng trưởng và
rủi ro cao. Ngược lại, các doanh nghiệp ít hạn chế tài chính, rủi ro hệ
thống và rủi ro phi hệ thống gia tăng đều khiến doanh nghiệp giảm đầu
tư.
Nếu xem xét độ nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền, độ bất ổn, tính
thanh khoản, thì các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính, đầu tư có độ
nhạy cảm cao hơn với dòng tiền và tính thanh khoản chứng khoán nhưng
với độ bất ổn thì có độ nhạy cảm thấp hơn. Ngược lại, đối với các doanh
nghiệp ít hạn chế tài chính, đầu tư nhạy cảm hơn với độ bất ổn so với
dòng tiền và tính thanh khoản của chứng khoán.
- Kết quả nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi
hệ thống và tính thanh khoản đến đầu tư của những doanh nghiệp có kiểm
--13--
soát Nhà nước, có khác biệt so với các doanh nghiệp không có kiểm soát
Nhà nước:
Dòng tiền ảnh hưởng đến đầu tư của những doanh nghiệp có kiểm soát
Nhà nước, mạnh hơn nhiều so với những doanh nghiệp không có kiểm
soát Nhà nước. Ngược lại, tính thanh khoản lại ảnh hưởng mạnh đến đầu
tư của những doanh nghiệp không có sự kiểm soát Nhà nước hơn. Sự
khác biệt này xuất phát từ dòng tiền sẵn có và khả năng tiếp cận vốn bên
ngoài của các doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước, thuận lợi hơn so với
các doanh nghiệp không có kiểm soát Nhà nước.
Phản ứng đầu tư trước độ bất ổn có sự khác nhau giữa hai loại hình
doanh nghiệp này. Các doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước, gia tăng
đầu tư trước sự gia tăng của rủi ro hệ thống và mức độ gia tăng này, lớn
hơn cả mức độ giảm đầu tư khi rủi ro phi hệ thống gia tăng. Điều này
cho thấy, các doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước không e ngại rủi ro,
sẵn sàng gia tăng đầu tư khi độ bất ổn gia tăng. Bởi vì, yếu tố sở hữu
Nhà nước trong các doanh nghiệp này dẫn đến các quyết định đầu tư của
nó vì mục tiêu điều hành kinh tế - xã hội hơn mục tiêu lợi nhuận.
Với những điểm mới như trên, luận án đóng góp một số hiểu biết các yếu tố
ảnh hưởng đến đầu tư của doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp có các chiến lược
tài trợ vốn cho đầu tư tốt hơn.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, luận án có kết cấu 5 chương, cụ thể nội dung chính của
từng chương như sau:
Chương 1: Tổng quan các nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ
thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến
đầu tư doanh nghiệp.
Trong chương 1, luận án sẽ giới thiệu các lý thuyết nền tảng có liên quan đến
các quyết định đầu tư như lý thuyết quyền chọn thực, lý thuyết thông tin bất cân
xứng, lý thuyết đại diện. Sau khi giới thiệu lý thuyết nền, luận án tóm tắt kết quả
--14--
nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền, tính thanh khoản chứng khoán
và độ bất ổn đến đầu tư, có xem xét đến trường hợp doanh nghiệp có hạn chế tài
chính và có liên quan đến yếu tố cổ phần Nhà nước trong doanh nghiệp cổ phần.
Chương 2: Phương pháp nghiên cứu.
Từ các nghiên cứu thực nghiệm, tác giả lựa chọn đại lượng để xác định doanh
nghiệp hạn chế tài chính và đại lượng đại diện cho tính thanh khoản chứng khoán,
sẽ sử dụng trong mô hình hồi quy. Sau đó, tác giả tiếp tục lựa chọn các biến kiểm
soát dựa trên các nghiên cứu thực nghiệm. Từ đó, tác giả xây dựng mô hình nghiên
cứu với các biến độc lập chính gồm dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản; các
biến tương tác để phân biệt sự ảnh hưởng của dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh
khoản đến đầu tư ở những doanh nghiệp theo yếu tố hạn chế tài chính và theo yếu tố
kiểm soát của Nhà nước; các biến kiểm soát quyết định đầu tư như: cơ hội tăng
trưởng (Q); tỷ lệ nợ; quy mô tổng tài sản; tốc độ tăng trưởng doanh thu; tỷ suất sinh
lời chứng khoán; số năm thành lập doanh nghiệp cổ phần.
Với đối tượng nghiên cứu các yếu tố trong mô hình được xây dựng như trên
của 211 doanh nghiệp, thời gian nghiên cứu từ năm 2007 đến 2013, dữ liệu của luận
án sẽ là dữ liệu bảng. Do đó, phương pháp nghiên cứu tác giả lựa chọn là những
phương pháp hồi quy sử dụng trên dữ liệu bảng. Ngoài ra, vì mô hình nghiên cứu
của luận án có hiện tượng nội sinh xảy ra, nên tác giả sử dụng phương pháp GMM
và lựa chọn phương pháp Sys-GMM.
Ngoài ra, để nhận được biến rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống, đại diện cho
độ bất ổn, tác giả đã sử dụng phương pháp GARCH (p,q) để hồi quy mô hình
CAPM, trên dữ liệu 1.266 chuỗi thời gian về tỷ suất sinh lời hàng ngày của chứng
khoán. Từ đó tính toán ra biến rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống.
Chương 3: Tổng quan về đầu tư, dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống
và tính thanh khoản của chứng khoản của các doanh nghiệp Việt
Nam giai đoạn 2008 -2013
Chương này luận án giới thiệu tổng quan về đầu tư của các doanh nghiệp Việt
Nam hiện nay là đầu tư dưới mức hay đầu tư quá mức. Kết quả tính toán cho thấy
--15--
các doanh nghiệp Việt Nam đã có tỷ lệ đầu tư quá mức nhiều hơn tỷ lệ đầu tư dưới
mức trong giai đoạn 2008-2013. Các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính và các
doanh nghiệp có sự kiểm soát của Nhà nước, cũng có hiện tượng đầu tư quá mức
Kết quả này là cơ sở để tác giả giải thích kết quả nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng
tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống đến đầu tư ở các doanh nghiệp hạn chế tài
chính, cũng như ở các doanh nghiệp có kiểm soát NN. Ngoài đặc điểm đầu tư quá
mức, các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính còn có những đặc điểm khác đáng
lưu ý như: hiệu quả hoạt động thấp, dòng tiền thấp, tính thanh khoản thấp, nợ nhiều,
khả năng tăng trưởng kém…. Các doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước tại thị
trường Việt Nam có hiệu quả hoạt động tốt hơn các doanh nghiệp không có kiểm
soát Nhà nước, dòng tiền lớn, tính thanh khoản cao, cơ hội tăng trưởng lớn, …
Chính các đặc điểm tài chính nêu trên đã dẫn đến phản ứng đầu tư trước sự biến
động của dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản, khác nhau giữa doanh nghiệp
nhiều hạn chế tài chính và doanh nghiệp ít hạn chế tài chính, cũng như sự khác nhau
giữa doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước và doanh nghiệp không có sự kiểm soát
Nhà nước.
Chương 4: Kết quả nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro
phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư doanh nghiệp.
Kết quả nghiên cứu của luận án đã trả lời được 3 câu hỏi như mục tiêu nghiên
cứu đã đưa ra.
Đối với câu hỏi thứ nhất, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, dòng tiền
ảnh hưởng dương đến đầu tư, nghĩa là khi dòng tiền nội bộ càng lớn có tác dụng
khuyến khích đầu tư gia tăng; Rủi ro hệ thống gia tăng, các doanh nghiệp hạn chế
đầu tư nhưng rủi ro phi hệ thống gia tăng, đầu tư gia tăng theo bởi vì các DN lúc
này lựa chọn cơ hội đầu tư tăng trưởng tốt và chấp nhận rủi ro cao; Tính thanh
khoản chứng khoán cao, là yếu tố thuận lợi để doanh nghiệp huy động vốn vì thế có
tác dụng gia tăng đầu tư. Khi xét mức độ ảnh hưởng, thì dòng tiền nội bộ luôn có
ảnh hưởng dương mạnh nhất đến đầu tư, kế đến là tính thanh khoản. Như vậy, các
yếu tố làm tăng nguồn tài trợ cho đầu tư đều có ảnh hưởng mạnh đến đầu tư hơn là
--16--
tác động của rủi ro. Kết quả kiểm định phù hợp với thực tế đầu tư doanh nghiệp
giảm từ năm 2008 đến năm 2013, tương ứng với sự giảm sút của dòng tiền và tính
thanh khoản của chứng khoán.
Đối với câu hỏi thứ hai, kết quả nghiên cứu của luận án cho thấy, ảnh hưởng
của dòng tiền đến đầu tư ở doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính mạnh hơn ở nhóm
doanh nghiệp ít hạn chế tài chính, hay nói cách khác là đầu tư ở nhóm doanh nghiệp
nhiều hạn chế tài chính nhạy cảm với dòng tiền hơn nhóm doanh nghiệp ít hạn chế
tài chính; Các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính và doanh nghiệp ít hạn chế tài
chính đều giảm đầu tư khi rủi ro hệ thống gia tăng. Nhưng đối với rủi ro phi hệ
thống gia tăng, doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính gia tăng đầu tư, nhằm nắm bắt
cơ hội đầu tư, chấp nhận rủi ro cao, còn các doanh nghiệp ít hạn chế tài chính thì
thực hiện quyền chọn chờ đợi, hoặc lựa chọn chính sách chi trả cổ tức cao và giảm
đầu tư; Việc các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính sẵn sàng đầu tư mạo hiểm ở
những cơ hội đầu tư tăng trưởng, xuất phát từ những đặc điểm hiện tại của các
doanh nghiệp này như: tình trạng đầu tư quá mức, hiệu quả hoạt động kinh doanh
kém, nợ cao … Tính thanh khoản cao chứng khoán có ảnh hưởng dương đến đầu tư
ở cả hai nhóm doanh nghiệp. Khi xét mức độ ảnh hưởng của từng yếu tố đến đầu tư,
thì các doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính bị ảnh hưởng mạnh bởi nguồn tài trợ
đầu tư (dòng tiền và tính thanh khoản của chứng khoán), trong khi đó các doanh
nghiệp ít hạn chế tài chính lại bị ảnh hưởng mạnh bởi độ bất ổn (rủi ro hệ thống và
rủi ro phi hệ thống).
Đối với câu hỏi thứ ba, dòng tiền và tính thanh khoản đều có ảnh hưởng dương
đến đầu tư ở những doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước và không có kiểm soát
Nhà nước. Tuy nhiên về mức độ ảnh hưởng có khác nhau, dòng tiền nội bộ ảnh
hưởng mạnh đến đầu tư ở những doanh nghiệp có kiểm soát NN hơn những doanh
nghiệp không có kiểm soát Nhà nước, ngược lại, tính thanh khoản có ảnh hưởng
mạnh đến đầu tư ở những doanh nghiệp không có kiểm soát Nhà nước. Sự mức độ
ảnh hưởng khác nhau này xuất phát từ lý do các doanh nghiệp có kiểm soát Nhà
nước có dòng tiền nội bộ khá lớn và phải cùng với Nhà nước thực hiện các mục tiêu
--17--
điều hành kinh tế xã hội, vì thế khi dòng tiền lớn, họ gia tăng đầu tư mạnh và nguồn
tài trợ đầu tư không phụ thuộc nhiều vào nguồn vốn huy động từ chứng khoán. Rủi
ro hệ thống gia tăng làm giảm rõ rệt đầu tư của doanh nghiệp không có kiểm soát
Nhà nước, nhưng đầu tư của những doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước lại gia
tăng. Qua sự ảnh hưởng này, lần nữa lại thấy yếu tố kiểm soát Nhà nước tác động
đáng kể đến các quyết định đầu tư. Rủi ro phi hệ thống gia tăng khuyến khích đầu
tư doanh nghiệp không có kiểm soát Nhà nước gia tăng, lý do giống như của các
doanh nghiệp nhiều hạn chế tài chính. Những doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước
lại hạn chế đầu tư khi rủi ro phi hệ thống gia tăng, vì họ có nhiều cơ hội đầu tư để
lựa chọn, nên không nhất thiết phải đầu tư khi rủi ro phi hệ thống tăng. Xem xét
mức độ ảnh hưởng của các yếu tố đến đầu tư thì nguồn tài trợ đầu tư có ảnh hưởng
mạnh nhất đến đầu tư, kế đến mới là độ bất ổn, thứ tự này giống nhau ở những
doanh nghiệp có kiểm soát Nhà nước và cả những doanh nghiệp không có kiểm soát
NN.
Ngoài ra, nghiên cứu của luận án tìm thấy ảnh hưởng dương của tỷ lệ nợ đến
đầu tư, nợ gia tăng cho biết nguồn tài trợ đầu tư gia tăng vì thế khuyến khích đầu tư
tăng theo; Tỷ suất sinh lời có ảnh hưởng ngược chiều đến đầu tư, cho thấy khi
chứng khoán tăng giá, doanh nghiệp dịch chuyển một lượng vốn để đầu tư tài chính
ngắn hạn và giảm vốn cho đầu tư tài sản cố định; Quy mô của tổng tài sản có ảnh
hưởng thuận chiều đến đầu tư, kết quả này cũng đã được luận án tìm thấy và hoàn
toàn phù hợp với thực tế, cũng như các kết quả của các nghiên cứu trước. Nghiên
cứu của luận án không tìm thấy ý nghĩa thống kê của biến cơ hội tăng trưởng – Q,
số năm thành lập doanh nghiệp cổ phần đến đầu tư. Còn tỷ lệ tăng trưởng của doanh
số, nghiên cứu của luận án tìm thấy sự ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư, khi kiểm
định ở nhóm doanh nghiệp ít hạn chế tài chính, ở những trường hợp khác nghiên
cứu của luận án không tìm thấy ý nghĩa thống kê.
