intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Áp dụng thang điểm IHC4 để phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II

Chia sẻ: _ _ | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:6

35
lượt xem
1
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nhận xét một số mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm giải phẫu bệnh-lâm sàng (GPB - LS).Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 164 bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II được nghiên cứu để phân nhóm nguy cơ, đánh giá một số đặc điểm GPB - LS.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Áp dụng thang điểm IHC4 để phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II

  1. VÚ ÁP DỤNG THANG ĐIỂM IHC4 ĐỂ PHÂN TẦNG NGUY CƠ UNG THƯ VÚ CÓ THỤ THỂ NỘI TIẾT DƯƠNG TÍNH GIAI ĐOẠN I - II NGUYỄN VĂN CHỦ1, CHU THỊ TRANG2 TÓM TẮT Thang điểm IHC4 (Immunohistochemistry 4) được tính toán dựa trên 4 dấu ấn hóa mô miễn dịch (HMMD) là ER, PR, HER-2 và Ki67 của Cuzick và cs 2011 giúp phân tầng nguy cơ ung thư vú ở những bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính nhằm tiên lượng và cá thể hóa trong kế hoạch điều trị bổ trợ. Mục tiêu: Nhận xét một số mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm giải phẫu bệnh-lâm sàng (GPB - LS).Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: 164 bệnh nhân ung thư vú có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn I - II được nghiên cứu để phân nhóm nguy cơ, đánh giá một số đặc điểm GPB - LS. Kết quả nghiên cứu: Nhóm nguy cơ cao chiếm tỉ lệ 51.2%, nhóm nguy cơ thấp chiếm 9.8%. Trong các bệnh nhân ung thư vú nguy cơ cao theo thang điểm IHC4, bệnh nhân ở giai đoạn II chiếm tỉ lệ cao nhất (38.1%), đa số mô u có độ mô học cao, có xâm nhập mạch, số lượng hạch di căn nhiều, chỉ số tiên lượng Nottingham đa số là trung bình và xấu (29.3% và 12.8%); ngược lại ở những bệnh nhân ung thư vú nguy cơ thấp, các tỉ lệ này đều thấp hơn; sự khác biệt này không có ý nghĩa thống kê với p >0.05. Tỉ lệ sống thêm của bệnh nhân nhóm nguy cơ thấp, trung bình, cao lần lượt là 100%, 100%, 87.5% (p = 0.352>0.05). Kết luận: Ung thư vú nguy cơ thấp thường kết hợp với các yếu tố tiên lượng thấp, và ung thư vú nguy cơ cao thường kết hợp với các yếu tố tiên lượng tồi. Bệnh nhân có giá trị IHC4 cao có xu hướng có thời gian sống thêm toàn bộ ngắn hơn. Từ khóa: Ung thư vú, thang điểm IHC4, phân tầng nguy cơ, thụ thể nội tiết dương tính, giai đoạn I - II. SUMMARY Application of IHC4 score for risk stratification of hormone receptor-positive breast cancer stage I - II. The IHC4 score (Immunohistochemistry 4) was calculated based on four common biomarkers: ER, PR, HER-2 and Ki67, established by Cuzick et al in 2011, stratified personalized risk to direct appropriate therapy. Purpose: To evaluate risk categories and relation to some clinicopathlogical features in breast cancer. Methods: One hundred sixty-four hormone receptor-positive breast cancer patients