Chương 2 TRIẾT HỌC PHƯƠNG ĐÔNG VÀ TRIẾT HỌC PHƯƠNG TÂY
N I DUNG
Ộ
Tri
t h c ph
ng Đông
ế ọ
ươ
I
II1
Tri
ế ọ Ấ
t h c n Đ c đ i ộ ổ ạ
Tri
ế ọ
t h c Trung Hoa c đ i ổ ạ
2
1. Triết học Ấn Độ cổ đại
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát
triển của các học phái triết học ÂĐCĐ
1.2. Đặc điểm của THÂĐCĐ
1.3. Triết học Phật giáo
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và
phát triển của các học phái triết học AĐCĐ
ÂĐCĐ là một bán đảo rộng lớn bao gồm toàn bộ lãnh thổ của ÂĐ,
Băngladet, Nêpan và một phần Pakixtan ngày nay. Điều kiện địa lý tự
nhiên ở đây hết sức phong phú đa dạng với 2 con sông lớn là sông Ấn và
Sự tồn tại rất sớm và kéo dài của mô hình “công xã nông thôn” dựa
sông Hằng, là cơ sở tạo nên tính đa dạng về VH của Ân độ.
trên sự quốc hữu hóa về TLSX, và chế độ phân chia đẳng cấp nghiệt ngã:
4 đẳng cấp lớn: Tăng lữ (Brahman những người làm nghề cầu cúng), Quý
tộc, Bình dân, Nô lê. Ngòai ra, còn có một bộ phận được coi là ngoài là
đẳng cấp, cùng đinh, hạ đẳng. Do sự thống trị của đạo Bàlamôn lúc đó
chủ trương một hình thức định mệnh: sinh ra ở giai cấp nào thì mãi mãi
phải ở giai cấp ấy.
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và
phát triển của các học phái triết học AĐCĐ
LS ÂĐCĐ được chia thành 3 thời kỳ:
Thời kỳ thứ nhất: khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba đến giữa thiên niên
kỷ thứ 2 TCN: Thời kỳ Văn minh sông Ấn (VM Harappa).
Thời kỳ thứ 2: từ giữa thiên niên kỷ thứ 2TCN đến TK VII TCN: Thời kỳ
Văn minh Veđa.
Thời kỳ thứ ba: từ TK VII đến TK I TCN: Là thời kỳ hình thành các
trường phái TH –TG.
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và
phát triển của các học phái triết học AĐCĐ
Thời kỳ thứ nhất: khoảng giữa thiên niên kỷ thứ ba đến giữa thiên
niên kỷ thứ 2 TCN: Văn minh sông Ấn (VM Harappa).
+ Thời kỳ này xã hội ÂĐ đã vượt qua trình độ nguyên thủy, tiến vào
giai đoạn VM; Chủ nhân của nền VM này là tộc người Đraviđa sống chủ
yếu ở vùng lưu vực sông Ấn;
+ Nền nông nghiệp, thủ CN và thương nghiệp đã phát triển tới một
trình độ nhất định, đã có những thành phố được xây dựng theo một quy
hoạch thống nhất
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và
phát triển của các học phái triết học AĐCĐ
+ CN đúc đồng, dệt bông len, điêu khắc, đồ gốm sứ đạt tới trình độ khá tinh
xảo; đã có dấu hiệu chữ viết (được tìm thấy trên các di tích đồ đồng và đất
nung); đã có những phát minh quan trọng trong các lĩnh vực: toán học (chữ
số Ả rập), y học, thiên văn, lịch pháp….
+ Đến thiên niên kỷ thứ 2 TCN, bộ lạc du mục Arya từ Trung Á xâm nhập
vào ÂĐ chinh phục nền VM sông Ấn của người Đraviđa, nhưng do nền VH
bản địa có trình độ cao hơn nên người Arya tuy là kẻ chiến thắng nhưng đã
bị VH của người Đraviđa đồng hóa trở lại: người Arya hòa nhập với dân bản
xứ sử dụng tiếng Phạn và theo tôn giáo đa thần, thờ các thần tự nhiên như:
thần Sấm; thần Lửa, thần Nước, thần Sông biển.
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học AĐCĐ
Thời kỳ thứ 2: từ giữa thiên niên kỷ thứ 2TCN đến TK VII TCN: Thời
kỳ VM Veđa.
+ Veđa là tên của một bộ kinh cổ nhất ở ÂĐ có nghĩa là tri thức, hiểu
biết của đạo Bàlamôn (Ấn độ giáo). Đây vừa là một tác phẩm VH, vừa là
tác phẩm LS, TG, TH và là suối nguồn của toàn bộ tư tưởng của TH ÂĐ
sau này.
+ Bộ kinh này sau bị chỉ trích vì chỉ chú trọng vào nghi lễ, nên một số
người đã đứng ra soạn thảo kinh Upanisad cho đạo Bàlamôn, kinh này
quan tâm nhiều hơn đến sự giải thoát cá nhân
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học AĐCĐ
Thời kỳ thứ ba: từ TK VII đến TK I TCN: Là thời kỳ hình thành các
trường phái TH –TG.
+ Theo cách phân chia truyền thống gồm 9 trường phái:
6 trường phái chính thống (thừa nhận tư tưởng của kinh Vêda và đạo
Balamon) là: Samkhya, Mimansa, Vedanta, Yoga, Nyaya và Vaisesika;
3 trường phái không chính thống là Jaina, Lokayata và Buddha (PG)
1.2. Đặc điểm của THÂĐCĐ
THÂĐ đã thể hiện tính BC và tinh thần khái quát khá sâu sắc.