Chương 5: Giải pháp khuyến nghị
Từ kết quả kiểm định đạt được, tác giả đưa ra những khuyến nghị nhằm giúp
doanh nghiệp gia tăng đầu tư phát triển như các khuyến nghị giảm đầu tư quá mức,
--18--
xem xét lại chính sách sử dụng nợ vay; các giải pháp hỗ trợ vốn cho các doanh
nghiệp nhỏ, nhiều hạn chế tài chính; khuyến nghị tăng tính thanh khoản của thị
trường chứng khoán, khuyến nghị giúp doanh nghiệp tiếp cận được vốn tín dụng tài
trợ cho đầu tư.
--19--
CHƯƠNG 1:
TỔNG QUAN CÁC NGHIÊN CỨU VỀ ẢNH HƯỞNG CỦA DÒNG
TIỀN, RỦI RO HỆ THỐNG, RỦI RO PHI HỆ THỐNG VÀ TÍNH
THANH KHOẢN CHỨNG KHOÁN ĐẾN ĐẦU TƯ DOANH
NGHIỆP.
1.1. Giới thiệu
Koontz và Weihrich (2010) cho rằng, quyết định là việc lựa chọn một quá
trình hành động trong số các hành động đưa ra. Việc ra quyết định là cốt lõi của một
kế hoạch và một kế hoạch không thể được cho là tồn tại trừ khi có quyết định.
Trong tài chính doanh nghiệp, có nhiều quyết định cần thực hiện như quyết định
đầu tư, quyết định nguồn tài trợ, quyết định sản xuất…. Trong số những quyết định
đó, quyết định đầu tư là một trong những quyết định quan trọng, vì nó liên kết chặt
chẽ với kế hoạch tài trợ, kế hoạch sản suất, kế hoạch mua nguyên vật liệu…. Vì tính
chất quan trọng của quyết định đầu tư nên đã thu hút khá nhiều nghiên cứu mối
quan hệ giữa đầu tư và các yếu tố tài chính ảnh hưởng đến một quyết định đầu tư.
Đến nay, một kho tàng học thuật khá lớn ghi nhận những kết quả nghiên cứu mối
quan hệ giữa đầu tư và các yếu tố tài chính. Một trong những yếu tố tài chính ảnh
hưởng đến quyết định đầu tư đã và đang được nhiều nghiên cứu quan tâm, đó là ảnh
hưởng của dòng tiền nội bộ, độ bất ổn đến đầu tư. Ảnh hưởng của tính thanh khoản
đến đầu tư chỉ mới bắt đầu được quan tâm gần đây. Tác giả sẽ tóm tắt các nghiên
cứu thực nghiệm ảnh hưởng của dòng tiền, độ bất ổn và tính thanh khoản của chứng
khoán đến đầu tư và giới thiệu nền tảng lý thuyết liên quan dùng để giải thích các
kết quả nghiên cứu này. Từ những kết quả nghiên cứu thực nghiệm trước đây, tác
giả tìm ra khoảng trống trong các nghiên cứu này, để tìm ra hướng nghiên cứu cho
luận án của mình.
1.2. Các lý thuyết liên quan đến quyết định đầu tư của doanh nghiệp
1.2.1. Lý thuyết bất cân xứng thông tin (Asymmetric Information Theory)
--20--
Cleary (1999) cho rằng, sở dĩ thông tin bất cân xứng trên thị trường là do các
nhà tài trợ vốn bên ngoài đánh giá dự án đầu tư dựa trên chất lượng và rủi ro của dự
án. Điều này khiến chi phí nguồn vốn bên ngoài trở nên cao hơn chi phí nguồn vốn
nội bộ, như là một khoản phí bảo hiểm bù đắp rủi ro. Khái niệm thông tin bất cân
xứng lần đầu tiên được giới thiệu bởi Akerlof George A. vào năm 1970. Akerlof
(1970) tranh cãi rằng, người bán với nhiều thông tin bên trong về tài sản của mình,
nên không sẵn lòng bán sản phẩm cho người mua thiếu thông tin về tài sản đó. Còn
người mua nghĩ rằng, nếu người bán sẵn lòng bán ngay tài sản của họ với giá mà
người mua đưa ra, điều đó nghĩa là giá mua đã đưa ra cao hơn giá trị của tài sản. Và
như vậy, tài sản được mua bán khi đó là tài sản có chất lượng xấu (lemon). Vấn đề
bất cân xứng thông tin đã dẫn đến giá cả của tài sản trên thị trường bị đánh giá thấp
khi người mua và người bán không có cùng mức độ thông tin và sự khác nhau này
thể hiện ở một khoản phí bảo hiểm bù đắp cho rủi ro tài sản “lemon”.
Dựa trên những lập luận về thông tin bất cân xứng của Akerlof (1970),
Greenwald, Stiglitz và Weiss (1984) và Myers và Majluf (1984) đã thảo luận về vấn
đề lựa chọn ngược (adverse selection) trong quyết định đầu tư. Cả hai nghiên cứu
này đều tranh cãi rằng, trong thị trường không hoàn hảo, tồn tại sự bất cân xứng
thông tin giữa DN và nhà đầu tư bên ngoài. Khi nhà đầu tư bên ngoài không thể
phân biệt giữa cơ hội đầu tư hiệu quả cao và cơ hội đầu tư hiệu quả thấp, việc DN
phát hành cổ phần ra bên ngoài để huy động vốn như là một “tín hiệu” cho các nhà
đầu tư bên ngoài thấy rằng dự án đầu tư đó là không hiệu quả. Ross Stephen A.
(1977) lập luận rằng, các DN "tốt" sẽ dựa chủ yếu vào nợ vay khi có nhu cầu gia
tăng vốn và do đó, khi các DN phát hành cổ phần mới, nó cung cấp cho thị trường
với một tín hiệu tiêu cực mạnh mẽ về chất lượng của DN, điều này ảnh hưởng đến
giá phát hành giảm. Myers và Majluf (1984) trình bày rằng, vốn cổ phần mới tài trợ
đầu tư chỉ được thực khi và chỉ khi nó làm tăng giá trị cho các cổ đông hiện hữu sau
khi đã tính các lợi ích cho cổ đông mới. Vì thế, có nhiều DN chấp nhận cắt giảm
đầu tư ở một vài dự án có NPV dương nhằm đảm bảo lợi ích cho cổ đông hiện hữu,
chứ không phát hành cổ phần mới để đầu tư hết cho tất cả các dự án có NPV dương.
--21--
Tuy nhiên, Myers và Majluf (1984) cũng nhận xét rằng, nếu một DN có nguồn tài
chính mạnh sẽ không bao giờ bỏ qua một dự án đầu tư có NPV dương nào cả.
Lý thuyết thông tin bất cân xứng hàm ý một trật tự ưu tiên trong sử dụng các
nguồn tài trợ như được kết luận trong nghiên cứu của Myers (1984). Myers (1984)
chỉ ra rằng, có một trật tự phân hạng (Pecking Order) trong việc sử dụng các nguồn
tài trợ, chủ yếu dựa trên thông tin bất cân xứng. DN ưu tiên sử dụng nguồn vốn nội
bộ trước, nhằm tránh việc cắt giảm các dự án đầu tư có NPV dương hoặc việc phát
hành cổ phần mới. DN sẽ thực hiện chính sách cổ tức phù hợp với mục tiêu tăng
cường nguồn vốn nội bộ và đồng thời giữ một tỷ lệ nợ tối đa có thể, để tránh rơi vào
tình trạng khó khăn về tài chính hoặc thiếu hụt tài chính. Điều này hàm ý rằng, DN
sẽ sử dụng hết nguồn vốn nội bộ đến mức có thể, rồi mới đến nợ phải trả ngắn hạn.
Khi cần nguồn vốn bên ngoài, DN sẽ tiến hành phát hành chứng khoán nợ dài hạn
và việc phát hành vốn cổ phần là nguồn tài trợ được xét đến sau cùng.
1.2.2. Lý thuyết đại diện (Agency Theory).
Lý thuyết đại diện giới thiệu đầu tiên bởi Jensen và Meckling năm 1976.
Jensen và Meckling (1976) cho rằng, nếu nhà quản lý không phải là người sở hữu
vốn duy nhất trong DN, thì chi phí đại diện là một chi phí không thể tránh khỏi. Chi
phí đại diện là loại chi phí để duy trì một mối quan hệ đại diện hiệu quả, nó bao
gồm:
- Chi phí giám sát (monitoring cost) là chi phí để giám sát hoạt động của
người đại diện, như là chi phí kiểm toán.
- Chi phí ràng buộc (bonding cost) là chi phí để thiết lập một bộ máy nhằm
tối thiểu những hành vi quản trị không mong muốn, như là bổ nhiệm
những thành viên bên ngoài vào ban điều hành, hay tái thiết lập hệ thống tổ
chức của công ty.
- Mất mát phụ trội (residual loss) hay chi phí cơ hội khi các cổ đông thuê
người đại diện và buộc phải đưa ra các hạn chế, ví dụ những thiệt hại do
người đại diện lạm dụng quyền được giao để tư lợi.
--22--
Ảnh hưởng khá lớn đến chi phí đại diện là dòng tiền chi trả cổ tức. Thông
thường nhà quản lý đi thuê tránh chi trả cổ tức nhiều cho cổ đông, bởi vì khi cổ tức
chi trả nhiều, dòng tiền nội bộ giảm, sẽ tăng khả năng huy động vốn thêm từ bên
ngoài. Và khi tăng vốn huy động từ bên ngoài, hoạt động của công ty sẽ được nhiều
thành phần tham gia trên thị trường giám sát và đánh giá, ví dụ như các ngân hàng
đầu tư, các ủy ban chứng khoán, và cả những cổ đông mới của công ty. Và đương
nhiên, các nhà quản lý không thích bị giám sát nhiều. Trong trường hợp này, chi phí
đại diện cần gia tăng để khuyến khích nhà quản lý tăng dòng tiền chi trả cho cổ
đông hơn là đưa dòng tiền đi đầu tư những dự án có tỷ suất sinh lời dưới chi phí
vốn.
Lợi ích thuần của người đi vay có mối quan hệ ngược chiều với chi phí đại
diện. Bemanke và Gertler (1989, 1990) cho rằng, lợi ích thuần của người đi vay cao
sẽ làm giảm chi phí đại diện. Khi công việc kinh doanh của người đi vay đang có
chiều hướng đi lên, là động lực tăng giá trị thuần của việc vay mượn, giảm chi phí
đại diện và gia tăng đầu tư. Ngược lại, cho trường hợp công việc kinh doanh của
người đi vay đang đi xuống, thể hiện khả năng giá trị thuần của người đi vay giảm,
chi phí đại diện sẽ tăng và đầu tư giảm. Trong thực tế, một công ty với một bảng
cân đối kế toán lành mạnh sẽ dễ dàng huy động vốn bên ngoài hơn một công ty với
bảng cân đối xấu. Lợi ích thuần của người đi vay thấp sẽ làm gia tăng chi phí đại
diện, bởi hai lý do: Thứ nhất, khi lợi ích thuần của người đi vay thấp, họ có ít nguồn
quỹ sẵn có để tài trợ đầu tư, dẫn đến việc gia tăng sự khác biệt lợi ích giữa người đi
vay và người cho vay, và kết quả là sự gia tăng chi phí đại diện. Thứ hai, khi lợi ích
thuần của người đi vay thấp, người đi vay không có động lực thuê mướn người/tổ
chức đánh giá chi phí dự án. Điều này làm chất lượng của dự án giảm và tăng chi
phí đại diện. Như vậy, sự cân bằng giữa số lượng dự án đầu tư và lợi nhuận mong
đợi của dự án sẽ nhạy cảm với mức độ tín nhiệm của người cho vay dành cho người
đi vay. Ngoài ra, ở một mức thấp nào đó của lợi nhuận kỳ vọng, có thể làm sụp đỗ
hoàn toàn dự án đầu tư.
--23--
1.2.3. Đầu tư quá mức (Onverinvestmnet) và đầu tư dưới mức
(Underinvestment).
Khái niệm đầu tư quá mức xuất hiện từ lý thuyết dòng tiền tự do của Jensen
(1986). Dòng tiền tự do được xem như là dòng tiền vượt quá sự cần thiết để duy trì
hoạt động của tài sản hiện tại và để tài trợ cho các khoản đầu tư mới có NPV>0 khi
chiết khấu theo chi phí vốn. Đầu tư quá mức được định nghĩa là chi phí đầu tư để
duy trì hoạt động của tài sản hiện tại, để tài trợ cho tất cả các dự án đầu tư mới có
NPV dương và cho cả một số dự án đầu tư bất thường, không mong đợi
(Richardson, 2006). Đầu tư dưới mức xảy ra khi DN từ chối thực hiện những dự án
có NPV dương.
Theo nhiều nghiên cứu như Richardson (2006); Degryse và De Jong (2006),
đầu tư quá mức bị gây ra bởi vấn đề đại diện, mâu thuẩn lợi ích giữa cổ đông và nhà
quản lý, còn đầu tư dưới mức bị gây ra bởi thông tin bất cân xứng trên thị trường.