stage I - II were divided into risk categories and evaluatex of some clinicopathological features. Results: The high - risk group accounts for 51.2%, the low-risk group accounts for 9.8%. The age group 50 - 59 is a common age among groups. In high- risk breast cancer patients, the proportion of patients in stage II is high (38.1%), most tumors have high rate in histological grade, lymphovascular invasion, metastatic lymph node status, and the Nottingham prognosis index mostly are average and bad values (29.3% and 12.8%); in contrast, in low - risk breast cancer patients, these were lower; this difference is not statistically significant with p > 0.05. The overall survival rate of patients at low - medium - and high - risk IHC4 were 100%, 100%, 87.5% (p = 0.352>0.05). Conclusion: Low-risk breast cancer is often associated with low prognostic factors, and high-risk breast cancer is often associated with poor prognostic factors. Patients with IHC4 high risk tend to have a shorter overall survival time. Key words: Breast cancer, Imunohistochemistry 4 score, risk stratification, hormone receptor possitive, stage I - II. 1 TS.BS. Bệnh viện K 2 BS. Đại học Y Hà Nội 490 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
  2. VÚ ĐẶT VẤN ĐỀ đáp ứng tốt hơn với hóa trị. Tuy nhiên, các nghiên cứu về thang đểm IHC4 chưa nhiều, ở Việt Nam hầu Ung thư vú (UTV) là loại ung thư thường gặp như chưa có nghiên cứu nào về vấn đề này. Vì vậy, nhất, là nguyên nhân hàng đầu gây tử vong do ung chúng tôi thực hiện đề tài: “Áp dụng điểm IHC4 để thư ở nữ giới ở Việt Nam cũng như trên toàn thế phân tầng nguy cơ ung thư vú có thụ thể nội tiết giới.Theo GLOBOCAN năm 2018, trên toàn thế giới dương tính giai đoạn I-II”, với mục tiêu: có khoảng 2.088.849 trường hợp UTV mới mắc và 626679 trường hợp tử vong do UTV; tại Việt Nam Nhận xét một số mối liên quan giữa các mức tỉ lệ này lần lượt là 15229 và 6103 trường hợp[1,2]. nguy cơ và một số đặc điểm GPB - LS. Các đặc điểm lâm sàng, giải phẫu bệnh có vai trò ĐỐI TƯỢNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU quan trọng trong chẩn đoán, điều trị và tiên lượng. Theo Ủy ban phòng chống ung thư Hoa Kỳ (AJCC) Đối tượng lần thứ 8, phân loại giai đoạn dựa vào TNM, giai Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên khối đoạn u, HER-2, ER, PR, các nghiên cứu cũng chỉ ra nến và hồ sơ bệnh án của 164 bệnh nhân ung thư rằng tiên lượng ở bệnh nhân giai đoạn I, II có thời vú xâm nhập có thụ thể nội tiết dương tính giai đoạn gian sống không tái phát xa, thời gian sống không I, II phẫu thuật tại Bệnh viện K, từ 01/2017 đến tháng bệnh khá cao, so với giai đoạn III trở đi. 12/2018. Gần đây, vấn đề tiên lượng các bệnh nhân UTV Tiêu chuẩn lựa chọn ngày càng được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn nhằm giúp các nhà lâm sàng và giải phẫu bệnh có Có ghi nhận đầy đủ các dữ kiện: họ tên, tuổi, nhiều phương tiện để có thể tiên lượng chính xác ngày vào viện, kinh nguyệt, vị