VD: “tính không” là khái niệm trung tâm của PG đem đối lập “không”
(không thực thể, tính vô ngã, vô thường, duyên khởi của SV) và “sắc” (có
– hình thái tổ hợp vật chất), quy cái có về cái không thể hiện một trình độ
Chịu ảnh hưởng lớn của tư tưởng TG. Giữa TH và TG rất khó phân
TDTT cao.
biệt. Các hệ thống THTGÂĐ đều tập trung lý giải và thực hành những vấn
đề nhân sinh quan dưới góc độ tâm linh TG nhằm đạt tới sự “giải thoát”
sự đồng nhất tinh thần cá nhân (Atman) với tinh thần vũ trụ (Brahman)
1.2. Đặc điểm của THÂĐCĐ
Đi sâu giải thích nhân sinh là một đặc điểm nổi bật và có ưu thế của
THÂĐCĐ, có xu hướng đi từ vô thần đến hữu thần, ít nhiều DV đến DT
Các nhà triết học thường kế tục mà không gạt bỏ hệ thống TH có
hay nhị nguyên
trước
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
PG du nhập vào VN theo 2 con đường:
Trực tiếp từ Ấn Độ (khoảng TK III TCN) nên từ Buddha (bậc giác ngộ)
Vào thế kỷ thứ 45, do ảnh hưởng của Phật giáo Hán hoá đến từ
được phiên âm trực tiếp thành "Bụt“.
Trung Quốc mà từ "Bụt" bị mất đi và được thay thế bởi từ "Phật". Trong
tiếng Hán, từ Buddha được phiên âm thành "Phật đà", "Phật đồ" rồi được
Toàn bộ tư tưởng PG được thể hiện trong kinh điển của PG bao gồm:
rút gọn thành "Phật".
Kinh tạng, Luật tạng và Luận tạng
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Đôi nét về người sáng lập:
Người sáng lập là Siddharta (Tất Đạt Đa Cồ Đàm) sinh vào rằm tháng
4 âm lịch năm 624 TCN (Lễ phật đản: ngày sinh của đức Phật;) tại
Mất 544 TCN (nhập Niếtbàn được tính là năm đầu của Phật lịch), tại
Lumbini (nay thuộc Nêpan),
Kushinagar (nay thuộc Ấn độ), thọ 80 tuổi, người thuộc bộ tộc Shakya,
trong một gia đình hoàng tộc thuộc dòng Thíchca.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Có nhiều truyền thuyết về thái tử Tấtđạtđa. Có thuyết cho rằng một
đêm bà mẹ nằm mơ thấy một vị Bồ Tát với dạng con voi trắng nhập vào
người mình. Thái tử sinh ra từ hông bên mặt của mẹ, sau đó đi bảy bước,
và dưới mỗi bước chân của thái tử phát sinh một đoá sen. một tay chỉ lên
trời, tay kia chỉ xuống đất, nói: "Thiên thượng địa hạ duy ngã độc tôn",
nghĩa là "Trên trời dưới đất chỉ có ta là người đáng tôn kính"
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Các nhà tiên tri cho rằng Tấtđạtđa sẽ trở thành hoặc một đại đế hay
một bậc giác ngộ. Vua cha Tịnh Phạn dĩ nhiên không muốn thái tử đi tu
nên dạy dỗ cho con rất kỹ lưỡng, nhất là không để Tấtđạtđa tiếp xúc với
Năm lên 16 tuổi, Tấtđạtđa kết hôn với công chúa Daduđàla. Tuy
cảnh khổ.
thế, sau bốn lần ra bốn cửa thành và thấy cảnh người già, người bệnh,
người chết và một vị tu sĩ, thái tử phát tâm rồi từ biệt hoàng cung, sống
cảnh không nhà. Thái tử thấy rằng ba cảnh đầu tượng trưng cho cái Khổ
trong thế gian và hình ảnh tu sĩ chính là cuộc đời của Tấtđạtđa.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Năm 19 tuổi thái tử rời bỏ hoàng cung. Sau khi giác ngộ ở tuổi 31
được tôn vinh là Sakyamuni (Thích ca Mâu ni – bậc thánh của bộ tộc
Sakya, "Trí giả của dòng dõi Thíchca").
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Về bản thể luận:
PG nhìn nhận thế giới tự nhiên cũng như nhân sinh bằng sự phân tích
nhân quả: nhân nào quả nấy,nhân quả là một chuỗi liên tục, không gián
đoạn, không hỗn loạn
Bằng sự phân tích nhân quả PG cho rằng: không thể tìm ra một NN
đầu tiên cho vụ trụ, tức là không có một tối cao (Brahman) nào sáng tạo ra
vũ trụ
PG cũng phủ định phạm trù Atman (vô ngã): PG CR tất cả SVHT xung
quanh con người cũng như bản thân con người không tồn tại thực, chỉ là ảo,
là giả, do vô minh (sự không sáng suốt của con người đưa lại).
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Mọi vật đều đc cấu tạo từ các yếu tố VC (Sắc) và tinh thần (Danh).