1.2.3.1. Đầu tư quá mức và vấn đề đại diện
Giải thích theo lý thuyết chi phí đại diện, khi dòng tiền vượt quá nhu cầu cần
thiết cho những dự án có NPV>0, trên quan điểm lợi ích của mình, cổ đông muốn
gia tăng cổ tức chi trả. Tuy nhiên, khi sử dụng dòng tiền tự do vượt trội này để trả
cổ tức, nghĩa là giảm đi nguồn vốn kiểm soát của các nhà quản lý, mà tổng nguồn
vốn hay tổng tài sản là cơ sở tạo nên những lợi ích cho nhà quản lý. Do đó, nhà
quản lý có động cơ sử dụng dòng tiền tự do để đầu tư cho cả những dự án có
NPV<0, điều này mang lại lợi ích cho nhà quản lý nhưng tạo nên thiệt hại cho
những cổ đông. Bởi vì khi đầu tư cho cả những dự án có NPV<0, nhà quản lý
không những chỉ kiểm soát nhiều nguồn lực của doanh nghiệp, có thêm điều kiện để
đòi hỏi nhiều đặc quyền, và đồng thời có thể nâng cao mức độ cần thiết của họ trong
doanh nghiệp. Như vậy, trên quan điểm chi phí đại diện, khi DN có dòng tiền tự do
lớn, cơ hội đầu tư thấp, DN thường dễ đầu tư quá mức.
Đầu tư quá mức hay đầu tư dưới mức có liên quan mật thiết đến việc sử dụng
nợ của DN. Nghiên cứu thực nghiệm cho thấy DN với đòn bẩy tài chính cao,
thường có xu hướng đầu tư quá mức. Bởi vì, một khi DN gia tăng nợ tài trợ đầu tư,
--24--
nghĩa là rủi ro đã dịch chuyển từ chủ sở hữu sang chủ nợ, cổ đông mạnh dạn hơn
trong các quyết định đầu tư nên dễ dẫn đến đầu tư quá mức (Mauer và Sarkar, 2005;
Lyandres và Zhdanov, 2005; Childs và cộng sự, 2005 ).
1.2.3.2. Đầu tư dưới mức và thông tin bất cân xứng
Đầu tư dưới mức chỉ xuất hiện ở những doanh nghiệp có dòng tiền tự do thấp
nhưng lại có nhiều cơ đầu tư tăng trưởng tốt (Richardson, 2006; Degryse và De
Jong, 2006; Cai, 2013). Khi dòng tiền nội bộ không đủ đáp ứng nhu cầu đầu tư, DN
có thể sử dụng vốn vay hay vốn cổ phần mới để tài trợ đầu tư. Trong trường hợp
DN sử dụng nợ vay, với hiện tượng bất cân xứng thông tin trên thị trường, nhà tài
trợ vốn bên ngoài không thấy được cơ hội đầu tư tăng trưởng của dự án nên yêu cầu
một lãi suất vay vốn cao. Trong trường hợp phát hành cổ phần mới, nó cung cấp
cho thị trường với một tín hiệu tiêu cực mạnh mẽ về chất lượng của DN, điều này
ảnh hưởng đến giá phát hành giảm và do đó, chi phí vốn cổ phần mới cũng trở nên
cao hơn. Như vậy, do thông tin bất cân xứng, DN sử dụng vốn vay hay vốn cổ phần,
chi phí huy động nguồn vốn bên ngoài đều trở nên cao hơn nguồn vốn bên trong.
Và nếu DN càng gia tăng sử dụng nguồn vốn bên ngoài cho đầu tư, hiệu quả đầu tư
càng giảm. Vì thế, khi nguồn vốn nội bộ không đủ đáp ứng cho đầu tư, nhiều DN
chấp nhận cắt giảm đầu tư ở một vài dự án có NPV dương nhằm đảm bảo lợi ích
cho cổ đông hiện hữu, nghĩa là các DN này dễ rơi vào tình trạng đầu tư dưới mức.
1.2.3.3. Xác định đầu tư quá mức và đầu tư dưới mức
Theo Richardson (2006), tổng đầu tư trong một doanh nghiệp bao gồm
những khoản chi nhằm duy trì những hoạt động của những tài sản hiện tại
(IMAINTENANCE) và những khoản chi cho đầu tư mới (INEW). Đại diện cho chi phí duy
trì hoạt động hiện tại của tài sản đó là chi phí khấu hao tài sản cố định. Những
khoản chi đầu tư mới gồm những khoản chi cho những dự án đầu tư kỳ vọng có
NEW) và những khoản chi đầu tư bất thường, không mong đợi (I
NEW).
NPV dương (I*
Khoản đầu tư bất thường, không mong đợi này có thể là những dự án có NPV
dương và cả những dự án có NPV âm.
--25--
ITOTAL,t = IMAINTENANCE,t + INEW,t
NEW,t I
NEW,t
I*
Mô hình xác định những khoản chi đầu tư mới (INEW) theo Richardson
(2006) như sau:
INEW,t = + 1V/Pt-1 + 2Leveraget-1 + 3Casht-1 + 4Aget-1 + 5Sizet-1
+ 6StockReturnst-1 + 6INEW,t-1 + Year Indicator
(1.1) + Industry Indicator + i,t
i,t = INEW,t ( + 1V/Pt-1 + 2Leveraget-1 + 3Casht-1 + 4Aget-1 + 5Sizet-1
(1.2) + 6StockReturnst-1 + 6INEW,t-1)
Theo mô hình (1.1), các dự án đầu tư mới năm t được xác định dựa trên
những cơ hội tăng trưởng mà doanh nghiệp có, cụ thể dựa trên tỷ lệ giữa giá trị sổ
sách (V) trên giá trị thị trường (P) của tài sản năm trước, dựa trên tỷ lệ nợ
(Leverage), tỷ lệ tiền mặt nắm giữ (Cash), số năm thành lập doanh nghiệp (Age),
quy mô tổng tài sản (Size), tỷ suất sinh lời của chứng khoán (StockReturns) và của
những khoản chi đầu tư mới của năm trước. Với những cơ hội đầu tư này, nếu DN
đầu tư đúng tiềm năng, nghĩa là:
INEW,t = ( + 1V/Pt-1 + 2Leveraget-1 + 3Casht-1 + 4Aget-1 + 5Sizet-1 +
(1.3) 6StockReturnst-1 + 6INEW,t-1)
Khi đó phần dư (residual) từ mô hình (1.1) sẽ bằng không.
Nếu trong trường hợp DN có mức đầu tư mới nhỏ hơn tiềm năng đầu tư do các
cơ hội tăng trưởng mang lại, nghĩa là DN đang bỏ qua cơ hội đầu tư ở những dự án
có NPV >0. Trong trường hợp này DN được xem là đầu tư không hiệu quả và DN
đang đầu tư dưới mức tiềm năng.
INEW,t < ( + 1V/Pt-1 + 2Leveraget-1 + 3Casht-1 + 4Aget-1 + 5Sizet-1 +
(1.4) 6StockReturnst-1 + 6INEW,t-1)
--26--
Khi đó phần dư (residual) từ mô hình (3.1) sẽ là số âm. Theo Richardson
(2006), phần dư từ mô hình (1.1) thể hiện mức độ đầu tư dưới mức tiềm năng của
DN (underinvestment).
Nếu trong trường hợp DN có mức đầu tư mới lớn hơn tiềm năng đầu tư do các
cơ hội tăng trưởng mang lại, nghĩa là DN đang đầu tư hết tất cả những dự án có
NPV>0 và những dự án có NPV<0. Trong trường hợp này DN được xem là đầu tư
không hiệu quả và DN đang đầu tư quá mức tiềm năng (overinvestment).
INEW,t > ( + 1V/Pt-1 + 2Leveraget-1 + 3Casht-1 + 4Aget-1 + 5Sizet-1 +
(1.4) 6StockReturnst-1 + 6INEW,t-1)
Khi đó phần dư (residual) từ mô hình (1.1) sẽ là số dương. Theo Richardson
(2006), phần dư từ mô hình (1.1) thể hiện mức độ đầu tư quá mức của DN.
1.2.4. Lý thuyết quyền chọn thực
Nghiên cứu của McDonald và Siegel (1986), Dixit (1989), Pindyck (1988),
Dixit và Pindyck (1994), là những nghiên cứu tiên phong giới thiệu quyết định đầu
tư theo cách tiếp cận của mô hình quyền chọn thực. Theo Dixit và Pindyck (1994),
các quyết định đầu tư theo truyền thống được đánh giá dựa trên giá trị hiện tại ròng
(NPV). Để tính NPV, đầu tiên, tính toán giá trị hiện tại của dòng tiền lợi nhuận kỳ
vọng của dự án; Bước hai, tính toán giá trị hiện tại của chi phí bỏ ra để đầu tư, xây
dựng dự án; Cuối cùng, tính chênh lệch của hiện giá dòng tiền thu về và hiện giá
dòng tiền chi ra, tính NPV. Nếu ≥ 0, dự án được quyết định thực hiện. Cách
tính NPV truyền thống dựa trên giả định ngầm rằng đầu tư có thể đảo ngược, nghĩa
là, khi thị trường trở nên bất lợi, bằng cách nào đó dự án có thể thôi không thực hiện
và có thể phục hồi lại toàn bộ chi phí đã bỏ ra. Trong thực tế, khi thực hiện đầu tư,
một số lớn chi phí bỏ ra không thể hoàn lại được, chẳng hạn:
- Các chi phí chìm như chi phí quảng cáo, tiếp thị.
- Chi phí thuê mướn, đào tạo và sa thải công nhân.
- Chi phí đầu tư tài sản cố định. Khi thôi không thực hiện dự án, máy móc
thiết bị được bán đi, bởi vì người mua trên thị trường không biết được chất
lượng còn lại thật sự của máy móc thiết bị và vì thế họ sẽ trả theo chất
--27--
lượng trung bình trên thị trường, trong khi đó người bán biết rất rõ về chất
lượng của máy và chỉ sẵn lòng bán nó với mức giá theo giá trị còn lại.
Cuối cùng khi muốn bán nó, người bán phải chấp nhận giá thị trường thấp
hơn giá trị còn lại của máy. Và như vậy đã có một phần chi phí mua máy
trước đây không được hoàn lại. Thiết bị văn phòng, ô tô, xe tải, và máy
tính, là những thiết bị phục vụ chung cho tất cả các ngành công nghiệp vẫn
có giá trị bán lại chúng thấp hơn chi phí mua trước đây, ngay cả khi chúng
gần như mới.
- Chi phí vốn đầu tư có tính không thể đảo ngược gia tăng khi vốn đầu tư bị
kiểm soát bởi các quy định của Chính phủ. Chẳng hạn, quy định nhà đầu
tư trong nước/hay nhà đầu tư nước ngoài không thể bán tài sản và thoái
vốn.
Trong thực tế, hoạt động đầu tư có hai tính chất quan trọng là: không thể đảo
ngược và khả năng trì hoãn. Từ lý thuyết cho đến nghiên cứu thực đã chứng minh
điều rằng khả năng trì hoãn cho một chi phí đầu tư không thể đảo ngược, có ảnh
hưởng mạnh mẽ đến quyết định đầu tư. Nó cũng làm suy yếu các quy luật giá trị
hiện tại ròng - NPV, và cơ sở ra đời của mô hình đầu tư tân cổ điển. Bởi vì, khi một
công ty đang nắm giữ một cơ hội đầu tư, nghĩa là đang nắm giữ một "lựa chọn"
tương tự như một quyền chọn mua tài chính: công ty có quyền nhưng không có
nghĩa vụ mua tài sản tại một thời điểm trong tương lai theo sự quyết định của mình.
Khi một công ty quyết định đầu tư với chi phí đầu tư không thể đảo ngược, đồng
nghĩa với việc công ty đã “giết chết” quyền chọn lựa của mình. Đó là quyền chọn
chờ đợi những thông tin mới có ảnh hưởng đến số tiền đầu tư hay thời điểm của chi
phí đầu tư; công ty có thể không đầu tư nếu thị trường trở nên bất lợi. Giá trị của
quyền chọn bị mất này như là một chi phí cơ hội phải được tính trong chi phí đầu
tư. Vì thế, chi phí đầu tư theo quy luật của NPV phải cộng thêm số tiền tương
đương với giá trị của việc giữ các quyền chọn đầu tư còn sống. Các nghiên cứu gần
đây cho thấy rằng chi phí cơ hội này là không nhỏ và vì thế, các quyết định đầu tư
bỏ qua nó sẽ không còn đúng nữa. Ngoài ra, chi phí cơ hội này rất nhạy cảm với sự
--28--
không chắc chắn về giá trị tương lai của dự án, do đó thay đổi các điều kiện kinh tế
có ảnh hưởng đến khả năng xuất hiện các dòng tiền trong tương lai, từ đó tác động
lớn đến chi phí đầu tư, thậm chí lớn hơn sự thay đổi trong lãi suất.
Tuy nhiên, khi thực hiện quyền chọn, có thể xuất hiện chi phí chờ đợi và rủi ro
dự án bị đầu tư bởi các công ty khác, hoặc đơn giản là sự đến chậm của dòng tiền
thu về. Vì thế cần phải cân nhắc lợi ích từ việc chờ đợi thông tin mới. Như vậy, theo
hướng tiếp cận của quyền chọn, đầu tư được thực hiện khi giá trị mà dự án mang lại
vượt quá chi phí đầu tư nó, giá trị vượt trội bằng với giá trị của quyền chọn chờ đợi
để đầu tư.
Hình 1.1: Giá trị quyền chọn đầu tư.
Đầu tư có thể hoãn lại
Đầu tư bây giờ hoặc không bao giờ
Nguồn: Tài chính doanh nghiệp hiện đại, 2007.
1.3. Các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư
1.3.1. Doanh nghiệp hạn chế tài chính và ảnh hưởng của nguồn vốn nội bộ đến
quyết định đầu tư của doanh nghiệp.