trí khối u, chẩn đoán lâm sàng và giai đoạn lâm sàng I - II. hơn các bệnh nhân UTV. Các yếu tố như kích thước u, độ mô học (ĐMH), tình trạng di căn hạch là những Được phẫu thuật cắt tuyến vú và vét hạch. yếu tố kinh điển để tiên lượng UTV. Nhờ sự phát triển của nhiều kỹ thuật mới đặc biệt là HMMD được Khối u vú nguyên phát và chưa được điều trị áp dụng rộng rãi, các dấu ấn HMMD như ER, PR, hóa chất trước mổ cắt u. HER-2, Ki67 được ứng dụng trong việc phân loại, Có chẩn đoán mô bệnh học là ung thư biểu mô điều trị UTV hiệu quả hơn.Với sự tiến bộ trong sàng tuyến vú xâm nhập. lọc, một số lượng lớn u kích thước nhỏ có thụ thể estrogen dương tính (ER dương tính) với tiên lượng Có khối nến đủ mẫu để nhuộm HMMD và thụ tốt được chẩn đoán.Tuy nhiên, các dấu ấn hiện tại thể nội tiết dương tính. không cho phép dự đoán chính xác về khả năng tái Tiêu chuẩn loại trừ phát. Do đó, cần cải tiến và nghiên cứu để xác định Không đáp ứng được các tiêu chuẩn chọn trên. rõ những người có nguy cơ thấp để đảm bảo không cần sử dụng hóa trị và tránh các tác dụng phụ đi Ung thư biểu mô tuyến vú tại chỗ. kèm của chúng. Việc phân tầng nguy cơ cá thể hóa Ung thư vú tái phát hoặc ung thư cơ quan khác với liệu pháp điều trị thích hợp ngày càng quan di căn tới vú. trọng.Nhiều xét nghiệm đa gen đã được phát triển với mục đích phân biệt những bệnh nhân sẽ tái phát Phương pháp nghiên cứu sớm bằng liệu pháp nội tiết bổ trợ, bao gồm cả Thiết kế nghiên cứu: Mô tả cắt ngang hồi cứu. Prosigna®, Oncotype DX®, EndoPredict® và Index Cancer Cancer Index™, tuy nhiên đòi hỏi kĩ thuật, Cỡ mẫu: Chúng tôi tiến hành chọn mẫu thuận tiện, chi phí cao. Năm 2011, Cuzick và cộng sự đã thiết lấy toàn bộ các bệnh nhân ung thư vú thỏa mãn tiêu lập thang điểm IHC4 (Immuno-histochemistry chuẩn lựa chọn và loại trừ, được mổ tại bệnh viện K 4)được tính toán dựa trên 4 dấu ấn HMMD là ER, cơ sở Quán Sứ từ tháng 1/2017 đến 12/2018. PR, HER-2 và Ki67, với cách tính toán đơn giản và Biến số, chỉ số chi phí thấp, nhằm tiên lượng thời gian tái phát của Đánh giá kết quả nhuộm HMMD: ER, PR, bệnh nhân[3]. Mối quan hệ giữa các tín hiệu đa gen Her2/neu, Ki67 theo hướng dẫn. khác liên quan đến tiên lượng trong ung thư vú ER + và đáp ứng với hóa trị liệu bổ trợ mới cũng đã được Kết quả định lượng các dấu ấn HMMD sau đó kiểm tra bởi các nghiên cứu khác, nhiều nghiên cứu sử dụng thuật toán để tính điểm IHC4 dựa vào công đã cho thấy thang điểm IHC4 cao hơn có liên quan thức: đến tỉ lệ bệnh nhân khỏi đáp ứng hoàn toàn trên giải IHC4 = 94.7 x [- 0.1 ER10 – 0.079 PR10 + phẫu bệnh (pCR) cao hơn do đó phù hợp với kết 0.586 HER2 + 0.240 x ln (1 + 10 x Ki67)] quả của các nghiên cứu khác rằng bệnh nhân có nguy cơ cao hơn, theo ước tính từ xét nghiệm gen, TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 491