Sắc là yếu tố VC bao gồm tứ đại: địa, thủy, hỏa, phong. Danh là cảm giác,
ấn tượng, TD nói chung gồm: thụ, tưởng, hành, thức
Thuyết vô thường:
+ Bản chất sự tồn tại của thế giới là một dòng biến chuyển liên tục,
không thể tìm ra nguyên nhân đầu tiên, cũng không có kết qủa cuối cùng
(vô thủy, vô chung), không có gì là tồn tại vĩnh hằng, bất biến, mọi vật đều
biến đổi liên tục, (vạn pháp vô thường), không có gì là thường định, bởi
Danh và Sắc chỉ hội tụ với nhau trong một thời gian ngắn rồi lại chuyển
sang trạng thái khác.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
+ Thế giới SVHT luôn ở trong một chu trình biến hóa không ngừng là
sinh – trụ dị diệt (hoặc thành – trụ hoại – không), ở con người là sinh
– lão – bệnh – tử. Đó là quá trình biến hóa theo quy luật nhân quả mãi
mãi. Một SV ra đời là do có NN trước nó, nhưng đồng thời nó lại trở thành
NN của cái sau nó
Thuyết duyên khởi: Mọi hiện tượng tâm lý, vật lý tạo nên đời sống
đều nằm trong mối liên hệ với nhau, chúng là NN của một yếu tố này và
là kết quả của một yếu tố khác, làm thành một vòng với 12 yếu tố, các
yếu tố này làm cho các loài sinh vật cứ mãi vướng mắc trong Luân hồi
Tư tưởng bản thể luận trong THPG có tính chất nhị nguyên nhưng
trong đó chứa đựng những yếu tố BC khá sâu sắc
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Về triết lý nhân sinh
PG đặt vấn đề tìm kiếm mục tiêu nhân sinh ở sự “giải thoát” khỏi Luân
hồi và Nghiệp báo, đạt tới trạng thái Niết bàn.
PG giải thích sự Luân hồi, Nghiệp báo dựa trên luật nhân quả. Sự
sống chết của con người chỉ là sự hợp tan của ngũ uẩn. Sau khi chết đi,
con người có thể tái sinh trở lại các kiếp khác: Trời, Người, Atula, Quỷ, Súc
sinh. .. Sự luân hồi giống như bánh xe quay tròn không dứt. Sự tái sinh trở
lại kiếp nào là quả là phụ thuộc vào nghiệp (nhân) mà con người tạo ra lúc
còn sống.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Nghiệp được chia ra làm nhiều loại:
Do mình gây ra gồm thân nghiệp, khẩu nghiệp, ý nghiệp.
Những người thân trong dòng họ gây ra như ông bà, anh chi em, …
có mức độ tác động nặng nhẹ khác nhau.
Tất cả các nghiệp ấy đc phân thành hai loại: Nghiệp thiện và nghiệp
ác. Toàn bộ các nghiệp hợp lại với nhau hình thành nên nghiệp lực.
Tùy theo nghiệp lực là thiện hay ác mà chuyển vào ngũ uẩn, dẫn
dắt con người tới sự tái sinh trong những kiếp này hoặc kiếp khác. Đời
người là bể khổ trầm luân là do bị chìm đắm trong vòng luân hồi.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
PG chỉ ra lối thoát khỏi Luân hồi trong tứ diệu đế (Bốn chân lý
tuyệt diệu thiêng liêng) gồm khổ đế, nhân đế, diệt đế và đạo đế.
Khổ đế: CR đời người là bể khổ, Khổ là bản chất cuộc sống
của con người.
Nếu xét theo hình thức sự việc thì có bát khổ (tám loại khổ):
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Tam khổ là ba nỗi khổ xét theo nguyên nhân và mức độ gây khổ, gồm:
Khổ khổ là khổ vì những sự khổ của thế tục. Đây là mức độ khổ thấp nhất
mà ai cũng cảm nhận được.
Hoại khổ nghĩa là khổ vì sự thay đổi. Sự vật luôn thay đổi, vì vậy sau một
thời gian thì những kinh nghiệm tưởng chừng là vui sướng đó chỉ còn là sự
nhàm chán, không thỏa mãn, sự vui sướng rồi cũng mất đi.
Hành khổ nghĩa là khổ vì duyên sinh, tức trạng thái khổ ở kiếp này không
chỉ là nền tảng cho cái khổ trong kiếp này mà còn là nền tảng cho đau khổ
trong kiếp sau. Sự nhận biết về khổ ở mức độ này là sâu sắc nhất.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Nhân đế: Nguồn gốc, nguyên nhân của thực trạng đau khổ Khổ có
nhiều nguyên nhân, trg đó có 3 nguyên nhân chính là tham, sân, si (Tam
độc, sở dĩ gọi như vậy vì ba thứ này làm cho vô tuệ giác bị che lấp, dẫn đến
phiền não. Nó luôn xuất hiện trong mỗi con người chúng ta)
Tham: tham lam, Ham muốn thái quá.
Sân: nóng giận, thù hận, ghét bỏ nhg điều kg như ý, không còn đủ
bình tĩnh để tự kiểm soát hành vi và ngôn ngữ của mình
Si là si mê, vô minh, ngu tối. Người vô minh không sáng suốt,
không suy xét hiểu biết đúng lẽ phải, đúng sự thật để phán đoán việc hay
dở, tốt xấu, lợi hại v.v… nên mới làm những điều nhiễm ô tội lỗi, có hại cho
mình và người.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Những NN ấy kết hợp với duyên, tạo thành thập nhị nhân duyên( 12 cái
vừa là nhân, vừa là duyên) gồm:
Vô minh: Sự không thấu hiểu Tứ diệu đế, không hiểu Khổ là tính chất
căn bản của đời sống
Hành: Vô minh sinh Hành, là hành động tạo nghiệp. Hành động này có
thể tốt, xấu hay trung tính. Hành có thể trong 3 dạng: thân, khẩu, ý
Thức: Hành sinh Thức, lựa chọn cha mẹ đúng như hành tốt xấu quy định
Danh sắc: Thức sinh Danh sắc, là toàn bộ tâm lý và vật lý của bào thai
mới, do ngũ uẩn tạo thành
Lục căn: Danh sắc sinh lục căn, là 6 giác quan, sáu căn gồm 5 giác
quan và khả năng suy nghĩ
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Xúc: Lục căn tiếp xúc với bên ngoài
Thụ: Xúc sinh Thụ là cảm nhận của con người với thế giới bên ngoài
Ái: Thụ sinh Ái, lòng ham muốn xuất phát từ vô minh
Thủ: Ái sinh Thủ: điều cá nhân mới muốn chiếm lấy cho mình
Hữu: Thủ dẫn đến Hữu: là toàn bộ những gì ta gọi là tồn tại, sự sống,
thế giới
Sinh: Hữu dẫn đến sinh: một thế giới và cá nhân mới xuất hiện
Lão tử: Sinh sinh ra Lão tử, vì có sinh nên có hoại diệt
Sự Luân hồi sinh tử không dứt của con người đều do sự chi phối,
quyết định của thập nhị nhân duyên
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Diệt đế: khẳng định khổ có thể tiêu diệt đc. Con người có thể thoát khỏi
vòng quay của luân hồi nghiệp báo để đạt tới cõi Niết bàn. Để thoát khỏi
Đạo đế: là thuyết về con đường và phương pháp tu luyện để diệt khổ,
bể khổ thì phải tận diệt đc các NN sinh ra sự khổ.