Doanh nghiệp được xem là DN hạn chế tài chính khi DN đó có một khoảng
cách giữa chi phí vốn bên trong và chi phí vốn bên ngoài và khoảng cách này càng
lớn, thể hiện DN nhiều hạn chế tài chính (Fazzari, Hubbard, và Petersen ,1988;
Kaplan và Zingales,1997). Hình 1.2 cho thấy tầm quan trọng của nguồn vốn bên nội
bộ trong quyết định đầu tư của DN hạn chế tài chính. Hình 1.2, đường D thể hiện
--29--
đường cầu đầu tư của DN theo chi phí vốn (WACC). Đường S thể hiện đường cung
của vốn. Tại mức chi phí vốn xác định r, nguồn vốn nội bộ sẵn có bên trong của DN
là W0, vượt quá W0, đường cung của vốn có chiều hướng đi lên trên, theo mức gia
tăng của chi phí vốn bên ngoài do bất cân xứng thông tin. Bởi vì hạn chế của nguồn
vốn tài trợ, mức đầu tư cân bằng (I0) lúc này thấp hơn mức đầu tư tốt nhất là I’ và
chi phí vốn là r0, cao hơn chi phí vốn r, thể hiện cho việc hạn chế nguồn vốn tài trợ
đầu tư. Như là một kết quả, với chi phí vốn r0, nguồn vốn nội bộ bên trong giảm từ
W0 xuống W’, đường cung vốn S cũng dịch chuyển đi lên sang trái thành S’ và hình
thành 2 vùng giá trị đã bị đánh mất. Thứ nhất, tam giác AEE’ thể hiện các dự án có
NPV dương bị bỏ qua, khiến đầu tư từ I’giảm xuống I0. Thứ hai, vùng gạch chéo
ABHDFGE’ thể hiện giá trị bị mất do sự thay đổi về phía trái của đường cung,
khiến một số dự án còn sống sót đã được tài trợ với chi phí cao hơn (r’). Vùng tổn
thất ABHDFGE’ bao gồm hai phần: phần tứ giác ABGE’, chính là chi phí vốn gia
tăng của những dự án được tài trợ bằng nguồn vốn bên ngoài trước và sau sự dịch
chuyển của đường cung vốn; phần tứ giác HDFG là chi phí tăng thêm của những dự
án được tài trợ bằng nguồn vốn nội bộ trước và sau sự dịch chuyển của đường cung
vốn. Sự phân tích này cho thấy rõ sự ảnh hưởng của hạn chế tài chính đến quyết
định đầu tư của DN.
--30--
Hình 1.2: Tác động của thay đổi nguồn vốn nội bộ ở những doanh nghiệp hạn
chế tài chính
S
S
E
F
G
Chi phí vốn
E
r0
A
B
r
H
D
D
Đầu tư
W
W0
I0
I
r
Nguồn: Franzoni, Francesco 2009 1.3.2. Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp
doanh nghiệp hạn chế tài chính.
Theo lý thuyết bất cân xứng thông tin trên thị trường, lý thuyết trật tự phân
hạng, nguồn vốn nội bộ được DN ưu tiên sử dụng trước tiên, điều này, cho chúng ta
một câu hỏi rằng quyết định đầu tư sẽ như thế nào ở những DN với mức độ dòng
tiền nội bộ khác nhau?. Câu hỏi này đã thúc đẩy nhiều nghiên cứu tìm hiểu sự ảnh
hưởng của dòng tiền đến đầu tư ở những DN hạn chế tài chính khác với DN ít hoặc
không hạn chế tài chính ra sao? Kết quả của hướng nghiên cứu này cho ra hai kết
luận trái chiều nhau. Một số nghiên cứu cho rằng, độ nhạy cảm của đầu tư với dòng
tiền thể hiện mức độ hạn chế tài chính của DN đó và những DN có nhiều hạn chế
--31--
tài chính đầu tư nhạy cảm với dòng tiền hơn các DN khác, đại diện cho trường phái
này là Fazzari và cộng sự (1988). Một trường phái khác thì lại cho rằng, độ nhạy
cảm của đầu tư với dòng tiền cho chúng ta ít thông tin để kết luận về hạn chế tài
chính và DN có ít hạn chế tài chính đầu tư nhạy cảm với dòng tiền hơn DN nhiều
hạn chế tài chính, đại diện cho trường phái này là Kaplan & Zingales (1997).
Từ sau hai nghiên cứu này, đã có nhiều nghiên cứu ảnh hưởng của dòng tiền
đến đầu tư trong hạn chế tài chính đưa ra những kết luận ủng hộ một trong hai quan
điểm trên. Những nghiên cứu ủng hộ nghiên cứu của Fazzari và cộng sự (1988) như
nghiên cứu của Allayannis và Mozumdar (2004), Fazzari và cộng sự (2000),
Gilchrist và Himmelberg (1995), Hoshi và cộng sự (1991), Oliner và Rudebusch
(1992), Schaller (1993). Những nghiên cứu ủng hộ kết quả nghiên cứu của Kaplan
và Zingales (1997) như Cleary (1999), Kadapakkam và cộng sự (1998), Kaplan và
Zingales (2000). Tại sao lại có hai kết luận trái chiều như vậy? Bởi vì, theo Bhagat
và cộng sự (2005), hạn chế tài chính là một đại lượng không quan sát được, những
nghiên cứu khác nhau, sử dụng đại lượng đại diện cho hạn chế tài chính khác nhau
và đưa đến một kết luận khác nhau về độ nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền. Cụ
thể, nghiên cứu của Hoshi Takeo, Anil Kashyap và David Scharfstein (1991) về cấu
trúc vốn với đầu tư của các DN thuộc tập đoàn ở Nhật bản (gọi là các Keiretsu), sử
dụng mối quan hệ với ngân hàng để xác định doanh nghiệp hạn chế tài chính, các
DN có mối quan hệ tốt với các ngân hàng có khả năng huy động vốn nhanh, rẻ và
như thế có ít hạn chế tài chính hơn các DN có mối quan hệ không tốt với các ngân
hàng. Các Keiretsu có quan hệ tốt với ngân hàng lớn, còn các DN riêng lẻ, không
thuộc tập đoàn nào, mối quan hệ với ngân hàng kém hơn và do đó, họ gặp khó khăn
khi cần nguồn vốn bên ngoài để mở rộng đầu tư. Vì thế, các Keiretsu có ít hạn chế
tài chính hơn các DN riêng lẻ. Kết quả kiểm định của Hoshi và cộng sự (1991) cho
thấy, các DN riêng lẻ (nhiều hạn chế tài chính) có đầu tư nhạy cảm với dòng tiền
hơn các doanh nghiệp thuộc tập đoàn. Như vậy, có thể nói kết luận này ủng hộ
nghiên cứu của Fazzari và cộng sự (1988). Tuy nhiên, có nhiều nghiên cứu cho thấy
kết quả kiểm định của họ vừa ủng hộ nghiên cứu của Kaplan và Zingales, vừa ủng
--32--
hộ kết quả nghiên cứu của Fazzari và cộng sự (1988), bởi vì họ sử dụng nhiều đại
lượng xác định hạn chế tài chính khác nhau. Chẳng hạn, Cleary Sean (1999) trong
bài nghiên cứu “Mối quan hệ giữa đầu tư DN và tình trạng tài chính”, Cleary (1999)
sử dụng hai đại lượng xác định hạn chế tài chính là tỷ lệ chi trả cổ tức và chỉ số Z-
score của Altman; Moyen Nathalie (2004) sử dụng bốn đại lượng xác định hạn chế
tài chính như: tỷ lệ chi trả cổ tức, mức độ dòng tiền, chỉ số KZ (1997), chỉ số Z-
score trong nghiên cứu “Độ nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền ở những doanh
nghiệp hạn chế tài chính và DN không hạn chế tài chính”; Bhagat và cộng sự (2005)
sử dụng 5 đại lượng xác định hạn chế tài chính trong nghiên cứu “Mối quan hệ giữa
đầu tư và dòng tiền của những DN có tình trạng khó khăn tài chính”… Và với mỗi
đại lượng xác định hạn chế tài chính khác nhau, kết quả độ nhạy cảm của đầu tư với
dòng tiền khác nhau.
Một kết quả còn nhiều tranh luận khi nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền
đến đầu tư ở những DN nhiều hạn chế tài chính đó là: ảnh hưởng của dòng tiền đến
đầu tư là thuận chiều hay ngược chiều? Khi xem xét tổng thể hay đối với DN
ít/không hạn chế tài chính, các kết quả nghiên cứu cho thấy dòng tiền có tương quan
dương với đầu tư, nhưng khi xét DN hạn chế tài chính thì kết quả còn nhiều tranh
cãi. Đa số các nghiên cứu cho rằng, dòng tiền ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư ở
DN có hạn chế tài chính (Fazzari và cộng sự, 1988; Kaplan và Zingales,1997; Hoshi
và cộng sự, 1991; Alti, 2003; Moyen,2004; Cleary và cộng sự, 2007) và một số
nghiên cứu có kết luận ngược lại là những DN nhiều hạn chế tài chính ảnh hưởng
của dòng tiền đến đầu tư là ngược chiều (Cleary và cộng sự ,2004; Bhagat và cộng
sự ,2005; Almeida và Campello, 2007). Ảnh hưởng nguọc chiều của dòng tiền đến
đầu tư, theo Cleary và cộng sự (2007) và Bhagat và cộng sự (2005) lý giải rằng, tại
một mức thấp nào đó của dòng tiền nội bộ, khi dòng tiền nội bộ giảm sút, đầu tư
vẫn phải gia tăng nhằm đảm bảo một mức doanh thu theo nghĩa vụ của các hợp
đồng mua bán đã ký. Theo các tác giả này, trong trường hợp có một mối quan hệ
ngược chiều giữa dòng tiền và đầu tư, nguồn vốn gia tăng đầu tư nên sử dụng vốn
chủ sở hữu, không nên sử dụng vốn vay. Khi đó, DN đang thực hiện một “canh
--33--
bạc”, theo đó nếu đầu tư có hiệu quả, là cơ hội tăng giá trị vốn chủ sở hữu, giúp DN
thoát khỏi nguy cơ phá sản. Nếu ngược lại, thì DN chỉ mất phần vốn chủ sở hữu
hữu hạn đã đăng ký. Điều này giải thích lý do tại sao các DN có nhiều hạn chế tài
chính chấp nhận gia tăng đầu tư ở những dự án với rủi ro cao.
Ngoài ra, có những nghiên cứu xem xét ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư
với sự tác động các yếu tố làm tăng dòng tiền như doanh thu từ việc bán tài sản dư
thừa (Hovakimian và Titman, 2006) hay quy mô TSCĐ (Almeida và Campello,
2007). Các nghiên cứu như thế đều cho kết quả, mức độ ảnh hưởng của dòng tiền
đến đầu tư gia tăng khi DN có thêm các nguồn vốn gia tăng dòng tiền nội bộ. Điều
này khẳng định thêm cho kết quả đầu tư của DN khá nhạy cảm với nguồn vốn nội
bộ.
Một số nghiên cứu xem xét quan hệ phi tuyến giữa đầu tư và dòng tiền,
chẳng hạn nghiên cứu của Povel Paul và Michel Raith (2001) sử dụng mô hình một
thời kỳ, mô hình không quan sát đầu tư từ thị trường mà từ các giả định cho những
mức đầu tư mục tiêu khác nhau và sử dụng hai đại lượng làm thước đo cho hạn chế
tài chính: mức độ của nguồn vốn bên trong và khoảng cách bất cân xứng thông tin
giữa DN và các nhà đầu tư bên ngoài. Povel và Raith (2001) đã tìm ra mối quan hệ
giữa đầu tư và dòng tiền có hình chữ U và khoảng cách bất cân xứng thông tin càng
gia tăng sẽ làm tăng độ nhạy cảm của dòng tiền. Tùy thuộc vào mức độ của nguồn
vốn bên trong, một sự suy giảm trong nguồn vốn bên trong có thể dẫn đến sự sụt
giảm hoặc không đổi hoặc tăng đầu tư. Cùng ý tưởng với Povel và Raith (2001),
Dasgupta và Sengupta (2002) giả sử rằng đầu tư cũng không thể quan sát từ thị
trường và sử dụng mô hình hai thời kỳ, Dasgupta và Sengupta (2002) kiểm tra 3
mối quan hệ: (i) Quan hệ giữa dòng tiền (thay đổi trong tính thanh khoản) với đầu
tư; (ii) Quan hệ giữa lợi nhuận và đòn bẩy; (iii) Quan hệ giữa cơ hội đầu tư và đòn
bẩy. Kết quả kiểm tra mối quan hệ giữa dòng tiền và đầu tư là phi tuyến tính: có
một mức thanh khoản cân bằng, và nếu DN có tỷ lệ thanh khoản dưới mức này,
dòng tiền khá nhạy cảm với đầu tư hơn trường hợp ngược lại.
--34--
Cleary, Povel và Raith (2007) bắt đầu từ ba giả định: thứ nhất, chi phí cho
nguồn tài chính bên ngoài cao hơn chi phí của nguồn tài chính nội bộ; thứ 2, chi phí
vốn phụ thuộc vào tình hình tài chính của DN và kế hoạch đầu tư; thứ ba, đầu tư
phải là đầu tư mở rộng, sử dụng biến dòng tiền hoạt động và vốn lưu động ròng làm
đại lượng cho nguồn tài chính bên trong, Cleary và cộng sự (2007) đã tìm thấy mối
quan hệ chữ U giữa đầu tư và nguồn tài chính bên trong. Khi nguồn tài chính bên
trong của DN lớn (ít hạn chế tài chính), dòng tiền gia tăng tuyến tính với đầu tư và
ngược lại, khi nguồn tài chính bên trong thấp (nhiều hạn chế tài chính), dòng tiền
giảm khi gia tăng đầu tư. Mối quan hệ chữ U giữa đầu tư và dòng tiền còn được tìm
thấy ở nghiên cứu của Hirth Stefan và Marc Viswanatha (2011), Firth Michael, Paul
H. Malatesta, Qingquan Xin, Liping Xu (2012).
Điểm qua các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu
tư và độ nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền trong trường hợp hạn chế tài chính, tác
giả nhận thấy rằng, ảnh hưởng dương của dòng tiền đến đầu tư được tìm thấy ở hầu
hết các nghiên cứu, kết quả chưa rõ ràng ở DN hạn chế tài chính. Độ nhạy cảm của
đầu tư với dòng tiền ở những DN ít hạn chế tài chính và nhiều hạn chế tài chính
khác nhau như thế nào, là tùy thuộc vào việc lựa chọn đại lượng xác định hạn chế
tài chính. Hiện tại, có hai kết luận trái ngược nhau : Thứ nhất, theo kết quả nghiên
cứu của Fazzari và cộng sự (1988): Đầu tư ở những DN nhiều hạn chế tài chính
nhạy cảm với dòng tiền hơn những DN ít hạn chế tài chính; Thứ hai, theo nghiên
cứu của Kaplan và Zingales (1997): Đầu tư ở những DN ít hạn chế tài chính nhạy
cảm với đầu tư hơn DN nhiều hạn chế tài chính.