  3. VÚ ER10 và PR10 tính điểm dựa vào phương pháp + Độ mô học: I, II, III. H-score cải biên = Tỉ lệ (%) x cường độ (từ 0 đến + Chỉ số Nottingham được phân loại 300 điểm) chia cho 10. HER2 được coi là dương tính nếu nhuộm IHC là 3+, các trường hợp Her2 (2+) Nhóm tiên lượng tốt ≤ 3.4 được xét nghiệm FISH. Điểm Ki67 tính bằng tỉ lệ Nhóm tiên lượng trung bình 3.4 -> 5.4 nhân tế bào bắt màu với Ki67nhân với 0.4. Điểm IHC4 được phân loại: Nhóm tiên lượng xấu: >5.4 + Nguy cơ thấp: ≤ -30 + Tình trạng hạch: có hoặc không di căn + Nguy cơ trung bình: -30 ->30 hạch, nhóm hạch (0, ≤3 và >3 hạch). + Xâm nhập mạch. + Nguy cơ cao: ≥30 + Số đợt điều trị hóa chất. - Các thông số GPB-LS: Phân tích số liệu + Tuổi bệnh nhân: Nhóm tuổi 51 (theo định nghĩa của Dratva và Xử lý số liệu trên phần mềm SPSS 20.0. cs). Áp dụng test khi bình phương để so sánh hai + Giai đoạn bệnh: Từ I - II theo phân loại của hoặc nhiều tỉ lệ, tính giá trị p. Các phép so sánh có AJCC 8. p < 0.05 được coi là có ý nghĩa thống kê. + Bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính khi dương tính với ER và, hoặc PR. KẾT QUẢ Bảng 1. Mối liên quan giữa các mức nguy cơ và một số đặc điểm GPB - LS. Nguy cơ thấp Nguy cơ trung bình Nguy cơ cao p n (%) n (%) n (%) n (%) 16 (9.8) 64 (39.0) 84 (51.2) Nhóm tuổi < 40 17 (10.4) 2 (12.5) 4 (6.2) 11 (13.1) 0.144 40 - 49 42 (25.6) 3 (18.8) 12 (18.8) 27 (32.1) 50 - 59 58 (35.4) 4 (25.0) 25(39.1) 29 (34.5) 60 - 69 32 (19.5) 6 (37.5) 14 (21.9) 12 (14.3) ≥70 15 (9.1) 1 (6.2) 9 (14.1) 5 (6.0) Kinh nguyệt TMK 73 (44.5) 6 (37.5) 21 (32.8) 46 (54.8) 0.024* MK 91 (55.5) 10 (62.5) 43 (67.2) 38 (45.2) Giai đoạn I 33 (22.4) 4 (26.7) 14 (23.0) 15 (21.1) 0.882 II 114 (77.6) 11 (73.3) 47 (77.0) 56 (78.9) Hạch 0 109 (66.5) 13 (81.2) 47 (73.4) 49 (58.3) 1-3 39 (23.8) 2 (12.5) 14 (21.9) 23 (27.4) 0.156 >3 16 (9.8) 1 (6.2) 3 (4.7) 12 (14.3) Độ mô học I 19 (11.6) 4 (25.0) 10 (15.6) 5 (6.0) 0.087 492 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
  4. VÚ II 70 (42.7) 5 (31.2) 23 (35.9) 42 (50.0) III 75 (45.7) 7 (43.8) 31 (48.4) 37 (44.0) NPI Tốt 38 (23.2) 7 (43.8) 16 (25.0) 15 (17.9) TB 96 (58.5) 7 (43.8) 41 (64.1) 48 (57.1) 0.061 Xấu 30 (18.3) 2 (12.5) 7 (10.9) 21 (25.0) Xâm nhập mạch (-) 135 (82.3) 14 (87.5) 55 (85.9) 66 (78.6) 0.456 (+) 29 (17.7) 2 (12.5) 9 (14.1) 18 (21.4) Nhận xét: Trong 164 bệnh nhân ung thư vú có Nhận xét: Trong nghiên cứu của chúng tôi, có thụ thể nội tiết dương tính, chủ yếu gặp nhóm có 40 trường hợp theo dõi được thời gian sống thêm, tỉ nguy cơ cao chiếm tỉ lệ 51.2%, nhóm nguy cơ trung lệ sống thêm của bệnh nhân nhóm nguy cơ thấp, bình chiếm 39.0%, nhóm nguy cơ thấp ít gặp nhất trung bình là 100%, trong khi nhóm nguy cơ cao là chiếm 9.8%. Độ tuổi 50 - 59 là độ tuổi phổ biến ở tất 87.5%, giá trị thang điểm IHC4 cao thì bệnh nhân có cả các nhóm nguy cơ. Trong các bệnh nhân ung thư thời gian sống ngắn hơn, sự khác biệt này không có vú nguy cơ cao, tỉ lệ bệnh nhân ở giai đoạn II cao ý nghĩa thống kê với p = 0.352 >0.05. (78.9%), có di căn trên 3 hạch lớn (14.3%), đa số mô BÀN LUẬN u có độ mô học cao (ĐMH II chiếm 50%, ĐMH III chiếm 44.0%), chỉ số tiên lượng Nottingham đa số