giải thoát khỏi khỏi luân hồi sinh tử, vượt lên trên sự vô minh, những vướng
bận bởi sự sống chết hay khổ đau nhằm đạt tới sự trong sáng thuần khiết,
sự siêu thoát của tâm thức.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Có 8 nguyên tắc (bát chính đạo) để đi đến sự giải thoát, đó là
+ Chính kiến: hiểu biết đúng đắn;
+ Chính TD: suy nghĩ đúng đắn;
+ Chính ngữ: lời nói đúng đắn;
+ Chính nghiệp: tạo nghiệp tốt, tránh nghiệp xấu;
+ Chính mệnh: giữ ngăn dục vọng;
+ Chính tinh tiến: rèn luyện tích cực, tu luyện không mệt mỏi;
+ Chính niệm: có niềm tin vào sự giải thoát;
+ Chính định: tập trung tư tưởng cao độ.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Sau khi Đức Phật mất (nhập diệt), PG đc chia thành hai bộ phận:
Thượng tọa bộ và Đại chúng bộ.
Phái Thượng tọa bộ chủ chương duy trì giáo lý cùng cách hành đạo
thời Đức phật tại thế
Phái Đại chúng bộ chủ trương cải cách giáo lý và hành đạo cho phù
hợp với thực tế.
500 năm sau khi Phật nhập diệt, PG Đại thừa phát triển rất mạnh, từ đó,
PG bắt đầu mở rộng về hướng Trung đông, TQ, NB, VN.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
T
rong khi đó, ở ÂĐ nảy sinh tình trạng tranh chấp giữa PG và Balamôn
giáo, mâu thuẫn giữa PGNT (Thượng tọa bộ) và Đại chúng bộ (PG Đại
thừa), ý nghĩa giải thoát trong đạo Phật bị lu mờ, QCND ÂĐ mất tín tâm,
họ quay trở về với đạo gốc của họ là Bàlamôn giáo đặt nền tảng trên sự
K
cầu nguyện.
ể từ đó PG trên đất Ấn độ suy yếu dần và hoàn toàn sụp đổ trước sự tấn
công của Hồi giáo vào TK XII khi ÂĐ bị xâm chiếm. (PG ra đời như là một
hình thức cải tiến đạo Bàlamôn nhưng sau này dễ bị quân đạo Hồi giáo
tiêu diệt khi xâm chiếm ÂĐ vì PG chủ trương thiết lập những đại học to lớn
gồm hàng ngàn tu sĩ, nơi tập trung đông đảo về nhân sự nên dễ bị tiêu
diệt, ÂĐ giáo dựa vào cấu trúc gia đình vì thế khó bị hủy diệt hơn)
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Đến TK XIII, có thể nó ở ÂĐ người dân hoàn toàn không biết đến PG,
trong lúc đó PGĐT lại phát triển rất mạnh ở VN, TQ, NB, HQ.. Vào đầu
thế kỷ thứ 19, Phật Giáo vẫn không được biết đến ở Ấn Ðộ, nơi nó được
sinh ra, lớn lên, và đạt đến những thành tựu cao nhất. Không có chùa
chiền, không có Văn Học, không có tín đồ. Ngay cả tên Phật Ðà cũng bị
xóa trong ký ức của người Ấn Ðộ.
1.3. Triết học Phật giáo (Buddha)
Khi ÂĐ được độc lập vào năm 1947, thoát khỏi sự đô hộ của người
Anh, thì cố thủ tướng Nehru Gandhi là người có công lớn trong việc phục
hồi PG trên đất Ấn Độ. Ngày 15 tháng 8 năm 1947 Quốc Hội thông qua
Nghị quyết về lá quốc kỳ do Gandhi đề nghị có ba màu xen kẽ nhau theo
chiều ngang. Chính giữa cờ, trên nền màu trắng là một bánh xe màu
xanh da trời. Bánh xe mang ý nghĩa Bánh xe Dharma, Bánh Xe Pháp
Luân tượng trưng cho Giáo Pháp của Ðức Phật vào trở thành biểu tượng
của tự do, thịnh vượng và hạnh phúc cho nhân dân Ấn Ðộ.
2. Triết học Trung Hoa cổ đại
2.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát
triển của các học phái triết học THCĐ
2.2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ đại
2.3. Triết học Nho giáo
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học THCĐ
Trung Hoa cổ đại là một quốc gia rộng lớn, có lịch sử lâu đời từ cuối
thiên niên kỷ III tr. CN kéo dài tới tận thế kỷ III tr. CN với sự kiện Tần Thủy
Trong hơn 2000 năm lịch sử ấy, lịch sử Trung Hoa được phân chia làm
Hoàng thống nhất Trung Hoa mở đầu cho thời kỳ phong kiến.