1.3.3. Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư: Nghiên cứu trong trường hợp
doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước.
Với những mục tiêu về kinh tế xã hội của Chính phủ, đầu tư của các DN có
vốn Nhà nước thường cũng sẽ bị ảnh hưởng bởi những mục tiêu này, đặc biệt là các
DN có một tỷ lệ vốn Nhà nước cao, một tỷ lệ đủ để chi phối các quyết định trong
hoạt động DN (Firth và cộng sự, 2012). Hiện nay các DN niêm yết ở thị trường
Trung Quốc tồn tại một số lượng lớn các DN có tỷ lệ cổ phần Nhà nước, vì thế đã
--35--
thu hút khá nhiều nghiên cứu xem xét sự khác biệt theo yếu tố sở hữu NN ở thị
trường này. Khi đánh giá yếu tố sở hữu NN trong DN cổ phần là một yếu tố thuận
lợi hay bất lợi đối với hiệu quả hoạt động DN, thì cho thấy có hai ý kiến khác nhau.
Một ý kiến cho rằng yếu tố sở hữu NN trong DN cổ phần là một yếu tố thuận
lợi đối với hiệu quả hoạt động DN. Chẳng hạn, theo nghiên cứu của Cull và Xu
(2003), có một mối quan hệ thuận chiều giữa nguồn vốn vay từ ngân hàng với lợi
nhuận của các DN sở hữu NN. Điều này có nghĩa rằng, các DN có vốn NN làm ăn
hiệu quả và vì thế, các ngân hàng gia tăng khoản vay cho các DN này.
Sheshinski và Calva (2003), Allen và cộng sự (2005) cho thấy, các DN có tỷ lệ sở
hữu NN lớn ở Trung Quốc dễ tiếp cận nguồn vốn bên ngoài, nhất là vốn vay từ
ngân hàng và vì thế, giảm sự phụ vào nguồn vốn nội bộ và giảm khả năng hạn chế
tài chính. Ngoài ra, Allen và cộng sự (2005) nhận định rằng mối quan hệ giữa pháp
luật và thị trường tài chính tại Trung Quốc là khá tốt, vì thế Trung Quốc có một nền
kinh tế phát triển nhanh nhất, nhưng mối quan hệ giữa pháp luật - tài chính - tăng
trưởng áp dụng cho các khu vực Nhà nước và khu vực DN niêm yết thì còn yếu.
Khu vực DN tư nhân phát triển nhanh hơn nhiều so với những DN khác và đóng
góp khá lớn cho tăng trưởng của nền kinh tế. Sự mất cân bằng giữa ba lĩnh vực cho
thấy rằng, sự khác nhau về cơ chế tài chính và cơ chế pháp lý, có thể là các yếu tố
hỗ trợ sự phát triển của khu vực tư nhân.
Nghiên cứu của Chen, Firth và Xu (2009) bổ sung thêm bằng chứng cho sự
khác biệt giữa các DN có sự kiểm soát Nhà nước. Chen và cộng sự (2009) căn cứ
vào việc xác định cổ đông lớn của các DN niêm yết, họ đã phân chia các DN thành
4 loại hình: DN kiểm soát bởi Cục quản lý tài sản quốc gia (SAMBs), DN có vốn
Nhà nước kiểm soát bởi Trung ương (SOECGs), DN có vốn NN kiểm soát bởi
chính quyền địa phương (SOELGs) và DN kiểm soát bởi tư nhân. Mục tiêu của
Chen và cộng sự (2009) là tìm hiểu hiệu quả hoạt động của các nhóm doanh nghiệp
SAMB, SOECG và SOELG khác nhau như thế nào. Kết quả kiểm định thực nghiệm
của họ cho thấy, các doanh nghiệp SOECG có hiệu quả hoạt động tốt nhất, SAMB
có kết quả hoạt động tệ nhất và SOELG có kết quả hoạt động ở mức giữa. Chen và
--36--
cộng sự (2009) lý giải sự khác biệt này là do mục tiêu và động cơ hoạt động của các
DN này khác nhau, mà nguyên nhân là chủ sở hữu kiểm soát DN khác nhau. Họ còn
tìm thấy rằng, các DN kiểm soát bởi tư nhân trong nền kinh tế Trung Quốc, không
phải là DN hoạt động hiệu quả nhất, có lẽ với thể chế của Trung Quốc các DN được
kiểm soát bởi Nhà nước phù hợp nhất.
Ý kiến còn lại cho rằng yếu tố sở hữu NN trong DN cổ phần là một yếu tố
bất lợi đối với hiệu quả hoạt động DN. Chẳng hạn, Calomiris, Fisman và Wang
(2010), nghiên cứu lợi nhuận của các DN có cổ phần Nhà nước trong nền kinh tế
của Trung Quốc. Bằng cách lấy biến lợi nhuận đại diện cho hiệu quả hoạt động của
DN, họ thấy rằng lợi nhuận gia tăng khi tỷ lệ vốn cổ phần Nhà nước giảm. Lý do là
chi phí trả cho các quan chức Nhà nước lớn hơn lợi ích mà quan hệ đó mang lại, vì
thế khi giảm đi tỷ lệ cổ phần Nhà nước, chi phí này giảm làm gia tăng lợi nhuận. Rõ
ràng nghiên cứu của Calomiris và cộng sự (2010) cho thấy, yếu tố sở hữu Nhà nước
trong các DN cổ phần là một yếu tố bất lợi cho DN.
Cho dù yếu tố sở hữu NN trong DN cổ phần là một yếu tố thuận lợi hay bất
lợi đối với hiệu quả hoạt động của DN, thì các nghiên cứu trên cũng đã cho thấy
một vấn đề quan trọng đó là, yếu tố sở hữu Nhà nước có ảnh hưởng đến hiệu quả
hoạt động của DN. Mà hiệu quả hoạt động của DN là yếu tố quan trọng tạo nên độ
lớn của dòng tiền nội bộ. Chính vì thế, các nghiên cứu tiếp tục tìm hiểu sự ảnh
hưởng của dòng tiền đến đầu tư có khác nhau ở các DN kiểm soát bởi NN và kiểm
soát bởi tư nhân hay không. Hướng nghiên cứu này dẫn đến kết luận là, ảnh hưởng
của dòng tiền đến đầu tư có sự khác biệt giữa hai loại hình DN này. Cụ thể, là DN
có sự kiểm soát của Nhà nước, đầu tư nhạy cảm với dòng tiền hơn các DN được
kiểm soát bởi tư nhân. Tuy nhiên, khi cơ hội đầu tư tốt, độ nhạy cảm của đầu tư với
dòng tiền của hai nhóm DN thì tương tự nhau (Firth và cộng sự, 2012). Firth và
cộng sự (2012) ủng hộ giả thuyết rằng, chính các mục tiêu của chính phủ ảnh hưởng
đến quyết định đầu tư của DN trong trường hợp cơ hội đầu tư kém.
Ở thị trường Việt Nam, tác giả tìm thấy một nghiên cứu có liên quan gần với
luận án. Đó là nghiên cứu của Dương Nguyễn Thanh Tâm (2013), nghiên cứu về độ
--37--
nhạy cảm của đầu tư với dòng tiền, thực hiện trên mẫu gồm 60 công ty sản xuất
được niêm yết từ năm 2008-2011, 240 quan sát. Kết quả kiểm định bằng phương
pháp FEM trên mô hình với biến phụ thuộc là đầu tư trên TSCĐ, biến độc lập là
dòng tiền và biến kiểm soát là Tobin’q, cho thấy mối quan hệ dương giữa dòng tiền
và đầu tư. Kết quả này ủng hộ lập luận rằng dòng tiền hàm chứa những thông tin về
đầu tư và ảnh hưởng đến đầu tư. Đồng thời, độ nhạy cảm giữa dòng tiền và đầu tư
không thể là một công cụ để đo lường về hạn chế tài chính của một công ty. Ngoài
nghiên cứu của Tâm (2013), tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào khác về ảnh
hưởng của dòng tiền đến đầu tư của các DN Việt Nam. Đặc biệt, nghiên cứu ảnh
hưởng của dòng tiền đến đầu tư của các DN hạn chế tài chính hay của các DN có
kiểm soát Nhà nước tại thị trường Việt Nam, tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu chính
thức nào. Đây là khoảng trống nghiên cứu cho luận án của tác giả.
1.4. Các nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng của rủi ro hệ thống, rủi ro phi
hệ thống đến đầu tư.
Nghiên cứu thực nghiệm giữa đầu tư và độ bất ổn đến nay, đã đóng góp cho
kho tàng nghiên cứu lĩnh vực tài chính DN hiện đại khá nhiều kết quả thú vị, từ
nhiều thị trường trên thế giới. Ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư đến nay cũng có
hai kết quả trái ngược: Thứ nhất, ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư là ảnh hưởng
thuận chiều: độ bất ổn gia tăng, đầu tư gia tăng theo và thứ hai, ảnh hưởng của độ
bất ổn đến đầu tư là ảnh hưởng ngược chiều: độ bất ổn gia tăng, đầu tư hạn chế. Tuy
nhiên, kết quả thứ hai được nhiều nghiên cứu tìm thấy hơn so với kết quả thứ nhất.
1.4.1. Ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư là thuận chiều hay nghịch chiều?
Ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư được nghiên cứu từ khá sớm. Hartman
(1972) và Abel (1983) đã cho thấy sự bất ổn giá cả đầu ra có ảnh hưởng dương đến
đầu tư với giả thiết lợi nhuận là một hàm lồi (convex) theo giá cả đầu ra. Với một
mức độ rủi ro đủ lớn khiến độ bất ổn giá cả đầu ra gia tăng sẽ làm gia tăng lợi nhuận
trong tương lai và khi lợi nhuận trong tương lai có dự đoán gia tăng, doanh nghiệp
sẽ mở rộng đầu tư những dự án có NPV dương và dẫn đến quyết định gia tăng đầu
tư của doanh nghiệp. Pindyck (1982) ủng hộ kết quả của Hartman (1972) trong giả
--38--
định lợi nhuận là một hàm lồi theo giá cả đầu ra, nhưng nếu lợi nhuận là một hàm
lõm (concave) theo giá cả đầu ra, thì gia tăng độ bất ổn sẽ làm giảm đầu tư. Pindyck
(1982) cho rằng, sở dĩ có sự khác nhau trong kết luận sự ảnh hưởng của độ bất ổn
giá cả đầu ra đến đầu tư, giữa mình với Hartman (1972) là do cách đo lường giả cả
đầu ra. Như vậy, khác nhau trong việc lựa chọn đại lượng đại diện cho độ bất ổn, có
thể dẫn đến kết quả tác động của độ bất ổn đến đầu tư khác nhau. Điều này thấy rõ
nhất trong nghiên cứu của Huizinga (1993): với độ bất ổn đại diện bởi tiền lương
thực, giá cả nguyên vật liệu đầu vào, kết quả là gia tăng độ bất ổn dẫn đến sự hạn
chế trong đầu tư, nhưng độ bất ổn đại diện bởi biến động giá cả đầu ra thì cho kết
quả ảnh hưởng dương đến đầu tư. Guiso và Parigi (1999) cũng đã nhận định rằng,
về mặt lý thuyết mối quan hệ giữa đầu tư và độ bất ổn chưa rõ ràng, tùy thuộc vào
kỹ thuật sản suất, thị phần tiêu thụ, biên độ điều chỉnh chi phí, tầm quan trọng của
độ trễ đầu tư, thái độ của nhà quản trị đối với rủi ro, mức độ thay đổi của đầu tư trên
một đơn vị gia tăng độ bất ổn sản lượng tiêu thụ, hay biến động của chi phí đầu vào,
có thể là số âm hoặc là số dương. Tuy nhiên, kết nghiên cứu của Guiso và Parigi
(1999) chỉ ủng hộ mối quan hệ âm giữa đầu tư và độ bất ổn trong sản lượng tiêu
thụ, họ kết luận rằng sản lượng tiêu thụ bất ổn làm giảm đầu tư, ngay cả khi đã kiểm
soát rủi ro tín dụng. Sarkar Sudipto (2000,2003) cũng là một trong số nghiên cứu
cho thấy, ảnh hưởng chưa rõ ràng của độ bất ổn đến đầu tư. Sarkar (2000,2003)
nhận thấy rằng, trong một vài tình huống nhất định, sự gia tăng độ bất ổn có thể gia
tăng khả năng đầu tư, và do đó độ bất ổn có ảnh hưởng dương đến đầu tư.