là Ung thư vú biểu hiện trên lâm sàng rất phức trung bình và xấu (lần lượt chiếm 57.1% và 25.0%), tạp, là u không đồng nhất, không chỉ đa dạng trong tỉ lệ mô u có xâm nhập mạch cao (21.4%); ngược lại hình thái và đặc điểm sinh học mà còn đa dạng trong ở những bệnh nhân ung thư vú nguy cơ thấp, các tỉ đáp ứng với điều trị. Các liệu pháp điều trị được lệ này đều thấp hơn; sự khác biệt này không có ý quyết định dựa trên các thông tin lâm sàng, giải nghĩa thống kê với p > 0.05. Tình trạng kinh nguyệt phẫu bệnh có giá trị tiên lượng khác nhau. Các bệnh của nhóm đôi tượng nghiên cứu có sự khác nhau nhân được phân loại thành các nhóm nguy cơ dựa giữa các nhóm nguy cơ, ở nhóm nguy cơ thấp và trên các biến số lâm sàng, giải phẫu bệnh như kích trung bình có tỉ lệ bệnh nhân giai đoạn tiền mãn kinh thước u, hạch di căn, độ mô học, các dấu ấn hóa mô thấp hơn so với giai đoạn mãn kinh, trong khi ở miễn dịch như ER, PR, HER2, Ki67, nhằm đưa ra kế nhóm nguy cơ cao thì ngược lại, sự khác biệt này có hoạch điều trị phù hợp với mỗi cá thể. Trong nghiên ý nghĩa thống kê với p < 0.05. cứu này, chúng tôi sử dụng thang điểm IHC4 dựa trên các dấu ấn hóa mô miễn dịch phổ biến, chi phí thấp để phân tầng nguy cơ ung thư biểu mô tuyến vú xâm nhập ở những bệnh nhân có thụ thể nội tiết dương tính. Kết quả chỉ ra rằng ung thư vú có nguy cơ cao chiếm tỉ lệ cao nhất là 51.2%, tiếp đến là nhóm nguy cơ trung bình (39.0%), thấp nhất là nhóm nguy cơ thấp (9.8%). Việc xác định nhóm nguy cơ trong ung thư vú có vai trò rất quan trọng trong điều trị và tiên lượng, đặc biệt xác định chiến lược điều trị. Theo hướng dẫn chẩn đoán và điều trị của Viện NICE (National Institute for Health and Care Excellence) năm 2018, để xác định chiến lược điều trị ung thư vú trên mỗi cá thể cần sử dụng các công cụ tiên lượng, ở những bệnh nhân có nguy cơ thấp sau khi phẫu thuật có thể điều trị đơn thuần bằng nội tiết, không Biểu đồ 1. Biểu đồ Kaplan- Meier biểu hiện mối liên cần điều trị bổ trợ bằng hóa chất. Nhóm nguy cơ quan giữa nhóm IHC4 với thời gian sống thêm toàn trung bình có thể điều trị nội tiết đơn thuần hoặc kết bộ (n = 40) hợp hóa trị. Trái lại, nhóm nguy cơ cao cần phải điều trị nội tiết, hóa trị kết hợp[4]. Logrank test p = 0.352 >0.05 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 493
  5. VÚ Mối liên quan giữa nhóm nguy cơ với đặc điểm xác định nhóm nguy cơ. Dựa trên độ mô học, các GPB - LS nhà ung thư học còn đưa ra một phác đồ điều trị bổ Kinh nguyệt trợ chuẩn mực hơn nhằm giảm các biến chứng và nâng cao tỉ lệ sống thêm cho người bệnh. Trong Tuổi mãn kinh trung bình là 51 tuổi, đây được nghiên cứu của chúng tôi, nhóm nguy cơ cao có tỉ lệ coi là mốc tuổi để xác định tình trạng tiền mãn kinh độ mô học II cao nhất (50%), tỉ lệ độ mô học III ở 3 và sau mãn kinh và để đánh giá sự khác nhau về nhóm nguy cơ đều cao lần lượt là 43.8%, 48.4% và ung thư vú của 2 nhóm phụ nữ này. Trong nghiên 44.0% (p = 0.087 > 0.05). cứu của chúng tôi cho thấy ở hai