2 thời kỳ lớn:
Thời kỳ thứ nhất: ( Thời kỳ từ thế kỷ IX tr. CN trở về trước) Có các
triều đại nhà Hạ, nhà Thương và nhà Tây Chu.
Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu (từ thế kỷ VIII tr. CN đến cuối
thế kỷ III tr. CN, còn gọi là thời kỳ Xuân Thu Chiến quốc), thời kỳ chuyển
biến từ chế độ chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến.
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học THCĐ
Nhà Hạ ra đời vào khoảng thế kỷ XXI tr. CN. Khoảng nửa đầu thế kỷ
XVII tr. CN, người đứng đầu bộ tộc Thương là Thành Thang đã lật đổ nhà
Hạ, lập ra nhà Thương. Đến thế kỷ XVI tr. CN, Bàn Canh rời đô về đất Ân
nên nhà Thương còn gọi là nhà Ân. Vào khoảng thế kỷ XI tr. CN, Chu Vũ
Vương đã giết vua Trụ nhà Ân lập ra nhà Chu (giai đoạn đầu là Tây Chu),
Nhà Chu đã thực hiện quốc hữu hóa về tư liệu sản xuất rất nghiêm
đưa chế độ nô lệ ở Trung Hoa lên đỉnh cao.
ngặt, tất cả đều thuộc quyền quản lý của vua nhà Chu. Đồng thời, thành lập
những đô thị lớn tạo nên sự đối lập rất lớn giữa thành thị và nông thôn.
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học THCĐ
Trong đời sống tinh thần, thế giới quan thần thoại, tôn giáo và chủ
nghĩa duy tâm thần bí thống trị. Những tư tưởng triết học đã xuất hiện,
nhưng chưa đạt tới mức là một hệ thống. Lúc này cũng đã xuất hiện
những quan niệm có tính chất duy vật mộc mạc, những tư tưởng vô thần
Về khoa học, họ đã phát minh ra chữ viết và dựa vào sự quan sát vận
tiến bộ
hành của mặt trăng, các vì sao, tính chất chu kỳ của nước sông và quy
luật sinh trưởng của cây trồng mà họ đã biết làm ra lịch (Âm lịch)
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học THCĐ
Thời kỳ thứ hai: là thời kỳ Đông Chu:
Sự phát triển của sức sản xuất đã tác động mạnh mẽ đến hình thức sở
hữu ruộng đất và kết cấu giai tầng của xã hội. Nếu dưới thời Tây Chu, đất
đai thuộc sở hữu của nhà vua thì nay thuộc về tầng lớp địa chủ mới lên và
chế độ sở hữu tư nhân về ruộng đất hình thành. Từ đó, sự phân hóa sang
Xã hội lâm vào cảnh loạn lạc, rối ren và chiến tranh xảy ra liên miên.
hèn dựa trên cơ sở tài sản xuất hiện.
Đây chính là điều kiện lịch sử đòi hỏi giải thể chế độ nô lệ thị tộc nhà Chu,
hình thành chế độ phong kiến; đòi hỏi giải thể nhà nước của chế độ gia
trưởng, xây dựng nhà nước phong kiến nhằm giải phóng lực lượng sản xuất,
mở đường cho xã hội phát triển.
1.1. Điều kiện kinh tế xã hội cho sự ra đời và phát triển của các học phái triết học THCĐ
Sự phát triển sôi động của xã hội làm xuất hiện trung tâm của những "kẻ
sĩ" luôn tranh luận về trật tự xã hội cũ và đề ra những mẫu hình của một xã
hội trong tương lai. Lịch sử gọi đây là thời kỳ "Bách gia chư tử" (trăm nhà
Trong quá trình ấy đã sản sinh ra những nhà tư tưởng lớn và hình thành
trăm thầy), "Bách gia tranh minh" (trăm nhà đua tiếng).
nên các trường phái triết học khá hoàn chỉnh. Có chín trường phái triết học
chính (gọi là Cửu lưu hay Cửu gia) là: Nho gia, Mặc gia, Đạo gia, Âm dương
gia, Danh gia, Pháp gia, Nông gia, Tung hoành gia, Tạp gia.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ đại
Thứ nhất, lấy con người và xã hội làm trung tâm của sự nghiên cứu,
có xu hướng chung là giải quyết những vấn đề thực tiễn chính trị đạo
đức của xã hội, bởi vậy, THTHCĐ thường nhấn mạnh tinh thần nhân văn,
chú trong đến các tư tưởng triết học liên quan đến con người: TH nhân
Thứ hai, chú trọng đến lĩnh vực chính trị đạo đức của xã hội, coi
sinh, TH chính trị, TH đạo đức…, còn triết học tự nhiên có phần mờ nhạt.
việc thực hành đạo đức là hoạt động thực tiễn căn bản nhất của một đời
người.
1.2. Đặc điểm của triết học Trung Hoa cổ đại
Thứ ba, nhấn mạnh sự thống nhất hài hòa giữa tự nhiên và xã hội,
Thứ tư, đặc điểm nổi bật của phương thức tư duy của triết học Trung
phản đối sự "thái quá" hay"bất cập".