Qua nhiều nghiên cứu thực nghiệm sự tác động của độ bất ổn đến đầu tư là
ngược chiều hay thuận chiều, vẫn chưa thống nhất và thước độ bất ổn cũng chưa
xác định được thước đo nào là tốt nhất. Xuất phát từ lý do này, Koetse và cộng sự
(2009) sử dụng phương pháp hồi quy Meta để đánh giá xem với mỗi thước đo độ
bất ổn, quan hệ giữa đầu tư và độ bất ổn sẽ như thế nào. Bằng cách sử dụng một loạt
các thước đo đại diện cho độ bất ổn như: Nhóm độ bất ổn có liên quan đến yếu tố vĩ
mô như: Độ bất ổn của lạm phát, độ bất ổn của tỷ giá, độ bất ổn của giá chứng
khoán; Nhóm độ bất ổn liên quan đến đặc điểm cụ thể của DN như: Độ bất ổn trong
--39--
doanh thu, độ bất ổn về giá bán sản phẩm đầu ra, độ bất ổn của chi phí đầu vào, độ
bất ổn của lợi nhuận. Koetse và cộng sự (2009) đã tìm ra rằng, độ bất ổn đại diện
bởi các yếu tố liên quan vĩ mô, tốt hơn độ bất ổn đại diện bởi các yếu tố liên quan
đến các tình trạng cụ thể của DN. Một kết quả khác của họ là, đầu tư và độ bất ổn
có mối quan hệ ngược chiều được tìm thấy ở nhiều thước đo độ bất ổn và mối quan
hệ thuận chiều được tìm thấy ở ít thước đo độ bất ổn hơn.
Như vậy, có thể thấy rằng, độ bất ổn ảnh hưởng đến đầu tư có cả hai tương
quan, tương quan thuận chiều và tương quan nghịch chiều, tùy thuộc vào đại lượng
đại diện cho độ bất ổn. Ảnh hưởng nghịch chiều của độ bất ổn đến đầu tư được tìm
thấy nhiều hơn ảnh hưởng thuận chiều.
1.4.2. Ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư trong lý thuyết quyền chọn thực
Một số khá lớn nghiên cứu đã xem xét ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư
theo lý thuyết quyền chọn, chẳng hạn như các nghiên cứu: Leahy và Whited (1996);
Pattillo (1998), Guiso và Parigi (1999); Bond và Cummins (2004); Bloom, Bond và
VanReenen (2007). Các nghiên cứu này đều cho thấy, rủi ro thị trường gia tăng, giá
trị quyền chọn chờ đợi gia tăng theo và DN giảm đầu tư hiện tại, chờ đợi thêm
những thông tin để quyết định đầu tư tốt nhất. Cụ thể, Leahy và Whited (1996) xem
xét tính bất ổn bằng biến phương sai (Variance) của tỷ suất sinh cổ phiếu theo dự
báo, đại diện cho độ bất ổn trong môi trường hoạt động của DN (hay chính là rủi ro
hệ thống) và hiệp phương sai (Covariance) của tỷ suất sinh lời cổ phiếu với tỷ suất
sinh lời thị trường, rủi ro riêng của DN (rủi ro phi hệ thống) rút ra từ mô CAPM.
Với các đại lượng đại diện cho độ bất ổn như vậy, Leahy và Whited (1996) cho thấy
mối tương quan ngược chiều và yếu giữa phương sai của cổ phiếu với đầu tư, điều
này có nghĩa là độ bất ổn càng cao, đầu tư càng giảm với mức độ nhẹ. Ngoài ra,
Leahy và Whited (1996) không tìm thấy mối liên hệ giữa đầu tư và độ bất ổn đại
diện bởi hiệp phương sai. Cùng sử dụng biến động của tỷ suất sinh lời của thị
trường như nghiên cứu của Leahy và Whited (1996), nhưng Bulan (2005) còn kết
hợp thêm sự biến động của tỷ suất sinh lợi ngành công nghiệp, để đại diện cho tổng
độ bất ổn mà một DN phải đối mặt. Kết quả kiểm định của Bulan (2005) cho thấy,
--40--
môi trường hoạt động của DN càng bất ổn, đầu tư càng giảm ở hiện tại và cả về sau,
độ bất ổn riêng (rủi ro phi hệ thống) của mỗi DN làm giảm đầu tư do DN thực hiện
quyền chọn chờ đợi. Pattillo (1998) trong nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư, độ
bất ổn và tính không thể đảo ngược của đầu tư, Pattillo (1998) sử dụng phương sai
của nhu cầu sản lượng tiêu thụ làm biến đại diện cho độ bất ổn và mức độ không thể
đảo ngược của đầu tư được đo lường bằng tỷ lệ giữa giá trị tài sản đầu tư thực trên
giá trị tài sản đó được bán ở thị trường sản phẩm cũ. Kết quả nghiên cứu của Pattillo
(1998) cho thấy rằng độ bất ổn có tác động ngược chiều đến giá trị đầu tư và tác
động này gia tăng ở những DN có mức độ đầu tư không thể đảo ngược càng lớn.
Bloom, Bond và Reenen (2007) sử dụng độ lệch chuẩn của tỷ suất sinh lời hàng
ngày của chứng khoán làm biến đại diện cho độ bất ổn. Bloom và cộng sự (2007) đã
nhận thấy độ bất ổn càng cao DN càng giảm đầu tư. Vì độ bất ổn gia tăng, khiến giá
trị các quyền chọn cao, đã làm các DN thận trọng hơn trong các quyết định đầu tư
hay không đầu tư.
Panousi và Papanikolaou (2012) đã cố gắng tìm kiếm sự tác động của rủi ro
phi hệ thống đến đầu tư như thế nào? Kết quả là họ đã tìm thấy mối quan hệ nghịch
chiều giữa rủi ro phi hệ thống với đầu tư, và rủi ro hệ thống thì có mối quan hệ thuận chiều với đầu tư2. Cùng sử dụng rủi ro hệ thống và rủi ro phi hệ thống đại
diện cho độ bất ổn, nghiên cứu Bulan (2005) cho kết quả hoàn toàn đồng nhất kết
quả với nghiên cứu của Panousi và Papanikolaou (2012): rủi ro hệ thống có ảnh
hưởng thuận chiều đến đầu tư, rủi ro phi hệ thống tác động ngược chiều đến đầu tư.
Như vậy, khi xét sự ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư trong mô hình
quyền chọn thực, ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư cũng thể hiện dấu chưa thống
nhất. Tuy nhiên kết quả cũng ủng hộ mối quan hệ ngược chiều hơn thuận chiều. Bởi
theo lý thuyết quyền chọn, khi độ bất ổn gia tăng, giá trị quyền chọn chờ đợi gia
2 Kết này của Panousi và Papanikolaou (2012) cho trường hợp xem xét giữa rủi ro với đầu tư không có quan hệ nhân quả (không có hiện tượng nội sinh). Trường hợp xem xét giữa rủi ro với đầu tư có quan hệ nhân quả và xử lý bằng phương pháp GMM, Panousi và Papanikolaou (2012) không tìm thấy ý nghĩa thống kê cho hệ số của biến rủi ro phi hệ thống, còn rủi ro hệ thống có hệ số hồi quy có ý nghĩa thống kê nhưng gần bằng 0.
tăng theo, dẫn đến sự sụt giảm của đầu tư hiện tại. Chính vì thế mà đầu tư và độ bất
--41--
ổn có mối quan hệ ngược chiều. Nhận định này được thấy rõ hơn trong tổng hợp các
nghiên cứu ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư của Carruth và cộng sự (2000). Sau khi
tổng hợp các nghiên cứu, Carruth và cộng sự (2000) có nhận xét rằng, cho dù
nghiên cứu tổng hợp hay nghiên cứu phân chia nhóm, gia tăng độ bất ổn sẽ làm
giảm đầu tư. Điều này cho thấy tác dụng của tính không thể đảo ngược của đầu tư,
theo đó, độ bất ổn lớn làm tăng giá trị của quyền chọn mua, nhằm trì hoãn quyết
định đầu tư.
1.4.3. Ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp doanh
nghiệp hạn chế tài chính
Nghiên cứu độ bất ổn đến đầu tư ở DN hạn chế tài chính cũng đã được đề
cập khá sớm trong các nghiên cứu. Chẳng hạn, nghiên cứu của Stulz (1999) cho
thấy, độ bất ổn cao làm giảm đầu tư vì sự gia tăng giá trị quyền chọn, hay vì gia
tăng hạn chế tài chính. Kết luận của Stulz (1999) hàm ý độ bất ổn lớn, càng gia tăng
khả năng hạn chế tài chính của DN, và do đó, càng khiến chi phí huy động vốn bên
ngoài của DN cao hơn, kết quả giảm đầu tư là tất yếu.
Ghosal và Loungani (2000) trực tiếp tìm hiểu sự khác nhau trong tác động
của độ bất ổn đến đầu tư ở những DN nhỏ và DN lớn. Sử dụng thước đo độ bất ổn
bằng biến động của lợi nhuận, kết quả nghiên cứu của họ cho thấy: Độ bất ổn về lợi
nhuận có ảnh hưởng âm đến đầu tư, và mức độ ảnh hưởng này ở những DN nhỏ,
mạnh hơn so với những DN lớn. Theo Ghosal và Loungani (2000), có những lý do
dẫn đến kết quả này, đó là: Thứ nhất, các DN nhỏ, ít tài sản, có một mức giá cao
cho chi phí vốn huy động từ bên ngoài, vì sự bất cân xứng thông tin giữa người đi
vay và người cho vay. Hơn nữa, độ bất ổn về lợi nhuận trong tương lai càng khiến
thông tin bất cân xứng lớn hơn và điều đó, khiến chi phí huy động vốn bên ngoài
càng cao hơn; Thứ hai, DN lớn có nguồn tài chính mạnh, có cách nhận được nhiều
thông tin hơn các DN nhỏ. Thứ ba, những DN lớn có điều kiện để thực hiện các giải
pháp phòng ngừa rủi ro và bất ổn hơn các DN nhỏ. Những lý do này giải thích tại
sao ở các DN quy mô nhỏ, ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư mạnh hơn so với
các DN có quy mô lớn.
--42--
Koetse, Vlist và Groot (2006) cũng có kết luận về mức độ ảnh hưởng của độ
bất ổn đến đầu tư khác nhau theo quy mô DN. Koeste và cộng sự (2006) sử dụng 3
thước đo độ bất ổn là biến động giá cả đầu vào (tiền lương), biến động giá cả đầu ra
và biến động nhu cầu trong nước. Với mỗi thước đo độ bất ổn, ảnh hưởng của nó
đến đầu tư khá khác nhau ở những DN lớn và những DN nhỏ. Cụ thể, gia tăng độ
bất ổn về tiền lương có tác dụng kích thích đầu tư ở những DN nhỏ gia tăng theo,
nhưng gia tăng độ bất ổn về nhu cầu tiêu thụ nội địa lại khiến đầu tư ở những DN
này giảm và ảnh hưởng của độ bất ổn về tiền lương và nhu cầu tiêu thụ nội địa đến
đầu tư ở các DN lớn, lại không có ý nghĩa thống kê. Đối với những DN lớn, gia tăng
độ bất ổn về giá cả đầu ra làm giảm đầu tư, nhưng ảnh hưởng này không tìm thấy ý
nghĩa thống kê ở DN nhỏ. Như vậy, kết quả nghiên cứu của Koeste và cộng sự
(2006) cho thấy rằng, có một sự ảnh hưởng khác nhau của độ bất ổn đến đầu tư ở
những DN nhỏ và DN lớn. Sự khác nhau này phụ thuộc vào thước đo độ bất ổn.
Ngoài việc xác định DN hạn chế tài chính bằng đại lượng quy mô, Panousi
và Papanikolaou (2012), còn sử dụng thêm đại lượng xếp hạng tín dụng và chỉ số
White và Wu (2006). Kết quả nghiên cứu của Panousi và Papanikolaou (2012) cho
thấy, các đầu tư nhạy cảm với độ bất ổn hơn ở những DN có quy mô nhỏ, hạng tín
dụng thấp và chỉ số White và Wu (2006) cao. Điều này đồng nghĩa với kết luận, các
DN nhiều hạn chế tài chính, đầu tư nhạy cảm với độ bất ổn hơn các DN không/ít
hạn chế tài chính.
Như vậy, nghiên cứu của Stulz (1999), Ghosal và Loungani (2000), Panousi
và Papanikolaou (2012), Koeste và cộng sự (2006) đều chỉ ra rằng, sự ảnh hưởng
của độ bất ổn đến đầu tư có sự khác nhau ở DN nhiều hạn chế tài chính và DN ít
hạn chế tài chính, về cả dấu hiệu lẫn cả mức độ ảnh hưởng. Sự khác biệt này có thể
xuất phát từ việc lựa chọn đại lượng đại diện cho hạn chế tài chính, hoặc từ việc lựa
chọn đại lượng đại diện độ bất ổn, hay bởi cả hai yếu tố này.
1.4.4. Ảnh hưởng độ bất ổn đến đầu tư: nghiên cứu trong trường hợp doanh
nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước
--43--
Đối với các DNNN, ngoài mục tiêu lợi nhuận, yếu tố sở hữu NN khiến các
DN này phải đảm nhận thêm các mục tiêu chính trị-xã hội (Shleifer và Vishny,
1994). Mặt khác, nghiên cứu của Morck và cộng sự (2013) tìm thấy kết quả rằng,
Chính phủ thường sử dụng các chính sách tín dụng của các ngân hàng thương mại
Nhà nước để truyền tải các chính sách tiền tệ. Vì vậy, các DNNN là các DN được
ưu đãi tín dụng nhất và vì thế, có điều kiện gia tăng vốn vay để gia tăng đầu tư hơn.