nhóm nguy cơ thấp và trung bình thì tỉ lệ bệnh nhân mãn kinh nhiều hơn Chỉ số tiên lượng Nottingham (NPI) tiền mãn kinh, trong khi ở nhóm nguy cơ cao tỉ lệ Dựa vào kích thước u, tình trạng hạch di căn, tiền mãn kinh cao hơn, sự khác biệt này có ý nghĩa độ mô học được tính toán đơn giản, Galea và cộng thống kê với p = 0.024 < 0.05. Nhiều chiến lược điều sự đã thiết lập nên công thức tính chỉ số tiên lượng trị nội tiết ở phụ nữ tiền mãn kinh có ER dương tính cho bệnh nhân ung thư vú và dược chia thành 3 đã được đánh giá trong nhiều năm qua. Điều rõ ràng mức độ tiên lượng tốt, trung bình và xấu[8]. Sự phân từ tất cả các nghiên cứu này là điều trị nội tiết bổ trợ nhóm tiên lượng sẽ giúp bệnh nhân được điều trị ở là một phần rất quan trọng trong các phác đồ bổ trợ giai đoạn sớm hơn, đồng thời tránh cho họ các nguy nếu bệnh nhân đáp ứng với nội tiết. Lựa chọn điều cơ phải nhận điều trị bổ trợ không cần thiết. Kết quả trị cho bệnh nhân sau mãn kinh bao gồm hoặc nghiên cứu của chúng tôi cho thấy nhóm ung thư vú Tamoxifen (Tam) hoặc một chất ức chế Aromatase nguy cơ cao có tỉ lệ chỉ số tiên lượng NPI xấu cao (AI), viện NICE khuyến cáo nên dùng AI nối tiếp sau nhất (25.0%), những bệnh nhân có chỉ số tiên lượng 5 năm dùng Tamoxifen sẽ làm giảm khả năng tái NPI tốt gặp nhiều nhất ở nhóm có nguy cơ thấp phátở những bệnh nhân mãn kinh[5]. (43.8%). Nghiên cứu của Weige Tan và cộng sự Giai đoạn TNM (2016) cho thấy tỉ lệ bệnh nhân pCR ở nhóm NPI tốt chiếm 20.2%, trong khi tỉ lệ này chỉ chiếm 10.2% ở Giai đoạn của ung thư vú là yếu tố tiên lượng nhóm NPI xấu, đồng thời những bệnh nhân thuộc quan trọng liên quan đến tỉ lệ sống thêm và phương nhóm nguy cơ cao và có chỉ số tiên lượng NPI xấu pháp điều trị. Nghiên cứu của chúng tôi cho thấy các chỉ có 3.4% bệnh nhân pCR, trong khi tỉ lệ này lên bệnh nhân giai đoạn II có xu hướng tăng dần theo tới 88.9% ở những bệnh nhân thuộc nhóm nguy cơ các mức độ nguy cơ, tỉ lệ nhóm II ở nhóm nguy cơ thấp và NPI tốt[9]. cao là cao nhất chiếm 78.9%. Elsamany và cộng sự (2015) lấy giá trị IHC4 trung gian là điểm cut-off cho Xâm nhập mạch thấy nhóm bệnh nhân IHC4 thấp hơn có xu hướng Xâm nhập mạch máu được định nghĩa là sự có có tỉ lệ đáp ứng hoàn toàn trên mô bệnh học cao mặt tế bào u trong mạch máu (mao mạch hoặc mạch hơn (p = 0.015), và giai đoạn mô bệnh học thấp hơn bạch huyết) được xác định trên tiêu bản nhuộm HE so với nhóm bệnh nhân IHC4 cao (p = 0.01)[6]. hoặc nhuộm HMMD trong trường hợp không rõ ràng. Tình trạng hạch Xâm nhập mạch có liên quan với tăng nguy cơ di căn hạch và di căn xa. Bảng 1 cho thấy tình trạng xâm Hạch nách là một trong những yếu tố tiên lượng nhập mạch có xu hướng tăng dần theo phân tầng quan trọng trong ung thư vú giai đoạn sớm có thể nguy cơ thấp tới cao lần lượt chiếm 12.5%, 14.1% và phẫu thuật và liên quan chặt chẽ đến cả thời gian 21.4%. Các nghiên cứu khác chỉ ra rằng xâm nhập sống không bệnh cũng như thời gian sống tổng mạch là một yếu tố tiên lượng độc lập