Hoa cổ, trung đại là nhận thức trực giác, coi trọng tác dụng của cái "Tâm",
coi đó là gốc rễ của nhận thức.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Là học thuyết chính trị XH, chứa nhiều tư tưởng TH sâu sắc. Ra đời
vào cuối thời kỳ Xuân thu (giữa TK VI TCN) và trở thành học thuyết có ảnh
hưởng lớn nhất ở TQ. Từ thời nhà Hán đến thời nhà Thanh, Nho giáo trở
Người sáng lập là Khổng tử (551 – 479 TCN). Khổng tử tên là Khâu, tự
thành hệ tư tưởng giữ địa vị thống trị trg XH
là Trọng Ni, vốn là người Tống, sinh ra ở nước Lỗ (nay thuộc huyện Khúc
Phụ, tỉnh Sơn Đông). Ông là nhà chính trị, nhà triết học, nhà giáo dục vĩ
Đến thời Chiến quốc Nho gia được Mạnh tử và Tuân tử phát triển theo
đại trong lịch sử TQ.
2 xu hướng khác nhau: DV va DT. Trong đó dòng Nho gia Khổng Mạnh
có ảnh hưởng rộng và lâu dài nhất trong lịch sử Trung Hoa và một số nước
lân cận. Ba nhà tư tưởng này là đại biểu tiêu biểu của Nho giáo thời kỳ
Xuân thu – Chiến quốc ( Nho giáo tiên Tần, Nho giáo nguyên thủy).
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Kinh điển của Nho giáo gồm Tứ Thư và Ngũ kinh:
Đầu tiên có 6 bộ sách lớn là Kinh Thư, Thi, Lễ, Nhạc, Dịch và Xuân
Thu. Đến thời nhà Tần, bộ kinh Nhạc bị thất truyền, chỉ còn lại Ngũ kinh.
Các học trò của Khổng tử căn cứ vào Lục kinh và những lời Khổng tử
dạy học trò, những lời đàm thoại của Khổng tử với những người khác viết
thêm đc 4 bộ sách nữa (Tứ thư) là Luận Ngữ, Mạnh tử (do Mạnh tử viết),
Đại học do Tăng sâm viết), Trung Dung (do Tử Tư viết).
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Về bản thể luận: Trong quan niệm về thế giới, tư tưởng của Khổng Tử
Một mặt, ông thừa nhận sự vật, hiện tượng trong tự nhiên luôn luôn tự
có những mâu thuẫn, thể hiện ở chỗ:
vận động, biến hóa không phụ thuộc vào mệnh lệnh của Trời. Trong Luận
ngữ , KT nói: “Thiên hà ngôn tai, tứ thời hành yên, vạn vật sinh yên, Thiên
hà ngôn tai!” (“Trời có nói gì đâu! Bốn mùa vẫn vận hành, vạn vật vẫn sinh
Đồng thời, ông CR: Ý trời là “thiên mệnh” đc hiểu như một lực lượng
hóa mãi. Trời có nói gì đâu!). Bộc lộ lập trg DV chất phác của ông.
khách quan thần bí chi phối mọi mặt đời sống con người như sống chết,
giàu nghèo, sang hèn…. Hoặc trong ba điều sợ của người quân tử (sợ
mệnh trời, sợ lời nói của thánh nhân, sợ đại nhân) thì điều sợ đầu tiên là sợ
mệnh trời. Thể hiện lập trg DTKQ của ông
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Trong qn về quỷ thần, một mặt, ông tuyên truyền sức mạnh của quỷ
thần, chủ trương kính trọng quỷ thần vì quỷ thần là do khí thiêng trong trời
đất tạo thành, tuy nhìn mà không thấy, lắng mà không nghe, thể nghiệm
mọi vật mà không bỏ sót, với quỷ thần, mọi người phải cung kính, quỷ thần
có ở mọi nơi. Nhưng mặt khác ông cho rằng “kính nhi viễn chi” (tránh xa)
đối với quỷ thần, ông còn nhấn mạnh vai trò quan trọng của năng lực chủ
Đến các thế hệ học trò của ông, trừ Tuân tử, tư tưởng Thiên mệnh đc
quan, hoạt động của con người trong đời sống.
khẳng định nhất quán hơn, trở thành một trong những tư tưởng cơ bản của
Nho giáo, chi phối, ảnh hưởng nhiều đến các tư tưởng khác.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Về chính trị XH: Xuất hiện trong bối cảnh lịch sử quá độ sang xã
hội phong kiến, một xã hội đầy những biến động loạn lạc và chiến tranh
nên lý tưởng của Nho gia là xây dựng một "xã hội đại đồng", “XH hòa”. Xã
Là XH khg có bạo lực, kg có đấu tranh, tranh giành lợi ích.
hôi này có đặc điểm:
Theo KT, “háo dũng tật, bần loạn dã”: (ưa dùng vũ lực, chán ghét cảnh
nghèo là mầm mống của loạn);
“Quân tử vô sở tranh:( người quân tử khg có gì đáng phải tranh giành),
“Bần nhi vô oán”, “An bần nhi lạc”, còn người nghèo, thuộc tầng lớp dưới thì
an phận, khg oán trách, lấy nghèo làm vui
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Đó là một xã hội có trật tự trên dưới, có vua sáng tôi hiền, cha từ
con thảo, trong ấm ngoài êm trên cơ sở địa vị và thân phận của mỗi thành
viên từ vua chúa, quan lại đến thứ dân. “quân nhân thần trung, phụ từ tử
Các quan hệ trong XH điều hòa, tốt đẹp, theo nguyên tắc hai chiều,
hiếu, phu hòa, thê nhu”
người dưới cần có thái độ an phận, kính trọng nhg người có địa vị thuộc
tầng lớp trên, còn người trên đối với người dưới phải tôn trg
“ Bước ra cửa lúc nào cg phải chỉnh tề như gặp khách quý, sai khiến
dân việc gì cg phải thận trọng”.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Trg các mối quan hệ XH của con người, ông coi quan hệ chính trị, đạo
đức là những quan hệ CB và thâu tóm vào ba mối quan hệ mà ông coi là
Nếu xếp theo tôn ty trật tự, trên dưới thì vua ở vị trí cao nhất, còn nếu
chủ đạo, rường cột: vua tôi, cha con, chông vợ (tam cương).
xếp theo chiều ngang của quan hệ thì vua cha chồng xếp ở hàng làm
chủ. Điều này phản ánh tư tưởng chính trị quân quyền và phụ quyền của
KT đặc biệt đề cao tư tưởng “thân thân” (coi trọng người thân)( VN:
Nho gia.