Ngược lại, sự phụ thuộc vào mục tiêu điều hành kinh tế xã hội của các DNNN hay
các DN có sự kiểm soát NN cũng là lý do, khiến đầu tư của các DNNN bị ảnh
hưởng mạnh bởi sự thay đổi trong chính sách kinh tế hơn các DN tư nhân. Cụ thể,
Wang, Chen và Huang (2014) có nhận định, mức độ ảnh hưởng ngược chiều của bất
ổn về chính sách vĩ mô đến đầu tư ở các DNNN nhiều nhất so với các DN khác
trong nền kinh tế. Đối với độ bất ổn trên thị trường chứng khoán, Xu, Wang và Xin
(2010) cho thấy, tổng rủi ro gia tăng có tác dụng làm giảm đầu tư, và các DN kiểm
soát bởi tư nhân, đầu tư nhạy cảm với rủi ro hơn so với các DN kiểm soát bởi NN.
Rủi ro phi hệ thống có ảnh hưởng ngược chiều đến đầu tư ở những DN kiểm soát
bởi tư nhân và cả những DN kiểm soát NN, tuy nhiên tác động ngược chiều ở
những DN kiểm soát NN yếu hơn ở những DN kiểm soát tư nhân. Rủi ro hệ thống
có ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư ở những DN kiểm soát bởi NN, điều này cho
thấy trong trường hợp các yếu tố vĩ mô biến động mạnh, Chính phủ sẽ để các DN
được kiểm soát bởi Nhà nước gia tăng đầu tư, nhằm kích thích tăng trưởng kinh tế.
Wang, Chen và Huang (2014) cũng cho rằng, quyết định đầu tư của các DNNN
được đưa ra theo các mục tiêu của Chính phủ. Chẳng hạn, khi Chính phủ thực hiện
mục tiêu kích thích nền kinh tế, các DNNN sẽ gia tăng đầu tư và ngược lại khi
Chính phủ thực hiện chính sách thắt chặc, DNNN sẽ giảm đầu tư. Bởi vì, chi phí đại
diện ở những DNNN cao hơn chi phí đại diện ở những DN tư nhân và do đó, các
DNNN sẵn sàng đầu tư theo các chính sách của Chính phủ.
Như vậy, các nghiên cứu thực nghiệm cho thấy rằng, tùy theo đại lượng đại
diện độ bất ổn, mà mức độ ảnh hưởng của độ bất ổn đến đầu tư ở những DNNN
--44--
hoặc những DN kiểm soát bởi NN mạnh hơn hay yếu hơn các DN kiểm soát bởi tư
nhân.
Nghiên cứu tác động của độ bất ổn, với đại lượng đại diện là rủi ro hệ thống
và rủi ro phi hệ thống, đến đầu tư của các DN Việt nam, tác giả chưa tìm thấy
nghiên cứu chính thức nào. Và khoảng trống này đưa ra thêm một hướng nghiên
cứu nữa cho luận án của tác giả.
1.5. Các nghiên cứu thực nghiệm ảnh hưởng tính thanh khoản của chứng
khoán đến đầu tư.
Nghiên cứu tính thanh khoản của chứng khoán với các quyết định doanh
nghiệp như quyết định phát hành thêm cổ phần, xác định mức độ đòn bẩy và hoạt
động doanh nghiệp hay cơ cấu vốn, đã có khá nhiều nghiên cứu liên quan. Tuy
nhiên, nghiên cứu mối quan hệ giữa tính thanh khoản của chứng khoán với quyết định đầu tư, chỉ mới thu hút các nghiên cứu gần đây3. Vì thế, các bằng chứng thực
nghiệm về mối quan hệ này chưa thật sự phong phú.
Mặc dù vậy, các nghiên cứu về ảnh hưởng của tính thanh khoản của chứng
khoán đến tỷ lệ nợ hay hiệu quả hoạt động của DN, cho chúng ta một mối liên kết
giữa tính thanh khoản của chứng khoán với quyết định đầu tư. Chẳng hạn như,
Butler và cộng sự (2005) cho rằng, tính thanh khoản của chứng khoán là một nhân
tố quan trọng của chi phí phát hành vốn cổ phần mới, những DN với tính khoản của
chứng khoán cao, có chi phí phát hành cổ phần mới thấp và do đó, các DN có tính
thanh khoản của chứng khoán cao, thích gia tăng vốn từ việc phát hành cổ phần mới
hơn là vay nợ. Nghiên cứu của Lipson và Mortal (2009) cũng đã tìm thấy những
DN có tính thanh khoản chứng khoán cao, thường sử dụng tỷ lệ nợ thấp và thích sử
dụng vốn cổ phần mới khi có nhu cầu gia tăng vốn. Lesmond và cộng sự (2008),
Bharath và cộng sự (2009) cho thấy, những DN với tỷ lệ nợ càng cao, độ rộng giữa
giá chào mua và giá chào bán chứng khoán càng lớn, đồng nghĩa là tính thanh
khoản chứng khoán giảm. Như vậy, các nghiên cứu này cho thấy, tính thanh khoản
3 Muñoz Francisco (2013)
chứng khoán cao, DN thích sử dụng vốn cổ phần mới hơn sử dụng nợ, kết quả là
--45--
các DN này có một tỷ lệ nợ thấp. Ngược lại, một DN có tỷ lệ nợ cao, sẽ khiến
chứng khoán của họ có tính thanh khoản kém đi. Liên hệ với mối quan hệ giữa tỷ lệ nợ với đầu tư, các nghiên cứu 4 cho thấy, tỷ lệ nợ có ảnh hưởng ngược chiều đến
đầu tư, nghĩa là DN có đòn bẩy tài chính cao, đầu tư giảm do chi phí vốn của DN
trong trường hợp này cao. Thêm nữa, Amihud và Mendelson (1986) nhận xét rằng,
tính thanh khoản chứng khoán gia tăng, sẽ làm giảm chi phí vốn của DN.
Các nghiên cứu trên đã dẫn dắt Becker-Blease và Paul (2006) đưa ra giả thiết
cần kiểm định trong nghiên cứu của họ là, nếu tính thanh khoản chứng khoán là một
nhân tố của tỷ suất sinh lời vốn chủ sở hữu, thì sau những cú sốc làm tăng tính
thanh khoản, dẫn đến chi phí vốn của DN giảm, khi đó có nhiều dự án có NPV âm
trước đây có thể được chấp nhận lúc này và như vậy, dẫn đến đầu tư gia tăng.
Becker-Blease và Paul (2006) chứng minh giả thiết của họ, bằng cách kiểm chứng
trên mô hình hồi quy giữa đầu tư và tính thanh khoản chứng khoán. Kết quả nghiên
cứu của Becker-Blease và Paul (2006) cho thấy mối quan hệ thuận chiều giữa tính
thanh khoản chứng khoán và đầu tư. Kết quả này được giải thích phù hợp với
nghiên cứu của Amihud và Mendelson (1986) rằng, tính thanh khoản chứng khoán
gia tăng làm giảm chi phí vốn của DN, khiến cho nhiều dự án có NPV dương hơn
và gia tăng cơ hội đầu tư. Từ kết quả nghiên cứu, Becker-Blease và Paul (2006) ủng
hộ đề nghị của Amihud và Mendelson (1988) là, các DN nên đưa ra những phần
thưởng để khuyến khích các giải pháp cải thiện tính thanh khoản và xem điều này
quan trọng như mục tiêu tối đa hóa giá trị DN.
Một nghiên cứu khác cho thấy mối quan hệ trực tiếp giữa tính thanh khoản
chứng khoán với đầu tư đó là nghiên cứu của Muñoz Francisco (2013). Muñoz
(2013) bắt đầu từ lập luận rằng, thị trường các có nhiều ý kiến trái chiều nhau, có
nghĩa là có nhiều cổ phiếu được mua và bán hơn, khi đó DN có điều kiện thuận lợi
để phát hành cổ phần mới, huy động vốn để tài trợ đầu tư và do đó, sẽ có một tương
quan dương giữa tính thanh khoản chứng khoán và đầu tư. Kết quả kiểm định trên
4 Aivazian và cộng sự (2005), Firth và cộng sự (2012), Muñoz (2013)
mô hình giữa đầu tư với tính thanh khoản chứng khoán khẳng định lập luận này của
--46--
Muñoz (2013). Ngoài ra, Muñoz (2013) sử dụng biến tương tác giữa tính thanh
khoản chứng khoán với biến giả cơ hội tăng trưởng của đầu tư để đánh giá sự ảnh
hưởng của tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư ở những DN có cơ hội tăng
trưởng lớn. Kết quả là đầu tư ở những DN có cơ hội tăng trưởng nhạy cảm với tính
thanh khoản hơn, bởi vì DN càng có nhiều cơ hội đầu tư tăng trưởng, càng cần
nhiều vốn và chứng khoán có tính thanh khoản cao sẽ giúp DN huy động vốn dễ
dàng hơn từ việc phát hành cổ phần mới.
Như vậy, mặc dù kho tàng các nghiên cứu mối quan hệ giữa tính thanh
khoản chứng khoán và đầu tư chưa nhiều, nhưng các nghiên cứu về tính thanh
khoản với đòn bẩy nợ cộng thêm nghiên cứu Becker-Blease và Paul (2006), Muñoz
(2013) cho thấy tính thanh khoản chứng khoán có ảnh hưởng dương đến đầu tư, bởi
vì tính thanh khoản cao, tạo điều kiện thuận lợi cho DN phát hành thêm cổ phần
mới, nghĩa là gia tăng yếu tố thuận lợi cho kênh huy động vốn bên ngoài, từ đó làm
phong phú thêm nguồn tài trợ đầu tư, kích thích DN gia tăng đầu tư.
1.5.1. Ảnh hưởng tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư: Nghiên cứu
trong trường hợp doanh nghiệp hạn chế tài chính.
Nghiên cứu mối quan hệ giữa tính thanh khoản với đầu tư hiện tại vẫn chưa
phong phú, và do đó nghiên cứu tính thanh khoản với đầu tư ở những DN hạn chế
tài chính có rất ít nghiên cứu. Các nghiên cứu gần với hướng nghiên cứu tính thanh
khoản và đầu tư, ở những DN hạn chế tài chính như các nghiên cứu mối tương quan
giữa giá chứng khoán (đo lường bởi Tobin’q) với đầu tư (chẳng hạn như Barro,
1990; Morck, Shleifer và Vishny, 1990; Blanchard, Rhee, và Summers, 1993). Theo
kết quả các nghiên cứu này, giá chứng khoán gia tăng sẽ khiến các ràng buộc về
việc huy động vốn bên ngoài ít đi, nghĩa là giảm hạn chế tài chính của DN, giảm chi
phí và vì vậy gia tăng khả năng đầu tư của DN. Hameed, Kang và Viswanathan
(2010) tìm thấy mối tương quan nghịch chiều giữa tỷ suất sinh lời thị trường và tính
thanh khoản. Theo kết quả nghiên cứu của Hameed và cộng sự (2010), giá chứng
khoán gia tăng cũng có xu hướng gia tăng tính thanh khoản của chứng khoán. Như
vậy, liên kết các nghiên cứu này, cho chúng ta một suy nghĩ rằng, tính thanh khoản
--47--
chứng khoán có ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư và cải thiện được tính thanh
khoản chứng khoán sẽ là yếu tố giảm đi hạn chế tài chính của DN.
Suy nghĩ này được Muñoz (2013) chứng minh một cách cụ thể trong mô hình
hồi quy giữa đầu tư và tính thanh khoản chứng khoán. Muñoz (2013) xác định DN
hạn chế tài chính theo quy mô tài sản và mức độ của dòng tiền. Theo đó, những DN
nhiều hạn chế tài chính, là những DN có dòng tiền nội bộ kém và khó tiếp cận vốn
tín dụng. Cải thiện tính thanh khoản của chứng khoán có thể là giải pháp vốn bên
ngoài cho các DN hạn chế tài chính. Vì thế, những DN hạn chế tài chính có tính
thanh khoản chứng khoán cao, đầu tư có điều kiện gia tăng và các DN càng nhiều
hạn chế tài chính, đầu tư càng nhạy cảm với tính thanh khoản.
Như vậy, các nghiên cứu liên quan, cũng như hướng nghiên cứu trực tiếp
của Muñoz (2013) về mối quan hệ giữa đầu tư, tính thanh khoản chứng khoán và
hạn chế tài chính, cho kết luận là các DN càng nhiều hạn chế tài chính, đầu tư càng
nhạy cảm với tính thanh khoản.
1.5.2. Ảnh hưởng tính thanh khoản đến đầu tư: Nghiên cứu trong trường hợp
doanh nghiệp có sự kiểm soát Nhà nước
Do các nghiên cứu tính thanh khoản ảnh hưởng đến đầu tư chỉ mới được tập
trung ở những năm gần đây, nên chưa có nhiều nghiên cứu đi sâu vào việc xem xét
yếu tố sở hữu ảnh hưởng đến mối quan hệ này. Mặc dù, các nghiên cứu trực tiếp
mối quan hệ giữa tính thanh khoản và đầu tư ở những DN kiểm soát NN và DN
không kiểm soát NN, tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu nào, nhưng có những
nghiên cứu cho thấy sự liên kết giữa tính thanh khoản, đầu tư và yếu tố kiểm soát
NN trong DN cổ phần. Cụ thể, nghiên cứu của Lipson và Mortal (2009) cho thấy,
những DN có tính thanh khoản chứng khoán cao, thường sử dụng vốn cổ phần mới
để đáp ứng nhu cầu đầu tư và do đó, có một tỷ lệ nợ thấp. Và ngược lại, như
Lesmond và cộng sự (2008) kết luận, các DN càng gia tăng mức độ đòn bẩy tài
chính, càng làm gia tăng độ rộng giữa giá chào mua và giá chào bán, đồng nghĩa với
việc giảm tính thanh khoản của chứng khoán. Nghiên cứu của Muñoz (2013), thì lại
cho thấy tính thanh khoản có ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư. Firth, Lin và Wong
--48--
(2008), tìm thấy rằng, khi gia tăng đòn bẩy tài chính, đầu tư càng giảm và mức độ
ảnh hưởng ngược chiều giữa đòn bẩy tài chính với đầu tư giảm đi, theo sự gia tăng
tỷ lệ sở hữu NN trong DN cổ phần. Các nghiên cứu này, cho luận án ước đoán rằng,
mức độ ảnh hưởng của tính thanh khoản đến đầu tư ở các DN có kiểm soát NN yếu
hơn mức độ ảnh hưởng ở những DN kiểm soát bởi tư nhân.