về thời gian thể.Các hình thái mô bệnh học, độ mô học, kích sống không tiến triển bệnh và thời gian sống tổng thể thước u là yếu tố quan trọng xác định hạch di căn. ở bệnh nhân điều trị hóa chất tân bổ trợ[10]. Kết quả nghiên cứu của chúng tôi cho thấy trường hợp bệnh nhân di căn từ 3 hạch trở lên có xu hướng Nhóm nguy cơ và thời gian sống thêm của bệnh tăng dần theo mức nguy cơ, với 1 trường hợp ở nhân UTV có thụ thể nội tiết dương tính nhóm nguy cơ thấp và 12 trường hợp ở nhóm nguy Khi theo dõi 40/164 bệnh nhân UTV có thụ thể cơ cao (p = 0.156), sự khác biệt không có ý nghĩa nội tiết dương tính, thời gian sống thêm toàn bộ trung thống kê). Nghiên cứu của Prakash và cộng sự trên bình là 74 tháng, chúng tôi thu được kết quả nhóm 401 bệnh nhân, cho thấy những bệnh nhân không có nguy cơ cao có tỉ lệ sống sót là 87.5%, với 3 trường di căn hạch có thời gian sống không tái phát bệnh hơp tử vong, trong khi ở hai nhóm còn lại chưa ghi (95.8%) cao hơn so với bệnh nhân di căn 1 - 3 hạch nhận trường hợp nào tử vong, sự khác biệt này (90.37%) (p = 0.0239)[7]. không có ý nghĩa thống kê với p >0.05 (Biểu đồ 3.1). Độ mô học Tuy vậy, ta nhận thấy bệnh nhân có giá trị thang điểm IHC4 cao có xu hướng thời gian sống thêm ngắn hơn Độ mô học là một trong những yếu tố tiên lượng so với nhóm có giá trị IHC4 thấp, trung bình. quan trọng và đây cũng là một trong các thông số để 494 TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM
  6. VÚ Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng thang điểm breast cancer during transition in Central China. IHC4 có giá trị trong tiên lượng thời gian sống thêm Cancer Manag Res, 10, 6247 - 6255. không bệnh.Cheang và cộng sự (2018) cũng cho 3. Cuzick J., Dowsett M., Pineda S. và cộng sự. thấy thang điểm IHC4 rất hữu ích trong việc dự đoán (2011). Prognostic value of a combined estrogen tái phát lâu dài ở những bệnh nhân ung thư vú receptor, progesterone receptor, Ki-67, and không bệnh sau 2 - 3 năm. Nghiên cứu của các tác human epidermal growth factor receptor 2 giả là thử nghiệm đầu tiên cho thấy việc sử sụng immunohistochemical score and comparison rộng rãi thang điểm IHC4+C để chỉ định tiên lượng with the Genomic Health recurrence score in cho những bệnh nhân đã được trị liệu nội tiết 2-3 early breast cancer. J Clin Oncol Off J Am Soc năm và vẫn sống không bệnh sau 2 - 3 năm[11]. Clin Oncol, 29(32), 4273 - 4278. Cũng trong năm này, nghiên cứu của Prakash và cộng sự đã chứng tỏ IHC4 là một yếu tố dự báo tiên 4. Overview | Early and locally advanced breast lượng có ý nghĩa trong bốn phương pháp được xét cancer: diagnosis and management | | NICE. nghiệm (Ki67, phân típ phân tử, PREDICT). Trong trường hơp không có công cụ nào tiên lượng chính 5. Smith S.G., Foy R., McGowan J.A. và cộng sự. (2017). Prescribing tamoxifen in primary care for xác, giá cả hợp lí, thì có thể áp dụng thay thế thang the prevention of breast cancer: a national online điểm để phân tầng nguy cơ bệnh nhân UTV