Một giọt máu đào hơn ao nước lã) và “thượng hiền” (coi trg người hiền tài,
không phân biệt đẳng cấp xuất thân của họ).
2.3. Nho gia (Nho giáo)
XH có cuộc sg thanh bình, trẻ nhỏ đc chăm sóc, người già đc hưởng
Khoảng cách giữa người giàu và người nghèo kg quá đối lập, cách
cuộc sống thanh nhàn (“lão giả an chi”);
biệt cho dù hiện tg phân biệt sg hèn trg XH là khó tránh khỏi. “Không sợ
thiếu, chỉ sợ không đều, kg sợ nghèo, chỉ sợ bất an”. Đó là một XH trg đó
mọi người có sự yêu thg, gần gũi, tôn trg lẫn nhau.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Đường lối chính trị để thực hiện mục tiêu ấy, theo KT cần phải “chính
danh”
Cơ sở hình thành thuyết “chính danh”: Theo ông “vạn vật bất đắc kỳ
sở”, nghĩa là sở dĩ mọi vật tồn tại là vì chúng đều có vai trò, trách nhiệm
riêng, nếu biêt dùng đúng lúc, đúng chỗ (tức là nếu thực hiện “chính danh”
thì sẽ trở nên hữu ích. KT đòi hỏi trg XH cũng phải có chính danh.
“Danh” là tên gọi chỉ vai trò, địa vị của từng người trg nấc thang trật tự
XH. “Thực” là phận sự của từng người bao gồm cả nghĩa vụ, trách nhiệm
và quyền lợi ứng với danh của họ.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Danh phận của mỗi người trước hết là do qhe XH qdinh. Trg XH có
các mqh CB là quân thần (vua tôi), phụ tử (cha con), phu – phụ, (vợ
chồng), huynh – đệ (anh – em), bằng – hữu (bạn – bè). Trg các mqh CB
đó, KT đặc biệt nhấn mạnh ba mqh đầu, coi đó là rường cột trg XH.
Danh và Thực phải phù hợp, thống nhất. Danh và Thực không phù
hợp với nhau gọi là “loạn danh”. Thời đại của KT là thời đại mà ông gọi là
“danh và thực oán trách nhau.
KT CR cần phải thực hiện chính danh” để cho “vua ra vua, tôi ra tôi”.
“Chính danh” là điều căn bản của việc làm chính trị để đưa XH “loạn” trở lại
“trị”. Tuy nhiên, học thuyết này mang tính bảo thủ, bảo vệ cho lợi ích của
quý tộc nhà Chu.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Để chính danh, có thể dùng pháp trị (theo bá đạo) và đức trị nhân
chính (Vương đạo). KT không muốn dùng pháp trị, vì theo ông, dùng pháp
trị là dùng phương pháp cưỡng bức người ta phải thực hiện dẫn đến tâm lý
chống đối, cưỡng lại, từ đó sẽ nảy sinh mầm oán hận, phản loạn, không
bền vững.
KT chủ trương dùng đức trị, tức là dựa vào đạo đức để cảm hóa, giáo
dục thuyết phục mọi người tự giác thực hiện chính danh. Do đó, những
người cầm đầu XH phải là những tấm gương mẫu mực về đạo đức để thần
dân noi theo.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Nho gia lấy giáo dục làm phương thức chủ yếu để đạt tới xã hội lý
tưởng "đại đồng". Do không coi trọng cơ sở kinh tế và kỹ thuật của xã hội
nên nền giáo dục của Nho gia chủ yếu hướng vào việc rèn luyện đạo đức
con người. Trong bảng giá trị đạo đức của Nho gia thì chuẩn mực gốc là
"Nhân". Những chuẩn mực khác như Lễ, Nghĩa, Trí, Tín, Trung, Hiếu.v .v.
đều là những biểu hiện cụ thể của Nhân.
Có 5 tiêu chuẩn đạo đức đc đề cao là Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí và Dũng (sau
này Đổng Trọng Thư bỏ Dũng, thêm Tín, hình thành 5 tiêu chuẩn đạo đức
là Nhân, Nghĩa, lễ, Trí, Tín (Ngũ thường).
2.3. Nho gia (Nho giáo)
+ Nhân là trung tâm trg học thuyết chính trị của KT, là tư tg cốt lõi của Nho
giáo. Nhân bao hàm nhiều nội dung, nhưng NDCB, bao trùm của Nhân là
đạo lý làm người, là “ái nhân” (yêu thg con người,).
+ Từ “ái nhân” đi đến hai nguyên tắc là “kỷ sở bất dục vật thi ư nhân (điều
gì mình khg muốn thì đừng làm cho người khác và “kỷ dục lập nhi lập nhân,
kỷ dục đạt nhi đạt nhân” (mình muốn lập thân thì cg giúp người khác lập
thân, mình muốn thành đạt thì cũng giúp người khác thành đạt).