Tại thị trường Việt Nam, tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu chính thức nào
nghiên cứu mối quan hệ giữa đầu tư và tính thanh khoản của chứng khoán. Tuy
nhiên có khá nhiều các nghiên cứu về tính thanh khoản với tỷ suất sinh lời. Một
trong những nghiên cứu đó, có nghiên cứu của Nguyễn Anh Phong (2012), sử dụng
03 đại lượng đại diện cho tính thanh khoản của chứng khoán: thứ nhất là đo bằng tỷ
lệ giữa số lượng cổ phiếu giao dịch chia cho số lượng cổ phiếu đang lưu hành
(turnover), thứ hai đo bằng giá trị giao dịch bình quân trong tháng của cổ phiếu và
thứ ba, sử dụng tỷ lệ giữa giá trị giao dịch bình quân trong tháng so với giá trị giao
dịch bình quân toàn thị trường. Tác giả cũng sử dụng đại lượng Turnover làm đại
lượng đại diện cho tính thanh khoản của chứng khoán trong nghiên cứu của mình.
1.6. Tóm tắt kết quả các nghiên cứu thực nghiệm về ảnh hưởng của dòng tiền,
rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán
đến đầu tư doanh nghiệp.
Từ tổng quan các nghiên cứu, tác giả tóm lược kết quả của các nghiên cứu để
tìm khoảng trống cho nghiên cứu của luận án.
Ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư:
- Khi xem xét chung cho toàn thể, dòng tiền có ảnh hưởng dương đến đầu tư .
Tuy nhiên, đối với các DN hạn chế tài chính, dòng tiền ảnh hưởng đến đầu tư
chưa có kết quả thống nhất. Có nhiều nghiên cứu cho thấy dòng tiền ảnh
hưởng dương đến đầu tư, nhưng cũng có nghiên cứu cho kết quả ngược lại.
- Về mức độ ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư trong hạn chế tài chính, hiện
cũng có hai trường phái có kết luận trái ngược nhau: Một trường phái cho
rằng, đầu tư những DN nhiều hạn chế tài chính nhạy cảm với dòng tiền hơn
những DN ít hạn chế tài chính; Trường phái còn lại cho kết luận ngược lại là
--49--
đầu tư những DN ít hạn chế tài chính nhạy cảm với dòng tiền hơn những DN
nhiều hạn chế tài chính. Kết luận khác nhau về độ nhạy cảm của đầu tư với
dòng tiền trong hạn chế tài chính, theo nhận xét của nhiều nghiên cứu, đó là
do việc sử dụng các đại lượng đại diện cho hạn chế tài chính khác nhau.
- Kết quả sự ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư ở những DN có kiểm soát
NN so với những DN được kiểm soát bởi tư nhân, đã tìm thấy nhiều trong
các nghiên cứu ở thị trường Trung Quốc. Theo kết quả của các nghiên cứu
này, yếu tố sở hữu NN là một yếu tố thuận lợi trong hoạt động của DN và
DN niêm yết có sự kiểm soát của Nhà nước, đầu tư nhạy cảm với dòng tiền
hơn các DN được kiểm soát bởi tư nhân. Bởi vì, các DN kiểm soát bởi NN
ngoài mục tiêu lợi nhuận, họ còn phải thực hiện mục tiêu điều hành kinh tế
xã hội của Chính phủ. Và với chi phí đại diện ở những DN kiểm soát bởi NN
cao hơn những DN kiểm soát bởi tư nhân, các DN kiểm soát bởi NN không
Ảnh hưởng của rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống đến đầu tư:
ngần ngại trong việc thực hiện mục tiêu của Chính phủ.
- Độ bất ổn ảnh hưởng đến đầu tư là thuận chiều hay ngược chiều tùy thuộc
vào đại lượng đại diện cho độ bất ổn. Tuy nhiên ảnh hưởng ngược chiều của
độ bất ổn đến đầu tư được tìm thấy trong nhiều nghiên cứu hơn, nhất là khi
xem xét trong lý thuyết quyền chọn.
- Có một sự khác nhau về dấu hiệu và mức độ ảnh hưởng của độ bất ổn đến
đầu tư trong hạn chế tài chính. Sự khác biệt này liên quan đến thước đo độ
bất ổn sử dụng và đặc điểm tài chính của DN.
- Độ bất ổn ảnh hưởng đến đầu tư ở các DN kiểm soát bởi NN và ở các DN
Ảnh hưởng của tính thanh khoản chứng khoán đến đầu tư:
kiểm soát bởi tư nhân cũng khác nhau về dấu hiệu và mức độ ảnh hưởng.
- Tính thanh khoản của chứng khoán có ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư, vì
rằng tính thanh khoản của chứng khoán cao như là một chất xúc tác khiến
DN huy động vốn cổ phần mới thuận lợi hơn. Kết quả của việc này là đầu tư
có điều kiện gia tăng.
--50--
- DN nhiều hạn chế tài chính, đầu tư nhạy cảm với tính thanh khoản của chứng
khoán hơn các DN ít hạn chế tài chính. Bởi vì, tính thanh khoản của chứng
khoán được cải thiện, các ràng buộc về việc huy động vốn bên ngoài giảm đi,
nghĩa là giảm đi hạn chế tài chính của DN. Vì thế, đầu tư của các DN hạn
chế tài chính khá nhạy cảm với tính thanh khoản của chứng khoán.
- Ảnh hưởng của tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư ở những DN
kiểm soát bởi NN, hay theo hình thức sở hữu, luận án chưa tìm thấy được
bằng chứng thực nghiệm. Tuy nhiên, các nghiên cứu liên quan cho luận án
một kỳ vọng rằng mức độ ảnh hưởng của tính thanh khoản của chứng khoán
đến đầu tư ở các DN kiểm soát NN yếu hơn mức độ ảnh hưởng ở những DN
kiểm soát bởi tư nhân. Kỳ vọng này, luận án sẽ xem xét trong kết quả nghiên
cứu trong chương 4.
1.7. Khoảng trống trong nghiên cứu về ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ
thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến
đầu tư doanh nghiệp.
Từ các tóm tắt các nghiên cứu thực nghiệm trên đây, tác giả nhận thấy rằng:
Thứ nhất, các nghiên cứu thực nghiệm đã cho kết quả về sự ảnh hưởng của
dòng tiền đến đầu tư, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản
của chứng khoán đến đầu tư, tuy nhiên, tác giả chưa tìm thấy nghiên cứu chính
thức nào nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư, dưới sự kiểm soát của
các biến này với nhau. Tác giả nhận thấy đây là một khoảng trống cho nghiên
cứu của mình. Bởi khi xác định được những yếu tố có tác động đến đầu tư,
việc đưa các biến đó vào cùng một mô hình nghiên cứu, sẽ giảm đi hiện tượng
bỏ sót biến. Từ đó tăng tính hiệu quả của kết quả ước lượng, từ đó dẫn đến
việc phân tích các nhân tố ảnh hưởng đến quyết định đầu tư sẽ chính xác hơn.
Thứ hai, tác giả cũng chưa tìm thấy nghiên cứu chính thức nào nghiên cứu sự
ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh
khoản của chứng khoán đến đầu tư ở những DN hạn chế tài chính hay ở những
--51--
DN có sự kiểm soát Nhà nước, trong một mô hình với sự kiểm soát của các
biến dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của
chứng khoán với nhau.
Thứ ba, nghiên cứu sự ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống, tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư của các DN Việt Nam
hiện nay vẫn là khoảng trống khá lớn.
Những khoảng trống trên, là cơ sở để tác giả chọn hướng nghiên cứu ảnh
hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản của
chứng khoán đến đầu tư doanh nghiệp tại thị trường Việt Nam, và nghiên cứu sâu
hơn trong trường hợp doanh nghiệp hạn chế tài chính, doanh nghiệp có sự kiểm soát
của Nhà nước.
--52--
CHƯƠNG 2:
PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU.
2.1. Xây dựng biến cho mô hình nghiên cứu
Để ước lượng sự ảnh hưởng của dòng tiền, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ
thống và tính thanh khoản của chứng khoán đến đầu tư, tác giả sử dụng biến đại
diện cho quy mô đầu tư của DN (biến phụ thuộc) là đầu tư trên TSCĐ thuần (I/K);
biến độc lập gồm: tỷ lệ dòng tiền nội bộ, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính
thanh khoản của chứng khoán; biến kiểm soát gồm: cơ hội tăng trưởng (Q), tỷ lệ
nợ, quy mô, tốc độ tăng trưởng của doanh thu, tỷ suất sinh lời của cổ phiếu và số
năm thành lập DN cổ phần. Ngoài ra, tác giả sử dụng biến tương tác giữa các biến
độc lập (dòng tiền nội bộ, rủi ro hệ thống, rủi ro phi hệ thống và tính thanh khoản
của chứng khoán) với biến giả đại diện cho kiểm soát NN (Dummy). Cụ thể, các
biến số trong mô hình được tính toán và sử dụng theo các nghiên cứu như sau:
Biến phụ thuộc I/K: đo bằng đầu tư (I) trên giá trị TSCĐ thuần (K). Luận án sử
dụng biến I/K như được sử dụng trong nghiên cứu Kaplan và Zingales (1997),
Cleary (1999), Alti (2003), Moyen (2004), Bhagat và cộng sự (2005), Almeida và
Campello (2007), Cleary và cộng sự (2007), Panousi và Papanikolaou (2012), Firth
và cộng sự (2012).
Biến độc lập chính:
- Tỷ lệ dòng tiền nội bộ (CF/K): Dòng tiền nội bộ (CF) tính bằng lợi nhuận
sau thuế cộng khấu hao. Tác giả sử dụng biến CF/K đại diện cho dòng tiền nội bộ,
tương tự như trong nghiên cứu của Fazzari và cộng sự (1988), Kaplan và Zingales
(1997), Cleary (1999), Alti (2003), Moyen (2004), Bhagat và cộng sự (2005),
Almeida và Campello (2007), Cleary và cộng sự (2007), Bloom và cộng sự (2007),
Panousi và Papanikolaou (2012), Firth và cộng sự (2012). Hầu hết các nghiên cứu
trên cho thấy dòng tiền có ảnh hưởng thuận chiều đến đầu tư. Tuy nhiên, khi nghiên
cứu ảnh hưởng của dòng tiền đến đầu tư trong trường hợp DN hạn chế tài chính,
Bhagat và cộng sự (2005) đã tìm thấy tác động ngược chiều của dòng tiền đến đầu
--53--
tư. Từ kết quả nghiên cứu thực nghiệm trước đây, cho tác giả kỳ vọng ảnh hưởng
thuận chiều của dòng tiền đến đầu tư trong nghiên cứu của mình.
- Rủi ro hệ thống (Sysrisk): Trên cơ sở các nghiên cứu thực nghiệm như Guiso
và Parigi (1999), Bulan (2005), Bloom và cộng sự (2007), Panousi và Papanikolaou
(2012), Firth và cộng sự (2012), tác giả lựa chọn cách tính toán rủi ro hệ thống rút ra
từ hệ số β (Beta) trong mô hình CAPM.
(1) (Ri,t - Rf,t)= β0 + β*(Rm,t – Rf,t)+ εit
Trong đó,
Ri,t: Tỷ suất sinh lời của chứng khoán i, ngày t-1 đến ngày t.
Rf,t: Tỷ suất sinh lời của tài sản phi rủi ro, tính toán từ lãi suất của tín
phiếu kho bạc Nhà nước kỳ hạn 91 ngày và chuyển đổi về lãi suất
theo ngày.
Rm,t: Tỷ suất sinh lời của thị trường ngày t-1 đến ngày t (Đo lường bằng
Vn-index).
Hệ số Beta được tính theo từng DN và được chuẩn hóa theo năm. Để tính
được hệ số Beta, tác giả thu thập giá chứng khoán giao dịch mỗi ngày của từng DN
nghiệp i, trong từng năm t. Sau đó tính toán chênh lệch (Ri,t - Rf,t) và (Rm,t – Rf,t).
Như vậy, với mỗi năm, dữ liệu chênh lệch tỷ suất sinh lời là một chuỗi dữ liệu thời gian và luận án có 1.2665 chuỗi dữ liệu thời gian. Với mỗi chuỗi dữ liệu, khi sử
dụng phương pháp GARCH để tính Beta, tác giả dựa vào tiêu chí AIC và BIC để
lựa chọn p và q. Có những chuỗi dữ liệu sử dụng GARCH (1,1), có những chuỗi dữ
liệu sử dụng GARCH (1,2), GARCH (2,1)…. Nhìn chung, tác giả đã sử dụng
GARCH (p,q) để tính hệ số Beta trong mô hình (1)
- Rủi ro phi hệ thống (Idiorisk): được tính bằng độ lệch chuẩn của phương
sai sai số của phương trình (1).
Idiorisk = ( , )
- Tính thanh khoản của chứng khoán (Liquid) : tác giả sử dụng đại lượng
5 211 doanh nghiệp x 6 năm nghiên cứu = 1.266 chuỗi dữ liệu về tỷ suất sinh lời của chứng khoán.
đại diện cho tính thanh khoản của chứng khoán bằng tỷ lệ giữa số lượng cổ phiếu
--54--
giao dịch trên số lượng cổ phiếu đang lưu hành như sử dụng trong nghiên cứu của
Amihud (2002), Becker-Blease và Paul (2006), Gregoriou và Ngoc Dung (2010),
Muñoz (2013).