có thụ survey of GPs’ attitudes. Br J Gen Pract, thể nội tiết dương tính giai đoạn sớm. Nghiên cứu cũng chỉ ra rằng tỉ lệ sống không tái phát xa ở nhóm 67(659), e414 - e427. nguy cơ thấp, trung bình, cao lần lượt là 96.88%, 6. Elsamany S., Elmorsy S., Alzahrani A. và cộng 95%, 89.96% (p = 0.028). Tuy nhiên, cũng như các sự. (2015). Predictive Value of IHC4 Score for xét nghiệm khác tác giả cũng nhận thấy các hạn chế Pathological Response to Neoadjuvant của công cụ IHC4 về xác nhận việc xét nghiệm Chemotherapy in Hormone Receptor-Positive HMMD thiếu chuẩn hóa ở các phòng xét nghiệm Breast Cancer. Asian Pac J Cancer Prev khác nhau[7]. APJCP, 16(17), 7975 - 7979. KẾT LUẬN 7. Prakash C., Gunda A., Attuluri A.K. và cộng sự. Qua nghiên cứu 164 trường hợp được chẩn đoán (2018). Risk stratification in early-stage estrogen receptor+/HER2-breast cancer patients: ung thư vú xâm nhập có thụ thể nội tiết dương tính Comparative analysis of cost-effective methods. được mổ tại bệnh viện K cơ sở Quán sứ từ 1/2017 đến J Curr Oncol, 1(1), 5. 12/2018, chúng tôi rút ra một số kết luận sau: - Nhóm nguy cơ cao chiếm tỉ lệ cao nhất là 8. Galea M.H., Blamey R.W., Elston C.E. và cộng 51.2%, nhóm nguy cơ thấp ít gặp nhất chiếm 9.8%. sự. (1992). The Nottingham Prognostic Index in primary breast cancer. Breast Cancer Res Treat, - Trong các bệnh nhân ung thư vú nguy cơ cao, 22(3), 207 - 219. tỉ lệ bệnh nhân ở giai đoạn II cao, đa số mô u có độ 9. Tan W., Luo W., Jia W. và cộng sự. (2016). A mô học, tỉ lệ xâm nhập mạch, di căn hạch cao, chỉ số tiên lượng Nottingham đa số là trung bình và xấu; combination of Nottingham prognostic index and ngược lại ở những bệnh nhân ung thư vú nguy cơ IHC4 score predicts pathological complete thấp, các tỉ lệ này đều thấp hơn; sự khác biệt này response of neoadjuvant chemotherapy in không có ý nghĩa thống kê với p >0.05. estrogen receptor positive breast cancer. Oncotarget, 7(52), 87312 - 87322. - Bệnh nhân có giá trị IHC4 cao có xu hướng có 10. Liu Y.L., Saraf A., Lee S.M. và cộng sự. (2016). thời gian sống thêm toàn bộ ngắn hơn so với nhóm có giá trị IHC4 thấp, sự khác biệt này không có ý Lymphovascular Invasion is an Independent nghĩa thống kê (p>0.05). Predictor of Survival in Breast Cancer after Neoadjuvant Chemotherapy. Breast Cancer Res TÀI LIỆU THAM KHẢO Treat, 157(3), 555 - 564. 1. Bray F., Ferlay J., Soerjomataram I. và cộng sự. 11. Cheang M.C.U., Bliss J.M., Viale G. và cộng sự. (2018). Global cancer statistics 2018: (2018). Evaluation of applying IHC4 as a GLOBOCAN estimates of incidence and prognostic model in the translational study of mortality worldwide for 36 cancers in 185 Intergroup Exemestane Study (IES): PathIES. countries. CA: A Cancer Journal for Clinicians, Breast Cancer Res Treat, 168(1), 169 - 178. 2. Cheng Y., Yan Y., Gong J. và cộng sự. (2018). Trends in incidence and mortality of female TẠP CHÍ UNG THƯ HỌC VIỆT NAM 495
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2