+ Nhân còn được thể hiện ra nhiều tiêu chuẩn đạo đức khác nữa: trung,
hiếu, tiết nghĩa, cung, kính, khoan hòa, cần mẫn, chính đáng, thật thà,
khiêm nhường, dũng cảm, trách mình hơn trách người, thận trg, biết yêu
người đáng yêu, ghét người đáng ghét.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Tư tg của KT về luân lý, đạo đức nói chung, nhân nói riêng có sự phân
biệt đẳng cấp: KT gọi người có nhân là người quân tử, trượng phu để đối
lập với kẻ tiểu nhân. Thậm chí, trg Luận ngữ, KT nói, có thể có người quân
tử bất nhân, nhg ta chưa hề thấy có kẻ tiểu nhân có nhân bao giờ. KT còn
Nhân của KT vừa thg người, “ái nhân” vừa phải giúp người “cứu nhân”,
cho rằng, thi hành điều nhân phải có sự phân biệt thân sơ, trên dưới.
mà cứu nhân là quan trọng hơn cả. Vì vậy, một người dù quán triệt nhiều
tiêu chuẩn đạo đức Nho giáo nhg không đảm bảo được hai mặt ái nhân và
cứu nhân thì cg chưa đc coi là người có nhân. Phạm trù “Nhân” trg học
thuyết chính trị XH của KT có quan hệ với các phạm trù khác như Lễ, Trí,
Dũng
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Lễ là cách thức thờ cúng trời đất, quỷ thần, vừa là những quy định có
tính pháp luật, thể hiện tôn ty trật tự XH, lại vừa là những phong tục tập
quán, quy tắc ứng xử … mà mọi người từ vua quan cho đến thần dân phải
tuân theo. Thực chất Lễ là một thứ kỷ luật tinh thần để điều chỉnh hành vi
của con người cho đúng với Nhân
“khắc kỷ phục lễ vi nhân”.
Như vậy, Lễ là sự biểu hiện của Nhân, đồng thời là điều kiện để đạt tới
Trí là tri thức, con người phải có tri thức mới thực hành đc điều nhân
điều Nhân.
một cách triệt để. Muốn có tri thức thì phải học tập. Học để tu thân – tề gia
– trị quốc – bình thiên hạ
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Trí là tri thức, con người phải có tri thức mới thực hành được điều
Nhân một cách triệt để. Muốn có tri thức thì phải học tập. Học để tu thân –
Dũng là dũng cảm, dám vì nghĩa quên mình, không sợ cường quyền,
tề gia – trị quốc – bình thiên hạ
Tuy KT ít nói đến chữ Tín, nhưng ông KT coi trg chữ Tín, khẳng định
bạo lực, có như vậy mới thực hiện được cứu nhân
“Tín” là lời nói và việc làm phải thống nhất với nhau. Để giữ vững trật tự XH,
theo KT, điều kiện CB có ý nghĩa quyết định là dân tin vào chính quyền.
Sau này, Đổng Trọng Thư đã xuất phát từ tư tg của KT về tầm quan trg của
chữ tín để XD tư tg về “Ngũ thg”
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Bản tính con người
Việc giải quyết những vấn đề chính trị xã hội đòi hỏi Nho gia cũng như
nhiều học thuyết khác của Trung Hoa thời cổ phải đặt ra và giải quyết vấn
đề bản tính con người.
Trong học thuyết Nho gia không có sự thống nhất quan điểm về vấn
đề này, nhưng nổi bật là quan điểm của Mạnh Tử. Theo ông, "bản tính con
người vốn là thiện" (Nhân chi sơ, tính bản thiện). Thiện là tổng hợp những
đức tính vốn có của con người từ khi mới sinh ra như: Nhân, Nghĩa, Lễ .v.v.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Bản tính con người
Mạnh Tử đã thần bí hóa những giá trị chính trị đạo đức đến mức coi
chúng là tiên thiên, bẩm sinh. Do quan niệm tính thiện nên Nho gia (dòng
Khổng Mạnh) đề cao sự giáo dục con người để con người trở về đường
Đối lập với Mạnh Tử coi tính người là Thiện, Tuân Tử lại coi bản tính
thiện với những chuẩn mực đạo đức có sẵn.
con người vốn là ác “Nhân chi sơ, tính bản ác”. Mặc dù vậy, nhưng có thể
giáo hóa trở thành thiện (Nhân, Nghĩa, Lễ, Trí....). Xuất phát từ quan niệm
đó về tính người, Tuân Tử chủ trương đường lối trị nước kết hợp giữa Nho
gia và Pháp gia.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Quan niệm về nhận thức trong học thuyết của Khổng Tử không phát
triển, không đặt ra vấn đề chân lý mà chỉ dừng lại ở vấn đề “tri thức luận”
(tri thức do đâu mà có).
Theo ông, con người có hai loại là “thượng trí” (không học cũng biết)
và “hạ ngu”(học cũng không biết). Nghĩa là ông đã thừa nhận có tri thức
tiên thiên, có trước sự nhận thức của con người.
Đối tượng để dạy dỗ, giáo hóa nằm giữa “trí” và “ngu”, nếu chịu khó
học tập có thể vươn tới thượng trí. Còn không học thì rơi xuống hạ ngu.
2.3. Nho gia (Nho giáo)
Quan niệm về nhận thức
Ưu điểm của ông là chủ trương “hữu giáo vô loại” (học thì không phân
loại). Khổng Tử cũng nêu ra một số phương pháp học tập có ý nghĩa như:
học phải đi đôi với luyện tập; học phải kết hợp với suy nghĩ; phải ôn cũ để
biết mới; học phải nắm được cái cốt yếu”
Tuy nhiên, hạn chế của Khổng Tử là ở quan niệm học theo lối “hoài
cổ”, coi thường tri thức về sản xuất, lao động chân tay.